You are on page 1of 7

Page 1 sur 7

»» Trang nhà »» Giới thiệu »» Liên lạc

ĐẠI VIỆT CÁCH MẠNG ĐẢNG


Nhân bản - Dân chủ - Thịnh vượng
Tạp chí cách mạng Tìm
Tìm kiếm: i Bài viết n
j
k
l
m
n j Tạp chí
k
l
m
Ban biên tập

Các số báo

Tài liệu tham khảo

Việt Nam
(Chiến tranh, Chính trị)

Lịch sử Việt Nam

Thế giới

Nhân quyền

Đảng sử

Giai đoạn

Tin tức thời sự

Tin Việt Nam

VIỆT NAM SAU THÁNG TƯ ĐEN (Sự phán xét


Tin Thế giới

Văn hóa nghệ thuật

Văn
của lịch sử)
Thơ

Tranh ảnh Lê Tùng Minh 8/22/2006

Quốc ca, Đảng ca

Ý kiến bạn đọc Ngày 30 ThángTư năm 1975, quân Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) ào ạt tấn công vào Sàigòn – thủ đô Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)! Chánh phủ
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng “để cho Hòn Ngọc Viễn Đông khỏi bị tàn phá” và “để cho nhân dân miền Nam bớt đổ máu”(!) Tháng Tư lịch
POW/MIA sử đau thương ấy của Miền Nam Việt Nam Tự Do, đã được nhiều nhà quan sát phương Tây gọi là THÁNG TƯ ĐEN (Black April). Chúng tôi xin
mượn danh từ kép mang nghĩa ẩn đó, đưa vào đầu đề cho chuyên đề nghiên cứu lịch sử hiện đại này, nhân kỷ niệm “30 NĂM HẬN VONG
Links QUỐC” (30/04/1975 - 30/04/2004), của Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại!
Báo Chí Việt
Mục đích của chúng tôi khi nghiên cứu chuyên đề lịch sử: ”VIỆT NAM - SAU THÁNG TƯ ĐEN” (Sự phán xét của lịch sử), không chỉ nhằm tố
Báo Chí Ngoại Quốc cáo tội ác của ĐCS Việt Nam đối với Tổ quốc và Dân tộc ta; mà còn nhằm soi sáng một tiến trình tất yếu của lịch sử hiện đại Việt Nam là: “CHẾ
ĐỘ CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN” NHẤT ĐỊNH KHÔNG THỂ TỒN TẠI TRONG THỜI ĐẠI DÂN CHỦ HÓA TOÀN CẦU!
Internet Radio
I GIAI ĐOẠN 1975-1979.
Hội Đoàn

Diễn Đàn

Liên lạc
Một màu xám đen bao phủ cả miền Nam Việt Nam Tự Do, khi quân CSBV đã chiếm lấy các thành phố từ Quảng Trị... đến Cà Mau...
Webmaster: Đan Phượng
Và thủ đoạn bạo lực chính trị đầu tiên của quân CSBV là, áp dụng chính sách “Hòa Hợp Dân Tộc Trên Đầu Súng” – một chính sách đã được
Số người truy cập: CSBV hoạch định từ trước ngày thôn tính cả miền Nam Việt Nam!

Đó là chính sách “Học Tập Bồi Dưỡng Chính Trị” và “Tập Trung Lao Động Cải Tạo” – mà thực chất là bắt bỏ tù và bắt lao động khổ sai – đối
với mấy trăm ngàn sĩ quan và công chức của chế độ cũ (!) Ngày 10 tháng 5 năm 1975, một ngày mở đầu cho sự hủy hoại hạnh phúc của mấy
trăm ngàn gia đình có liên hệ đến những đối tượng bị “tập trung cải tạo”, mà Chính quyền Cộng Sản đã liệt họ vào loại “Gia Đình Ngụy”(!)

Thật sự, cho đến nay, chưa có một tài liệu thống kê nào cho biết chính xác 100% về con số Quân-Cán-Chính của VNCH, đã bị “tập Trung
Cải Tạo” (?) Tháng 5-1976, Phó thủ tướng CHXHCNVN - Phạm Hùng - trả lời cho phóng viên Hãng Thông Tấn AFP rằng: ”có 200.000 tù nhân
đang lao động ở các trại tập trung cải tạo”(?) Ngày 16-9-1976, Người Phát Ngôn của Chánh Phủ CSVN đã tuyên bố với báo chí (trong và ngoài
nước) tại Hànội, rằng: ”95% người của chế độ Mỹ-Ngụy bị bắt sau ngày 30-4-1975 đã được cho về đoàn tụ với gia đình. Hiện chỉ còn 40.000 sĩ
quan, công chức có nhiều nợ máu với nhân dân, phải bị cải tạo trong thời hạn 3 năm, và sau đó, một số người sẽ bị đem ra xử án” (?) – Như
vậy, theo lời tuyên bố này, số Quân-Cán-Chính của VNCH đã bị bất tập trung cải tạo vào lúc đầu là 800.000 người (?) Ngày 22-9-1978, Thủ
tướng CHXHCNVN – Phạm Văn Đồng – trả lời cho cuộc phỏng vấn của phóng viên báo Pháp “Paris Match”, rằng: ”Hơn 1 triệu người đã đươc
phóng thích và đã trở về gia đình” (?) Theo một nguồn tài liệu khác, báo cáo của Ban An Ninh TP HCM gửi cho Ủy Ban Quân Quản Thành Phố,
tính đến ngày 30-7-1975, thì đã có 154.772 sĩ quan, công chức của chế độ cũ, đã "chịu ra trình diện“ và bị “bắt tập trung học tập cải tạo”. Và đến
ngày 30-10-1975, đã bắt được thêm 68.037 người “trốn trình diện” nữa – tức là, tính đến tháng 10-1975, tồng cộng số Quân-Cán-Chính của
VNCH đã bị “tập trung cải tạo” là: 222.809 người! (Theo Hồ Sơ Mật của Phòng Lưu trữ/Văn phòng Sở CA thành phố HCM, tập 1975-1976, ký
hiệu A-TTCT). Con số nào mới là con số chính xác và đáng tin cậy nhất?

Tại sao đã có 154.772 người của chế độ cũ tự nguyện ra trình diện với chế độ mới? – Tại vì họ tin tưởng một cách ngây thơ vào cái gọi là
“chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước”, mà CSBV đã lớn tiếng tuyên truyền: “Chỉ đánh kẻ đối kháng, chớ không bao giờ đánh người
hàng phục”! Nhưng họ- những người bại trận, đã bị kẻ thắng trận lừa gạt!

Hành động vô cùng độc ác bằng thủ đoạn “Học Tập Bồi Dưỡng Chính Trị” và “Tập Trung Lao Động Cải Tạo”, đối với những người của chế
độ cũ, của chính quyền CSBV với tư cách là “kẻ chiến thắng”, đã bộc lộ một tâm lý LO SỢ KHÔNG GIỮ ĐƯỢC CHÍNH QUYỀN trên vùng đất
mà quân CSBV đã bị đại đa số quần chúng nhân dân coi là QUÂN XÂM LƯỢC! Do đó phải diệt cho hết những ai đã từng phuc vụ cho chế độ
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), mà CSBV coi là MẦM HỌA TRONG TƯƠNG LAI (!?)

Cho nên quân CSBV đã thực hiện triệt để chủ trương phát xít của Trung ương Đảng CSVN – do tập đoàn Lê Duẩn, Lê Đức Thọ... nắm
quyền – GIẾT LẦM HƠN THA LẦM! Từ ấy, tổ quốc Việt Nam bắt đầu mở ra những trang sử đen tối của một chế độ chuyên chế độc tài nhất
trong lịch sử của dân tộc Việt Nam! Nhưng Lê Duẩn đã có lên giọng của kẻ chiến thắng, vẽ ra một viễn cảnh đầy tham vọng, mà không kể hậu
quả đảo ngược trong tương lai, rằng: ”Chúng ta nhất định biến đất nước Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu... thành một nước văn minh, giàu mạnh,
thành trì bất khả xâm phạm của độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông Nam Á” (Bài diễn văn tại ngày lễ “Mừng Chiến
Thắng Giải phóng Miền Nam” ở Hànội, vào ngày 15/05/1975 – Xem báo Nhân Dân, Hànội, số ra ngày 16/05/1975).

Trong 6 tháng cuối năm 1975, nhân dân Miền Nam Việt Nam Tự Do lại phải chịu khốn khổ vì CHÍNH SÁCH ĐỔI TIỀN (lần thứ nhất bắt đầu
vào ngày 18/09/1975), và CHỦ TRƯƠNG DIỆT TƯ SẢN MẠI BẢN (lần thứ nhất bắt đầu vào ngày 10/11/1975)... Hành động “Cướp Giật Tài
Sản“ của nhân dân một cách công khai này là một tội lỗi “Trời Không Dung Đất Không Tha!” chắc chắn sẽ mang lại hậu quả không tưởng trong
tương lai cho Đảng CS Việt Nam!

Thực tế lịch sử ĐEN TỐI (có nhà báo Pháp gọi là CRUEL,nghĩa là ÁC ĐỘC) của những tháng sau 30/04/1975, đã được các nhà viết sử
CSVN huyền thoại để mị dân như sau: ”Từ giữa năm 1975, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả nước độc lập và thống
nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.” (Theo “Lịch Sử Đảng CSVN” của Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo,
nhà xb Giáo dục, Hànội-1997, trang152)

Chúng ta hãy xem cái gọi là “thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội” dưới sự lãnh đạo của tập đoàn Lê Duẩn-Lê Đức Thọ...như thế nào?

Để hợp thức hóa chủ trương sát nhập Miền Nam Tự Do vào Miền Bắc Cộng Sản, mang chiêu bài THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC, tập đoàn lãnh
đạo CSVN họ Lê đã quyết định tiến hành gấp rút việc bầu cử Quốc Hội Khóa VI (24/04/1976), để "Quốc Hội Gật” này ra tuyên bố: ”Hoàn thành
thống nhất nước nhà về mặt nhà nước” và đặt tên nước là “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” (CHXHCNVN).

Trước khi bầu cử Quốc Hội Khóa VI, tại thành phố Sàigòn (mà CSVN đã đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh) Sở Công An (dưới quyền chỉ đạo

file://C:\DOCUME~1\FRANCO~1\LOCALS~1\Temp\LARJ4WTO.htm 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Page 2 sur 7

trực tiếp của Mai Chí Thọ) đã tiến hành khủng bố những đối tượng bị “tình nghi chống đối”, trong đó có VỤ TẤN CÔNG NHÀ THỜ VINH SƠN
vào đêm 12/02/1976, giết chết 3 tín đo Công giáo, bắt Linh mục Quang Minh và một số người trong tổ chức Liên Tôn (!)

