You are on page 1of 17

VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

I.VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT
1. Phạm trù vật chất
• Các quan niệm về vật chất trong lịch sử triết học
Thời cổ đại: đồng nhất vật chất với sự vật, hiện tượng cụ thể, phổ biến trong vũ trụ.
VD như cho rằng vật chất là nước, là lửa… Đây là quan niệm thô sơ mộc mạc, mang tính
trực quan, cảm tính chỉ có tác dụng đấu tranh chống lại quan niệm của chủ nghĩa duy
tâm, tôn giáo.
Thời cận đại: đồng nhất vật chất với thuộc tính của vật chất. VD Niuton coi vật chất là
khối lượng. Quan niêm này mang tính siêu hình, máy móc.
*Định nghĩa vật chất của LeNin;
-- hoàn cảnh ra đời: thời kì khoa học tự nhiên mà chủ yếu là vật lý học đã có một loạt
những phát minh quan trọng đem lại cho con người những hiểu biết mới về cấu trúc và
tính chất của vật chất, nó đã làm thay đổi căn bản quan niệm cổ điển về vật chất.
1895: tìm ra tia X
1896: phát hiện ra tia phóng xạ
1897: phát hiện ra electron
.v.v.
Những thành tựu trong khoa học tự nhiên đã phủ nhận quan điểm trước kia về vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm thời kì này đã lợi dụng những thành tựu đó để biện hộ cho mình và
đấu tranh chống lại chủ nghĩa Mác.
-- Định nghĩa vật chất của Lenin: vật chất là một phạm trù triết học chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lai, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Nội dung định nghĩa vật chất của Lenin:
+ Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài và không phụ thuộc vào ý thức, vào cảm
giác; bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
+ Vật chất là cái gây nên cảm giác khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác đọng nên các giác quan
con người.
+ Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh vật chất.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã
Giải quyết triệt để hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học theo quan niệm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Khắc phục được những hạn chế, sai lầm của chủ nghĩa duy vật trước mác về phạm trù
vật chất; bác bỏ, phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo về vấn đề này.
Tạo cơ sở cho các nhà triết học duy vật biện chứng xây dựng quan niệm về vật chất
trong lĩnh vực đời sống xã hội. Đóng vai trò quan trọng định hướng và mở đường cho sự
phát triển của khoa học.
Quan niệm hiện đại về nguyên tử: các hạt sơ cấp hiện nay cũng được cấu tạo từ các hạt
còn nhỏ hơn nữa. VD giải Noben năm 1998 đã được trao cho một công trình khám phá
rằng trong electron có nhiều điện tích trái dấu.
Nguyên tử là vô cùng, vô tận…
2. Vật chất và vận động
Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất; bao gồm mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị
trí đơn giản cho đến tư duy.
Mối quan hệ vật chất - vận động: vận động là một phương thức tồn tại của vật chất: vật
chất vận động và tồn tại bằng cách vận động, và thông qua vận động để biểu hiện sự tồn
tại của mình.
Không có vật chất nào không vận động và không có vận động nào ngoài vật chất.
Vận động là do tự thân vận động, nguyên nhân là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật
quy định. Nó không thể bị mất đi hay sáng tạo ra. VD định luật bảo toàn và chuyển hoá
năng lượng.
* Các hình thức vận động cơ bản của thế giới vật chất
Vận động cơ học: Sự di chuyển của các vật thể trong không gian.
Vận động vật lý: vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động electron, các quá
trình nhiệt, điện .v.v.
Vận động hoá học: Vận động của các nguyên tử, các quá trình hoà hợp và phân giải các
chất.
Vận động sinh học: Trao đổi chất của cơ thể sống với môi trường.
Vận động xã hội: Sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế -
xã hội.
Quan hệ giữa các hình thức vận động:
+ Giữa các hình thức vận động có sự liên hệ tác động, chuyển hoá lẫn nhau nhưng có
sự khác nhau căn bản về chất.
+ Sự vật có nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng có hình thức vận động đặc
trưng.
* Vận động và đứng im: vật chất không chỉ vận động mà còn có sự đứng im tương đối.
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối vì:
Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ xác định chớ không phải trong mọi
quan hệ, trong cùng một lúc.
Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động nhất định chứ không
phải đối với tất cả các hình thức vận động trong cùng một lúc.
Hiện tượng đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong
thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật ổn định nào đó còn vận động nói
chung , tức là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa sự vật và hiện tượng làm cho tất cả không
ngừng biến đổi.
3. Không gian và thời gian
Cùng với phạm trù vận động thì không gian và thời gian là những phạm trù đặc trưng
cho phương thức tồn tại của vật chất. Vật chất không thể vận động ở đâu ngoài không
gian và thời gian.
Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm: phủ nhận tính khách quan của không gian và thời
gian.
Quan niệm siêu hình: tách rời không gian và thời gian với vật chất.
Quan niệm của CNDVBC: Không gian là quảng tính của các sự vật, hiện tượng và mối
tương quan giữa sự vật này với sự vật khác; giữa kết cấu vật chất này với kết cấu vật chất
khác (không gian ba chiều). Thời gian là hình thức tồn tại của các kết cấu vật chất, và
mối tương quan của mỗi kết cấu vật chất với các kết cấu vật chất trước và sau nó (một
chiều).
* Tính chất của không gian, thời gian: tính khách quan, tính vĩnh cửu và vô tận, tính ba
chiều (không gian) và một chiều (thời gian).
• Tính thống nhất của thế giới vật chất
Thế giới vật chất muôn màu muôn vẻ nhưng chúng thống nhất với nhau ở tính vật chất,
được thể hiện ở:
Cấu tạo của sự vật: đều từ nguyên tử, phân tử, các hạt vật chất.
Quy luật vốn có của nó.
Thế giới thống nhất giữa vô cơ và hữu cơ, giữa tự nhiên và xã hội.
Thế giới vật chất thống nhất trong tính vận động của nó.
Như vây, tính thống nhất này là một biểu hiện cho sự phát triển của khoa học.
II. Ý THỨC
1.Nguồn gốc của ý thức
a)Phản ánh là thuộc tính chung của thế giới vật chất
Định nghĩa: phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ
thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.
Đặc điểm của thuộc tính phản ánh
+ Phản ánh là thuộc tính vốn có của mọi dạng vật chất
+ Kết quả của phản ánh phụ thuộc vào cả hai yếu tố: vật phản ánh và vật được phản ánh.
+ Quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin, cái phản ánh mang thông tin của cái
được phản ánh.
Trong quá trình phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh cũng được phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
+ Trong thế giới vô sinh, phản ánh của nó là phản ánh lý hoá được thể hiện qua sự biến
đổi cơ, lý, hoá. Ở sự thay đổi vị trí, hình dạng.
