Professional Documents
Culture Documents
I.VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT
1. Phạm trù vật chất
• Các quan niệm về vật chất trong lịch sử triết học
Thời cổ đại: đồng nhất vật chất với sự vật, hiện tượng cụ thể, phổ biến trong vũ trụ.
VD như cho rằng vật chất là nước, là lửa… Đây là quan niệm thô sơ mộc mạc, mang tính
trực quan, cảm tính chỉ có tác dụng đấu tranh chống lại quan niệm của chủ nghĩa duy
tâm, tôn giáo.
Thời cận đại: đồng nhất vật chất với thuộc tính của vật chất. VD Niuton coi vật chất là
khối lượng. Quan niêm này mang tính siêu hình, máy móc.
*Định nghĩa vật chất của LeNin;
-- hoàn cảnh ra đời: thời kì khoa học tự nhiên mà chủ yếu là vật lý học đã có một loạt
những phát minh quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết mới về cấu trúc và
tính chất của vật chất, nó đã làm thay đổi căn bản quan niệm cổ điển về vật chất.
1895: tìm ra tia X
1896: phát hiện ra tia phóng xạ
1897: phát hiện ra electron
.v.v.
Những thành tựu trong khoa học tự nhiên đã phủ nhận quan điểm trước kia về vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm thời kì này đã lợi dụng những thành tựu đó để biện hộ cho mình và
đấu tranh chống lại chủ nghĩa Mác.
-- Định nghĩa vật chất của Lenin: vật chất là một phạm trù triết học chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lai, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Nội dung định nghĩa vật chất của Lenin:
+ Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài và không phụ thuộc vào ý thức, vào cảm
giác; bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
+ Vật chất là cái gây nên cảm giác khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác đọng nên các giác quan
con người.
+ Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh vật chất.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã
Giải quyết triệt để hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học theo quan niệm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Khắc phục được những hạn chế, sai lầm của chủ nghĩa duy vật trước mác về phạm trù
vật chất; bác bỏ, phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo về vấn đề này.
Tạo cơ sở cho các nhà triết học duy vật biện chứng xây dựng quan niệm về vật chất
trong lĩnh vực đời sống xã hội. Đóng vai trò quan trọng định hướng và mở đường cho sự
phát triển của khoa học.
Quan niệm hiện đại về nguyên tử: các hạt sơ cấp hiện nay cũng được cấu tạo từ các hạt
còn nhỏ hơn nữa. VD giải Noben năm 1998 đã được trao cho một công trình khám phá
rằng trong electron có nhiều điện tích trái dấu.
Nguyên tử là vô cùng, vô tận…
2. Vật chất và vận động
Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất; bao gồm mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị
trí đơn giản cho đến tư duy.
Mối quan hệ vật chất - vận động: vận động là một phương thức tồn tại của vật chất: vật
chất vận động và tồn tại bằng cách vận động, và thông qua vận động để biểu hiện sự tồn
tại của mình.
Không có vật chất nào không vận động và không có vận động nào ngoài vật chất.
Vận động là do tự thân vận động, nguyên nhân là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật
quy định. Nó không thể bị mất đi hay sáng tạo ra. VD định luật bảo toàn và chuyển hoá
năng lượng.
* Các hình thức vận động cơ bản của thế giới vật chất
Vận động cơ học: Sự di chuyển của các vật thể trong không gian.
Vận động vật lý: vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động electron, các quá
trình nhiệt, điện .v.v.
Vận động hoá học: Vận động của các nguyên tử, các quá trình hoà hợp và phân giải các
chất.
Vận động sinh học: Trao đổi chất của cơ thể sống với môi trường.
Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế -
xã hội.
Quan hệ giữa các hình thức vận động:
+ Giữa các hình thức vận động có sự liên hệ tác động, chuyển hoá lẫn nhau nhưng có
sự khác nhau căn bản về chất.
+ Sự vật có nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng có hình thức vận động đặc
trưng.
* Vận động và đứng im: vật chất không chỉ vận động mà còn có sự đứng im tương đối.