Theo sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Duẩn thì: "Việc trấn áp và xây dựng văn hóa ỏ Miền Nam là hai mặt khắng khít nhau. Trấn áp những tư
tưởng phản động, quét sạch tàn dư văn học đồi trụy, và truy lùng những tay sai văn hóa phản động là một nhiệm vụ tối quan trọng, để bảo vệ,
xây dựng và phát triển nền văn hóa XHCN ở Miền Nam hiện nay!” (theo Tạp chí Văn Hóa, Hànội, số tháng 6-1976). Vì vậy, tiếp theo chiến dịch
khủng bố bắt và giết người của Công An, thì đến CHIẾN DỊCH ĐỐT SÁCH, dưới chiêu bài “Tiêu hủy Sách Báo Phản Động Đồi Trụy Của Mỹ
Ngụy”(!)

Ngày 20-8-1975, Bộ Thông Tin Văn Hóa CSVN đã ra Thông tri số 218/CT/75, nêu rõ rằng: ”Cấm lưu hành các loại sách báo phản động về
chính trị và loại sách báo dâm ô đồi trụy”. Ngày 24-8-1975, Trần Văn Phác - Bộ Trưởng TTVH - lại ra thêm Quyết định số 124/VH/QĐ, quy định 4
điểm cụ thể về “Chiến dịch đốt sách” như sau: “1/- Tuyên truyền vận động khắp miền Nam Việt Nam để cho dân chúng tự nguyện tiêu hủy hết di
sản của nền văn hóa Mỹ-Ngụy, bao gồm sách báo, văn thơ, tiểu thuyết, họa, nhạc, kịch. 2/- Truy lùng và khống chế toàn diện những cơ sở lén
lút buôn bán những loại văn hóa phẩm này. 3/- Tại các trường học, hội đoàn, các tổ chức tập thể... phải ra sức phát động từng đợt những cuộc
truy lùng gắt gao đối với loại văn hóa Mỹ-Ngụy. 4/- Tổ chức xử những trường hợp điển hình, đối với nhửng kẻ vi phạm quy định này, để làm
gương cho kẻ khác.” (Điển hình như vụ xử 2 học sinh trường Trung học Trần Hưng Đạo Sàigòn – Trương Đình Hùng và Nguyễn Thị Hoa - chỉ vì
mang theo trong cặp 2 cuốn sách được xem là “phản động” và “Dâm Ô” – cuốn GIAI CẤP MỚI của Djilas, và cuốn YÊU của Chu Tử. Hai em đã
bị bản án 5 năm tù thật là oan ức!)

Chiến dịch PHI VĂN HÓA này của những kẻ tàn bạo, tưởng chỉ có diễn ra trong thời Tần Thủy Hoàng (Trung quốc thời Trung cổ), lại đã diễn
ra trong thời văn minh hiện đại ở Việt Nam (!). Chủ trương đốt sách, về mặt nào đó, là phạm tội hủy diệt kho tàng tri thức của nhân loại!

Sau khi bầu cử Quốc Hộị khóa VI (với 492 đại biểu đắc cử theo danh sách chỉ định của Ban Tổ Chức Trung ương Đảng, do Lê Đức Thọ làm
Trưởng Ban), ngày 13/06/1976, toàn bộ Văn Nghệ Sĩ của chế độ cũ ở Miền Nam Việt Nam Tự Do đã bị bắt buộc tập trung “Học tập Chính Trị”
để tẩy não; nhưng được khoác cái chiêu bài là “Khóa Bồi Dưỡng Chính Trị” (!?) Địa điểm học tập tẩy não cho Văn Nghệ Sị Miền Nam đã được
tổ chức tại số 81 đường Trương Minh Giảng (Sau 30/04/1975 đa bị đổi tên là Trần Quốc Thảo - Sàigòn). Các nhà quan sát thấy có khoảng 100
Văn Nghệ Sĩ Miền Nam. Vì sinh mệnh chính trị, vì cuộc sống của gia đình, đành buộc lòng đến tham dự, mà tâm trạng thật ê chề, như nhà văn
Hồ Trường An đã phản ảnh rằng: ”từ bao lâu nay, dưới chánh thể cu, thần trí sáng tạo của người Miền Nam đã ngự trên nhiều cao đỉnh, tâm
thức mở tung nhiều cánh cửa để hưởng ánh sáng từ nhiều phương trời tư tưởng; nay họ phải như con ngựa kéo xe, bị che mắt, bị người lãnh
đạo gò cương sai khiến theo con đường văn hóa của chủ nghĩa Mác-Lê, như thế cảm hứng của họ chắc chắn bị sượng lại, cứng ngắc và chỉ còn
là tiếng động vọng của chủ nghĩa... “ (Xem bài “Những Người Cầm Bút Phe Bại Trận” của Hồ Trường An – một nạn nhân của lớp học “tẩy não”
– đăng trên tạp chí Làng Văn, 1990)

Và...tiếp theo sau khóa học tập tẩy não đó, thì đa số văn nghệ sĩ Miền Nam trước 30/04/1975 đều bị tập trung đi “Cải Tạo Lao Động” ở vùng
rừng thiêng nước độc! Ngay tờ báo L’Humanite (Nhân Đạo), cơ quan thông tin của Đảng CS Pháp, từ số ra ngày 21-3-1977, cũng đã đăng tải
danh sách 321 văn nghệ sĩ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đã bị bắt đi “cải tạo lao động”! Sau nhiều năm điều tra, sưu tầm, năm 1978, tạp chí
Quê Mẹ ở Paris (Pháp) cũng đã công bố danh sách 163 văn nghê sĩ Miền Nam bị CSVN bắt trong hai cuộc tổng ruồng vào những năm 1976-
1977! Các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ... có tiếng tăm ở Miền Nam trước ngày 30 tháng Tư năm 1975, không ai thoát khỏi thủ đọan tàn bạo
và khả ố đến mất hết tình tự dân tộc của CSBV, trong những tháng năm vô cùng đen tối này!

Cùng với chủ trương đốt sách, chính sách tẩy não và tập trung cải tạo lao động đối với Văn Nghệ Sĩ chế độ cũ, là một HÀNH VI BẠO
NGƯỢC, hủy diệt tài sản văn hóa-văn minh và tài năng sáng tạo văn học nghệ thuật của dân tộc ta, mà chưa từng có chế độ nào bạo ngược
đến thế trong lịch sử cận hiện đại Việt Nam!

Ngày 02/06/1976, Quốc Hội khóa V [của nước CHXHCN Việt Nam họp “bầu”, theo chỉ định của Bộ Chính Trị (BCT), chọn Tôn Đức Thắng
làm Chủ Tịch Nước, Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc Hội, Phạm Văn Đồng làm Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng... Nhưng thực tế "bộ ba của lập
pháp và hành pháp” này, chỉ là công cụ sai khiến của tập đoàn lãnh đạo tối cao, là Lê Duẩn- Tổng Bí Thư Đảng, và Lê Đức Thọ - Ủy viên BCT
đặc trách tổ chức! Trình diện một QUỐC HỘI GẬT, VÀ chọn ĐƯỢC một ông CHỦ TỊCH NGỒI CHƠI XƠI NƯỚC, tập đoàn Họ Lê coi như đã
“hoàn toàn thắng lợi về chính trị” trên toàn cõi Việt Nam.

Trên cơ sở hợp thức hóa hành động thôn tính Miền Nam bằng mỹ từ “Thống Nhất Đất Nước”, BCT trung ương ĐCSVN liền đưa ra chỉ thị
“Tích Cực Cải Tạo Công Thương Nghiệp Miền Nam” (03/07/1976), và sẽ hoàn thành công cuộc cải tạo này vào năm 1979! Thực chất của chính
sách phi nhân quyền này, là thực hiện chiến dịch vơ vét tài sản của tầng lớp hữu sản ở Miền Nam (!). Nguyễn Văn Linh, Ủy Viên BCT Trung
Ương Đảng, Bí thư thành ủy thành phố Sàigòn, được giao đặc trách công tác “Cải Tạo Công Thương Nghiệp Miền Nam” (CTCTNMN).

Kế đó, tập đoàn Họ Lê liền triệu tập Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ IV (14/12/1976). Có thể nói đây là ĐẠI HỘI THANH TRỪNG PHE
CÁNH CHỐNG DUẨN - THỌ... Do đó, 1/3 ủy viên Trung ương Đảng, trong số 71 ủy viên của khóa III (1960-1976), thuộc phe cánh Võ Nguyên
Giáp... đã bị loại ra khỏi Trung ương Đảng khóa IV. Ban Chấp Hành Trung ương Đảng (BCHTUĐ) khoá IV gồm có 101 ủy viên chính thức, 32 ủy
viên dự khuyết (Tổng cộng là 133 người, tăng 62 người so với khóa III), Lê Duẩn vẫn giữ chặt ghế Tổng Bí Thư kiêm chủ tịch Đảng. Đại hội này
đã quyết định đổi tên Đảng Lao Động Việt Nam thành ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (ĐCSVN), và đề ra Kế Hoạch 5 Năm lần thứ II (1976-
1980).

Đại hội IV của ĐCSVN cũng đã đề ra ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG CNXH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM với nội dung căn bản như
sau:

- “Xác định 4 mục tiêu xây dựng CNXH: Xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN được xem là mục tiêu bao trùm; xây dựng nền sản xuất lớn
XHCN được xem là cơ sở kinh tế của chế độ làm chủ tập thể; xây dựng nền văn hóa mới và xây dựng con người mới XHCN.”

- “Các biện pháp đòn bẩy để đặt các mục tiêu trên là: Nắm vững chuyên chính vô sản và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động; tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng – cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa,
trong đó cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt; công nghịệp hóa XHCN được xem là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ.”

(Theo “Lịch sử ĐCSVN”, đã dẫn trang 156-157)

Với 4 mục tiêu và 3 biện pháp theo lối “trò chơi chủ nghĩa”, bằng cách “kiến trúc lâu đài trên cát” đó, sẽ đạt được những hậu quả gì? Đến
nay, chúng ta đã thấy hậu quả thảm hại của một ĐƯỜNG LỐI KHÔNG TƯỞNG... Và những người CS thức tỉnh đều nhận ra “cái thùng rỗng đít”
của đường lối xây dựng CNXH ấy! Rõ ràng, tập đoàn Duẩn - Thọ đã nuôi mộng xây dựng CNXH KHÔNG TƯỞNG bằng mồ hôi, nước mắt và cả
xương máu của nhân dân Việt Nam, theo phương châm “Ai Chết Mặc Ai” miễn chúng “ ngồi mát ăn bát vàng” là được!

Đến đàu năm 1977, sách lược “Đoàn Kết Theo Giai Đoạn” của ĐCS Việt Nam đã lộ rõ tính chất lừa mị của nó, khi BCT trung ương ĐCS Việt
Nam quyết định sát nhập “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” và “Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam”, vào Mặt
Trận Tổ Quốc Việt Nam (22/01/1977). Luật sư Nguyễn Hữu Thọ và Luật sư Trịnh Đình Thảo đều bị xuống chức, cùng làm Phó chủ tịch MTTQ
Việt Nam. Sự lừa gạt có sách lược này của ĐCS Việt Nam đã bị Tiến sĩ Lê Văn Hảo, nguyên Chủ tịch LMDTDC và HB Huế, tố cáo như sau: ”Tôi
được họ cử làm Chủ tịch Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình của Thành phố Huế, và khi cuộc Tổng Công Kích vào Tết Mậu Thân 1968 nổ
ra, tôi lại được họ cử làm Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên. Đó là những chức vụ bù nhìn mà Cộng Sản khoác cho tôi, nhằm
mục đích “lợi dụng danh vị giáo sư tiến sĩ” của tôi để lôi kéo trí thứ và sinh viên học sinh Huế... Mãi đến sau ngày 30/04/1975 thì tôi mới thấy rõ
thủ đoạn đó của Đảng CSVN” (Tiến sĩ Lê Văn Hảo nói trong “Trả lời Phỏng vấn” của Trần Nghi, đăng trên báo “Quê Mẹ” ở Paris, số tháng 2-
1990)

Thực hiện triệt để khẩu hiệu “Thừa Thắng Xông Lên” một cách mù quáng, ngày 06/04/1977, BCT trung ương ĐCS Việt Nam lại ra lệnh cho
Công an Sàigòn bắt Hòa thượng Thích Quảng Độ - Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Chúng đem giam
Ngài tại nhà tù T-20 (tức nhà tù Phan Đăng Lưu). Chính sách ĐÀN ÁP TÔN GIÁO MIỀN NAM của ĐCS Việt Nam khởi đầu từ đây, trắng trợn
chà đạp quyền Tự Do Tín Ngưỡng, mà chính Hiến Pháp của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (CSBV) cũng đã có ghi rành rành (!) Đến
ngày 12/12/1978, do áp lực của tình hình chính trị, nên chính quyền CS Việt Nam mới chịu thả Ngài....

Khi thấy Nguyễn Văn Linh “nhẹ tay” trong việc thi hành chủ trương CTCTNMN, và vì để vơ vét càng nhanh càng tốt tài sản của tầng lớp
Công-Thương-Nghiệp Miền Nam, Lê Duẩn trực tiếp chỉ thị cho thành lập “Ủy Ban CTCTNMN” (22/07/1977). Lúc ban đầu, Lê Duẩn vẫn để cho
Nguyễn Văn Linh điều hành cái Ủy Ban cướp tài sản này, và tiến hành đổi tiền lần thứ hai (!) Nhưng sau đó thấy Nguyễn Văn Linh không tích
cực “vơ vét tài sản của dân Miền Nam để cống cho triều đình Lê Duẩn” (?) Cho nên, đến ngày 10/05/1978, Lê Duẩn lại cử Đỗ Mười và Tố Hữu –
đều là Ủy Viên Dự Khuyết BCT- vào Nam thay thế Nguyễn Văn Linh, để chỉ huy cái Ủy Ban gọi là CTCTNMN ác độc đó! Chiến dịch CTCTNMN,
thực chất là TIÊU DIỆT TƯ SẢN DÂN TỘC và BẦN CÙNG HÓA TIỂU THƯƠNG, TIỂU CHỦ của Miền Nam Tự Do! Bởi thế, đã có biết bao gia
đình bị lâm vào cảnh “tán gia bại sản”, và còn phải bị cưỡng bức bỏ thành phố, lên rừng để sinh sống, với chiêu bài “Đi Xây Dựng Kinh Tế
Mới”(!?) Cho nên, lúc này trong dân gian Miền Nam đã truyền cho nhau nghe câu:”Đi Kinh Tế Mới là Đi Tới Nghĩa Địa!”

Đối với nông dân miền Nam, ĐCS Việt Nam không dám chủ trương úp bộ, đưa họ vào công cuộc Hợp Tác Hóa XHCN như đối với nông dân
miền Bắc trong những năm 1956-1960. Bởi vì Lê Duẩn và Lê ĐứcThọ, vốn đã từng “ăn dằm nằm dè” ở nông thôn Miền Nam trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp (1945-1954) – Riêng Lê Duẩn ở đến năm 1957. Họ biết rõ tính kiên cường bất khuất của nông dân Miền Nam, nên không thể
làm cho “đội quân chủ lực” này bất mãn, trong khi tình hình chính trị – trong nước cung như ngoài nước – đang diễn biến theo chiều hướng
ngày càng phức tạp! Vì vậy, song song với công cuộc CTCTNMN, ĐCS Việt Nam đành hạ thấp yêu cầu chỉ chủ trương tổ chức “Tổ Đoàn Kết
Sản Xuất” và xây dựng “Hợp Tác Xã” (HTX) cấp thấp, bắt đầu từ tháng 6-1977, cho đến cuối năm 1979 sẽ đưa toàn bộ nông dân Miền Nam vào
con đường “Hợp Tác Hóa" để cùng nông thôn Miền Bắc “sánh vai tiến lên CNXH(?) Nhưng dù đã hạ thấp yêu cầu như thế, họ cũng đã bị nông

file://C:\DOCUME~1\FRANCO~1\LOCALS~1\Temp\LARJ4WTO.htm 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Page 3 sur 7

dân Miền Nam phản đối quyết liệt, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long! Nông dân đã bỏ ruộng để hoang hóa, không chịu canh tác, không
đồng ý vào HTX, dẫn đến nguy cơ… thiếu lương thực trầm trọng! {Cho nên, ĐCS Việt Nam đành buộc lòng phải ngưng thi hành chủ trương Hợp
Tác Hóa Nông Nghiệp ở nông thôn Miền Nam vào năm 1979!}

Chính sách NGĂN SÔNG CẤM CHỢ ở Miền Nam từ năm 1976, cũng là một hành động xuẩn trí của các nhà lãnh đạo Thương Nghiệp
XHCN! Chính sách cấm đoán tự do lưu thông hàng hóa của tư nhân từ nông thôn về thành thị, hay ngược lại, trên toàn Miền Nam, đã làm suy
sụp ngành tiểu thương vốn rất thịnh hành của Miền Nam Tự Do…. Chính sách “Ngăn Sông Cấm Chợ” của ĐCS Việt Nam đối với nhân dân
Miền Nam, cũng là một hành động xúc phạm nhân quyền một cách trắng trợn, làm cho bao nhiêu người thất nghiệp, làm cho bao gia đình lâm
vào cảnh túng quẩn, thiếu ăn, làm cho các chợ nông thôn trở nên tiêu điều, xơ xác... Vì thế, chính quyền CS Việt Nam đã bị sự phản đối của các
tầng lớp mua bán nhỏ và giới tiêu thụ! {Vì lẽ đó, chính sách “Ngăn Sông Cấm Chợ” của ĐCS Việt Nam đối với thị trường tự do ở Miền Nam, bắt
buộc phải chấm dứt sau năm 1979!}

Những người CS gốc Nam Bộ như Huỳnh Tấn Phát (nguyên Chủ tịch Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam), Nguyễn Hữu Thọ
(nguyên Chủ tịch MTDTGPMN Việt Nam), Trần Bửu Kiếm (nguyên Ủy viên Thường trực MTDTGPMN Việt Nam), Nguyễn Văn Hiếu (nguyên
Tổng thư ký MTDTGPMN Việt Nam), Dương Kỳ Hiệp (nguyên Bộ trưởng Kinh tế của CPCMLTMN), Dương Quỳnh Hoa (nguyên Bộ trưởng Y tế
Xã hội của CPCMLTMN), Nguyễn Văn Trấn (nguyên Phó Bí thư Xứ ủy Nam kỳ, nguyên Vụ trưởng Khoa Giáo Trung ương Đảng), Nguyễn Hộ
(Phó chủ tịch Tổng Công Đoàn Việt Nam, kiêm Tổng thư lý Liên hiệp Công Đoàn TP HCM) v.v... Và những người CS gốc Bắc, nhưng sống ở
Miền Nam đã lâu như Nguyễn Văn Linh (nguyên Bí thư Trung Ương Cục từ trước năm 1963, Ủy viên BCT khóa IV và đương kim Bí thư thành
ủy TP. HCM)... đều cảm thấy sai lầm của các chính sách Kinh tế - Chính trị - Văn hóa-Xã hội của tập đoàn Lê Duẩn, nhưng họ chỉ âm thầm bất
mãn, thiếu “cái dũng của nhà tranh đấu”, bởi vì họ đang thất sủng.

{Riêng chỉ có Nguyễn Văn Linh là đương quyền, nhưng ông ta chỉ mới “lửng lơ con cá vàng” trong việc trực tiếp chỉ đạo công cuộc
CTCTNMN, và mới có ý kiến rằng: ”Chưa nên đưa Miền Nam đi lên CNXH ngay vào lúc này, và cho phép Công Thương Nghiệp tư doanh vẫn
tồn tại” (Trong khi Lê Duẩn kiên quyết “Xóa bỏ CôngThương Nghiệp tư doanh và đưa Miền Nam lên CNXH ngay!”). Cho nên, Nguyễn Văn Linh
đã bị tập đoàn Duẩn – Thọ loại ra khỏi BCT Trung ương Đảng Khóa V (1982), và ngưng chức Bí thư Thành ủy Sàigòn, “ngồi chơi xơi nước” mội
thời gian (1982-1985). Tháng 5-1978, Đỗ Mười ủy viên dự khuyết BCT Trung Ương ĐCS Việt Nam đã được Lê Duẩn cử vào Sàigòn thay thế
Nguyễn Văn Linh, nắm quyền lãnh đạo tối cao cái gọi là “Ủy Ban CTCTNMN”, và tiến hành ngay CHIẾN DỊCH X.2, mà bắt đầu bằng vụ đổi tiền
lần thứ II, với kết quả là đã có 400.000 hộ tư sản bị tịch biên gia sản, đồng thời dùng áp lực tống họ đi “vùng kinh tế mới”! Thực chất, đây là một
vụ cướp của, hãm hại các hộ tư sản một cách công khai hợp pháp! Và phần lớn tiền bạc, vàng, hột xoàn, cẩm thạch, đá quý... tịch thu của tư
sản Miền Nam, đều lọt vào túi riêng của tập đoàn Lê Duẩn - Lê Đức Thọ - Phạm Hùng - Đỗ Mười... }

Bước vào năm 1978, nhà nước CHXHCN Việt Nam đã đối diện với những thách thức nặng nề từ bên ngoài lẫn bên trong!

- THÁCH THỨC TỪ BÊN NGOÀI:

Trung Cộng là hiểm họa đối với Việt Nam!

Sau khi CSBV hoàn thành công cuộc thôn tính Miền Nam Tụ Do, Trung Cộng cũng bắt đầu ngăn chặn âm mưu làm bá chủ Đông Dương của
CS Việt Nam! Nhân cuộc đụng độ giữa hải quân CS Việt Nam và hải quân của Khờ Me Đỏ (Cambodia) ở Phú Quốc (04/05/1975), Trung Cộng
xúc tiến ngay việc lôi kéo Khờ Me Đỏ chống lại âm mưu “Liên Bang Đông Dương” của CS Việt Nam. Cuối tháng 9 năm 1977, Trung Cộng bí mật
viện trợ vũ khí và cho cố vấn quân sự sang Cambodia, đồng thời xúi giục Khờ Me Đỏ xua quân tấn công biên giới phía Nam của Việt Nam (tức
vùng đất Tịnh Biên-Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang). Nhưng đã bị quân đội CS Việt Nam trả đũa bằng cách cho phản lực cơ A-37 (của Hoa kỳ để
lại trong Tháng Tư Đen) ném bom tiêu diệt đội ngũ quân Khờ Me Đỏ! Thế là, bắt đầu cuộc khai chiến giữa Khờ Me Đỏ và CS Việt Nam! Trung
Cộng thừa cơ hội này, ra mặt giúp tập đoàn Pol Pot-Leng Sary chống lại ĐCS Việt Nam!

Sự kiện lịch sử “quan hệ quốc tế cộng sản” này đa chỉ rõ: chủ trương nuôi dưỡng cộng sản Campuchia, được gọi là Khờ Me Đỏ, từ những
năm 1950-1960, của ĐCS Việt Nam, từ thời Hồ Chí Minh đến thời Lê Duẩn, đã bị phản bội một cách trắng trợn! Đồng thời “chủ trương vun bồi
tình nghĩa anh em đồng chí, núi liền núi sông liền sông” của ĐCS Việt Nam, tư gần 40 năm qua (1930-1979) với Trung Cộng đã trôi theo giòng
xoáy tranh giành bá quyền ở Đông Dương!

Quan hệ căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Cộng đã bắt đầu từ sự kiện 11-4-1975, với hành động đánh chiếm lại mấy hòn đảo trong quần
đảo Trường Sa của hải quân Bắc Việt (mà Trung Cộng đã chiếm của VNCH vào ngày 20-1-1974). Và sau tháng 4-1975, với việc ĐCS Việt Nam
yêu cầu Trung Cộng rút hết 300.000 “chí nguyện quân” trú đóng ở Miền Bắc Việt Nam, về Trung Quốc! (Theo tiết lộ của Hoàng Văn Hoan,
nguyên ủy viên BCT TUĐCS Việt Nam khóa III, thì: ”Từ năm 1965 đến năm 1970... theo yêu cầu của Hồ chủ tịch và Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam, Mao chủ tịch và Trung ương Đảng cộng sản Trung quốc đã phát hơn 30 vạn bộ đội Trung quốc vào Việt Nam.” – Xem “Giọt Nước
Trong Biển Cả” của HVH, Tin Việt Nam, Hoa kỳ 1986,trang 345).

Đồng thời ĐCS Việt Nam cũng bắt đầu ngả hẳn về ông “Anh Cả Liên Xô”, ra mặt chống lại Trung Cộng. Nhờ vậy, nên Liên Xô đã tăng viện
trợ cho Việt Nam – Năm 1976, từ mức “viện trợ tượng trưng” đã tăng nhảy vọt đến 500 triệu Mỹ kim Và viện trợ đến 3 tỷ Mỹ kim cho kế hoạch 5
năm 1976-1980! Và đến cuối tháng 7/1977, sau chuyến đi bí mật sang Liên Xô của Lê Đức Thọ và Phạm Văn Đồng để xin quân viện, Liên Xô đã
cử một phái đoàn quân sự cao cấp (21 nhân vật) cũng bí mật bay sang Việt Nam, để nghiên cứu nhu cầu quân viện cho Việt Nam, đồng thời
cũng điều tra - nghiên cứu các cứ điểm quân sự ở Đà Nẵng, Cam Ranh, Nha Trang, Vũng Tàu. Sau đó, Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam 1
khu trục hạm, một số tàu tuần, và 4 phi đội chiến đấu cơ MIG 21. Tính đến năm 1978, số cố vấn Liên xô ở Việt Nam đã tăng đến 600 người, và
viện trợ quân sự đã lên tới 75 triệu Mỹ kim. (Theo “Tài liệu Mật về Viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam” trong giai đoạn 1977-1979- Cục Lưu trữ
Trung Ương, Hànội).

Nhân ngày lễ kỷ niệm lần thứ 60 ngày thành công của cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga (07/11/1977), Lê Duẩn và Trường Chinh đã sang
Liên Xô “hội đàm bí mật” với Léonid Brezhnev - Tổng Bí thư ĐCS Liên Xô, về KẾ HOẠCH TẤN CÔNG CAMPUCHIA, LẬT ĐỔ CHÁNH QUYỀN
KHỜ ME ĐỎ! Đã có Liên Xô – “Thành Trì XHCN” – đứng sau lưng hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện âm mưu thành lập “Liên Bang Đông
Dương”, nên tập đoàn hiếu chiến Lê Duẩn - Lê Đức Thọ, không còn lo sợ áp lực của Trung Cộng nữa!

Tức giận vì thái độ “Ăn Cháo Đá Bát” của tập đoàn lãnh đạo Trung Ương Đảng CSVN, Trung Cộng đã phản phé, bằng cách tuyên bố: từ
năm 1977, không cấp viện trợ cho Việt Nam nữa! Và tình báo của Trung Cộng đã nhận được mật báo từ trong hàng ngũ CS Việt Nam (phe thân
Trung Cộng) về việc bí mật qua lại giữa tập đoàn Lê Duẩn - Lê Đức Thọ và Trung Ương ĐCS Liên Xô (?) Do đó,đến ngày 31/05/1978, viện cớ
rằng: ”Chánh quyền Việt Nam đã ngược đãi và hành hạ Hoa kiều, lại vô cớ trục xuất Hoa kiều ở Việt Nam về Trung quốc”. Cho nên, Trung Cộng
mới chấm dứt việc thi hành “72 Dự Án Viện Trợ”, đã ký từ trước cho chính quyền Hànội, và rút hết cán bộ Trung quốc đang làm việc tại Việt
Nam về nước! Sự bội ước có tính chất phản phé, gây áp lực kinh tế này của Trung Cộng, đã đẩy Chính quyền CS Việt Nam mau chóng gia
nhập vào “Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế của Khối XHCN” (COMECON) do Liên Xô lãnh đạo, vào ngày 28/06/1978, để nhận viện trợ kinh tế tài
chính của tổ chức này, nhằm thoát ra khỏi sự thao túng của Trung Cộng!

[Sự thật về chủ trương của ĐCS Việt Nam “xua đuổi Hoa kiều ra khỏi Việt Nam” là như thế nào? Cho đến nay, chưa thấy một văn kiện công
khai nào của Đảng và Chánh phủ CS Việt Nam đề cập đến chủ trương đó (?) Nhưng trong “Hồ Sơ Mật” của Bộ Nội Vụ / Chánh phủ CHXHCN
Việt Nam, thì có “Chỉ Thị Cho Phép Các Sở, Ty Công An Địa Phương ĐượcTổ Chức Vượt Biên Cho Người Việt Gốc Hoa, Để Lấy Vàng bổ sung
cho Ngân quỹ của Nhà Nước.” Chỉ thị này đã được thi hành từ tháng 11-1978. Thâm ý của chỉ thị này, là vừa chính thức đuổi người Hoa ra khỏi
Việt Nam, mà “Không mang tiếng Trục Xuất những phần tử có thể làm tai mắt cho Trung Cộng” (!?); vừa thu được một số lượng vàng không
nhỏ, theo quy định chung là “3 Cây Vàng Một Người”. Dự tính: Ít nhất cũng có đến 100.000 người Hoa “vượt biên chính thức” (trong số hơn
600.000 người Hoa định cư khắp mièn Nam Việt Nam)- có nghĩa là Chính phủ CHXHCN Việt Nam sẽ thu được ít nhất là 300.000 lạng vàng! -
Theo tiết lộ của Đại tá Cục trưởng Cục Cảnh Sát/ Bộ Nội Vụ Trần Bình, vào những năm 1978-1982.}

Ngòi lửa CHIẾN TRANH CAMPUCHIA - VIỆT NAM, CHIẾN TRANH TRUNG QUỐC - VIỆT NAM đang được thổi lên từ Bắc Kinh; nhưng
Đảng CS Việt Nam, đặc biệt là tập đoàn hiếu chiến Lê Duẩn - Lê Đức Thọ cũng phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về cuồng vọng làm bá chủ
Đông Dương - cái nguyên cớ để cho Trung Cộng có cơ hội thổi bùng ngọn lửa chiến tranh!

- THÁCH THỨC TỪ BÊN TRONG:

Đảng Cộng Sản Việt Nam không bao giờ dám nhìn nhận những “Thách Thức Từ Bên Trong” là bắt nguồn từ hành động chủ quan của họ, mà
lúc nào cũng đổ thừa cho nhưng nguyên nhân khách quan!

Chúng ta hãy xem họ đã giải thích như thế nào, về NHỮNG KHÓ KHĂN TO LỚN Ở TRONG NƯỚC? Họ đã giải thích những nguyên nhân
đưa đến “những thách thức từ bên trong”, như sau:

“Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc
hậu, năng xuất lao động thấp kém, lại phải trải qua hàng chục năm chiến tranh tàn phá, hậu quả để lại rất nặng nề, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội không đồng đều ở hai miền, tàn dư thực dân, phong kiến hãy còn nhiều ở Miền Nam, phải nhanh chóng chuyển nền kinh tế cả nước từ chỗ
được viện trợ không hoàn lại với giá trị khoảng một nửa tổng sản phẩm xã hội hàng năm sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào sức mình, kết hợp
với nguồn viện trợ giảm đi rõ rệt và dưới hình thức chủ yếu là tiền vay và trao đổi hàng hóa. Đã thế, các thế lực thù địch, phản động trong nước
và trên thế giới không cam tâm thất bại, thường xuyên chống phá ta. Đế quốc Mỹ cùng các thế lực đế quốc khác thực hiện bao vây, cấm vận, ra
sức cản trở công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân ta.” (Theo LSĐCSVN, đã dẫn, trang 153)

Rõ ràng, mọi khó khăn, những thách thức, nẩy sinh từ sau ngày 30 tháng Tư 1975, theo ĐCS Việt Nam, đều là do những yếu tố khách quan
gây ra. Nào là do “một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến”. Nào là do “nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu, năng xuất lao

file://C:\DOCUME~1\FRANCO~1\LOCALS~1\Temp\LARJ4WTO.htm 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Page 4 sur 7

động kém”. Nào là do “trải qua hàng chục năm chiến tranh tàn phá". Nào là do “các thế lực thù địch, phản động trong nước và trên thế giới”.
v.v... và v.v..

Những yếu tố khách quan trên đây là một sự thật không thể coi thường, nhưng nó chỉ có khả năng “tác yêu tác quái”, khi ĐCS Việt Nam đã
phạm phải nhiều sai lầm về “Đường Lối - Chính Sách - Chủ trương” xây dựng và phát triển Kinh tế - Chính trị, Văn hóa-Xã hội... như thực tế lịch
sử của những năm sau tháng Tư đen tháng12/1978 đã minh chứng rõ ràng, như dưới đây:

-THỨ NHẤT: Do chủ trương sai lầm của tập đoàn lãnh đạo ĐCS Việt Nam, là vội vàng thủ tiêu quyền quản trị Miền Nam Việt Nam của
Chánh Phủ CMLTCHMN Việt Nam, sau ngày chiến thắng Mỹ và VNCH (!)... hấp tấp sát nhập hai Mặt trận (DTGPMN và LMDTDCHBVN), vốn là
hai biểu trưng cho “thành phần thứ ba” ở Miền Nam Việt Nam trong thời “chống Mỹ cứu nước” (1960-1975)- Cho dù hai Mặt trận đó chỉ là lá bài
sách lược giai đoạn của CSBV mà thôi!

Chính vì sự “vắt chanh bỏ vỏ” đó của tập đoàn lãnh đạo ĐCS Việt Nam, nên “thành phần thứ ba” ở Miền Nam, bao gồm Nhân sĩ - Trí thức,
Công thương gia, các nhà lãnh đạo tôn giáo - Đảng phái, đã dấn thân tranh đấu cho “Sự Nghiệp Giải Phóng Miền Nam Việt Nam”... đã bất mãn
trầm trọng!

Trước hết, họ đã nhận ra thủ đoạn lừa gạt của ĐCS Việt Nam đối với họ! Bởi vì Lê Duẩn đã từng hứa danh dự với họ rằng: ”Sau khi đã giải
phóng Miền Nam hoàn toàn, Đảng vẫn để cho Chính Phủ CMLTCHMN điều hành và quản trị Miền Nam theo thể chế Dân chủ Cộng hòa, song
song tồn tại với Miền Bắc XHCN, cùng thi đua xây dựng và phát triển đất nước VN theo phương hướng Dân giàu Nước mạnh... Đến khi nào toàn
dân yêu cầu Thống Nhất Đất Nước thì sẽ tiến hành Tổng Tuyển Cử bầu ra một Quốc Hội Thống Nhất và một Chính phủ Thống Nhất! Tiến trình
lịch sử đó là xu thế tất yếu, nhưng không thể cưởng ép lịch sử, trái với nguyện vọng của nhân dân hai miền! Vì vậy tiến trình Thống Nhất Đất
Nước là một tiến`trình lâu dài... “ (Theo lời truyền đạt của ông Mười Cúc, tức Nguyễn Văn Linh, tại cuộc họp bàn việc thành lập CPCMLTCHMN,
vào tháng 5-1969, tại khu Mỏ Vẹt – biên giới Việt - Canpuchia, thuộc tỉnh Hậu Nghĩa. Theo tiết lộ của Mười Quảng, thư ký riêng của Mười Cúc.)
Vậy mà sau 30-04-1975, Lê Duẩn đã nuốt lời, tiến hành ngay việc giải tán CPCMLTCHMN, sát nhập MTDTGPMN và MTLMDTDCHBVN vào
MTTQ Việt Nam(!) Đúng như chuyện dân gian hiện đại về “cái lưỡi không xương nhiều điều gian dối”!

Những trí thức đã gia nhập ĐCS Việt Nam như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Hiếu, Trần Bửu Kiếm v.v... tuy bất mãn chủ
trương “đốt giai đọan” một cách độc đoán của tập đoàn Lê Duẩn - Lê Đức Thọ, không cần bàn bạc, trao đổi trước với Đảng bộ Miền Nam,
nhưng họ vì “tôn trọng kỹ luật Đảng”, vì sợ mất luôn chức quyền, nên họ đành phải im lặng, che dấu nỗi tức tối vào trong đáy sâu của cõi lòng(!)
Mãi cho đến khi sắp lìa khỏi cuộc đời ô trọc này, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ mới bộc lộ tâm sự khốn khổ của ông cho con trai nghe, rằng: ”Nhưng
điều đáng lên án nhất, là sự phục tùng mù quáng đến hèn nhát của cha đối với những mệnh lệnh phi nhân bất nghĩa của tập đoàn lãnh tụ độc tài
mất hết tình tự dân tộc!” (Theo DI CHÚC của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ – Tiết lộ của Nguyễn Hữu Phước, con trai của Nguyễn Hữu Thọ. Ông
Nguyễn Hữu Thọ chết vào ngày 24-12-1996).

Trong số trí thức đảng viên CS ở Miền Nam Việt Nam, có chân trong CPCMLTMN, chỉ có 3 nhân vật ra mặt phản đối chính sách độc đoán
của tập đoàn họ Lê! Đó là bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, nguyên Bộ trưởng Y Tế, cùng ông Kỹ sư Trương Như Tảng, nguyên Bộ trưởng Tư
pháp, và Giáo sư Lữ Phương, nguyên Thứ trưởng Bộ Thông Tin Văn Hóa. Nhưng mỗi người có cách phản ứng khác nhau. Dương Quỳnh Hoa
thì chấp nhận làm đại biểu “Quốc Hội Gật” để mong tạo cơ hội “xoay chuyển tình thế”, song cuối cùng chỉ là ảo vọng, với dư âm của những lời
bất mãn phát biểu trên báo chí, trong tâm trạng đau khổ của một kẻ lầm đường không có lối thoát (!) Và Lữ Phương cũng chấp nhận ở lại thành
phố Sàigòn, làm chuyên viên nghiên cứu văn hóa, để viết báo, viết sách, “chê bóng, chửi gió” các ông Marx-Lénine, và Đảng của ông Hồ Chí
Minh, và chửi luôn Chủ nghĩa Thực dân mới Mỹ... để cuối cùng ôm hận lui về nhà làm anh “Phó Nháy”, chụp và rửa hình để sinh nhai (!?) Còn
Trương Như Tảng thì trốn thoát qua Pháp, và lúc đầu cũng đã tìm cách liên lạc với ông Hoàng Văn Hoan (đã chạy sang Trung quốc), mong
muốn “làm được gì cho non sông Việt Nam”, nhưng cuối cùng chỉ đạt kết quả là để lại một cuốn Hồi Ký đầy tủi nhục, như chính cái đầu đề của
nó: ”A VIETCONG MEMOIR” (Hồi ký của một Việt Cộng) do nhà xuất bản Random House ở New York- USA, phát hành vào năm 1985.

Còn số nhân sĩ trí thức không Cộng sản như: Luật sư Trịnh Đình Thảo, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, Giáo sư
Nguyễn Văn Chì, Giáo sư Lê Văn Hảo, Giáo sư Lê Văn Giáp, Giáo sư Trần Kim Bảng, Kỹ nghệ gia Lâm Văn Tết, nhà tư sản dân tộc Phú Hữu,
Linh mục Chân Tín, Linh mục Nguyễn Ngọc Lan v.v...đều bất mãn đến cực điểm! Nhưng họ thấy lực lượng của “thanh phần thứ ba” ở Miền Nam
chỉ là một nhóm hỗn tạp, không có tổ chức, lại chia rẽ trầm trọng, nên không làm được gì trước thế và lực mạnh tuyệt đối của ĐCS Việt Nam! Vì
thế, im lặng và chịu đựng là thượng sách! Mãi đến năm 1990, chịu đựng hết nổi nên 2 vị Linh mục nói trên mới gia nhập hàng ngũ “những người
CS thức tỉnh”,mạnh dạn lên tiếng đối kháng sự lãnh đạo chuyên chế, độc tài của ĐCS Việt Nam! (Riêng tiến sĩ Lê Văn Hảo, đến khi có cơ hội tị
nạn ở Pháp thì mới lên tiếng tố cáo thủ đoạn của ĐCS Việt Nam!)

Tuy nhiên, thủ đoạn lừa gạt của ĐCS Việt Nam đối với “lực lượng thứ ba” ở Miền Nam, và sự bất mãn của hàng ngũ lãnh đạo MTDTGPMN,
MTLMDTDCHB Việt Nam và CPCMLTCHMN, đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của giới trí thức, văn nghệ sĩ của chế độ VNCH đang còn ở
lại, và đang quan sát chế độ CHXHCNVN (?) Họ vừa chán ngán, vừa sợ hãi, không dám “phục vụ cho chế độ XHCN’ (!), chỉ tìm “an phận thủ kỹ”
và tìm mọi cơ hội để chạy trốn ra nước ngoài! Nạn CHẢY MÁU XÁM của dân tộc Việt Nam chưa bao giờ trầm trọng như thời kỳ SAU THÁNG
TƯ ĐEN ở Miền Nam Việt Nam! Thực tế đau xót đó là một tổn thất lớn cho dân tộc Việt Nam trong công cuộc tái thiết, xây dựng và phát triển từ
30 năm qua!

THỨ HAI, là sự bất mãn của quần chúng nông dân vì chính sách tước đoạt quyền tư hữu ruộng vườn đã bao đời nay của họ, núp dưới chiêu
bài “hợp tác hóa nông nghiệp”; là sự bất mãn của giới tiểu thương, của những người buôn bán nhỏ, chạy hàng rong, vì chính sách “ngăn sông
cấm chợ”, đã triệt đường sinh sống của họ; là sự bất mãn của mấy trăm ngàn gia đình có chồng, em, con... đã bị bắt “tập trung cải tạo”, và gia
đình họ bị tống ra đường phố để kiếm sống bằng đủ thứ nghề, kể cả nghề hạ tiện nhất(!)

Những nông dân bỏ ruộng vườn chui vào thành phố để kiếm sống! Những tiểu thương, những người buôn bán nhỏ, chạy hàng rong... đã bị
ngăn sông cấm chợ, triệt đường mua bán, cũng chui vào thành phố tìm cách sinh nhai... Tất cả họ, cộng với những người bị chính sách cải tạo
đẩy ra kiếm sống trên đường phố... đã hình thành một ĐỘI QUÂN THẤT NGHIỆP THƯỜNG TRỰC!

Chính sự có mặt và ngày càng gia tăng của đội quân thất nghiệp này, làm cho xã hội Miền Nam vốn đang rối loạn càng thêm rối loạn, tệ nạn
xã hội đã nhiều càng nẩy sinh ngày càng nhiều, phức tạp đến mức báo động từ nông thôn đến thành thi, lên cả miền núi... Xã hội Miền Nam
trong những năm 1976-1979, giống như một bức hoành tráng như ngó không có sức sống, lại ảm đạm thê lương đến xót xa lòng người!

Có một nhà quan sát phương Tây đặt câu hỏi rằng: ”Người Việt Nam hôm nay lo âu và hy vọng những gì?" – Thực tế lịch sử, như đã diễn ra
trước mắt mọi người Việt, cho chúng ta trả lời rằng: ”Dân Việt lo âu trước tình trạng của một xã hội truyền thống đã và đang bị hủy hoại tận gốc
rễ, một xã hội bị tan rã trên mọi phương diện, mà trong xã hội gọi là XHCN đó họ đã bị tước đoạt những quyền căn bản của con người!”

Nhìn chung, sau “Đại Thắng Mùa Xuân” 1975 (như tựa đề cuốn sách của Đại tướng CS Văn Tiến Dũng), ĐCS Việt Nam đã không chiếm
được lòng dân Miền Nam, trái lại đã làm MẤT LÒNG DÂN MIỀN NAM! Đây là một THÁCH THỨC LỚN nẩy sinh từ các chính sách, chủ trương
sai lầm nghiêm trọng của ĐCS Việt Nam! Nếu không sớm sửa sai chắc chắn sẽ có những biến động bất ngờ về xã hội, dẫn đến sự bế tắc về
chính trị! Cho nên có một số nhà quan sát quôc tế đã nói không sai rằng: ”CS Việt Nam đã bị thất bại ngay sau khi chiến thắng!”

o0o

Đứng trươc những thách thức nặng nề đó, ĐCS Việt Nam sẽ phải đương đầu như thế nào?

Sau khi đã được ĐCS Liên Xô sẵn sàng yểm trợ cho ĐCS Việt Nam thực hiện cuộc chiến tranh thần tốc trên đất Campuchia, để tiêu diệt chế
độ Khờ Me Đỏ do tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary cầm đầu, dưới sự bảo trợ của Trung Cộng!

{Vào thời gian này, Trung Cộng đã có đến 5.000 cố vấn, chủ yếu là cố vấn quân sự, ở tại Campuchia, để giúp cho Khờ Me Đỏ. Đặng Tiểu
Bình đã hứa với Son Sen – Bộ trưởng Quốc phòng của chính quyền Khờ Me Đỏ – rằng: ”Trung Quốc sẽ không ngừng viện trợ tiền bạc và vũ khí
cho Campuchia, nếu Khờ Me Đỏ giữ vững lập trường chống CSVN” (Tân Hoa Xã, 10-1978)}.

ĐCS Việt Nam liền tiến hành ngay kế hoạch tấn công Campuchia một cách bất ngờ! Sở dĩ ĐCS Việt Nam ngông cuồng như vậy, là vì đàng
sau lưng của họ đã có sự yểm trợ mạnh mẽ của Liên Xô! Từ tháng 8-1978, Liên Xô đã mở đường Không Vận và Hải Vận, để chuyên chở vũ khí
và các phương tiện chiến tranh hiện đại, đến cảng Đà Nẵng, cung cấp cho quân đội CSVN, đặng tiến hành chiến tranh “Cứu nguy
Campuchia” (?!)

Trong cuộc HỘI NGHỊ ĐẶC BIỆT CỦA BỘ CHÍNH TRỊ trung ương ĐCS Việt Nam, vào đầu tháng 12-1978 tại Hànội, Tổng Bí Thư Đảng Lê
Duẩn đã nói một cách khẳng định rằng: ”Tiến hành cuộc chiến tranh ở ngoài biên giới của nước ta, cũng tức là chúng ta giải quyết những khó
khăn lớn, những thách thức gay go ở trong nước!” Kiểu lý luận ngông cuồng ấy của Lê Duẩn, đã một thời được các lý luận gia CS Việt Nam ca
ngợi đến tận chín tầng mây (?!) Chẳng hạn như, Đặng Xuân Kỳ – Giáo sư Viện trưởng Viện Marx—Lénine và Tư tưởng Hồ Chí Minh, đã ca
ngợi rằng: ”Đồng chí Lê Duẩn đã sớm được khẳng định là một nhà lãnh đạo ở tầm chiến lược luôn luôn vượt lên phía trước và đã trở thành một
nhà tư tưởng, nhà lý luận, một trí tuệ lớn của cách mạng Việt Nam.” (Xem bài “Một Tư Duy Sáng Tạo... “ của ĐẶNG Xuân Kỳ, trong cuốn “Lê
Duẩn Và Cách Mạng Việt Nam”, nhà Xb Chính Trị Quốc Gia, Hànội, 1997, trang 72).

Và ngay trong hội nghị đặc biệt này, Lê Duẩn đã chỉ đạo thành lập BỘ CHỈ HUY TỐI CAO của CHIẾN DỊCH TỔNG TẤN CÔNG
CAMPUCHIA!

file://C:\DOCUME~1\FRANCO~1\LOCALS~1\Temp\LARJ4WTO.htm 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Page 5 sur 7

Bộ chỉ huy tối cao (BCHTC) gồm có 5 nhân vật:

Lê Đức Tho, ủy viên BCT, Trưởng Ban Tổ chức TƯĐ kiêm Chỉ huy Trung Ương Tình Báo Việt Nam.

Phạm Hùng, Ủy viên BCT kiêm Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đặc trách Kinh Tế - Tài chánh.

Trần Xuân Bách, Ủy viên BCT, Trưởng Ban Đối ngoại của TƯĐ.

Chu Huy Mân, Ủy viên BCT, Thượng tướng Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị.

Lê Đức Anh, Ủy viên TƯĐ, Trung tướng Tổng Tham mưu trưởng.

Lê Đức Anh được cử làm Tư Lệnh “Quân Tình Nguyện Việt Nam” thi hành “nhiệm vụ quốc tế" trên đất nước Campuchia.

Song hành với cuộc hội nghị đặc biệt của BCT, ĐCS Việt Nam cũng cho ra đời một tổ chức chính trị, được gọi là “MẶT TRẬN CỨU NGUY
CAMPUCHIA” (MTCNC), và tổ chức lễ ra mắt MTCNC tại “khu giải phóng Snoul” (thuộc tỉnh Kratier, giáp giới với thị trấn Lộc Ninh - tỉnh Bình
Long, Việt Nam.) vào ngày 02/12/1978. Heng Samrin – một nhân vật góc Khờ Me Trà Vinh – đã được CSBV nuôi dưỡng và huấn luyện từ sau
1954, và bấy giờ được giao làm chủ tịch MTCNC, trước sự chưng kiến của Lê Đức Thọ.

Để dọn đường cho bộ binh tràn qua lãnh thổ Campuchia, tiến hành cuộc CHIẾN TRANH THẦN TỐC, giành chiến thắng hoàn toàn trong
vòng 10 đến 15 ngày! Bắt đầu từ đêm 24 rạng ngày 25/12/1978, không quân CSVN đã tiến hành nhiều phi vụ oanh tạc dữ dội, nhằm hủy diệt
các cứ điểm quan trọng của quân Khờ Me Đỏ, ở các tỉnh dọc biên giới Nam Việt Nam-Campuchia!

Sáng sớm ngày 01/01/1979, 100.000 “quân tình nguyện Việt Nam”, dưới quyền Tổng Chỉ Huy của Lê Đức Anh, đã ào ạt mở các cuộc tập
kích chớp nhoáng vào các tuyến phòng thủ biên giới của quân Khờ Me Đỏ! Chỉ trong ngày đầu của chiến dịch tấn công Campuchia, quân CSVN
đã phá vỡ tuyến phòng thủ biên giới của quân Khờ Me Đỏ, và tiến sâu vào lãnh thổ của Xứ Chùa Tháp... như “Đê Vỡ Nước Tràn”! Trong khi các
mũi tiến công của quân CSVN đang hình thành thế bao vây thủ đô Nam Vang, thì vào ngày 5/01/1979, ĐCS Việt Nam cho ra đời ĐẢNG NHÂN
DÂN CÁCH MẠNG CAMPUCHIA (ĐNDCMC) va tổ chức “HỘI ĐỒNG CÁCH MẠNG CAMPUCHIA” (HĐCMC),

Cuộc chiến tranh thần tốc của quân CSVN tiến hành tiêu diệt chính quyền Khờ Me Đỏ đã giành thắng lợi trong vòng một tuần lễ. Ngày
07/01/1979, “quân tình nguyện Việt Nam” đã chiếm được thủ đô Phnom Penh. Tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary đành phải mang tàn quân chạy về
biên giới Thái Lan (!) Ngay sau đó, ngày 08/01/1979, HĐCMC liền tuyên bố thành lập nhà nước CỘNG HÒA NHÂN DÂN CAMPUCHIA
(CHNDC), với thành phần lãnh đạo, do ĐCS Việt Nam bày bố, như sau:

1/- Heng Somrin (Chủ tịch),

2/- Chea Sim (Phó chủ tịch),

3/- Pen Sobham (Bộ trưởng Quốc phòng),

4/- Hun Sen (Bộ trưởng Ngoại giao),

5/- Keo Chanda (Bộ trưởng Tuyên truyèn), ø

6/- Nu Beng (Bộ trưởng Y tế)...

Từ nay, về công khai thì tập đoàn Heng Somrin – Hun Sen ra mặt lãnh đạo nhà nước “Cộng Hòa Nhân Dân Campuchia”, nhưng về bí mật
thì Đảng CS Việt Nam đã nắm quyền tối cao và chi phối hầu hết trên các lĩnh vực quân sự - chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội... dưới hình thức cố
vấn, chuyên gia!

[Ba tổ chức bí mật, có tầm quan trọng đặc biệt, của Đảng CS Việt Nam trên đất Campuchia là: A-40, A-50 và B-68. A-40 là một tổ chức bao
gồm những chuyên viên cao cấp về chính trị của ĐCS Việt Nam, có trách nhiệm cố vấn cho BCT và TƯ Đảng NDCMC! A-50 là một tổ chức gồm
những chuyên viên Trung cấp, chuyên về cố vấn tổ chức chánh quyền cấp tỉnh, huyện, cho nhà nước non trẻ Campuchia. B-68 là tổ chức bao
gồm các chuyên viên cao cấp trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, làm cố vấn cho các Bộ của nhà nước CHNDC.}

Chiến thắng thần tốc về quân sự cùng với thắng lợi về chính trị của ĐCS Việt Nam trên đất Campuchia, đã làm cho Trung Cộng thật sự nổi
giận! Ngày 31/01/1979, Đặng Tiểu Bình – Tổng Bí Thư ĐCS Trung quốc - tuyên bố tại Bắc Kinh rằng: ”Cộng sản Việt Nam phải bị trừng phạt
đích đáng!” Và đến ngày 07/02/1979, trên đường công du Hoa Kỳ trở về nước, ghé qua Tokyo (Thủ đô Nhật), họ Đặng lại tuyên bố: ”Phải dạy
cho Việt Nam một bài học”! Chiến tranh Trung-Việt sắp bùng nổ sau lời tuyên bố “nộ khí xung thiên” đó của Đặng Tiểu Bình! Tha hồ để cho các
nhà báo Đông-Tây bình luận: ”CS Việt Nam làm sao có thể tồn tại trước sức mạnh của Trung Cộng, nếu không có sự hỗ trợ của Liên Xô?”

Khi đã về đến Bắc Kinh (09/02/1979), Đặng Tiểu Bình liền triệu tập “Hội Nghị Quân Ủy Trung Ương ĐCSTQ”, thảo luận và quyết định KẾ
HOẠCH TẤN CÔNG VIỆT NAM! Một tuần lễ sau, tình báo Việt Nam mới nhận được tin về cuộc hội nghị trên, nên BCT Trung ương ĐCSVN phải
họp cấp tốc, vào ngày 15-2-1979, để bàn KẾ HOẠCH ĐỐI PHÓ cuộc tấn công của Trung Cộng! Trong kế hoạch phòng ngự này, BCT Trung
ương ĐCSViệt Nam có tính đến khả năng xấu nhất là: “Nếu Trung Cộng chiếm được Hànội, thì Trung Ương Đảng và Chánh phủ phải dời vô
Sàigòn, xây dựng Miền Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào, thành căn cứ địa để tiến hành cuộc kháng chiến chống Trung Cộng lâu dài...“ (Theo tiết lộ
của Nguyễn Hồ, chánh văn phòng Thành ủy TP HCM vào thời kỳ 1976-1982 – Chính Nguyễn Hồ đã được Nguyễn Văn Linh giao cho trách
nhiệm lo cơ sở trú đóng của Trung Ương Đảng và Chánh Phủ, một khi có cuộc sơ tán thê thảm đó.)

Ngày 17-2-1979, Trung Cộng xua 100.000 quân có thiết giáp xa yểm trợ, hùng hổ tràn qua 26 chốt-điểm trên toàn tuyến biên giới Việt-Hoa,
tấn công đồng loạt vào các thị xã, thị trấn Cao Bằng, Đông Khê, Lào Cai, Mông Cái và Lạng Sơn...

Cuộc CHIẾN TRANH HOA-VIỆT bùng nổ đã gây nên sự kinh ngạc cho cả thế giới!

Nhiều chuyên gia bình luận về chiến tranh, từ phương Đông đến phương Tây, đều suy luận một cách không chắc chắn rằng: ”Liệu Trung
Cộng có thắng CS Việt Nam một cách dễ dàng như lời tuyên bố của họ Đặng hay không?”

Cuộc chiến tranh “không quy ước” này, giữa hai Đảng CS vốn là “anh em, đồng chí, môi hở răng lạnh”, đã diễn ra một cách chớp nhóang và
một sự hủy diệt tàn bạo đối với con người lẫn tài vật! Nhưng nó cũng đã kết thúc trong một thời gian ngắn ngủi đến không ngờ! Có một phóng
viên chiến tranh người Anh đã than phiền rằng: ”Tôi vừa bay sang Việt Nam để viết phóng sự về “cuộc chiến tranh huynh đệ Cộng Sản Quốc Tế
tương tàn” có một không hai trong thời đại ngày nay... Nhưng buồn thay, nó đã kết thúc ngay lúc tôi đang trên đường bay đến Việt
Nam!” (Reuters, 6-3-1979)

Thật vậy, cuộc chiến tranh Hoa-Việt chỉ kéo dài có 17 ngày – từ ngày 17 tháng 2 đến ngày 5 tháng 3 năm 1979! Tuần lễ đầu của cuộc chiến,
quân Trung Cộng tấn công như vũ bão, đánh chiếm và hủy diệt không thương tiếc tài sản cùng con người trong 6 tỉnh thuộc vùng biên giới phía
Bắc! Quân đội Nhân dân của CSVN tạm thời rút lui trong thế phòng ngự, và cố tình yếu thế nhằm tạo nên sự “chủ quan khinh địch”cho quân
Trung Cộng! Theo tin tức từ chiến trường Bắc Việt Nam đưa về Bắc Kinh, thì quân Trung Cộng sắp sửa tiến chiếm Hànội (?). Nhưng hoàn toàn
bất ngờ đối với Trung Cộng! Giữa đêm 24-3-1979, quân đội CSVN đã phản công một cách mãnh liệt trên khắp mặt trận – Ở đâu có quân Trung
Cộng là ở đó có sự phản công của quân đội CSVN! Kinh hoàng nhất đối với quân Trung Cộng là bị hủy diệt tập thể (hàng trăm người trong một
lúc) do bởi những “cây súng phóng lựu” (Tromblon VB) phóng những trái lựu có gắn đầu đạn hạt nhân, của quân đội CSVN! (Theo tiết lộ của
Đại tá Quân Báo Hoàng Giang – một sĩ quan đã tham gia cuộc phản công quân Trung Cộng ở mặt trận Lạng Sơn. Ông Hoàng Giang không tiết
lộ xuất xứ của vũ khí?)

Vì nguyên nhân thảm khốc đó, và với con số thiệt hại quá nặng nề – gần 70.000 quân bị loại ra khỏi vòng chiến đấu – nên đám tàn quân của
Trung Cộng buộc lòng phải rút chạy trở về nước, đúng vào ngày 5-3-1979 (!)

{Trong khi cuộc chiến tranh Hoa-Việt đang diễn biến trên chiến trường rất ác liệt, các nhà quan sát quốc tế đều nghiêng về sức mạnh của
quân Trung Cộng; thì vào ngày 1-3-1979, các nước Tây phương đồng loạt tuyên bố “cấm vận và phong tỏa ngoại giao của nước CHXHCNVN
cho đến khi nào Việt Nam rút quân ra khỏi Campuchia!” (VOA News, 2-3-1979). Đây là một đòn Kinh tế - Chính trị khá nặng đối với CSVN! Do
đó, họ đã hằn hộc tố cáo rằng: ”Đế quốc Mỹ cùng với các thế lực đế quốc khác thực hiện bao vây, cấm vận, ra sức cản trở công cuộc xây dựng
hòa bình của nhân dân ta.” (LSĐCSVN, đã dẫn, trang 153)... }

Về phía Cộng Sản Việt Nam, tuy đã giành được chiến thắng vô cùng oanh liệt trong lịch sử chiến tranh đối với quân xâm lăng phương Bắc
(từ thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh đến Trung Cộng), nhưng cũng bị thiệt hại rất nặng về người và tài sản – Hơn 60.000 binh sĩ cùng nhân dân
đã chết và bị thương! Sáu tỉnh biên giới phía Bắc đã bị thiêu hủy đến 95% tài sản của quốc gia và của nhân dân, trở nên hoang tàn, đổ nát... mà

file://C:\DOCUME~1\FRANCO~1\LOCALS~1\Temp\LARJ4WTO.htm 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Page 6 sur 7

không có cuộc chiến tranh nào trước đây đã tàn phá đến như thế (!?). Quân Trung Cộng cũng đã dời hơn 100 cột mốc biên giới vào sâu trong
lãnh thổ Việt Nam, trên tuyến biên giới dài 1.350 km, để hợp thức hóa việc chiếm đất biên giới về mặt pháp lý! Chúng chiếm luôn một số vùng
đất biên giới của Việt Nam, mặc nhiên biến thành đất của Trung Cộng, điển hình như BẢN GIỐC, thuộc xã Đạm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh
Cao Bằng...

Những “ thách thức từ bên ngoài” tuy tạm thời đã giải quyết bằng vũ lực đối với Trung Cộng - Khờ Me Đỏ, nhưng lại nẩy sinh việc “cấm vận"
và “phong tỏa ngoại giao” của các nước Tây phương! Những “Thách Thức Từ Bên Trong” vẫn còn nguyên và càng phát triển theo chiều hướng
ngày càng xấu hơn, chưa có cách nào giải quyết ổn thỏa, thì mâu thuẫn trong nội bộ ĐCS Việt Nam lại bộc phát như “cái ung nhọt đã vỡ mủ”
vậy!

Tình hình mâu thuẫn giữa phe THÂN TRUNG CỘNG (đại diện là Hoàng Văn Hoan, Chu Văn Tấn...) với phe THÂN LIÊN XÔ (đại diện là Lê
Duẩn, Lê Đức Tho...) vốn đã ngấm ngầm từ lâu, và bắt đầu căng thẳng từ sau khi Hồ Chí Minh qua đời (2-9-1969). Đến khi cuộc chiến tranh
Hoa-Việt bùng nổ, thì phe thân Liên Xô ra mật thanh trừng phe thân Trung Cộng! Vì vậy, ngày 11-6-1979; Hoàng Văn Hoan – Ũy viên Trung
Ương Đảng (đã bị tống ra khỏi BCT), Phó chủ tịch Quốc hội – nhân chuyến đi “chữa bệnh“ ở Đông Đức, đã chuồn sang tị nạn ở Trung Quốc.
Sau đó, tập đoàn Lê Duẩn-Lê Đức Thọ cho lập Tòa án công khai, xử tử hình Hoàng Văn Hoan (vắng mặt!)

Không thể để cho tình trạng MẤT LÒNG DÂN MIỀN NAM kéo dài, sẽ có lợi cho “các thế lực chống đối ở trong nước” có cơ hội liên kết với
“các thế lực thù địch ở ngoài nước”, có thể tạo nên nguy cơ cho sự tồn tại của chế độ CHXHCNVN. Bởi thế, BCT Trung Ương Đảng CSVN mới
triệu tập Hội Nghị lần thứ 6 của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN khóa IV, vào ngày 21-9-1979, để xem xét quyết định sửa sai như thế
nào, đối với công cuộc HTHNN và chính sách “Ngăn Sông Cấm Chợ” ở Miền Nam Việt Nam.

Hội nghị này đã quyết định “cải thiện phân phối lưu thông, nới lỏng các biện pháp trói buộc kinh tế tư nhân” (nghị quyết số 10), Căn cứ vào
đó, Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Phạm Văn Đồng đã ký quyết định, ra lệnh “giải tán các trạm kiểm soát trên những trục lộ giao thông trên toàn
quốc”. Mặt khác, Hội nghị 6 cũng quyết định “bãi bỏ chế độ khoán theo công điểm trong nông nghiệp (theo công thức của chế độ XHCN Miền
Bắc), và thực hiện chế độ “khoán họ.”- theo nghĩa “căn cứ vào sản lượng căn bản được tính trên diện tích ruộng giao cho mỗi hộ nông dân sản
xuất.” (Nghị quyết số 100). Tuy việc sửa sai của ĐCS Việt Nam chưa được triệt để, nhưng cũng cải thiện được phần nào khó khăn, đẵc biệt
trong sản xuất nông nghiệp! (từ sản lượng 9.7 triệu tấn năm 1978, đã lên 11.3 triệu tấn năm 1979, và 11.6 triệu tán năm 1980.- Theo con số
“Thống Kê Nông Nghiệp” trong những năm 1978-1980, của TCTKVN, Hànội)

Một QUỐC NẠN làm cho Đảng và Chánh phủ CSVN phải đương đầu với LƯƠNG TÂM NHÂN LOẠI, và bị cô lập trên trường quốc tế, là vấn
đề “Hành Hạ Những Người Của Chế Độ Cũ, Và Đẩy Nhiều Người Dân Lương Thiện Bỏ Nước Ra Đi!”

Nếu hồi 1954-1955, hơn nửa triệu dân Miền Bắc phải chạy bỏ xứ vào Nam, để “tị nạn Cộng sản”, được một số văn nghệ sĩ diễn tả như là
NỖI ĐAU XA QUÊ CHA ĐẤT TỔ, nhưng dù sao vẫn là TỊ NẠN NGAY TRÊN TỔ QUỐC MÌNH, SỐNG NGAY TRONG LÒNG DÂN TỘC MÌNH!

Còn CUỘC ĐÀO TỊ CHẠY RA NƯỚC NGOÀI của hàng triệu người Miền Nam Việt Nam, kể từ ngày 30-4-1975 trở đi... là NỖI BI THẢM CỦA
NHỮNG CON NGƯỜI VONG QUỐC, BỊ BỨNG RA KHỎI CÁI GỐC CỦA DÂN TỘC MÌNH!

Trong nửa cuốiTháng Tư Đen 1975, đã có 130.507 người DI TẢN - theo đường hàng không (57.507 ngươi), hoặc bằng đường hàng hải
(73.000 người) – do Hoa kỳ vận chuyển. Tất cả đều được đưa đến đảo Guam và Wake, sau khi được kiểm tra ở Phi Luật Tân. Sau đó, họ đã
được Chánh phủ Hoa Kỳ cho nhập cư vào nội địa nước Mỹ, để rồi phân tán đi cư trú ở một số nước, như sau: 52.000 người sang Pháp, 7.000
người đến Canada, 2.700 người đi Úc Đại Lợi, 1,400 người về Mã Lai, 890 người qua Tây Đức, 880 người định cư ở Bỉ, và 62.637 người ở tại
Hoa kỳ. (Theo thống kê của Sở Di Trú (INS) Hoa kỳ năm 1975). Đây là đợt di tản, tuy cũng vất vả, nhưng được xem là may mắn nhất!

Sau đợt di tản trong tháng tư 1975, các cuộc VƯỢT BIÊN ĐÀO THOÁT CỘNG SẢN, TÌM ĐƯỜNG LƯU VONG Ở XỨ LẠ QUÊ NGƯỜI, là
một trang sử di tản vô cùng bi thảm của dân tộc Việt Nam trong thời hiện đại!

Trong giai đoạn 1975-1979, ngoài cuộc di tản tập trung do Hoa Kỳ vận chuyển (đã nói ở trên), những người vượt biên gặp phải sự khó khăn
trăm bề! Nhưng nỗi bi thảm nhất của những người Việt vượt biển là KHÔNG ĐI ĐẾN BẾN BỜ TỰ DO!

Từ sau 30 tháng Tư năm 1975 đến cuối năm 1979, đã có biết bao nhiêu người Việt vượt biển, đã chôn xác dưới đáy đại dương vì cảnh chìm
tàu, bỏ xác trên các hoang đảo do bọn hải tặc (Thái Lan) bắt, cướp của, giết (đàn ông) và hãm hiếp (đàn bà) một cách dã man! Chưa có tài liệu
thống kê nào cho chúng ta một con số thật chính xác, về bao nhiêu người Việt vượt biển, đã chết trong tình cảnh thảm thương như thế! Qua
việc điều tra và tìm hiểu từ những đợt người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới, trong thời gian gần 5 năm này, những người Việt xấu số đã ra đi
nhưng không đến được bến bờ Tự Do, có thể chiếm đến 50% so với tổng so người Việt đã vượt biển. Con số đó có thể lên đến gần nửa Triệu
người (?) Bởi vì theo số liệu trong cuốn “THE BOAT PEOPLE” của nhà nghiên cứu Bruce Grant thì tổng số người Việt vượt biển – mà ông gọi
la “Thuyền Nhân” – đã được cứu vớt, tính đến tháng 7-1979, là 426.076 người! Cụ thể như sau: Năm 1975 cứu vớt được 377 người, năm 1976
cứu vớt được 5.619 người, năm 1977 cứu vớt được 21.276 người, năm 1978 cứu vớt được 106.489 người, và năm 1979 cứu vớt dược
292.315 người! (Sách đã dẫn, nhà xuất bản Penguin Book, New York, 1979).

{Năm 1979 cũng là năm cao điểm vượt biên – đường biển và đường bộ – Trên đường bộ, vượt biên giời qua Campuchia, rồi vượt biên giới
qua Thái Lan (Cũng có một số ít người vượt biên giới qua Lào rồi sang Thái Lan). Vượt biên theo đường bộ, tuy thê thảm không bằng Vượt
Biển, nhưng cũng gặp nhiều gian khổ, cam go, có nhiều trường hợp đã bị lừa gạt, bị cướp và bị giết! Theo con số thống kê của Cao Ủy Tị Nạn
Liên Hiệp Quốc (HCR), thì tính đến tháng 10-1980, đã có gần 200.000 người Việt vượt biên (đường bộ) đang sống trong 13 trại tị nạn trên đất
Thái Lan.}

T ình cảnh bi đát, vô cùng thê thảm của hàng triệu người Việt ở Miền Nam Việt Nam, liều chết để đào thoát ra khỏi chế độ CSVN tàn bạo, đã
đánh động Lương Tâm Thế Giới. Vì vậy,ngày 20-7-1979, HCR đã triệu tập một HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ THUYỀN NHÂN VIỆT NAM, tại
Genève với sự tham dự của 60 quốc gia.

Trong khi đó, chính quyền CSVN không hề thấy trách nhiệm của họ đối với Quốc Nạn này, ngược lại càng gia tăng khủng bố những người
vượt biên “bất hợp pháp”, song hành với việc tổ chức vượt biển thu vàng, càng thúc đẩy những người Việt tìm cách vượt biển ngày càng đông
theo cấp số nhân! Dã man và độc ác nhất là các chính quyền của Mã Lai, Thái Lan, Tân Gia Ba, trong thời điểm lịch sử này, đã dùng bạo lực
xua đuổi và kéo thuyền của người Việt tị nạn ra Khơi (khi thuyền người Việt tị nạn vừa vượt qua muôn trùng sóng gió mới đến được bến bờ của
nước họ),để cho bao nhiêu người Việt vượt biển phải làm mồi cho cá mập và cho bọn hải tặc Thái Lan (!)

Thảm cảnh quá đau thương và đầy khóc hận của “Thuyền Nhân Việt Nam”, là nguyên nhân trực tiếp đưa đến cuộc biểu tình rầm rộ của
12.000 người Mỹ do nữ ca sỉ phản chiến Joan Baez dẫn đầu, vào cuối tháng 7-1979. Đoàn biểu tình đã đốt nến, đi bộ tới Tòa Bạch ốc “yêu cầu
Tổng thống Carter phải ra lệnh cứu vớt người Việt vượt biển, đồng thời công bố một kháng thư tố cáo tội ác của chính quyền CSVN cho đăng
trên báo New York Times.” Nhờ có cuộc biểu tình đó, Tổng thống Carter mới ra lệnh cho tất cả các tàu quân sự và dân sự của Hoa kỳ, hoạt
động ngoài Khơi lãnh hải Việt Nam và trong vùng Thái Bình Dương, phải có trách nhiệm cứu vớt “Thuyền Nhân Việt Nam”!

CỨU VỚT THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ TRỞ THÀNH MỘT TƯ TRÀO LƯƠNG TÂM QUỐC TẾ!

Và sau Hội Nghị Quốc Tế Về Thuyền Nhân Việt Nam, nó được khởi đầu bởi cuộc biểu tình của hơn một vạn người Mỹ do Joan Baez dẫn
đầu, và hành động vận động quốc tế mua tàu để “đến Mã Lai cứu giúp người Việt tị nạn trên biển Đông”, của nhà triết học Jean Paul Sartre, của
các tài tử danh tiếng Pháp như Brigitte Bardot, Yves Montabt, Simone Signoret... và Vladimir Bukovsky (nhân vật Liên Xô ly khai).

Dân tộc Việt Nam, trong lịch sử đau thương của Tổ quốc mình, sau Tháng Tư Đen, không bao giờ quên tấm thảm kịch quá bi thương của
hàng triệu người Việt đào thoát chế độ Cộng Sản, vượt biên tìm con đường sống ở xứ người!

Còn tiếp...

Lê Tùng Minh

In bài này
l Cựu đề mục
l BẢN CÁO TRẠNG ĐANH THÉP VỀ CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN VIỆT NAM QUA BÚT KÝ “TÔI PHẢI SỐNG” CỦA LINH MỤC NGUYỄN
HỮU LỄ (8/22/2006)
l Cơm Với Cá Như Mạ Với Con (8/22/2006)
l Trong Thâm Cung Đảng Cộng Sản Việt Nam: Khi Vụ Án Chính Trị Siêu Nghiêm Trọng Hé Mở… (8/22/2006)
l Mùa Xuân Vô Tận (8/22/2006)
l MÙA XUÂN TRONG THƠ ĐƯỜNG - VIỆT (8/22/2006)
l Nghị Quyết Số 36/NQ-TW Ngày 26/3/2004 Của Cộng Sản Việt Nam Về Người Việt Hải Ngoại (8/22/2006)
l Những Điều Ghê Gớm Đến Từ Các Gói Nhỏ (8/22/2006)

file://C:\DOCUME~1\FRANCO~1\LOCALS~1\Temp\LARJ4WTO.htm 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Page 7 sur 7

l Quan Điểm Về Một Số Vấn Đề Chính trị Và Văn Hóa Việt Nam: Lời Mở Đầu (8/22/2006)
l Thư Của Ông Võ Nguyên Giáp Gửi Ban Chấp Hành Trung Ương, Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư và Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương
Đảng CSVN (8/22/2006)
l Tân đề mục
l Vì Thiếu Khoan Dung Đối Với Do Thái Nên Một Số Nước Ả Rập Tại Trung Đông Đã Tự Hại Mình (8/22/2006)
l XUÂN VŨ: CÂY BÚT LỚN TRUI RÈN VỚI KINH NGHIỆM SỐNG (8/22/2006)
l Thơ: LỤC BÁT TÌNH QUÊ (8/22/2006)
l Thơ: HÀO KHÍ TÂY NGUYÊN - XIN RỬA QUỐC HỜN - VIỆT NAM, TRANG SỬ OAI HÙNG - SỐNG LẠI NIỀM TIN - (8/22/2006)
l Thơ: Linh Mục - Muối (8/22/2006)
l Thơ: ĐÁNG TIẾC - HÃY XIN LÀ GIỌT NƯỚC TRÀN - BÁC VẪN CÒN...TRINH! - NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG CSVN (8/22/2006)

Số báo khác: Số 39

Copyright(c) 2006 by daiviet.org | »» Liên lạc»» | »» Trang nhà»» | »» Giới thiệu»»

file://C:\DOCUME~1\FRANCO~1\LOCALS~1\Temp\LARJ4WTO.htm 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com

You might also like