+ Thế giới hữu sinh: biểu hiện từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn bào tới đa bào:
Tính kích thích: ở thức vật, động vật bậc thấp. Là phản ứng trả lời của cơ thể trước
tác động của môi trường bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình trao đổi chất.
Tính cảm ứng: ở động vật chưa có hệ thần kinh trung ương. Là hình thức phản ánh
nảy sinh từ tác động bên ngoài lên cơ thể sinh vật, cơ thể sinh vật phản ứng lại do tác
động môi trường.
Tâm lý: hình thức phản ánh ở động vật bậc cao đã có hệ thần kinh trung ương. Tâm
lý động vật là hình thức phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trức tiếp của sinh lý
cơ thể hoặc do quy luật sinh học chi phối.
Ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh chỉ có ở con người.
b) Bộ não người và ý thức:
Ý thức là sản phẩm của thế giới vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà
chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ não con người. Bộ não
người là một tố chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi và phức tạp. Bộ não người là cơ
quan vật chất của ý thức.
Ý thức là chức năng của bộ não, là hình ảnh chủ quan phản ánh thế giới khách quan.
Nhưng ý thức không diễn ra ở đâu khác ngoài bộ não con người. Như vậy hoạt động có ý
thức của con người phụ thuộc vào bộ não.
Kết luận: ý thức là sản phẩm sự tác động từ ngoài vào bộ não con người, sự phản ánh
khách quan đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
c)Vai trò của lao động và ngôn ngữ trong sự hình thành ý thức
* Lao động: là quá trình diễn biến giữa con người và tự nhiên, trong đó con người đóng
vai trò môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa con người và giới tự
nhiên.
Lao động là hành động có tính mục đích và tính định hướng, khác hẳn với hoạt động
kiếm ăn bản năng động vật. Nhờ có lao động mà con người đã tạo ra nhiều sản phẩm
ngày càng tốt hơn. Lao động là hoạt động đặc thù của con người, nó luôn mang tính tập
thể xã hội.
Vai trò của lao động:
-- Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người, hay nhờ có lao động mà con người tách ra
khỏi giới động vật.
-- Lao động làm hoàn thiện cơ thể con người, đặc biệt là bộ óc và các giác quan, làm cho
năng lực tư duy trừu tượng, năng lực phản ánh của bộ óc ngày càng phát triển.
-- Thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động
của mình trong quá trình lao động.
-- Trong lao động đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.
* Ngôn ngữ: là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức hay theo Mác, ngôn
ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Vai trò của ngôn ngữ:
-- Là phương tiện giao tiếp trong xã hội, trao đổi kinh nghiệm, trao đổi tri thức từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
-- Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, đồng thời là công cụ của tư duy
nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực.
Do đó, không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành, tồn tại và phát triển được.
Kết luận: nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức là lao động, là thực tiễn xã hội.
2. Bản chất của ý thức
Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm: ý thức là một thực thể độc lập, là thực tại duy nhất,
sinh ra vật chất.
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất tồn
tại khách quan. Tuy nhiên đó là sự phản ánh thụ động, giản đơn, máy móc.
Quan niệm của CNDVBC: Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
con người một cách năng động, sáng tạo.Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan. Đó là cái vật chất di chuyển vào trong não người, cải biến trở thành ý thức.
Ý thức là sản phẩm của sự phát triển lịch sử xã hội. Về bản chất ý thức có tính xã hội,
bởi ý thức luôn là ý thức của những con người cụ thể, sống trong những điều kiện hoàn
cảnh cụ thể. Mặt khác ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu rất phức tạp:
-- Theo chiều ngang: ý thức gồm tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí… mà quan trọng nhất
là tri thức.
Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái
hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng
dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống kí hiệu khác.
Tình cảm là sự cảm thông của con người trong quan hệ của mình với thực tại xung
quanh và đối với bản thân mình.
Ý thức theo chiều ngang là sự tái hiện tâm lý con người.
-- Theo chiều dọc: ý thức gồm tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Tự ý thức là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên
ngoài. Con người quay trở về nhận thức lại bản thân mình.
Tiềm thức: là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở
thành bản năng, thành kĩ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng
tiềm tàng.
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ
ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự truyền thông tin bên
trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
III.MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định ýa thức.
Ý thức là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao nhất (não người), phản ánh những gì do
thế giới khách quan quy định.
Sự phát triển của ý thức phụ thuộc sự phát triển của vật chất và hoạt động thực tiễn của
con người.
Ý thức tác động trở lại đối với vật chất:
-- Ý thức là sự phản ánh một cách chủ động sáng tạo thế giới khách quan.
-- Ý thức tác động thông qua hoạt động thực tiễn của con người: mục đích, đối tượng,
phương pháp.
-- Tính tích cực, năng động của ý thức có thêt thúc đẩy hoặc kìm hãm ở mức độ nhất định
sự phát triển của vật chất. Nhưng sự tác động của ý thức với vật chất dù có đến mức độ
nào đi nữa thì nó vẫn phải dựa trên sự phản ánh thế giới vật chất.
Kết luận: Trong mối quan hệ vật chất – ý thức, vật chất có vai trò quyết định tới ý thức;
nhưng ý thức bao giờ cũng có tác động trở lại vật chất. Sự tác động này thông qua hoạt
động của con người cho nên việc nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là nâng
cao năng lực nhận thức quy luật khách quan và vận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn
của con người. Trong mọi hoạt động cần luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
động theo các quy luật khách quan, chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ
thụ động chờ đợi điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan.

HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY


VẬT
1.Ngyên lý về mối liên hệ phổ biến
Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật, hiện tượng tồn tại độc lập tách biệt với nhau, giữa
chúng không có mối liên hệ hoặc nếu thừa nhận chúng có mối liên hệ thì đó chỉ là liện hệ
bề ngoài, thụ động, một chiều. Giữa các hình thức liên hệ không có sự chuyển hoá cho
nhau.
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới không tồn
tại một cách biệt lập, tách rời nhau mà trong một thể thống nhất. Giữa chúng có mối liên
hệ phụ thuộc lẫn nhau; qui định chế ước, chuyển hoá lẫn nhau nhằm thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của nhau.
Mối liên hệ phổ biến mang tính khách quan. Nó bắt đầu từ tính thống nhất của thế giới
vật chất chứ không bắt đầu từ tính chủ quan của con người. Nhờ có mối liên hệ mà có sự
vận động, mà vận động lại là phương thức tồn tại của vật chất - môt tất yếu khách quan
, do đó mối liên hệ cũng là một tất yếu khách quan.
Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng ở tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội
và tư duy. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. nó được biểu hiện
dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song dù dưới hình
thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó thể hiện
tính thống nhất vật chất của thế giới..
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất là đa dạng, cho nên mối liên hệ
giữa chúng cũng đa dạng. Vì thế khi nghiên cứu cần phân loại mối liên hệ một cách cụ
thể. Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ, có thể có những loại liên hệ sau: chung và
riêng, cơ bản và không cơ bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và không chủ yếu, không
gian và thời gian, .v.v. Nói chung trong các mối quan hệ đó, mối liên hệ bản chất, tất
nhiên, chủ yếu… giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên tuỳ điều kiện, hoàn cảnh nhất định các
mối liên hệ tương ứng với chúng có thể giữ vai trò quyết định. Sự phân chia như trên chỉ
là tương đối.
• Phân biệt giữa mối liên hệ và mối quan hệ
Mối liên hệ trước hết là mối quan hệ giữa các đối tượng và hiện tượng của hiện thực.
nhưng không phải mọi mối quan hệ đều là liên hệ. khái niệm quan hệ rộng hơn khái niệm
liên hệ. Liên hệ là quan hệ gữa hai đối tượng mà sự thay đổi bên này nhất thiết gây ra sự
thay đổi của bên kia. Còn sự thay đổi của bên này không dẫn đến hoặc chỉ dẫn đến một
sự thay đổi nhất định của bên kia – đó là quan hệ.
Ý nghĩa: Nguyên lý về liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức sự vật cần có quan
điểm toàn diện. Khi nghiên cứu phải xem xét tất cả các mối liên hệ của bản thân sự vật và
với các sự vật, hiện tượng khác.
2. Nguyên lý về sự phát triển.
Phát triển là sự vận động có hướng đi lên của các sự vật, hiện tượng theo ba khả năng:
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Như vây, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối quan
hệ biện chứng với nhau, vì nhờ có mối liên hệ thì sự vật mới có sự vận động và phát
triển. Đồng thời cần phân biệt khái niệm vận động với khái niệm phát triển.Vận động là
mọi biến đổi nói chung, còn phát triển chỉ là sự vận động có hướng đi lên, gắn liền với sự
ra đời cái mới hợp quy luật.
Sự phát triển thể hiện rất khác nhau trong hiện thức, tuỳ theo hình thức tồn tại cụ thể
của các dạng vật chất. VD sự phát triển ở giới vô cơ biểu hiện dưới dạng biến đổi các yếu
tố và hệ thống vật chất, sự tác động qua lại giữa chúng và trong những điều kiện nhất
định sẽ làm nảy sinh các hợp chất phức tạp - tiền đề cho sự sống. Còn ở giới hữu cơ, sự
phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của sinh vật với sự biến đổi phức tạp của môi
trường… từ đó làm xuất hiện ngày càng nhiều các giống loài mới phù hợp với môi
trường sống.
Phát triển mang tính khách quan, là thuộc tính vốn có của mọi sự vật, hiện tượng và là
khuynh hướng chung của thế giới. Mặt khác phát triển cũng mang tính phổ biến, nó diễn
ra không ngừng ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội. tư duy.
Sự phát triển có tính chất tiến lên, kế thừa liên tục nhưng trên cơ sở có sự phê phán, lọc
bỏ cải tạo cái cũ. Nó thường diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua những khâu trung
gian, thậm chí có lúc thụt lùi tạm thời.
Phát triển là sự thay đổi về chất của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển là do sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật.
• Phân biệt quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phát triển
Quan điểm siêu hình: phủ nhận sự phát triển. họ coi sự phát triển chẳng qua là sự tăng
lên hoặc giảm đi về mặt số lượng mà không có sự thay đổi về chất.
Quan điểm biện chứng: xem sự phát triển là một quá trình vận động tiến lên thong qua
những bước nhảy vọt về chất. Đó là do sự đấu tranh giữa các mặt đối lập ở trong sự vật.
Ý nghĩa: Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp cho ta nhận thức được rằng: muốn
nắm vững bản chất của sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng vận động biến đổi
của chúng thì phải có quan điểm phát triển, chống tư tưởng bảo thủ trì trệ.
Tóm lại, hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận của quan
điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Với cách xem xét, nghiên cứu theo quan
điểm trên sẽ giúp cho ta hiểu được bản chất sự vật, làm cho nhận thức phản ánh đúng dắn
về sự vật và hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả cao.

NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG


DUY VẬT
Khái luận chung về quy luật
Định nghĩa: Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt,
các yếu tố, các thuộc tính bên trong của sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Quy luật có tính khách quan, con người chỉ có thể nhận thức nó mà không thể xoá bỏ
nó. Quy luật hình thành trong sự vận động của sự vật, hiện tượng và được phát hiện bởi
nhận thức khoa học.
• Phận loại quy luật:
a) Theo tính phổ biến (phạm vi)
Quy luật riêng: là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất định của sự vật, hiện
tượng cùng loại. Ví dụ như định luật vạn vật hấp dẫn trong cơ học, di truyền biến dị trong
sinh học…
Quy luật chung: là những quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy luật riêng, tác
động trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lượng.
Quy luật phổ biến: là quy luật tác động trong tất cả mọi lĩnh vực như tự nhiên, xã hội,
tư duy. Chính là những quy luật của triết học.
b) Căn cứ vào lĩnh vực tác động
Quy luật tự nhiên là những quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên, kể cả con
người, không phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. VD như các định luật
của khoa học tự nhiên.
Quy luật xã hội là những quy luật của chính hoạt động con người trong các quan hệ xã
hội. những quy luật này có được nhờ hoạt động có ý thức của con người, nhưng nó cũng
có tính khách quan.
Quy luật của tư duy là những quy luật nói lên mối liên hệ nội tại của những khái niệm,
phạm trù, những phán đoán hình thành nên hệ thống tri thức về sự vật, hiện tượng. Tiêu
biểu là trong toán học, logic học và triết học.
Triết học nghiên cứu tất cả các lĩnh vực nói trên, cho nên các quy luật triết học là phổ
biến.
I. QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT
1.Các khái niệm
• Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, yếu tố cấu thành sự vật; nói lên sự vật đó
là gì, phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác.
* Phân biệt khái niệm chất và khái niệm thuộc tính.:
Chất tồn tại khách quan bên trong sự vật, bao gồm cả các yếu tố giống nhau.
Chất là tổng hợp nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính là một bộ phận của chất, mỗi sự vật
có nhiều chất.