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối vì:
Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ xác định chớ không phải trong mọi
quan hệ, trong cùng một lúc.
Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động nhất định chứ không
phải đối với tất cả các hình thức vận động trong cùng một lúc.
Hiện tượng đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong
thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật ổn định nào đó còn vận động nói
chung , tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và hiện tượng làm cho tất cả không
ngừng biến đổi.
3. Không gian và thời gian
Cùng với phạm trù vận động thì không gian và thời gian là những phạm trù đặc trưng
cho phương thức tồn tại của vật chất. Vật chất không thể vận động ở đâu ngoài không
gian và thời gian.
Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm: phủ nhận tính khách quan của không gian và thời
gian.
Quan niệm siêu hình: tách rời không gian và thời gian với vật chất.
Quan niệm của CNDVBC: Không gian là quảng tính của các sự vật, hiện tượng và mối
tương quan giữa sự vật này với sự vật khác; giữa kết cấu vật chất này với kết cấu vật chất
khác (không gian ba chiều). Thời gian là hình thức tồn tại của các kết cấu vật chất, và
mối tương quan của mỗi kết cấu vật chất với các kết cấu vật chất trước và sau nó (một
chiều).
* Tính chất của không gian, thời gian: tính khách quan, tính vĩnh cửu và vô tận, tính ba
chiều (không gian) và một chiều (thời gian).
• Tính thống nhất của thế giới vật chất
Thế giới vật chất muôn màu muôn vẻ nhưng chúng thống nhất với nhau ở tính vật chất,
được thể hiện ở:
Cấu tạo của sự vật: đều từ nguyên tử, phân tử, các hạt vật chất.
Quy luật vốn có của nó.
Thế giới thống nhất giữa vô cơ và hữu cơ, giữa tự nhiên và xã hội.
Thế giới vật chất thống nhất trong tính vận động của nó.
Như vây, tính thống nhất này là một biểu hiện cho sự phát triển của khoa học.
II. Ý THỨC
1.Nguồn gốc của ý thức
a)Phản ánh là thuộc tính chung của thế giới vật chất
Định nghĩa: phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ
thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.
Đặc điểm của thuộc tính phản ánh
+ Phản ánh là thuộc tính vốn có của mọi dạng vật chất
+ Kết quả của phản ánh phụ thuộc vào cả hai yếu tố: vật phản ánh và vật được phản ánh.
+ Quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin, cái phản ánh mang thông tin của cái
được phản ánh.
Trong quá trình phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh cũng được phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
+ Trong thế giới vô sinh, phản ánh của nó là phản ánh lý hoá được thể hiện qua sự biến
đổi cơ, lý, hoá. Ở sự thay đổi vị trí, hình dạng.
+ Thế giới hữu sinh: biểu hiện từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn bào tới đa bào:
Tính kích thích: ở thức vật, động vật bậc thấp. Là phản ứng trả lời của cơ thể trước
tác động của môi trường bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất.
Tính cảm ứng: ở động vật chưa có hệ thần kinh trung ương. Là hình thức phản ánh
nảy sinh từ tác động bên ngoài lên cơ thể sinh vật, cơ thể sinh vật phản ứng lại do tác
động môi trường.
Tâm lý: hình thức phản ánh ở động vật bậc cao đã có hệ thần kinh trung ương. Tâm
lý động vật là hình thức phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trức tiếp của sinh lý
cơ thể hoặc do quy luật sinh học chi phối.
Ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh chỉ có ở con người.
b) Bộ não người và ý thức:
Ý thức là sản phẩm của thế giới vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà
chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ não con người. Bộ não
người là một tố chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi và phức tạp. Bộ não người là cơ
quan vật chất của ý thức.
Ý thức là chức năng của bộ não, là hình ảnh chủ quan phản ánh thế giới khách quan.
Nhưng ý thức không diễn ra ở đâu khác ngoài bộ não con người. Như vậy hoạt động có ý
thức của con người phụ thuộc vào bộ não.