Các thuộc tính bộc lộ theo mối liên hệ cụ thể, khi thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất
mới thay đổi, sự phân biện giữa chất và thuộc tính chỉ là tương đối.
Chất gắn liền với kết cấu của sự vật. Như than chì và kim cương.
• Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển; biểu thị các con số, các
thuộc tính, các yếu tố cấu thành của sự vật.
Giống như chất, lượng là cái khách quan vốn có bên trong của sự vật.
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối. Có cái ở trong quan hệ này là chất
nhưng ở trong quan hệ khác lại là lượng và ngược lại.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Chất và lượng là hai mặt đối lập: chất tương đối ổn định, còn lượng thường xuyên biến
đổi. Song hai mặt đó không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự
thống nhất giữa chất và lượng ở trong một độ nhất đinh, khi sự vật đang tồn tại.
*Lượng biến đổi dần dần tới một mức độ nhất định dẫn tới sự thay đổi về chất
Không có sự thay đổi về lượng thì không có sự thay đổi về chất.
Lượng biến đổi dần dần mới có sự thay đổi về chất. Nhưng cũng có nhưng sự thay đổi
dần dần về lượng mà không có sự thay đổi về chất.
Độ là một phạm trù triết học dung để chỉ khoảng giới hạn mà trong đó sự vật vẫn là
chính nó chưa biến thành cái khác, sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn
bản chất của sự vật ấy. Thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về
chất của sự vật gọi là điểm nút.
Sự thay đổi về chất qua điểm nút được gọi là bước nhảy. Vậy bước nhảy là phạm trù
triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật
trước đó gây nên. Đó là bước ngoặt căn bản, kết thúc một giai đoạn trong quá trình biến
đổi liên tục của các sự vật. Do đó có thể nói phát triển là sự “đứt đoạn” trong liên tục, là
trạng thái liên hợp của các điểm nút.
VD Hiện tượng đồng đẳng trong hợp chất hữu cơ. Các ankan có số nguyên tử C từ 4 trở
xuống thì ở thể khi, lớn hơn ở thể lỏng và lớn hơn nữa thì ở thể rắn.
Khi chất mới ra đời lại có một lượng mới phù hợp, tạo nên sự thống nhất mới giữa chất
và lượng. Sự tác động của chất mới đối với lượng mới được biểu hiện ở quy mô, nhịp
điệu phát triển mới của lượng.
. * Các hình thức bước nhảy
Bước nhảy quy mô
Bước nhảy toàn bộ: thay đổi về chất toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật..
VD nước ở 0oC đóng băng toàn bộ.
Bước nhảy bộ phận (cục bộ): thay đổi về chất của những mặt, những yếu tố riêng lẻ
của sự vật, tạo tiền đề cho bước nhảy toàn bộ.
Bước nhảy nhịp độ (nhịp điệu)
Bước nhảy đột biến: thay đổi về chất sự vật trong thời gian ngắn. VD vụ nổ bom
nguyên tử, hay một biến cố cách mạng.
Bước nhảy dần dần: thay đổi sự vật trong thời gian dài. Nó được thức hiện từng bước
bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của cái mới và nhưng nhân tố của cái cũ dần
dần mất đi. VD quá trình tiến hoá từ vượn người sang người.
KẾT LUẬN: mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần
về lương trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật
thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá
trình tác động đó diển ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi.
• Ý nghĩa phương pháp luận
Vì sự thay đổi về lượng và chất có mối quan hệ hữu cơ với nhau nên trong qua trình
hoạt động thực tiễn cần chú ý đến mối quan hệ đó, chống tư tưởng chủ quan nóng vội tả
khuynh – khi chưa tích luỹ đủ về lượng đã thực hiện bước nhảy hoặc hữu khuynh - bảo
thủ trì trệ, không thực hiện bước nhảy khi đã đủ điều kiện.
Cần có thái độ khách quan khoa học, có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi đã có đủ
điều kiện. Đồng thời phải biết lựa chọn phương thức phù hợp để thúc đẩy biến đổi của sự
vật, hiện tượng.
II.QUY LUẬT MÂU THUẪN
Trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, Lê Nin đã coi quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (Quy luật mâu thuẫn) là “hạt nhân của phép biện
chứng”, bởi vì quy luật này đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và
phát triển của sự vật; và là “chìa khoá” giúp chúng ta nắm vững thực chất của các quy
luật cơ bản và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng
1.Quan niệm về các mặt đối lập và mâu thuẫn
Quan điểm của Mác đã phát triển lên tầm cao mới học thuyết về mâu thuẫn với tư cách
là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
* Mâu thuẫn biện chứng
Mặt đối lập là một phạm trù chỉ những mặt, những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn
biện chứng. Nó là mâu thuẫn vốn có của bất kì sự vật, hiện tượng nào. Nó không chỉ là sự
phủ định, bài trừ nhau giữa các mặt đối lập mà chúng có sự đấu tranh với nhau, tác động
với nhau và vì vậy nó bao hàm một sự thống nhất. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập thể
hiện sự ràng buộc, quyết định lẫn nhau. mặt này lấy mặt kia làm tiền đề cho sự phát triển
của mình, thể hiện sự không tách rời giữa chúng. Ngoài ra, sự thống nhất giữa các mặt
đối lập còn thể hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng.
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập theo
xu hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau. Sự đấu tranh và thống nhất không tách rời nhau.
Trong đó mâu thuẫn là tuyệt đối, thống nhất chỉ là tương đối.
* Sự đấu tranh có thể chia ra làm ba giai đoạn
Mới hình thành: mâu thuẫn thường chỉ biểu hiện là hai mặt khác nhau. Song hai mặt
khác nhau nào cũng có liên hệ hữu cơ, có khuynh hướng trái ngược nhau, cùng tồn tại
trong một thể thống nhất sẽ dẫn đến hình thành mâu thuẫn.
Trong quá trình phát triển, hai mặt khác nhau ấy trở thành hai mặt đối lập đấu tranh lẫn
nhau, bài trừ phủ định lẫn nhau. Đến một độ nhất định thì chuyển hoá cho nhau. Mâu
thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và lại một quá trình mới làm cho sự vật
không ngừng vận động và phát triển.
Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập là kết quả tất yếu của sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa chúng, làm cho sự vật thay đổi về chất. Sự chuyển hoá đó diễn ra theo hai hình thức:
Hoặc chuyển từ mặt này sang mặt kia, hoặc cả hai cùng mất đi để hình thành hai mặt đối
lập khác. VD Đồng hoá - Dị hoá.
2.Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn bên trong – bên ngoài: mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn vốn có bên trong
sự vật, hiện tượng; phản ánh mối tác động, quan hệ qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố, các
thuộc tính sự vật,… Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật, hiện tượng với
nhau. Cơ sở để phân loại mâu thuẫn này là theo phạm vi, cho nên các loại mâu thuẫn này
chỉ là tương đối. VD trong phạm vi nước ta thì mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh tế là mâu
thuẫn bên trong, mâu thuẫn giữa nước ta và các nước ASEAN la mâu thuẫn bên ngoài
nhưng xét trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa các nước trong khối lại là mâu
thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất
của sự vật, hiện tượng. Nó quy định sự vận động, phát triển trong các giai đoạn và tồn tại
suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một
phương diện nào đó của sự vật, không quy định bản chất của sự vật. Như vậy muốn nhận
thức đúng đắn bản chất của sự vật thì phải căn cứ vào mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu: mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong
một giai đoạn. giải quyết nó sẽ tạo điều kiện giải quyết các mâu thuẫn khác trong cùng
giai đoạn. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển
nào đó của sự vật nhưng bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối, nó chỉ góp phần vào giải quyết
mâu thuẫn chủ yếu. Tuy nhiên hai mâu thuẫn này có thể chuyển hoá cho nhau, nên không
nên tuyệt đối hoá một mâu thuẫn nào.
Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng: mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa
những giai cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Còn mâu thuẫn
không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích khác nhau nhưng
không đối lập nhau.VD mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản, nông dân và địa chủ là mâu
thuẫn đối kháng, mâu thuẫn giữa lao động trí óc và lao động chân tay là mâu thuẫn không
đối kháng. Hai mâu thuẫn này chỉ có trong xã hội, giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải
bằng đấu tranh giai cấp, còn mâu thuẫn không đối kháng giải quyết bằng tương trợ cùng
phát triển.
• Ý nghĩa phương pháp luận:
Muốn nhận thức được bản chất của sự vật cần phải phát hiện, phân tích được mâu
thuẫn vì mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật. Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm
mọi cách để giải quyết mâu thuẫn chứ không được điều hoà mâu thuẫn. Trong quá trình
phân tích cần:
-- Xem xét toàn diện các mặt đối lập: quá trình phát sinh, phát triển và những điều kiện
cho sự tồn tại của nó. Đánh giá đúng tính chất, vai trò từng mặt và của cả mâu thuẫn
trong từng giai đoạn.
-- Nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn: các mâu thuẫn khác nhau, phải có cách
khác nhau tuỳ bản chất mâu thuẫn và điều kiện cụ thể.
III. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
Quy luật phủ định của phủ định giúp vạch ra khuynh hướng phát triển vận động của sự
vật, hiện tượng.
1. Khái niệm về phủ định và phủ định biện chứng
-- Trong lịch sử triết học, nhiều trường phái cho rằng quá trình vận động phát triển của
sự vật như một vòng tròn khép kín: “Cát bụi lại trở về với cát bụi” (Phật giáo). Còn
Hêghen cho rằng sự vật phát triển theo hình xoáy trôn ốc.v.v.
Quan điểm triết học Mác: Sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong
quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát
triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật
cũ trên cơ sử kế thừa cái cũ. Phủ định biện chứng có tính khách quan và tinh kế thừa.
Tính khách quan: phủ định biện chứng là tự thân của sự vật, là giải quyết bên trong của
sự vật chứ không phụ thuộc vào ý muốn của con người.
Tính kế thừa: Cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ, không tách rời cái cũ. Nó chỉ lột bỏ
những mặt tiêu cực, lac hậu của cái cũ nhưng vẫn giữ lại, cải tạo nhữg mặt còn thích hợp,
những mặt tích cực. VD CNDVBC là kế thừa từ Hêghen, Phoiơbac… Phủ định biện
chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
2.Nội dung của quy luật phủ định của phủ đinh
Thế giới vật chất vận động, phát triển thông qua quá trình phủ định biện chứng. Sự
phát triển qua nhiều lần phủ định, tạo khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao, có tính
chu kỳ. Sau mỗi lần phủ định, sự vật dường như quay trở về cái cũ nhưng trên cơ sở mới
cao hơn. Sơ đồ cụ thể:
Khẳng đinh -- phủ định lần một -- phủ định lần hai.
Sự vật mặt đối lập sự vật sự vật (trên cơ sở cao hơn)
VD hạt thóc cây lúa hạt thóc
Sự phát triển của sự vật theo đường xoáy trôn ốc ngày càng mở rộng: từ đơn giản đến
phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, có cả sự đi lên và đi xuống, trong đó đi lên
là chủ yếu và cái mới chiếm ưu thế. Luận điểm này thể hiện được các tính chất: tính kế
thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của vận động và phát triển của sự vật.
Sự phủ định của phủ định biểu hiện sự vận động phát triển của sự vật do mâu thuẫn nội
tại của nó quy định. Mỗi lần phủ định chính là kết quả của quá trình đấu tranh và chuyễn
hoá của các mặt đối lập. Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái
khẳng định ban đầu và phủ định lần một. Cái mới qua hai lần phủ định là cái tổng hợp tất
cả các yếu tố tích cực đã được phát triển từ hai cái trên.
Để lặp lại hình thức ban đầu có thể phải trải qua nhiều lần phủ định, không đơn thuần
qua hai lần như mệnh đề toán học. VD vòng đời của con tằm: tằm-nhộng-bướm-ngài-
trứng-tằm.
• Ý nghĩa phương pháp luận
Cho phép chúng ta nhận thức đúng khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng,
tránh cái nhìn phiến diện, giản đơn, chủ quan dặc biệt là trong các hiện tượng xã hội.
Sự phát triển của sự vật là tất yếu khách quan, phải nhận thức đúng chu kỳ phát triển
của sự vật. Con người có thể góp phần thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của sự vật.
Phải có ý thức phát hiện ra cái mới, tạo diều kiện cho cái mới phát triển.
Trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái
cũ. Tránh thái độ phủ đinh sạch trơn cái cũ.

CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG


DUY VẬT
I. Một số vấn đề chung về phạm trù
Định nghĩa phạm trù: Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt,
những thuộc tính , những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng
thuộc một lĩnh vực nhất định.
Mỗi khoa học cụ thể đều có các hệ thống phạm trù riêng của mình. Nhưng nó chỉ phản
ánh những mối liên hệ chung trên một lĩnh vực nhất định của hiện thực thuộc phạm vi
nghiên cứu của môn khoa học chuyên nghành. Riêng triết học nghiên cứu những khái
niệm, phạm trù chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Các phạm trù ra đời và phát triển phụ thuộc quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người và ngày càng được hoàn thiện hơn.
Các trường phái triết học khác nhau có những quan niệm khác nhau về phạm trù.
Trường phái duy danh cho rằng, phạm trù là những từ trống rỗng, do con người tưởng
tượng ra và không phản ánh cái gì cả. Ngược lại trường phái duy thực coi phạm trù là
những trạng thái ý niệm, tồn tại bên ngoài độc lập ý thức con người.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi phạm trù được hình thành trong quá trình nhận thức,
hoạt động của con người bằng con đường khái quát hoá, trừu tượng hóa những thuộc
tính, những mối liên hệ vốn có bên trong của bản thân sự vật. Bởi vậy nội dung của nó
mang tính khách quan măc dù hình thức là chủ quan. Mỗi phạm trù xuất hiện đều là kết
quả của quá trình nhận thức trước đó, đồng thời là bậc thang cho quá trình nhận thức
tiếp theo của con người.
II. Những cặp phạm trù cơ bản của pháp biện chứng duy vật
1.Cái chung, cái riêng và cái đơn nhất
• Định nghĩa: cái riêng là phạm trù triết học chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định tồn tại như một chỉnh thể và có những đặc điểm riêng không lặp
lại ở cái khác. Cái chung là phạm trù triết học dung đẻ chỉ những mặt, những thuộc tính
chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều
sự vật. hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Còn cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những
nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không
lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.
Cần phân biệt cái riêng và cái đơn nhất. VD thủ đô Hà nội là một cái riêng, ngoài
những đặc điểm chung như các TP Việt nam khác còn có những nét đặc trưng như phố
cổ, hồ Gươm… Đó là cái đơn nhất.
( CÁI RIÊNG = CÁI CHUNG + CÁI ĐƠN NHẤT )
• Quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
Phái duy thực cho rằng, cái chung tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào cái riêng và
quyết định cái riêng.Ngược lại, phái duy danh cho rằng chỉ có cái riêng mới tồn tại, còn
cái chung không tồn tại.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biên chứng: cả cái riêng và cái chung đều tồn tại
khách quan, giữa chúng có quan hệ hữu cơ với nhau.
Thứ nhất, cái riêng là những sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ; sự tồn tại của chúng
dễ nhận thấy. Còn cái chung là những thuộc tính, mối quan hệ tồn tại bên trong sự vật,
hiện tượng. Sự tồn tại của chúng khó nhận thấy. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng,
thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần
tuý tồn tại bên ngoài cái riêng.
VD NGƯỜI ------------------------- NGƯỜI CỤ THỂ
(cái chung ở con người: tính người) (cái riêng)
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ dẫn đến cái chung. Nghĩa là không có
cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung. Ví dụ, mỗi con
người là một cái riêng, nhưng mỗi con người không thể tồn tại bên ngoài mối liên hệ với
xã hội và tự nhiên, không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và quy luật xã hội.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; cái chung là cái bộ phận,
nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng không bao giờ gia nhập hết vào cái chung. Cái
riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài cái chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái
chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương
hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.Ví dụ, người nông dân Việt Nam bên cạnh cái
chung với nông dân các nước là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp .v.v., còn có đặc
điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hoá làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc,
của điều kiện tự nhiên của đất nước…
Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển
của sự vật. Sự chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái
mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hoá cái chung thành cái đơn nhất là biểu
hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định. Vi du, sự thay đổi phương thức sản xuất
từ PTSX phong kiến trở thành PTSX TBCN. Ban đầu PTSX TBCN chỉ xuúat hiện ở một
vài cá thể riêng biệt (cái đơn nhất). Do phù hợp với điều kiện mới, PTSX đó được bảo
tồn, duy trì và trở thành phổ biến ( cái chung). Ngược lại PTSX phong kiến đang phổ
biến (cái chung) nay bị mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.
• Ý nghĩa phương pháp luận
Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng. Muốn phát hiện cái chung cần xuất phát từ cái
riêng. Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào cái riêng cũng cần cá biệt hoá cho phù hợp.
Trong hoạt động thực tiễn, khi giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó không thể không
tính tới việc giải quyết cái chung, dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Đồng thời biến
những cái đơn nhất, cái riêng tích cực thành cái chung và ngược lại biến cái chung tiêu
cực thành cái riêng đơn nhất.
2. Nguyên nhân và kết quả
• Định nghĩa: Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Còn kết quả
là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa
các sự vật với nhau gây ra. VD, sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản là nguyên
nhân đưa đến kết quả là cuộc cách mạng vô sản nổ ra.
Nguyên nhân – nguyên cớ: nguyên cớ là hiện tượng không trực tiếp sản sinh ra kết quả
mà chỉ có quan hệ bề ngoài, ngẫu nhiên với kết quả. VD, “sự kiện vịnh Bắc bộ” là cái cớ
để Mĩ ném bom miền Bắc (5/8/1964).
Nguyên nhân – điều kiện: điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc
nguyên nhân nhưng lại có tác động làm cho nguyên nhân trở thành kết quả. VD: nhiệt độ,
áp suất, xúc tác là những điều kiện không thể thiếu với một số phản ứng Hoá Học.
• Tính chất của mối liên hệ nhân quả
Tính khách quan: mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản than sự vật, không phụ
thuộc vào ý thức của con người.
Tính phổ biến: mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đêud có nguyên nhân
nhất định gây ra, chi có điều là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi.
Tính tất yếu: Một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau sẽ gây ra
những kết quả như nhau. Trên thực tế điều đó có nghĩa là: nguyên nhân tác động trong
những điều kiện và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chung gây ra
càng giống nhau bấy nhiêu.
• Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước két quả, còn kết quả
bao giờ cũng xuât hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện. Tuy nhiên không phải mối
quan hệ nối tiếp nào cũng là cũng là mối liên hệ nhân quả. Chỉ có những mối liên hệ
trước sau về mặt thời gian có quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả. VD, ngày kế
tiếp đêm nhưng không phải đêm là nguyên nhân của ngày mà nguyên nhân của ngày và
đêm là do sự quay quanh trục Bắc - Nam của nó.
Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có thể do
nhiều nguyên nhân sinh ra và một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả. VD, một trận
bão (nguyên nhân) có thể gây ra nhiều hậu quả (về người, về kinh tế, về tinh thần…). VD
khác: một đôi bóng giành chức vô địch là tổng hợp của nhiều nguyên nhân như tài năng,
sự cổ vũ, may mắn…
Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều có thể hình thành kết quả nhanh chóng; còn
nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm
hơn, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau. VD, đẩy một chiếc xe theo hai hướng ngược
nhau với hai lực cùng độ lớn thì chiếc xe sẽ không chuyển động.
Sự tác động ngược trở lại của kết quả đối với nguyên nhân diễn ra theo hai hướng: thúc
đẩy sự hoạt động của nguyên nhân (tích cực) hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân
(hướng tiêu cực). VD trong phản ứng hoá học, chất mới được tạo thành sẽ có thể tạo môi
trường thúc đẩy (hoặc kìm hãm) phản ứng xảy ra.
Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. Một sự vật hiện tượng nào đó
trong mối liên hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối liên hệ khác lại là kết quả và
ngược lại. Chuỗi nhân quả đó là vô cùng, không có bắt đầu và không có kết thúc. Một
hiện tượng nào đấy được xem là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở trong một quan
hệ xác định cụ thể. VD (con gà- quả trứng).
• Phân loại nguyên nhân
Nguyên nhân chủ yếu - thứ yếu: Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà thiếu nó thì
kết quả không thể hình thành được. Nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ có ảnh
hưởng hoặc có tác dụng quyết định với những mặt, những đặc điểm, những thuộc tính
nhất định của kết quả.
Nguyên nhân bên trong – bên ngoài: nguyên nhân bên trong là nguyên nhân do tác
động của các mặt, các thuộc tính, các yếu tố bên trong sự vật. Nguyên nhân bên ngoài là
tác động của các sự vật, hiện tượng với nhau.
Nguyên nhân khách quan - chủ quan: Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân xuât
hiện và tác động độc lập ý thức con người., nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân xuất
hiện do ý thức con người.
• Ý nghĩa phương pháp luận
Mọi hiện tượng sinh ra đều có nguyên nhân của nó, do đó trong hoạt động cần tìm ra
nguyên nhân , và trước hết tìm ở chính bản thân những sự vật, hiện tượng đó.
Một hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân tác động. Vì vậy trong hoạt động cần chú
ý đến sự tác động cùng chiều của nhiều nguyên nhân.
Kết quả do nguyên nhân sinh ra nhưng không tồn tại một cách thụ động, vì vậy cần
phải biết khai thác, vận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và tiếp tục
thúc đẩy sự vật phát triển.
3.Bản chất và hiện tượng
• Định nghĩa: bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương
đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật. Hiện tượng là
biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
VD: Bản chất một nguyên tố hoá học là mối liên hệ giữa electron và hạt nhân, còn
những tính chất hóa học của nguyên tố đó khi tương tác với bên các nguyên tố khác là
hiện tượng thể hiện ra bên ngoài của mối liên kết giữa electron và hạt nhân.
Phân biệt phạm trù bản chất - hiện tượng với phạm trù cái chung và quy luật: có cái
chung là bản chất, nhưng cũng có cái chung không phải là bản chất. VD mọi người đều là
sản phẩm tổng hợp của các quan hệ xã hội, đó là cái chung đồng thời là bản chất con
người. Còn những đặc điểm về cấu trúc sinh học như đầu, mình, tứ chi… là cái chung,
nhưng không thể hiện bản chất con người.
Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại. tuy nhiên bản chất và quy luật
không đồng nhất với nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt, một khía cạnh
nhất định của bản chất. Bản chất là tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản
chất rộng hơn phạm trù quy luật.
• Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Các quan điểm duy tâm đã không thừa nhận hoặc hiểu không đúng sự tồn tại khách
quan của bản chất và hiện tượng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách
quan, là cái vốn có của sự vật, không do ai sáng tạo ra và nó có quan hệ biện chứng vừa
thống nhất gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập nhau.
* Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng còn hiện tượng nào cũng là biểu hiện của
bản chất ở một mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần tuý ngoài hiện
tượng đồng thời không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất.
Bản chất và hiên tượng về căn bản là phù hợp nhau. Bản chất nào thì có hiện tượng đó.
Khi bản chất thay đổi hoặc biến mất thì thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi hoặc
biến mất theo.
Tóm lại, bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chinh nhờ sự thống nhất này mà
người ta có thể tìm ra bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên ngoài.
* Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất giữa các mặt đối lập
Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Còn hiện tượng phản ánh cái riêng, cái cá biệt.
Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tuỳ theo sự thay
đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Ngược lại môt hiện tượng cũng có thể là biểu hiện của
nhiều bản chất. VD một sinh viên giỏi thì có những biểu hiện: Học giỏi, hạnh kiểm tốt
.v.v. ( bản chất bộc lộ nhiều hiện tượng) hay đau bụng thì có nhiều nguyên nhân như đau
dạ dày, đau ruột thừa… ( hiện tượng có thể của nhiều bản chất). Bản chất là cái tương đối
ổn định, ít biến đổi. Còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi
Bản chất là mặt bên trong ẩn dấu sâu xa của hiện thực khách quan; còn hiện tượng là
mặt bên ngoài của hiện thức khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở
một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau. Hiện tượng không biểu
hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất
dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất. VD “khẩu phật tâm xà”.
•Ý nghĩa phương pháp luận
Muốn nhận thức được bản chất của sự vật, phải xuất phát từ những sự vật, hiện tượng,
quá trình thực tế.
Phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng
điển hình mới làm rõ được bản chất của sự vật.
Nhận thức không chỉ dừng lại ở nhiều hiện tượng mà phải tiến đến nhận thức được bản
chất của sự vật.
Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức
hoạt động, cải tạo sự vật.

LÝ LUẬN NHẬN THỨC


I.Bản chất của nhận thức
• Quan niệm trong lịch sử triết học:
Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp
những cảm giác của con người.
Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm khách quan: Coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của
linh hồn bất tử về “thế giới các ý niệm” mà nó từng chiêm ngưỡng được nhưng đã bị lãng
quên, hoặc cho rằng nhận thức là sự “tự ý thức về mình của ý niệm tuyệt đối”(Hêghen).
Thuyết hoài nghi: coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngừ về
tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận thức.
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của
con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con
người. Tuy nhiên đó là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là bản sao chép nguyên xi trạng
thái bất động của sự vật.
•Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
-- Thừa nhận đối tượng nhận thức là thế giới hiện thực khách quan, tồn tại độc lập với ý
thức của con người.
-- Khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan.
-- Nhận thức là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo; từ chưa biết đến
biết, từ biết ít đến biết nhiều.
-- Thực tiễn là cơ sở trực tiếp và chủ yếu nhất hình thành nên quá trình nhận thức.
Nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Sự phản ánh
này mang tính chất của chủ thể đối với khách thể.
Chủ thể nhận thức là con người, nhưng không phải con người phi lịch sử - con người
trừu tượng tách khỏi điều kiện bên ngoài mà con người được hiểu như một thành viên của
xã hội, là sản phẩm phát triển của lịch sử.
Khách thể không phải là toàn bộ thế giới khách quan mà chỉ là một bộ phận, một lĩnh
vực nào đó nằm trong vùng hoạt động thực tiễn, hoạt động nhận thức của chủ thể.
Phân biệt giữa ý thức và nhận thức: Ý thức là sự phản ánh toàn bộ thế giới khách quan
cả do chủ động và bị động của con người. Ý thức rộng hơn nhận thức. Nhận thức cho
chúng ta tri thức – cái cốt lõi của ý thức nhưng ngoài ra ý thức còn tình cảm, ý chí…
II.Thực tiễn và vai trò của thực tiễn
1. Khái niệm:
Theo CNDVBC, thực tiễn là một phạm trù triết học chỉ toàn bộ những hoạt động vật
chất cảm tính có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự
nhiên và xã hội.
Tính chất của hoạt động thực tiễn:
-- Là hoạt động mang tính cộng đồng xã hội, không tồn tại ở một cá nhân.
-- Là hoạt động có tính lịch sử cụ thể.
-- Là hoạt động có mục đích cải tạo tự nhiên, hoàn thiện con người.
Các hình thức hoạt động cơ bản của hoạt động thực tiễn:
-- Hoạt động sản xuất ra của cái vật chất: là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết
định bản, là cơ sở quan trọng nhất cho sự phát triển của chế độ xã hội và các hoạt động
khác.
-- Hoạt động chính trị xã hội: là hoạt động đấu tranh giai cấp, dân tộc, có vai trò thúc đẩy
sự phát triển văn minh của xã hội và nhân loại.
-- Hoạt động thực nghiệm của khoa học: là hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm bằng các
phương tiện vật chất của khoa học, hoạt động này thúc đẩy quá trình nhận thức của con
người về thế giới khách quan.
2.Vai trò:
Thực tiễn là cơ sở, là động lực và mục đích của nhận thức, thể hiện ở chỗ nhận thức
xuất phát từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn đặt ra yêu cầu cho nhận thức.VD
các ngành khoa học như thiên văn, toán học, cơ học ra đời là do nhu cầu của hoạt động
sản xuất, buôn bán, chiến tranh…hay học thuyết Mác ra đời cũng bắt nguồn từ những
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân yêu cầu.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Mục đích của nhận thức không phải là nhận thức,
mà mục đích của nhận thức là để phục vụ thực tiễn. VD Định luật áp suất khí quyển của
Torrisenli dùng để chế tạo các vật thể bay, định luật áp suất chất lỏng của Becnuli dùng
để chế tạo máy bơm…
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức. Qua hoạt động thực tiễn mới khẳng định
được nhận thức đúng hay sai. VD thuyết tương đối của Anhxtanh chỉ được công nhận khi
các thực nghiệm vật lý phát hiện ra sự phân rã hạt nhân tạo nên tia α và β.
III.Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
1.Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:
•Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động)
Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức gắn liền với thực tiễn. Nó là quá trình
phản ánh trực tiếp nhờ các giác quan: cảm giác - tri giác - biểu tượng.
Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng
đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người.
Tri giác là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp
vào các giác quan. Là sự tổng hợp cảm giác nhưng có hệ thống, đầy đủ hơn, phong phú
hơn.
Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan
sinh động. Đó là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc người
về sự vật khi sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan.
Như vây cảm giác, tri giác, biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình thức
nhận thức cảm tính; cho biết những hiểu biết ban đầu về sự vật. nó hết sức quan trọng
nhưng chưa đủ, chưa chính xác.
•Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng)
Là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở nhận thức cảm tính đem lại. Tư
duy trừu tượng phản ánh gián tiếp và khái quát. Nó chỉ ra được bản chất sự vật, hiện
tượng, cho chúng ta hiểu biết chính xác, đầy đủ hơn về sự vật.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những thuộc tính cơ bản
của sự vật. Đó là kết quả của sự tổng hợp khái quát bản chất những tri thức do nhận thức
cảm tính đem lại. Khái niệm được hình thành, phát triển trên cơ sở hoạt động nhận thức
con người.
Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng trong ý thức con người. Phán đoán được chia làm ba loại là phán đoán
đơn nhất (đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (đồng là kim loại), phán đoán phổ biến (mọi
kim loại đều dẫn điện).
Suy luận là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, là hình thức liên hệ giữa các phán
đoán. Đó là quá trình hình thành những phán đoán mới trên cơ sở phán đoán tiền đề. Có
hai loại suy luận là suy luận quy nạp (đi từ cái riêng đến cái chung) và suy luận diễn dịch
(đi từ cái chung đến cái riêng).
Tư duy trừu tượng và trực quan sinh động có mối quan hệ biện chứng.
Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp,
phản ánh khách thể một cách trực tiếp, đem lại những tri thức cảm tính. Ngược lại, nhận
thức lý tính là giai đoạn cao, phản ánh khách thể một cách gián tiếp, khái quát đem lại
những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức,
dựa trên cơ sở thực tiễn và hoạt động thần kinh cao cấp. Giữa chúng có sự tác động qua
lại: nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính, nhận thức lý tính tác động
trở lại nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén hơn.
Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn: là quá trình kiểm tra nhận thức. Thực tiễn là vòng
khâu cuối cùng của quá trình nhận thức, nó không chỉ lọc bo, điều chỉnh những sai lạc
trong nhận thức mà còn mách bảo, bổ sung cho nhận thức, chuyển nhận thức thành chân
lý khách quan. (nói một chút về vai trò của thực tiễn tới nhận thức).
IV.Chân lý – tiêu chuẩn
1.Khái niệm:
Chân lý là những tri thức của con người phù hợp với khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm.Như vậy, chân lý là sản phẩm quá trình nhận thức của con người, là khả
năng nhận thức của con người.
2. Các tính chất của chân lý
Tính khách quan: thể hiện ở nội dung phản ánh của nó. Đó là hiện thực khách quan
không phụ thuộc con người.
Tính cụ thể: chân lý bao giờ cũng là sự phản ánh những sự vật cụ thể. Không có chân lý
chung chung tách rời sự vật.
Chân lý tuyệt đối là chân lý có nội dung đầy đủ, hoàn toàn với sự thật. Chân lý tương
đối là những tri thức đúng nhưng chưa đầy đủ và hoàn chỉnh. VD định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lượng – ba định luật Niuton…giữa chúng có sự thống nhất biện chứng
với nhau. Chân lý tương đối bao gờ cũng có những yếu tố là chân lý tuyệt đối và ngược
lại, chân lý tuyệt đối được hình thành từ các chân lý tương đối, có sự bổ sung các chân lý
tương đối.
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.

You might also like