Kết luận: ý thức là sản phẩm sự tác động từ ngoài vào bộ não con người, sự phản ánh
khách quan đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
c)Vai trò của lao động và ngôn ngữ trong sự hình thành ý thức
* Lao động: là quá trình diễn biến giữa con người và tự nhiên, trong đó con người đóng
vai trò môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa con người và giới tự
nhiên.
Lao động là hành động có tính mục đích và tính định hướng, khác hẳn với hoạt động
kiếm ăn bản năng động vật. Nhờ có lao động mà con người đã tạo ra nhiều sản phẩm
ngày càng tốt hơn. Lao động là hoạt động đặc thù của con người, nó luôn mang tính tập
thể xã hội.
Vai trò của lao động:
-- Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người, hay nhờ có lao động mà con người tách ra
khỏi giới động vật.
-- Lao động làm hoàn thiện cơ thể con người, đặc biệt là bộ óc và các giác quan, làm cho
năng lực tư duy trừu tượng, năng lực phản ánh của bộ óc ngày càng phát triển.
-- Thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động
của mình trong quá trình lao động.
-- Trong lao động đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.
* Ngôn ngữ: là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức hay theo Mác, ngôn
ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Vai trò của ngôn ngữ:
-- Là phương tiện giao tiếp trong xã hội, trao đổi kinh nghiệm, trao đổi tri thức từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
-- Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, đồng thời là công cụ của tư duy
nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực.
Do đó, không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành, tồn tại và phát triển được.
Kết luận: nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
2. Bản chất của ý thức
Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm: ý thức là một thực thể độc lập, là thực tại duy nhất,
sinh ra vật chất.
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất tồn
tại khách quan. Tuy nhiên đó là sự phản ánh thụ động, giản đơn, máy móc.
Quan niệm của CNDVBC: Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
con người một cách năng động, sáng tạo.Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Đó là cái vật chất di chuyển vào trong não người, cải biến trở thành ý thức.
Ý thức là sản phẩm của sự phát triển lịch sử xã hội. Về bản chất ý thức có tính xã hội,
bởi ý thức luôn là ý thức của những con người cụ thể, sống trong những điều kiện hoàn
cảnh cụ thể. Mặt khác ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu rất phức tạp:
-- Theo chiều ngang: ý thức gồm tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí… mà quan trọng nhất
là tri thức.
Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái
hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng
dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống kí hiệu khác.
Tình cảm là sự cảm thông của con người trong quan hệ của mình với thực tại xung
quanh và đối với bản thân mình.
Ý thức theo chiều ngang là sự tái hiện tâm lý con người.
-- Theo chiều dọc: ý thức gồm tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Tự ý thức là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên
ngoài. Con người quay trở về nhận thức lại bản thân mình.
Tiềm thức: là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở
thành bản năng, thành kĩ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng
tiềm tàng.
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ
ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự truyền thông tin bên
trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
III.MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định ýa thức.
Ý thức là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao nhất (não người), phản ánh những gì do
thế giới khách quan quy định.
Sự phát triển của ý thức phụ thuộc sự phát triển của vật chất và hoạt động thực tiễn của
con người.
Ý thức tác động trở lại đối với vật chất:
-- Ý thức là sự phản ánh một cách chủ động sáng tạo thế giới khách quan.
-- Ý thức tác động thông qua hoạt động thực tiễn của con người: mục đích, đối tượng,
phương pháp.
-- Tính tích cực, năng động của ý thức có thêt thúc đẩy hoặc kìm hãm ở mức độ nhất định
sự phát triển của vật chất. Nhưng sự tác động của ý thức với vật chất dù có đến mức độ
nào đi nữa thì nó vẫn phải dựa trên sự phản ánh thế giới vật chất.
Kết luận: Trong mối quan hệ vật chất – ý thức, vật chất có vai trò quyết định tới ý thức;
nhưng ý thức bao giờ cũng có tác động trở lại vật chất. Sự tác động này thông qua hoạt
động của con người cho nên việc nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là nâng
cao năng lực nhận thức quy luật khách quan và vận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn
của con người. Trong mọi hoạt động cần luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo các quy luật khách quan, chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ
thụ động chờ đợi điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan.