You are on page 1of 9

Đại Việt-daiviet.

org Page 1 sur 9

»» Trang nhà »» Giới thiệu »» Liên lạc

ĐẠI VIỆT CÁCH MẠNG ĐẢNG


Nhân bản - Dân chủ - Thịnh vượng
Tạp chí cách mạng Tìm
Tìm kiếm: i Bài viết n
j
k
l
m
n j Tạp chí
k
l
m
Ban biên tập

Các số báo

Tài liệu tham khảo

Việt Nam
(Chiến tranh, Chính trị)

Lịch sử Việt Nam

Thế giới

Nhân quyền

Đảng sử

Giai đoạn

Tin tức thời sự

Tin Việt Nam

VIỆT NAM SAU THÁNG TƯ ĐEN (Sự Phán Xét


Tin Thế giới

Văn hóa nghệ thuật

Văn
Của Lịch Sử)
Thơ

Tranh ảnh Lê Tùng Minh 8/18/2006

Quốc ca, Đảng ca

Ý kiến bạn đọc (tiếp theo)

POW/MIA IV.- Giai đoạn 1991-1996


Links
Giai đoạn 1991-1996, theo như Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII (6-1991) của Đảng CSVN, là giai đoạn thực hiện
Báo Chí Việt “Cương lĩnh va Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội?", “ tiến hành công cuộc đổi mới sâu rộng và đồng bộ.” (Theo Văn Kiện hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Báo cáo Chính tri, trang 3).
Báo Chí Ngoại Quốc

Internet Radio Đồng thời, Đại hội VII cũng đề ra mục tiêu tổng quát cho 5 năm 1991-1995 là: “vượt qua khó khăn, thử thách, ổn
định và phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ
Hội Đoàn
bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng.”(Xem Văn kiện Đại Hội VIII, nhà xb Chính trị Quốc gia, Hànội 1996, trang 58).
Diễn Đàn
Vậy, thực tế BCHTƯ Đảng khóa VII có thực hiện được Cương lĩnh-Chiến lược và Mục tiêu đã đề ra, trở thành
Liên lạc
quyết nghị của Đại hội VII hay không? Sau đây, sự thật lịch sử sẽ công minh phán xét!
Webmaster: Đan Phượng

Số người truy cập:

o0o

Đầu năm 1991, đứng trước tình hình sụp đổ của cả hệ thống XHCN Đông Âu, và sự tan rã toàn diện trông thấy
của Liên Xô, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CS Việt Nam khóa VI quyết định triệu tập Đại Hội Đại Biểu Toàn
Quốc Lần Thứ VII (24 đến 27-6-1991). Nhưng, để tránh sự hoang mang chính trị cho toàn Đảng, tập đoàn lãnh đạo
tối cao của Đảng CSVN chỉ nêu lý do khủng hoảng kinh tế, rằng: “Cuộc khủng hoảng nảy sinh từ cuối thập kỷ 70,
đầu thập kỷ 80, kéo dài suốt mười mấy năm liền, gay gắt nhất là những năm 1986-1988 khi lạm phát lên tới mức phi
mã, ở thời điểm năm 1991 lại thêm một lần thử thách hiểm nghèo!”(Văn kiện đã dẫn như trên, trang 6). Rõ ràng,
trong nội dung của đoạn văn trên, đã công khai chê trách sự lãnh đạo kém cỏi trên lĩnh vực kinh tế của Nguyễn Văn
Linh! Và từ hậu quả đó, lẽ tất nhiên phải thay thế người có tài hơn Nguyễn Văn Linh để đưa đất nước ra khỏi “thử
thách hiểm nghèo” (!?) Tuy nhiên, thực tế lịch sử đã vạch trần sự thật về viêc tranh chấp quyền lãnh đạo quốc
gia giữa phe nhóm Đỗ Mười và phe nhóm Nguyễn Văn Linh!

Sóng gió bất thường đã nổi lên trước khi Đại Hội VII họp! Nhưng, đối tượng bị công kích không phả là Nguyễn
Văn Linh hay Đỗ Mười, mà nạn nhân lại là Đại tướng Võ Nguyên Giáp và những tướng tá thân cận ông!

Đó là vào giữa tháng 5-1991, tại câu lạc bộ Ba Đình, bên cạnh lăng Hồ Chí Minh, người ta thấy xuất hiện tập tài
liệu đánh máy dày 11 trang, đánh số công văn 541, với tiêu đề “Tình Hình Hoạt Động Bè Phái Trong Đảng” (Báo
cáo của Bộ Chính Tri tại hội nghị Trung ương 12 khóa VI). Nội dung của tài liệu này là: Kể tội “nhóm cơ hội” đã móc
nối với đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhằm tiến hành âm mưu sách động quần chúng, bao gồm công nhân, sinh viên,
cựu chiến binh, để xuống đường, biểu tình, đưa yêu sách “thay đổi nhân sự lãnh đạo tối cao của Đảng, Nhà nước
và Quân đội”, đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên làm Tổng Bí Thư, Thượng tướng Trần Văn Trà làm Bộ trưởng
Quốc phòng... Đặc biệt “nhóm cơ hội” này còn có “âm mưu tổ chức ám sát Đại tướng Lê Đức Anh” (?) Cùng thời
gian với sự xuất hiện tập tài liệu quái dị này, còn có “Vụ Sáu Sứ” làm đảo điên lòng người nữa!

Sáu Sứ là một phụ nữ Miền Nam, có nhan sắc dễ quyến rũ đấng mày râu, đã được một “nhân vật bí mật” cung
cấp tiền, xe, và chỉ đạo cho ả đi từ Sàigòn ra Hànội, thực hiện “mỹ nhân kế” đối với tướng Giáp, tướng Trà... rồi lén
ghi âm tất cả những mẩu chuyện “tình chính trị”. Và cô ả đã ghi âm được đến 16 tape để làm bằng chứng, giao nộp
cho Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng, nhằm tố giác "tội hũ hóa” của các ông tướng đó (!)

Theo Thưông tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên Phó Chủ nhiệm kiêm Bí thư Đảng ủy Tổng cục Chính Trị của
QĐNDVN, thì “Vụ này Cục 2 đã ngụy tạo tài liệu, dựng chứng cứ giả, nặn thêm tình tiết, làm cho dư luận ngộ nhận
là có thật, đánh lừa Bộ chính trị, Ban bí thư, Ban chấp hành trung ương, thực chất là vu khống đồng chí Võ Nguyên
Giáp, đồng chí Trần Văn Trà, để thanh trừng nội bộ, hãm hại đồng chí.” (Thư tố cáo của tướng Nguyễn Nam
Khánh, gửi cho cá nhân và các cơ quan thẩm quyền tối cao của trung ương Đảng CSVN, Hànội ngày 17/6/2004)

Đây là một Nghi Án Chính Trị vô cùng phức tạp, có một không hai trong lịch sử thanh trừng nội bộ của Đảng
CSVN từ năm mới thành lập đến nay (1930-1991). Một Nghi Án mà mãi đến 14 năm sau (1991-2004) mới bùng nổ,
và mới dám công khai tố cáo, bắt đầu từ bức thư ngày 3 tháng 1 năm 2004 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi cho
Ban Chấp Hành Trung Ương, Tổng Bí Thư, Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư và Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương Đảng. Từ
trong bức thư này, nhân vật bí mật chỉ đạo những việc làm mờ ám nói trên, vẫn chưa được nêu đích danh, mặc dù

http://www.daiviet.org/dvc2.asp?action=vdt&mdn=194&chude_id=47 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đại Việt-daiviet.org Page 2 sur 9

tướng Giáp có ám chỉ “người đứng đầu Tổng Cục II thuộc Bộ Quốc Phòng”(?) Mãi đến tháng 7-2004, với bức thư
của tướng Nguyễn Nam Khánh thì nhân vật bí mật mới được đưa ra ánh sáng- Nhân vật đó là Lê Đức Anh. Vậy, lai
lịch của Lê Đức Anh, sự thật là thế nào, ngoài những điều đã nói về nhân vật này ở những năm 1975-1990? Vai trò
của Lê Đức Anh trong giai đoạn lịch sử 1991-1996 sẽ ra sao? Chúng tôi sẽ lý giải các nghi vấn trên đây ở đoạn tiếp
sau Đại Hội VII.

Theo một nguồn tin nội bộ của phe nhóm Đỗ Mười tiết lộ cho biết: “Đỗ Mười đã được sự ủng hộ của Giang
Trạch Dân – Tổng Bí thư Đảng CSTQ.” Chính vì thế, cho nên trong Đại hội VII, một trong những quyết nghị quan
trọng được thông qua là: “Thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, từng bước mở rộng sự hợp
tác Việt-Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng.”(Xem Báo Cáo Chính Trị
đọc tại Đại hội VII, ngày 24-6-1991). Điều này đã chứng tỏ sự hạ giọng, uốn mình của Đảng CSVN trước thế mạnh
của Trung Cộng, cho dù trước đó, ngày 27-3-1991, Ngoại trưởng Trung quốc Tiền Kỳ Tham đã tuyên bố khẳng
định: “Quần đảo Nam Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung quốc, đó là điều rất rõ
ràng!”(Theo Tân Hoa xã, 28-3-1991); và Trung Cộng vẫn đang ra mặt yểm trợ Hoàng Văn Hoan xây dựng “lực
lượng áo đen” để tiến hành lật đổ Đảng CSVN! Sự thật này, đã cho thấy tính hai mặt của Trung Cộng đối với Đảng
CSVN!

Đại hội VII của Đảng CSVN đã xác lập quyền lực của tập đoàn Đỗ Mười-Lê Đức Anh, qua cuộc thanh trừng
phe nhóm không cùng khuynh hướng trong BCH trung ương khóa VI. Kết quả cụ thể như sau:

Có 20 Ủy viên Trung Ương Dảng khóa VI (trong số 124 Ủy viên) thuộc phe nhóm Nguyễn Văn Linh, đã bị loại ra
khỏi BCHTƯ Đảng khóa VII (1991-1996). Nguyễn Văn Linh cũng mất chức Tổng Bí Thư! Thay vào đó, có đến 42
Ủy viên mới được bổ sung vào BCHTƯ Đảng khóa VII, mà đa số là những Bí thư tỉnh ủy, Bí thư thành ủy và các
cán bộ phụ trách những cơ quan nghiên cứu, mà đa số là do phe nhóm Đỗ Mười đưa vào. Như vậy, tongå số Ủy
Viên BCH trung ương khóa VII là 146 người.

Đặc biệt có sự thay đổi lớn trong Bộ Chính Trị. Cụ thể như sau: Trong số 12 Ủy viên BCT khoá VI (không kể
Trần Xuân Bách đã Bị loại ra từ giữa năm 1990), đã có 6 người bị loại ra. Đó là các ông: Nguyễn Văn Linh (Tổng Bí
Thư khóa VI), Võ Chí Công (nguyên Chủ tịch nước), Mai Chí Thọ (nguyên Bộ trưởng Nội vụ), Nguyễn Đức Tâm
(nguyên Trưởng Ban tổ chức Trung ương), Nguyễn Cơ Thạch (nguyên Bộ trưởng Ngoại giao), và Nguyễn Thanh
Bình (nguyên thường trực Ban bí thư). Số 6 Ủy viên Bộ Chính Trị khóa VI còn lưu lại trong BCT khóa VII là: Đỗ
Mười (nguyên Thủ tướng Chính phủ), Lê Đức Anh (Đại tướng, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng), Võ Văn Kiệt
(nguyên Phó thủ tướng chính phủ), Phan Văn Khải (nguyên Chủ nhiệm Ủy Ban Kế hoạch Nhà nước), Phạm Thế
Duyệt (nguyên Bí thư thành ủy Hànội) và Võ Trần Chí (nguyên Bí thư thành ủy thành phố HCM). Có 7 ủy viên Ban
chấp hành Trung ương khóa VI, theo khuynh hướng ủng hộ Đỗ Mười đã được đưa vào BCT khóa VII là: Đào Duy
Tùng (nguyên Trưởng Ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương), Đoàn Khuê (Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ
quốc phòng, kiêm Tổng Tham mưu trưởng, Vũ Oanh (nguyên Trưởng Ban Dân vận trung ương), Lê Phước Thọ
(nguyên Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương), Bùi Thiện Ngộ (Đại tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ), Nông
Đức Mạnh (nguyên Trưởng Ban Dân tộc trung ương) và Nguyễn Đức Bình (nguyên Giám đốc Học viện Nguyễn Ái
quốc).

Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí Thư BCHTƯ Đảng khóa VII vào ngày 27-6-1991, thì ngay ngày hôm đó, đã
nhận bức điện chào mừng của Giang Trạch Dân, rằng: “Nhân dịp đồng chí được bầu làm Tổng Bí Thư BCHTƯ
Đảng Cộng Sản Việt Nam, tôi xin gửi tới đồng chí lời chúc mừng chân thành. Chúc đồng chí thu được nhiều thành
tựu trên cương vị lãnh đạo quan trọng...”(Báo Nhân Dân, Hànội, ngày 28-6-1991)

Đỗ Mười có lai lịch chính trị như thế nào?

Đỗ Mười sinh vào năm 1917 tại Hànội, xuất thân trong một gia đình lao động, chỉ học hết bậc tiểu học, rồi đi làm
thợ sơn để sinh sống. Năm 1936, tham gia Mặt Trận Bình Dân. Năm 1940, gia nhập Đảng CSĐD và tham gia khởi
nghĩa, nên đã bị Pháp bắt giam tại nhà ngục Hỏa Lò (Hànội). Đến tháng 3-1945, được quân Nhật thả ra. Tháng 8-
1945, được Đảng cử làm Bí thư Tỉh ủy Hà Đông. Sau 1954, Đỗ Mười được đưa vào hàng ngũ Ủy viên Trung ương
dự khuyết và làm Trưởng Ban tiếp quản Hải phòng. Tháng 4-1958, Đỗ Mười được cử làm Bộ trưởng Thương
Nghiệp. Trong Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), Đỗ Mười được bầu làm ủy viên trung
ương chính thức, và chuyển sang làm chủ nhiệm Ủy ban Vật giá-Kiểm tra và Xây dựng.

Nhờ vào thành phần cơ bản và nhưng năm ở tù, đồng thời được tập đoàn Lê Duẩn-Lê Đức Thọ nâng đỡ, nên
Đỗ Mười được thăng cấp rất nhanh, mặc dù phạm rất nhiều khuyết điểm trong công tác lãnh đạo Thương nghiệp,
Vật giá và Xây dựng! Tháng 11-1967, ông ta được giao làm chủ nhiệm Ủy Ban Kinh tế của Chính phủ kiêm chủ tịch
Ủy Ban Kiến Thiết Thủ đô Hànội. Tháng 12-1969, Đỗ Mười được nâng lên làm Phó thủ tướng chính phủ. Tháng 6-
1973, Đỗ Mười kiêm luôn Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Và sau tháng 4-1975, ông ta được đưa vào làm đại biểu Quốc
hội khóa VI. Tại Đại Hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IV (12-1976) Đỗ Mười được bầu làm ủy viên dự khuyết Bộ
Chính trị và là thành viên của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Đỗ Mười đã nổi tiếng là hung thần tiêu diệt tư sản
trong công cuộc cải tạo công thương nghiệp Miền Nam, vào những năm 1977-1980. Bởi vậy, trong Đại hội Đại biểu
Toàn quốc của Đảng lần thứ VI (12-1986), Đỗ Mười đã được phe nhóm của Duẩn–Thọ (dù Duẩn đã chết) nâng lên
vị trí ủy viên chính thức Bộ Chính trị, để tăng cường thế mạnh cho phe nhóm Miền Bắc tranh quyền đoạt vị đối với
phe nhóm Miền Nam!

Nhìn vào sự sắp xếp vị trí thứ hạng, từ trên xuống dưới, của BCTTƯ Đảng khóa VII, chúng ta sẽ thấy ngay thế
mạnh của phe nhóm Miền Bắc so với phe nhóm Miền Nam!

Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng CSVN khóa VII được sắp xếp như sau:

1/- Đỗ Mười, Tổng Bí thư TƯ Đảng.

2/- Lê Đức Anh, Chủ tịch Nhà nước.

3/- Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Chính phủ.

4/- Đào Duy Tùng, Trưởng ban Văn hóa Tư tưởng TƯ.

5/- Đoàn Khuê, Bộ trưởng Quốc phòng.

6/- Vũ Oanh, Trưởng ban Dân vận TƯ.

7/- Lê Phước Thọ, Trưởng ban Nông nghiệp TU.

8/- Phan Văn Khải, Phó Thủ tướng thứ nhất.

9/- Bùi Thiện Ngộ, Bộ trưởng Nội vụ.

10/- Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội.

http://www.daiviet.org/dvc2.asp?action=vdt&mdn=194&chude_id=47 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đại Việt-daiviet.org Page 3 sur 9

11/- Phạm Thế Duyệt, Bí thư Thành ủy Hànội.

12/- Nguyễn Đức Bình, Giám đốc Học viện NAQ.

13/- Võ Trần Chí, Bí thư Thành ủy Thành phố HCM.

[Trong Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (20-1-1994), BCTTƯ Đảng Khóa VII đã được bổ sung thêm 4 ủy viên
BCT là: Nguyễn Mạnh Cầm (Bộ trưởng Ngoại giao), Lê Khả Phiêu (Trung tướng, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị),
Nguyễn Hà Phan (ủy viên Ban Bí thư) và Hồng Hà (Trưởng ban Đối ngoại Trung ương). Trong số này đã có 3
người (Cầm-Phiêu-Hà) thuộc phe nhóm Đỗ Mười.]

Trong số 6 người Miền Nam (Anh, Kiệt, Khuê, Ngộ, Khải, Chí) trong BCT, thì đã có 2 người (Anh, Khuê) theo
phe nhóm Đỗ Mười, và 1 người (Khải) lại không biểu lộ rõ khuynh hướng (?) Vậy là, phe nhóm Đỗ Mười (9 trong số
13 người) đã khống che átuyệt đối về thế và lực trong BCTTƯ Đảng khóa VII!

Một hiện tượng bí ẩn, che dấu bản chất cơ hội, nguy hiểm nhất trong công tổ chức của Đảng CSVN, là một
nhân vật có lai lịch bất minh – Lê Đức Anh, như sự tố cáo của tướng Nguyễn Nam Khánh, rằng: “Về lý lịch, đồng
chí Anh khai xuất thân từ công nhân là không đúng. Về ngày vào Đảng, đồng chí Lê Đức Anh khai không đúng!” Và
tướng Nam Khánh đẫ chứng minh như sau: “1- Có những nhân chứng báo cáo với Trung ương Đảng rằng Lê Đức
Anh không hề là công nhân, mà là cai phu, “cặp rằn” (caporal), tay sai của chủ đồn điền. Trong khi làm cặp rằn, Lê
Đức Anh đã hành hạ đánh đập công nhân như một tên tay sai chính cống. 2- Lý lịch đảng viên của Lê Đứa Anh bất
minh, với đủ dấu hiệu giả mạo ngày gia nhập Đảng, người giới thiệu vào Đảng.” Nhưng, tại sao nhiều đảng viên
đã biết lai lịch bất minh của Lê Đức Anh từ lâu, mà không dám tố cáo, cứ để cho hắn nghiễm nhiên leo đến
tột đỉnh quyền lực trong quân đội và nhà nước? Tại vì “SỢ MẤT MẠNG” (Theo thư tố cáo, đã dẫn).

Từ sau tháng Tư 1975, Lê Đức Anh đã vọt từ Đại tá lên Thiếu tướng (vượt cấp Chuẩn tướng), rồi lên Trung
tướng (1977), Thượng tướng (1979) và Đại tướng (1985). Vì sao Lê Đức Anh đã được thăng cấp nhanh như vậy?
Lý do chính yếu là Lê Đức Anh đã biết lấy lòng, và tỏ ra trung thành với tập đoàn Lê Duẩn-Lê Đức Thọ! Trong cuộc
“Chiến tranh giải phóng và chiếm đóng Campuchia”, Lê Đức Anh đã hốt không biết bao nhiêu vàng, nhét đầy tủ sắt
cho hai đàn anh Duẩn-Thọ (?) Chính đó là điều kiện tiên quyết giúp cho Lê Đức Anh leo lên ngôi vị thứ hai, sau Đỗ
Mười, trong hàng ngũ lãnh đạo tối cao của Trung ương Đảng CSVN, và là người đứng đầu nhà nước CHXHCNVN,
từ sau Đại hội VII! Rõ ràng, thế lực của Lê Đức Anh vào cuối năm 1990, đã có thể khống chế cả BCTTƯ khóa VI,
cho nên “Vụ Sáu Sứ” do Cục II (dưới quyền lãnh đạo của Lê Đức Anh) dàn dựng những bằng chứng giả tạo trắng
trợn, mà Hội nghị Trung ương lần thứ 12 & 13 của khóa VI không dám giải quyết, phải bàn giao lại cho BCHTƯ
khóa VII, rồi cũng nhận “chìm xuồng” luôn !

Những tiếng nói của những nhân vật Cộng Sản Trí Thức Cấp Tiến, như Tiến sĩ Vật Lý Phan Đình Diệu, Bác Sĩ
Y khoa & nhà Nghiên Cứu Khoa Học Nhân Văn Nguyễn Khắc Viện, cựu Viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh
Chính, đã kiến nghị yêu cầu Đại hội VII phải ra quyết nghị “thay đổi hệ thống chính trị chuyên chính vô sản
sang hệ thống chính trị dân chủ đa nguyên, và xây dựng một nhà nước pháp quyền ...”, nhưng đã bị “gát bỏ
ngoài tai” và còn bị liệt vào “danh sách đen” (!) Trong khi đó tập đoàn Đỗ Mười-Lê Đức Anh, vẫn lớn tiếng rêu rao
một nhận định quan trọng của Đại hội VII là: “Công cuộc đổi mối đã đạt được những thành tựu bước đầu rất
quan trọng.” (Văn kiện đã dẫn, như trên, trang 57).

Sau Đại hội VII, để dọn đường cho tập đoàn Đỗ Mười sang “chầu” đàn anh Trung Cộng: Ngày 6-8-1991,
Nguyễn Dy Niên ủy viên Trung ương Đảng khóa VII, Thứ trưởng Ngoại giao, đã đi Bắc Kinh để tiếp kiến với Thứ
trưởng Ngoại giao Trung Quốc Từ Đôn Tín, từ ngày 8 đến ngày 10-8-1991, nhằm trao đổi về viecä bình thường
hóa quan hệ Trung-Việt, và giải pháp chính trị cho Campuchia. Ngày 7-9-1991, Nguyễn Mạnh Cầm ủy viên Trung
ương, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam lại đi sang Bắc Kinh để tiếp kiến Bộ trưởng Ngoại giao Trung quốc Tiền Kỳ
Tham, nhằm trao đổi ý kiến về việc “sớm khôi phục các quan hệ kinh tế thương mại, hàng không, hàng hải, bưu
điện... nhằm thúc đẩy hơn nửa quá trình bình thường hóa quan hệ hai nước.” (Theo báo Nhân Dân, Hànội, ngày
11-9-1991)

Ngày 5-11-1991, Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt dẫn một phái đoàn cấp cao Việt Nam đi sang Bắc Kinh, gồm có: Hồng
Hà (Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương), Nguyễn Mạnh Cầm (Bộ trưởng Ngoại giao), Lê
Văn Triết (Bộ trưởng Thương mại và Du lịch), Bùi Danh Lưu (Bộ trưởng Giao thông Vận tải và Bưu điện), Vũ
Khoan (Thứ trưởng Ngoại giao), Nguyễn Quang Tạo (Phó Trưởng ban Đối ngoại) và Đặng Nghiêm Hoành (Đại sứ
Viêt Nam tại Trung quốc).- Giang Trạch Dân (Tổng Bí thư BCHTƯ Đảng CSTQ), Lý Bằng (Thủ tướng Quốc vụ viện
nước CHøND trung Hoa), Tiền Kỳ Tham (Bộ trưởng Ngoại giao TQ), và Chu Lương (Trưởng ban Đối ngoại Trung
ương Đảng CSTQ), đã đón tiếp trọng thể phái đoàn CSVN tại Đại Lễ Đường Nhân Dân tại trung tâm thủ đô Bắc
Kinh.

Phái đoàn CSVN đã đi thăm, làm việc và ký kết “những thỏa ước quan trọng trên nhiều lĩnh vực” với Trung Cộng
(?). Hai bên đã ra Thông Cáo Chung Việt Nam-Trung Quốc, gồm có 10 điểm, trong đó đã đặc biệt nhấn mạnh về
vấn đề an ninh biên giới, như sau: “Hai bên đồng ý sẽ tiếp tục có những biện pháp cần thiết nhằm giữ gìn hòa bình
và an ninh ở vùng biên giới hai nước. . . . và xây đựng đường biên giói Việt-Trung thành biên giới hòa bình và hữu
nghị.” (điểm 5) Ngày 10-11-1991, phái đoàn CSVN đã rời Bắc Kinh, trở về Hànội (theo báo Nhân Dân, Hànội, ngày
11-11-1991). Hành vi cắt đất, cắt biển hiến dâng cho Trung Cộng đã có mầm móng từ đây!

o0o

Tập đoàn Đỗ Mười-Lê Đức Anh đã vội vàng hạ mình với Trung Cộng như vậy, là vì tình hình chính trị của Liên
Xô đã đến thời kỳ tan rã hoàn toàn!

Trong lúc Gorbachev đang cùng gia đình nghỉ mát ở Foros (Crimée) thì Kriushkov, đứng đầu một nhóm trong
BCHTƯ Đảng CSLX, đã thực hiện âm mưu (complot) lật đổ tổng thống Nga B. Yeltsin (!), nhằm mục đích xóa bỏ
“trung tâm quyền lực thứ hai” ở Moskva, tập trung quyền lực tối cao cho M. Gorbachev! (Gorbachev đi nghỉ mát chỉ
là kế nghi binh để đánh lừa Yeltsin mà thôi). Nhưng, Gorbachev và phe nhóm cái gọi là “Ủy Ban Nhà Nước Về Tình
Trạng Đặc Biệt” (GKCHP) không ngờ được rằng, Yeltsin và những người lãnh đạo dân chủ Nga, đã kịp thời kêu gọi
dân chúng toàn nước Nga, và kêu gọi những binh sĩ yêu nước trong quân đội, cùng vùng dậy đập tan âm mưu đảo
chánh của nhóm “GKCHP”! Và Yeltsin đã thắng!

Ngày 1-12-1991, nhân dân Ukraina đã bầu L. Kravchuk làm Tổng thống. Thế là, ngày 2-12-1991, 3 vị đứng đầu
của 3 nước – tổng thống Nga B. Yeltsin, tổng thống Ukraina L. Kravchuuk, chủ tịch Xô Viết tối cao Belorussia S.
Shushkevich – họp với nhau tại Belovezhskaya Pusha và cùng ký Hiệp Định Belove-zhskoe thành lập công
đồng các quốc gia độc lập (gọi tắt la SNG), và ra lời kêu gọi các nước khác, thuộc Liên Xô trước đây, cùng tham
gia SNG! Vì vậy, ngày 25-12-1991, M. Gorbachev đã phải từ chức tổng thống Liên Xô.

Thực tế lịch sử về sự cáo chung của Liên Xô, một Đế quốc Cộng sẩn được coi là “thành trì cách mạng

http://www.daiviet.org/dvc2.asp?action=vdt&mdn=194&chude_id=47 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đại Việt-daiviet.org Page 4 sur 9

vô sản toàn thế giới”, từ 1917 đến 1991, đã làm cho các nước Cộng sản còn lại trên trái đất này hoang
mang đến cực điểm!

Tuy nhiên, Đảng CSVN không cam tâm để rơi vào hoàn cảnh của Đông Âu và Liên Xô. Do đó, Đại hội VII cũng
là Đại hội tìm cách duy trì sự sinh tồn của họ!

Trước hết, phải tung hỏa mù “Đánh Giá Tình Hình” để gieo lòng tin vào tương lai của Chủ Nghĩa Xã Hội cho
toàn Đảng. Họ đã đưa ra “lý luận không tưởng” như sau: “ Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
sụp đổ khiến chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại;
loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.”(Văn kiện đã dẫn, như trên,
trang 76).

Kế tiếp, để bảo toàn sự tồn tạo và giữ vững quyền độc tôn thống trị quốc gia, trước tình hình, theo nhận định
của họ là: “Có những thế lực vẫn tiếp tục mưu toan thực hiện diễn biến hòa bình, thường xuyên dùng chiêu
bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng can thiệp vào nội bộ nước ta.” (Văn kiện đã dẫn, trang 79). Vì thế, BCHTƯ
Đảng CSVN quyết định thực hiện triệt để chính sách trấn áp, khủng bo,á về mặt tư tưởng cũng như hành động, đối
với tất cả những thành phần đối kháng, đòi tự do dân chủ ngay trong nội bộ Đảng, cũng như trong quảng đại quần
chúng nhân dân (!)

Chính từ chính sách trấn áp, khủng bố tư tưởng và hành động, không trừ một ai, của tập đoàn chuyên chính bạo
tàn Đỗ Mười-Lê Đức Anh, mà suốt trong hai năm 1992-1993 đã tạo ra một không khí thật nặng nề về chính trị-xã
hội cho dân tộc Việt Nam, đi ngược lại dòng thác dân chủ-nhân quyền trên toàn thế giới!

Sau đây, là một số sự kiện trán áp, khủng bố điển hình:

- Ngày 25-4-1992, ông Nguyễn Sĩ Bình và 10 thành viên của “Đảng Nhân Dân Hành Động” từ Mỹ về hoạt động,
đã bị bắt giam!

- Ngày 25-7-1992, ông Đỗ Trọng Hiếu và vợ là Bác sĩ Đỗ Thị Vân, cùng ông Tạ Bá Tòng, đều là thành viên
trong hàng ngũ lãnh đạo CLBNNKCC, đã bị khai trừ ra khỏi Đảng CSVN, vì phạm tội “liên lạc với tình báo nước
ngoài” (?)

- Ngày 27-7-1992. ông Hồ Hiếu, thành viên lãnh đạo của CLBNNKCC cũng bị khai trừ ra khỏi Đảng CSVN, vì tội
“vận động học sinh sinh viên chống Đảng” (?)

- Ngày 15-12-1992, công an thành phó HCM đã bắt ông Phạm Văn Quang (50 tuổi) vì tội “dám công khai phất
cờ của chế độ ngụy quyền Sàigòn trước cuộc thi chạy Việt dã quốc tế tại bến Bạch Đằng.” (Tháng 2-1994, tòa án
CSVN đã kết án ông Quang 15 năm tù.)

- Ngày 29-3-1993, ông Đoàn Viết Hoại (đã bị bắt từ 17-11-1990) đã bị kết án 20 năm tù vì tội “tuyên truyền
chống chế độ” (sau đó, giảm xuống 15 năm tù)

- Ngày 29-5-1993, tòa án CSVN đã đưa ông Trần Mạnh Quỳnh và một số chiến hữu của ông (từ Mỹ về) ra xử tội
“âm mưu lật đổ chính quyền” (?)

- Ngày 3-7-1993, Công an vũ trang bao vây chùa Sơn Linh (Bà Rịa-Vũng Tàu), khống chế, giải tán hàng ngàn
Phật tử, bắt giữ Đại đức Hạnh Đức với 26 tăng ni và 100 Phật tử (?)

- Ngày 25-8-1993, tòa án CSVN đem một số thành viên của tổ chức “Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam” (Đa số là
từ Mỹ về) ra xử tội “âm mưu lật đổ chính quyền” (?)

- Ngày 15-12-1993, tòa án CSVN đã đem ông Nguyễn Thanh Vân và 10 thành viên của tổ chức”Liên Minh Hưng
Gia Đại Việt” xử tội “phá rối an ninh và trật tự xã hội” (?)

Qua một số sự kiện trấn áp và khủng bố trên đây của Đảng và Nhà nước CSVN, đã cho chúng ta thấy nỗi lo sợ
bị lật đổ của họ, đồng thời cũng cho chúng ta thấy được khuyết điểm chủ yếu nhất của các lực lượng chống
cộng ở hải ngoại về hoạt động tại quốc nội là: KHÔNG CÓ MỘT TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ THỐNG NHẤT,
KHÔNG CÓ MỘT CHIẾN LƯỢC CHỐNG CỘNG THỐNG NHẤT!

Trong ba năm 1991-1993, mặc dù dưới chính sách trấn áp khủng bố thẳng tay của Dảng và Nhà nước CSVN,
nhưng theo quy luật xã hội “đàn áp càng mạnh, đấu tranh càng nhiều”! Do đó, lịch sử đã ghi nhận những sự kiện
sau đây:

- Ngày 18-1-1992, tại nơi bị an trí, lưu đày ở tỉnh Thái Bình (Miền Bắc), Hòa thượng Thích Quảng Độ đã viết
xong luận đề: “Nhận định về những sai lầm tai hại của Đảng CSVN đối với Dân tộc và Phật giáo Việt Nam!”
Nhưng mãi đến ngày 10-8-1994, Hòa thượng mới có cơ hội gửi thẳng cho Đỗ Mười (?)

- Ngày 19-1-1993, 300 công nhân làm việc tại công ty liên doanh Mount Tech ở thành phố HCM đã đình công,
phản đối “sự đối xử hà khắc và tiền công quá thấp đối với công nhân, của chủ tư bản được chính quyền địa
phương bao che!”

- Ngày 6-2-1993, 600 công nhân của công ty liên doanh Reeyoung ở thành phố HCM đã đình công để phản đối
“sự cấu kết của chủ tư bản với chính quyền thẳng tay bốc lột công nhân.”

- Ngày 22-2-1993, 700 công nhân của công ty dệt may xuất khẩu Tân Bình thành phố HCM đã đình công đòi
“tăng lương giải quyết chế độ bảo hộ lao động”

- Ngày 21-5-1993, Phật tử Nguyễn Văn Dũng (30 tuổi) đã tự thiêu trước “Bảo Tháp Cổ Đại Lão Hòa Thượng
Thích Đôn Hậu” (Thích Đôn Hậu đã viên tịch vào ngày 23-4-1992 tại chùa Linh Mụ, Huế) để phản đối chính sách
đàn áp Phật giáo của chế độ CSVN!

- Ngày 24-5-1993, hàng vạn Phật tử và đồng bào ở Huế đã xuống đường biểu tình, phản đối chính quyền đàn
áp tôn giáo và đòi trả tự do cho Đại Đức Thích Trí Tựu!

- Ngày 3-10-1993, đồng bào đân tộc Thái ở huyện Thái Châu tỉnh Sơn La đã nổi dậy đòi chính quyền trả lại đất
canh tác, bị công an vũ trang đàn áp, bắn chết 50 người, trong đó có 19 trẻ em (!)

- Ngày 1-11-1993, “Ủy Ban Đoàn Kết Các Tôn Giáo” tại Viêt Nam đã ra bản Tuyên Cáo tố cáo chính quyền
CSVN đàn áp tôn giáo và coi thường nhân quyền! Bản Tuyên cáo này đã được phổ biến ở nhiều nơi trong toàn
quốc.

http://www.daiviet.org/dvc2.asp?action=vdt&mdn=194&chude_id=47 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đại Việt-daiviet.org Page 5 sur 9

Đã thẳng tay trấn áp, khủng bố các thành phần dân chủ, đàn áp tôn giáo, bức bách dận tộc thieuå số đến như
vậy, mà khi tổng kết tình hình dân chủ trong những năm 1991-1993, Hội nghị Đại biểu Toàn quốc giữa Nhiêm kỳ
Khóa VII (20-1-1994), BCHTƯ Đảng CSVN đã tổng kết như sau: “Hơn hai năm qua, nền dân chủ của xã hội ta đã
có bước phát triển đáng kể, gắn liền với việc xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.”(Văn kiện hội nghị, đã dẫn, trang13) Nói đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền của Quốc hội khóa
VIII của CSVN, phải nói đến cơ quan lập pháp này đã thông qua Hiến pháp 1992, vào ngày 15-4-1992, mà theo
BCHTƯ Đảng CSVN khóa VII thì “Sư kiện nổi bật là việc ban hành Hiến pháp năm 1992” Bởi vì nó đã “kịp thời
thể chế hóa đường lối của Đảng về xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”(Văn kiện đã dẫn, như
trên, trang 13). Và “Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn
kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh
đạo!” (Văn kiện đã dẫn, trang 56).

Bản chất của Hiến pháp 1992 là Xây dựng Nhà nước Pháp quyền Cộng sản do Đảng độc quyền lãnh đạo!
Do đó, phải hiểu rằng: Điều 4 của Hiến pháp 1992, chỉ là sự hợp thưcù hóa một cách công khai quyền lãnh đạo của
Đảng mà thôi. Đòi hỏi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp 1992 chỉ là đòi hỏi xóa bỏ hình thức mà thôi! Quyết định căn bản
vẫn là phải có một Quốc hội do toàn dân bầu ra, thông qua Tổng tuyển cử dười sự kiểm soát của Liên Hiệp
quốc, chớ không phải do sự lèo lái của Đảng CSVN!

Từ sau Đại hội VII, cũng là thời kỳ khủng hoảng niềm tin, khủng hoảng lý luận, trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo,
từ Trung ương đến địa phương của Đảng CSVN!

Sự kiện nổi bật là cuộc đấu tranh quan điểm xoay quanh vấn đề “Sự lỗi thời và sụp đổ của chủ nghĩa Marx-
Lénine!”, giữa Hoàng Chí Bảo (Viện phó Viện Marx-Lénine) và Nguyễn Đức Bình (Ủy viên Bộ Chính trị Trưởng
ban Nghiên cứu Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Nguyễn Ái Quốc).

Tháng 8-1993, sau hơn hai năm nghiên cứu về sự sụp đổ của các nước cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô, Hoàng
Chí cho xuất bản một cuốn sách nhỏ, nhan đề là: “Chủ nghĩa Xã hội Hiện thực- Khủng hoảng, Đổi mới Và Xu
hướng Phát triển.”

Trong tiểu phẩm này, Hoàng Chí Bảo đã nêu ra 5 nguyên nhân căn bản làm cho chế độ XHCN ở Đông Âu và
Liên Xô tan rã, là: Một, bệnh giáo điều chủ nghĩa.

Hai, sự độc quyền lãnh đạo manh tính “Đảng Trị” của Đảng Cộng sản. Ba, thực chất của nhà nước chuyên
chính vô sản là phi dân chủ. Bốn, Bộ máy hành chánh quan liêu bao cấp đã sinh ra tệ nạn tham ô hũ hóa tràn lan.
Năm, mô hình XHCN khép kín, biệt lập, đi ngược lại trào lưu hội nhập, toàn cầu hóa.

Từ đó, Hoàng Chí Bảo kết luận rằng:

“Các bước XHCN Đông Âu và Liên Xô sụp đỗ là hậu quả sâu xa của những tích động và chìm đắm trong trí tuệ,
khủng hoảng quá lâu dẫn tới sự căng thẳng xã hội, vượt quá sự chờ đợi của người dân. . . Sự sụp đổ đó cũng là
hậu quả trực tiếp của những sai lầm có tính nguyên tắc về chính trị của công cuộc cải tổ . . .”

Sau cùng, Hoàng Chí Bảo đề nghị: “Phải giải phóng tư duy, trong đó tư duy con người được hướng dẫn và
khuyến khích theo chiều hướng tôn trọng sự thật, nói thật, nghĩ thật để rồi làm thật, hành động thật và sống
thật.”

Hoàng Chí Bảo lấy sự kiện sụp đổ của khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô, để ngầm cảnh cáo CSVN, nhưng vẫn
không dám đưa ra những biện pháp chữa trị cụ thể (?) Vậy mà, cuốn sách nhỏ vẫn bị cấm lưu hành trong nhân
dân; và đã bị phê phán, lên án gắt gao trong nội bộ Đảng.

Nguyễn Đức Bình đã “giải độc Hoàng Chí Bảo” bằng cách tung ra bài “Không có chuyện chủ nghĩa Mác-Lênin
bị sụp đổ hay lỗi thời!” Trong bài này, Nguyễn Đức Bình đã nêu ra nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô như sau:
Một, vì theo đường lối xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác-Lênin. Hai, chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động
quốc tế đã đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” vô cùng thâm độc và cực kỳ nguy hiểm. Nguyễn Đức Bình
viết:

“Sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong và từ trên chóp bu của cơ quan lãnh đạo
cao nhất, là nguyên nhân trực tiếp làm cho Liên Xô tan rã và các nước Đông Âu sụp đổ.. . . Tất nhiên, xét cho cùng,
chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh giác cách mạng trong hàng ngũ, đã tạo cơ hội ằàng vàng cho
chủ nghĩa đế quốc chiến thắng mà không cần chiến tranh.”

Rõ ràng Nguyễn Đức Bình chỉ minh họa cho tư duy giáo điều của tập đoàn lãnh đạo CSVN mà thôi! Nhưng
không ai trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng có tinh thần thực sự cầu thị, đều không dám lên tiếng ủng hộ Hoàng Chí
Bảo hay phản đối Nguyễn Đức Bình. Chỉ có một số người thất sủng như Trần Độ, Lê Giản, Ngô Thứ... lên tiếng
công kích Nguyễn Đức Bình là giáo điều, tả khuynh, như là “những tiếng nói lạc lõng trong cơn giông tố” (!) Tuy
nhiên, trong thâm tâm của đại đa số cán bộ, đảng viên và quần chúng thức thời, đã không còn tin tưởng vào chủ
nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Marx-Lénine qua sự biến Đông Âu và Liên Xô!

“Diễn Biến Hòa Bình” là một nguy cơ đã làm cho BCHTƯ Đảng hóa VII lo ngại nhất! Họ nhận định rằng : “Bạo
loạn lật đổ” là “thủ đoạn nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch . . . Vì vậy, không thể
không tích cực ngăn ngừa và làm thất bại các mưu đồ lật đổ!” (Văn kiện đã dẫn, trang 71-72) Do đó, tập đoàn Đỗ
Mười-Lê Đức Anh thà chịu thua thiệt đối với Trung Cộng về vấn đề biên giới và lãnh hải, để rảnh tay đàn áp các
thành phần dân chủ, đối kháng với chế độ độc tài đảng trị do họ cầm quyền, nhằm giữ cho được cái gọi là nhà
nước CHXHCNVN vốn đã mất lòng dân từ lâu!

Cho nên, rất dễ hiểu rằng, từ sau chuyến đi Bắc Kinh của Đỗ Mười (từ ngày 5 đến 10-11-1991), Trung Cộng Đã
bao lần vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên vùng lãnh hải ở Biển Đông, chẳng hạn như:

Ngày 8-5-1992, Công ty Dầu lửa ngoài khơi quốc gia Trung Quốc và công ty năng lượng Crestone của Hoa kỳ
đã ký “Hợp đồng Hợp tác Thăm dò Dầu khí” trên một số diện tích rộng hơn 25.000 km2 trong khu vực Nam Sa - mà
Trung Quốc gọi là “Vạn An Bắc-21” Khu vực thăm dò này có độ sâu từ 300m đến 700m, nằm trong khu vực bãi
ngầm Tư Chính trên thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vậy mà
mãi đến ngày 15-7-1992, chính phủ CSVN mới ra Tuyên Bố phản đối một cách yếu ớt (!?)

Mấy tháng sau, ngày 3-9-1992, Trung Quốc công khai tuyên bố các tàu giàn khoan và tàu thăm dò địa chấn của
TQ tiến hành khoan thăm dò khảo sát tại 6 vị trí trong khu vực Trường Sa, và “cấm tất cả tàu thuyền không được
tới gần khu vực tàu khoan trong phạm vi bán kính 1000m, khu vực tàu đia chấn trong bán kính
1500m.” (theo Tân Hoa Xã, 4-9-1992).

Trong tình thế không còn chỗ dựa nào khác, Đảng CSVN bắt buộc phải dựa vào Trung Cộng – mặc dù Trung
Cộng đã xác định rằng: ”quan hệ giữa hai nước sẽ không như thời hai nước còn sát cánh chiến đấu chống
xâm lược, nhưng cũng không như thời gian đối đầu vừa qua.” (Ngoại trưởng TQ Tiền Kỳ Tham tuyên bố với
Đài BBC vào ngày 12-2-1992). Và cho dù Trung Cộng vẫn nuôi âm mưu chiếm lấy Trường Sa và Hoàng Sa của

http://www.daiviet.org/dvc2.asp?action=vdt&mdn=194&chude_id=47 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đại Việt-daiviet.org Page 6 sur 9

Việt Nam – Đảng CSVN vẫn ép mình làm thân với Trung Cộng.

Ngày 9-11-1993, Lê Đức Anh người đứng thứ hai, sau Đỗ Mười trong BCTTƯ Đảng CSVN, đương kim chủ tịch
bước CHXHCN Việt Nam, đã danã phái đoàn cấp cao Việt Nam sang Bắc Kinh, gồm có: Bộ trưởng Ngoại giao
Nguyễn Mạnh Cầm, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Nguyễn Việt Dũng, Bộ trưởng-Chủ nhiệm Ủy ban Nhà
nước về Hợp tác và Đầu tư Đậu Ngọc Xuân, và Đại sứ Việt Nam tại TQ Đặng Nghiêm Hoành. Phái đoàn Lê Đức
Anh “thăm hữu nghị chính thức nước CHNDTH” kéo dài đến ngày 15-11-1993. Có hai cuộc hội đàm quan trọng,
giữa Giang Trạch Dân và Lê Đức Anh (9-11-1993), giữa Lê Đức Anh với Lý Bằng (10-11-1993). Vấn đề chính yếu
của hai cuộc hội đàm này là: đayå mạnh việc hợp tác trên các lĩnh vực Kinh tem Thương mại, Khoa học,Công
nghệ. Nhưng đặc biệt lưu ý là “đẩy nhanh quá trình đàm phán, xây dựng biên giới Việt – Trung thành biên
giới hòa bình, ổn định và hữu nghị.” (Báo Nhân Dân, Hànội, 11-11-1993).

Và để “bày tỏ thiện chí” hai bên đã thống nhất mở lại cửa khẩu Jinshuihe của tỉnh Vân Nam, tiếp giáp với Lai
Châu, vào ngày 10-11-1993 (Đây là cửa khẩu thứ 3 đã được mở lại, trong vòng 6 tháng qua – Cửa khẩu thứ 1 là
Hà Giang được mở lại vào ngày 18-5-1993. Cửa khẩu thứ 2 là Lào Cai đã được mở lại vào ngày 19-6-1993). Tuy
nhiên, kim ngạch buôn bán giửa hai nước vanã còn hạn chế. Theo thống kê của Trung Quốc: Năm 1992 đạt 179
triệu USD, và 6 tháng đầu năm 1993 đạt được 110 triệu USD (Tân Hoa Xã, tháng 7-1993).

Biện chứng lịch sử sẽ chứng minh Đảng CSVN sẽ trượt dài trên con đường ngày càng bị Trung Cộng đưa vào
cái thế “chư hầu không tự nguyện”!

o0o

Ngày 20-1-1994, trước sự thúc bách của tình hình khủng hoảng về lý luận và niềm tin về chủ nghĩa xã hội của
cán bộ, đảng viên và quần chúng, BCH Trung Ương Đảng CSVN đã mở Hội nghị Đại biểu Toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khóa VII – Một hội nghị giữa nhiệm kỳ lần đầu tiên trong lịch sử của Đảng CSVN với số đại biểu đông chưa từng
có là 644 người – Mục đích được tuyên bố công khai của hội nghị này là: “Kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết Đại
hội VII và tổng kết một bước thực tiễn đổi mới từ Đại hội VI đến nay, nhằm làm sáng tỏ thêm một số vấn đề trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.” (Văn kiện đã dẫn, trang 5).

Theo sự công bố trên giấy tờ của Trung ương Đảng CSVN thì trong giữa nhiệm kỳ đầu khóa VII, nước
CHXHCN Việt Nam đã đạt được thành tựu kinh tế như sau:

- Lạm phát đã được đẩy lùi, từ 67% năm 1991 xuống 17,1% năm 1992, và còn 5,2% năm 1993.

- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hàng năm 7,2% (vượt mức kế hoạch 1991-1995 là1,2%)

- Sản lượng lương thực năm 1993 đạt xấp xỉ 25 triệu tấn (vượt mức đề ra cho năm 1995).

- Sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình quân hàng năm là 13% (vượt mức chỉ tiêu đề ra cho kế hoạch 1991-
1995 là 3%).

- Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt xấp xỉ 20%.

- Tính đến hết năm 1993, tổ số vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký là 7,5 tỷ USD.

(Theo Văn kiện đã dẫn, từ trang 6 đến trang 8).

Nếu đây là những con số phản ảnh đúng thực tế, thì đã chứng tỏ Đảng CSVN, đã có nhiều cố gắng trong việc
lãnh đạo công cuộc phát triển kinh tế quốc gia trong thời kỳ khó khăn nhất - thời lỳ chống chỏi trước cơn giông to
làm sụp đổ hệ thống XHCN quốc tế!

Cho dù BCHTƯ Đảng khóa VII đã cố gắng dốc hết toàn lực để giữ vững chính quyền CHXHCN Việt Nam trong
thử thách vô cùng hiểm nguy, cũng chưa vượt qua được Bốn Nguy Cơ đã có từ sau khi “thống nhất nước nhà” (!)

Bốn nguy cơ đó là:

Một: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp,
nhịp đô tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt.”

Hai: “Nguy cơ chệch hướng xã hôi chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương chính
sách và chỉ đạo thực hiện.”

Ba: “Nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu.”

Bốn: “Nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.” (Văn kiện đã dẫn, trang 25)

Trong 4 nguy cơ đó, BCHTƯ Đảng CSVN khóa VII đã đánh giá rằng: “nguy cơ “diễn biến hòa nình” là một
nguy cơ rất lớn và rất nghiêm trọng. . . cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa, diễn ra quyết liệt và phức tạp, liên quan đế sự sống còn của Đảng ta, chế độ ta. . .” (Văn kiện đã dẫn,
trang 72).

Do quá lo sợ về sự sống còn của Đảng, lo sợ chế độ XHCN bị sụp đổ, nên trong những năm 1994-1995 Đảng
CSVN vẫn tiếp tục thi hành chính sách trấn áp, khủng bố đối với tôn giáo và các thành đối kháng.. . Sau đây là một
số bằng chứng cụ thể:

Đàn Áp Tôn Giáo!

- Ngày 12-1-1994, công an vũ trang tỉnh An Giang tiến hành bao vây, bố ráp Cơ Sở Sinh Hoạt Phật Sự của
Tổng Giáo Hội Phật Giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, bắt giam nhiều vị chức sắc, và tịch thu toàn bộ tài sản của cơ sở, tội
“chống đối chính quyền” (?)

- Ngày 18-3-1994, Thượng tọa Thích Giác Dưỡng, Phó trưởng giáo Đoàn III Khất sĩ, đã bị “kẻ lạ mặt” giết chết
và treo cổ Ngài trên một cành cây mít bên cạnh Tịnh Xá Ngọc Duyên. Ngài Thích Giác Dưỡng trước đó đã được
Thượng tọa Thích Giác Lượng (Viện trưởng Viện Tăng già Khất sỉ, Phó Chủ tịch Hội đồng Điều hành Giáo hội
PGVNTN tại Hoa kỳ) hỗ trợ tài chánh, để xây dựng Tịnh Xá Ngọc Duyên ( tại Đập Đá-Huyện An Nhơn-tỉnh Bình

http://www.daiviet.org/dvc2.asp?action=vdt&mdn=194&chude_id=47 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đại Việt-daiviet.org Page 7 sur 9

Định). (Có dư luận trong quần chúng cho rằng, vì Ngài Thích Giác Dưỡng đã liên lạc với “Phật giáo Chống cộng” ở
Hoa kỳ, nên đã bị chính quyền tỉnh Bình Định , ra lệnh cho CA mật thủ tiêu?)

- Ngày 28-5-1994, Đại đức Thích Huệ Thâu, chủ trì Phật tự Vĩnh Long, miền Tây Nam bộ, đã tự thiêu để phản
đối chính sách đàn áp tôn giáo của chính quyền CSVN!

- Ngày 4-8-1993, công an thành phố HCM đã thẳng tay đàn áp “cuộc biểu tình ngồi, bất bạo động” của Đại đức
Thích Giác Nguyên, cùng 9 tăng ni và 15 Phật tử, từ Trà Vinh lên ngồi trước UBND thành phố, đưa đơn thỉnh
nguyện, “yêu cầu tự do tôn giáo”.Tất cả đều bị bắt giam vô nhà ngục Chí Hòa (!)

- Ngày 5-11-1994, công an thành phố HCM đã vây bắt “Đoàn Phật Giáo Cứu Trợ Đồng Bào bị Nạn lụt ở Miền
Tây”, đang tập trung tại Ngã Bảy Sàigòn chờ giờ khởi hành. Tất cả gồm có 60 tăng ni và 300 Phật tử đều bị nhốt
vào khám Chí Hòa, vì tội “tập trung đông người mà không có giấy phép” Trước đó,cacù tu sĩ Thích Không Tánh,
Thích Trí Lực, Thí Nhật Ban... cũng đã bị bắt giam.

[Tháng 6-1994, một trận bão lụt khủng khiếp, kéo dài đến 4 tháng, tàn phá khắp 7 tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long, làm thiệt hại 3.000 tỷ đồng NHVN (tương đương 300 trieuä Mỹ kim) và đã làm chết hơn 400 người! ]

- Ngày 19-12-1994, Bộ Nội Vụ CSVN ra lệnh cho Ty Công An tỉnh Quảng Ngãi “bắt nóng”(tức bắt cấp tốc) Hòa
thượng Thích Huyền Quang, Chủ tịch Giáo Hội PGVNTN, tại chùa Hội Phước (Quảng Ngãi), để “phòng ngừa Phật
giáo miền Trung nổi loạn” (?)

- Ngày 4-1-1995, sau một thời gian được tha về Sàigòn, Hòa thượng Thích Quảng Độ (Viện trưởngViện Hóa
Đạo) đã bị chính quyền CSVN ở thành phố HCM, ra lệnh cho công an đến ngay Thanh Minh Thiền Viện bắt Ngài
một cách cấp tốc để “ngừa hậu hoạn” (?)

- Trong hai ngày 14 và 15-8-1995, tòa án CSVN đã đem xử Hòa thượng Thích Quảng Độ, cùng với hai Thượng
tọa Thích Không Tánh và Thích Nhật Ban, với cư sĩ Nhật Thường,về tội “phá hoại chính sách đoàn kết tôn giáo”
trong khi Ngài đứng ra tổ chức cứu trợ nạn nhân bị bảo lụt ở đồng bằng sông Cửu Long (?). Hòa Thượng Thích
Quảng Độ bị kết án 5 năm tù. Còn 3 vị kia thì bị kết án từ 3 đến 5 năm tù.

Qua sự đàn áp tôn giáo của chính quyền CSVN, cho thấy rằng Đảng CS Việt Nam rất lo ngại để cho tôn giáo –
đặc biệt là Phật giáo Việt Nam – trở thành một “lực lượng chính trị” lật đổ chế độ (!). Vì vậy, Đảng CSVN đã thi
hành chính sách “tiêu diệt từ trong trứng mước cái mầm bạo loạn của tôn giáo” để trừ hậu hoạn!

Khủng Bố Đối Kháng!

- Ngày 1-1994, Bộ Nội Vụ CSVN lại ra lệnh bắt ông Nguyễn Hộ lần thứ hai, vì tội đã phổ biến biến bài “Quan
điểm và cuộc sống” do ông viết để tố cáo chế độ cộng sản phi nhân quyền! Nhưng vì bị công luận ở trong và ngoài
nước kịch liệt phản đố, đòi trả tự do cho nhà đối kháng kiên cường Nguyễn Hộ, nên chính quyền CSVN buộc phải
thả ông (25-6-1994), nhưng lại ra lệnh “quản chế tại gia” không được ra khỏi nhà, không được tiếp xúc với bất cứ
ai, có công an canh gát 24/24 (!) Tuy bị khủng bố đến thế, ông Nguyễn Hộ vẫn không nhụt chí, cứ tiếp tục đấu
tranh: Ngày 17-2-1995 ông cho phổ biến bài “Lột Xác”đòi Đảng CS Việt Nam phải “Sám Hối” tội lỗi với dân tộc, và
phải chân thành thực hiện “hòa giải hòa hợp dân tộc” .

- Ngày 20-3-1994, Ban Văn Hóa Tư Tưởng Trung ương đã phổ biến trong nội bộ một tài liệu mang tên là: “Hoạt
động của một số lực lượng thù đich”, trong đó có nêu tên hai nhà đối kháng là Nguyễ Hộ và Hoàng Minh Chính.
Rõ ràng, Đảng CSViệt Nam đã coi những nhà Dân Chủ đối kháng với Đảng độc tài là “Thù Địch”, vì vậy cứ thẳng
tay khủng bố!

- Ngày 14-4-1995, Lê Đức Anh đã ra chỉ thị thi hành kỷ luật hai ông Nguyễn Trung Thành và Lê Hồng Hà vì
phạm tội “có hành động chống Đảng”. Ông Nguyễn Trung Thành nguyên là Ủy viên Thường trực Ban Bảo Vệ Trung
Ương Đảng, đã viết thư gửi cho BCT và TƯ Đảng, yêu cầu xét lại vụ án oan của 32 cán bộ trong “vụ án xét lại
chống Đảng” hồi thập niên 60! Ông Lê Hồng Hà nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu Tổng hợp Bộ Công An, đã ủng
hộ đề nghị của ông Nguyễn Trung Thành! Như vậy mà bị kết tội “Chống Đảng” thì đâu còn gì là công lý (!?) Ngày
26-6-1995, hai ông đã bị khai trừ ra khỏi Đảng!

- Ngày 3-6-195, Bộ Nội Vụ CSVN đã ra lệnh cho Công an Hànội bắt ông Hoàng Minh Chính, nguyên Viện
trưởng Viện Triết học, với hai toiä danh: 1)- Trả lời phỏng vấn của báo Ba Lan mà không xin phép nhà nước. 2)-
Phân phát tài liệu chống chế độ XHCN Việt Nam! Cùng ngày, Công an thành phố HCM đã giải giao ông Đỗ Trung
Hiếu cho Công an Hànội vì hai tội danh: 1)- Đã liên lạc với ông Hoàng Minh Chính . 2)- Phân phát tài liệu chống
Đảng và Nhà nước.

- Ngày 3-7-1995, Trong hội nghị bàn về “Tình hình an ninh chính trị” do Ban Bí Thư TƯ Đảng chủ trì, Lê Minh
Hương, ủy viên TƯ Đảng, Thứ trưởng Bộ Nội Vụ, đã thông báo: Đã phát hiện được 148 tài liệu chống Đảng do
những phần tử đối kháng phân phát trong hàng ngũ Cán bộ và Đảng viên! Hiện nay, đã có từ 7 đến 8 nhóm “Chống
Đảng”, trong đó có “Nhóm Nguyễn Trung Thành-Lê Hồng Hà”, và đặc biệt là “Nhóm Trần Độ” (Ông Trần Độ, Trung
Tướng, nguyên Trưởng Ban Văn Hóa Tư Tưởng Trung Ương Đảng, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội.)

- Hai ngày 11 và 12-8-1995, tòa án CSVN đã đem nhóm Liên Minh Dân Chủ của ông Nguyễn Đình Huy ra xử và
kết án: Ông Nguyễn Đình Huy 15 năm tù vì tội “Âm mưu lật đổ chế độ”. Hai ông Trần Quang Liêm và Nguyễn Tấn
Trí, đều là người Mỹ gốc Việt, thì bị kết án 4 năm tù, vì tội “liên hệ hoạt động vơiù Nguyễn Đình Huy”. Nhưng, đến
ngày 7-11-1995, thì hai ông Liêm và Trí đã được trục xuất về Mỹ.

- Ngày 11-1995, tòa án CSVN đã đem hai ông Hoàng Minh Chính và Đỗ Trung Hiếu ra xử. Ông Hoàng Minh
Chính bị kết án 12 tháng tù, ông Đỗ Trung Hiếu 15 tháng tu , với tội danh “lợi dụng quyền tự do để chống đối nhà
nước” (?)

- Ngày 22-11-1995, Trương Tấn Sang, chủ tịch UBND thành phố HCM đã ký lệnh “cấm lưu hành và tịch thu “
cuốn sách “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội” của người Cộng sản lão thành Nguyễn Văn Trấn, vì “nộäi dung vô cùng
phản động” (?) Thật ra, đây là một cuốn sách chỉ nói lên sự thật về những sai lầm của Đảng CSVN với tinh thần
phản tỉnh và sám hối mà thôi! (Ông Nguyễn Văn Trấn nguyên là Phó Bí thu Xứ ủy Nam Kỳ, đã từng theo học ở
trường Đại học Phương Đông tại Liên Xô, nguyên chính ủy quân khu 9 và 8 trong thời kinh tế kháng Pháp, nguyên
Vụ trưởng Khoa Giáo Trung ương trong thời gian tập kết ra sống ở Hànội, sau 1975 về hưu tại Sàigòn.)

- Ngày 5-12-1995, Bộ Nội Vụ CSVN đã ra lệnh cho Công an Hànội bắt khẩn cấp Phó Tiến sĩ Sinh học Nguyễn
Xuân Tụ (bút danh Hà Sĩ Phu), ngay trước cửa nhà của ông Nguyễn Kiên Giang, trước khi ông rời Hànội trở về Đà
Lạt, về tội “vận động, tổ chức chống Đảng” (?)

- Trong tháng 12-1995, Bộ Nội vụ CSVN cũng ra lệnh bắt ông Lê Hồng Hà (mới bị khai trừ ra khỏi Đảng), và bắt
Đại tá Phạm Quế Dương, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Lịch sử Quân Đội, về tội “chống Đảng và Nhà nước”(?)

http://www.daiviet.org/dvc2.asp?action=vdt&mdn=194&chude_id=47 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đại Việt-daiviet.org Page 8 sur 9

Trong lịch sử hình thành và phát triển của Đảng CSVN, suốt 60 năm, chưa có thời gian nào như những năm 90
này, đã có một lực lượng Đối Kháng Đảng đông đến như vậy! Nhưng rất tiếc là họ chưa tập họp thành một tổ chức
thống nhất đủ mạnh, để khỏi bị “bẻ gẫy từng chiếc đũa” bởi “bàn tay sắt” của chế độ độc tài Đảng trị!

Đảng và nhà nước CSVN chỉ chuyên tâm vào việc gọi là “Phải phá vỡ âm mưu lật đổ chính quyền của bọn
phản động” (Tài liệu Tố Mật của Bộ Nội Vụ CSVN) mà không lo cho cuộc sống của người dân lao khổ! Vì vậy,
không có lúc nào như lúc này, đã bùng nổ nhiều cuộc Đấu Tranh Của Quần Chúng ở khắp nơi:

- Trong tuần lễ đầu của tháng 1-1994, đã có 600 công nhân của 4 xí nghiệp, công ty ở Sàigòn đình công, chống
sự hà khắc của chủ tư bản, và đòi trả lương cho tương xứng với công lao động của họ đã hao phí!

- Ngày 18-1-1994, toàn thể công nhân Xưởng Quốc Doanh “Gia Công Linh Kiện Điện tử” đã đình công, đòi tăng
lương và tiền phúc lợi cho công nhân!

- Ngày 13-5-1994, hơn 500 tiểu thương ở chợ Ga-Hải Phòng đã bãi thị, và biểu tình đi từ chợ Ga đến UBND
thành phố, để chống việc tăng thuế quá cao!

- Ngày 15-2-1995, hơn 300 công nhân Xí nghiệp May Thiên Phú ở Củ Chi (Sàigòn) đã đình công chống “chủ
bốc lột lao động của công nhân”! Cùng ngày này, hàng trăm công nhân Công Ty Giày Thể Thao Kwang Nam của
Đại Hàn đã đình công để phản đối việc sa thải công nhân không chính đáng!

Năm 1995, có thể nói là năm đình công của công nhân! Cả năm có tất cả là 55 cuộc đình công của công nhân
thuộc các xí nghiệp quốc doanh và của các công ty có vốn nước ngoài đã nổ ra ở Sàigòn (25 vụ), tỉnh Sông Bé (10
vụ), thành phố Hải phòng (9 vụ), Đồng Nai (5 vụ), Đà Nẵng (4 vụ), Khánh Hòa (1 vụ) và Nam Hà (1 vụ). Mục tiêu
của các cuộc đình công là: Chống bốc lột sức lao động, đòi tăng lương, chống xúc phạm nhân phẩm của công
nhân!

o0o

Trong tháng 7-1995,Chính quyền CSVN đã được hai thuận lợi lớn về mặt đối ngoại:

Một, ngày 11-7-1995, Hoa Kỳ tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Chính phủ CSVN. (Hoa Kỳ đã
tuyên bố bãi bỏ cấm vận Việt Nam từ ngày 3-2-1994)

Hai, ngày 24-7-1995, nước CHXHCN Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp Hội Các Quốc
Gia Đông Nam Á (ASEAN).

Thực tiễn lịch sử (như đã được trình bày ở trên) đã cho chúng ta thấy: Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Đảng
CSVN độc quyền lãnh đạo, tạm thời đã vượt qua cơn giông tố sụp đổ có “tính dây chuyền” của Đông Âu và Liên
Xô, mặc dù 4 nguy cơ vẫn còn sờ sờ, và nó có khả năng phát triển đến chỗ lật nhào cả chế độ CSVN vào bất cứ
lúc nào, nếu không triệt tiêu được 4 nguy cơ tai ác đó! Tuy nhiên, tập đoàn Đỗ Mười – Lê Đức Anh đã yên tâm hơn
về việc đối phó với “các thế lực thù địch từ bên ngoài”. Bởi vì:

Đối với Trung Cộng thì Đảng CSVN đã quan hệ bình thường trở lại, từ tháng 11-1991 đến nay, và mối bang
giao lép vế đó, đã được củng cố thêm từ sau lần Đỗ Mười sang thăm Trung quốc lần thứ hai (từ ngày 26-11-1995
đến ngày 2-12-1995), như “Thông cáo chung Việt Nam-Trung Quốc” ngày 2-12-1995, đã có ghi nhận rằng: “với tinh
thần lấy đại cuộc làm trọng, thông cảm và nhân nhượng lẫn nhau, công bằng hợp lý, hiệp thương hữu nghị... không
để bất đồng ảnh hưởng đến sự bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.” (Tân Hoa Xã, 3-12-1995)

Đối với Hoa Kỳ, không còn là “thù địch” nữa, ít nhất là trên phương diện quan hệ công khai trên trường quốc tế,
nhất là từ sau khi ngoại trưởng Mỹ Christopher đến Hànội (6-8-1995) va øcựu tổng thống Bush viếng thăm Việt
Nam (đầu tháng 9-1995), đã giúp cho Đảng CSVN yên chí hơn, và hy vọng sẽ tiến đến việc ký kết “Hiệp ước
thương mại” với Hoa kỳ!

Vấn đề phải ổn định trước mắt mắt của tập đoàn Đỗ Mười – Lê Đức Anh, là sự không thống nhất trong nội bộ
Bộ Chính Trị, về đường lối xây dựng đất nước, trong giai đoạn từ nay trở đi!

Gay cấn nhất là sự không nhất trí giữa Võ Văn Kiệt, đứng hàng thứ 3 trong BCTTƯ Đảng, đang giữ chức Thủ
tướng Chính phủ vơiù tập đoàn Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Nếu nói rộng ra, thì tập đoàn Đỗ Mười-Lê Đức Anh là đại
diện cho phe nhóm bảo thủ, giáo điều, cuồng tín chủ nghĩa Marx-Lénine, trong BCHTƯ Đảng khóa VII; còn Võ Văn
Kiệt thí đại diện cho nhóm cấp tiến, chấp nhận hiện thực, phê phán tính lỗi thời của chủ nghĩa Marx-Lénine, trong
hàng ngũ canb bộ, đảng viên trí thức.

Cuộc đấu tranh tư tưởng này, “Ai Thắng Ai?” đã thấy rõ ràng! Những người ủng hộ ông Võ Văn Kiệt đã bị bắt
giam, bị quản chế gần hết (như các ông: Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu, Hồ Hiếu, Hoàng Minh Chính, Hà
Sĩ Phu, Phạm Quế Dương, Lê Hồng Hà. . . )

Ngày 9-8-1995, Võ Văn Kiệt đã đưa ra một bản văn ”Góp ý kiến với Bộ Chính Trị” có đóng dấu “TỐI MẬT” Nội
dung “Góp Ý Kiến” của ông Võ Văân Kiệt có 4 điểm chính dưới đây:

Một: Về tình hình hai phe – Tư bản chủ nghĩa và Xã hội Chủ nghĩa – Võ Văn Kiệt nhận định rằng: “Trong thế
giới ngày nay, không phải mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc, mà trước hết là tính đa
dạng, đa cực trở thành nhân tố nổi trội nhất, chi phối những mâu thuẫn và sự vận động của các mối quan hệ giữa
mỗi quốc gia trên thế giới. Và cũng khác với trước, ngày nay lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực, những lợi ích toàn cầu
(ví dụ: hòa bình, vấn đề môi sinh, vấn đề phát triển...) đóng vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc phát triển
nhng mâu thuẫn, cũng như trong việc tạo ra những tập hợp lực lượng mới ngày nay trên thế giới. Sự thật hiện nay
là bốn nước xã hội chủ nghĩa còn lại tuy có những mối quan hệ với nhau ở mức độ nhất định, song không thể hành
động và không có giá trị trên trường quốc tế như một lực lượng linh tế và chính trị thống nhất... Nói riêng quan hệ
Việt Nam-Trung Quốc, Việt Nam-Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên thì tính chất quốc gia lấn át (nếu chưa
muốn nói là loại bỏ) tính chất xã hội chủ nghĩa trong mối quan hệ giữa những nước này. Thậm chí trong quan hệ
Viêt Nam-Trung quốc tồn tại không ít điểm nóng.”

Hai:Về kinh tế quóc doanh và kinh tế tư nhân, ông Võ Văn Kiệt đánh giá như sau: “Chúng ta phải chủ trương đối
xử bình đẳng với các thành phần kinh tế, chúng ta chấp nhận không đặt ra cho các thành phần kinh tế bất kỳ giới
hạn phát triển nào, miễn là sự phát triển ấy cân đối, hài hòa, ổn định nằm trong khuôn khổ luật pháp... Trong tinh
thần đó, trừ một số lĩnh vực quan hệ đến an ninh quốc phòng và phát triển cơ sở hạ tầng (bao gồm các mặt xã hội)
không nên và không thể đặt vấn đề “ưu tiên” cho kinh tế quốc doanh làm nhiệm vụ nắm giữ mọi thứ gì đó, như
chúng ta đã thường làm trong cơ chế quản lý cũ.”

http://www.daiviet.org/dvc2.asp?action=vdt&mdn=194&chude_id=47 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com
Đại Việt-daiviet.org Page 9 sur 9

Ba: Về chủ trương “Cải Cách Hành Chánh”, đã bàn thảo trong cuộc Hội nghị Ban Bí Thư Trung ương (20-12-
1994) và Hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương lần thứ 8 (từ 14 đến 23-1-1995), ông Võ Văn Kiệt nhấn mạnh,
rằng: “Đã đến lúc bộ máy quản lý nhà nước các ngành và các cấp phải đoạn tuyệt với cơ chế “chủ quản” và với bất
kỳ hoạt động kinh tế nào, phải được cải cách để làm đúng chức năng quản lý nhà nước. Phải xem đó là nội dung
chủ yếu của nhiệm vụ cải cách hành chánh.”

Bốn: Về các vấn đề “Chống” và “Xây” trong Đảng hiện nay, ông Võ Văn Kiệt nghiêm khắc đề xuất ý kiến, rằng:
“Trong thực tiễn, Đảng ta đang đứng trước yêu cầu phải đẩy mạnh đấu tranh chống các hiện tượng vô chính phủ,
cục bộ bản vị (đạc biệt trong lĩnh vực kinh tế), đồng thời phải nghiêm túc thực hiện những nguyên tắc dân chủ trong
Đảng. Phải mạnh dạn từ bỏ ngọn cờ xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, thay vào đó là ngọn cờ Dân tộc và Dân chủ!”

(Trích nguyên văn trong bản “Góp Ý Kiến “ của ông Võ Văn Kiệt, đề ngày 9-8-1995)

Những ý kiến góp ý của Võ Văn Kiệt, đã chứng tỏ ông ta đã thức thời trước sự phát triển của cao trào dân chủ
trên toàn cầu, nhưng bản văn góp ý kiến rất quan trọng của ông Thủ tướng CSVN đã không được tập đoàn thống
trị Đỗ Mười-Lê Đức Anh chấp nhận! Tuy họ không đưa ra phê phán công khai, vì còn ngại thế lực ủng hộ Võ Văn
Kiệt của Đảng bộ Nam Bộ, và của đội ngũ cán bộ trí thức ở trong và ngoài Đảng! Tuy nhiên, tập đoàn Đỗ Mười –
Lê Đức Anh đã đưa quan điểm bảo thủ, giáo điều cực tả của họ, phản bác quan điểm của ông Võ Văn Kiệt, vào
trong “Báo Cáo Chính Trị của BCHTƯ Đảng Khóa VII “ tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII của Đảng CSVN
(6-1996) (Chúng tôi sẽ đề cập trong giai đoạn 1996-2000).

Đường dây tải điện Bắc Nam , bắt đầu từ năm 1992, hoàn thành vào giữa năm 1995, đã củng cố vững chắc
cái ghế Thủ tướng của Võ Văn Kiệt, cho dù người thân tín của ông ta, là Bộ trưởng Năng lượng Vũ Ngọc Hải bị 6
tháng tù, vì tội biển thủ 4.000 tấn sắt (?) Việc đuổi nhà của một số tướng ta,ù xây cất bất hợp pháp trên đê
Yên Phu-Hànội, của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đã làm cho Lê Đức Anh “ngậm bồ hòn không nói ra lời” với đàn em
mà hắn, với tư cách Bộ trưởng Quốc Phòng, đã làm ngơ cho họ làm bậy! Trong vụ đuổi nhà này, dân chúng Hànội
rất hoan nghênh thủ tướng, nhưng thủ tướng lại bị một số tướng tá, đàn em của Lê Đức Anh, ngấm ngầm oán
giận, chờ cơ hội trả thù (!?)

Trong BCTTƯ Đảng khóa VII có một nhân vật người Nam bộ, nhưng không đứng về phe nhóm Võ Văn Kiệt mà
lại ngả về phe nhóm Đỗ Mười – Lê Đức Anh. Đó là Nguyễn Hà Phan, Ủy viên TƯ Đảng đã được bổ sung vào Bộ
Chính Trị, trong hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (20-1-1994). Nào ai có ngờ, trong Hội nghị Trung ương lần thứ 10
(khóa VII), họp từ ngày 12 đến 20-4-1996, Nguyễn Hà Phan lại bị lột hết chức trong BCHTƯ Đảng và bị khai trừ ra
khỏi Đảng, vì tội: “ Khi bị bắt, bị tù. . . không giữ được khí tiết của người Cộng sản, đã khai báo với địch nhiều cơ sở
cách mạng và sau khi ra tù, từ năm 1964 đến nay, không báo cáo đầy đủ với Đảng về những sai lầm của
mình.”(Theo “Thông Báo Nội Bộ” ngày 27-4-1996 của Ban Thường Vụ Thành Ủy thành phố HCM, do Ủy viên
Thường trực Nguyễn Ngọc Ẩn ký tên, đóng dấu). Có dư luận cho rằng, chính người của Võ Văn Kiệt đã điều tra và
báo cáo tội lỗi của Nguyễn Hà Phan cho “Ban Bảo Vệ Chính Trị Nội Bộ Trung ương Đảng” biết (?).

Thực tế, đây là sự tranh chấp quyền lợi, địa vị, và tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng, cán bộ và Đảng
viên trên cả nước, trước khi tiến hành Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VIII của Đảng CSVN, giữa hai phe nhóm
có quyền lực nhất! Cuộc tranh chấp gay gắt đến nỗi Lê Phước Thọ, Trưởng Ban Tổ chức TƯ Đảng, phải than với
Võ Văn Kiệt rằng: “Tình trạng phân hóa nội bộ hiện nay của Đảng ta đang trở thành nguy cơ rã Đảng!”(Theo tiết lộ
của Đoàn Mạnh Giao, Chánh văn phòng Thủ tướng).

(Xem tiếp Giai đoạn 1996-2000)

Lê Tùng Minh

In bài này
l Cựu đề mục
l BÀI NHẬN ĐỊNH CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN CHÍ THIỆN VỀ ỨNG CỬ VIÊN JOHN KERRY (8/18/2006)
l Bush Hay Kerry Và Những Nét Đặc Thù Không Hẳn Dân Chủ Của Nền Dân Chủ Hoa Kỳ (8/18/2006)
l Nhà Nước Việt-Nam Phải Chấm Dứt Độc Quyền Nhập Cảng Các Sản Phẩm Văn Hoá và Thông Tin (8/18/2006)
l CON BÚP BÊ CỦA MẸ (Trích Tập Truyện "Những Chặng Đời") (8/18/2006)
l HẬU TRƯỜNG SÂN KHẤU BẦU CỬ TỔNG THỐNG HOA KỲ, NĂM 2004 (8/18/2006)
l Nhân Ngày Phụ Nữ 8 Tháng 3 Nhìn Lại Chỗ Đứng Của Người Phụ Nữ Trong Xã Hội Việt Nam (8/18/2006)
l Những Chủ Nhân Lầu 3 (Về Hội Nhà Văn Việt Nam) (8/18/2006)
l NHỮNG BÀI HỌC TRI HÀNH RÚT RA TỪ LỊCH SỬ: ĐỌC HỒI KÝ “ĐẤT NƯỚC TÔI” CỦA CỰU THỦ TƯỚNG NGUYỄN BÁ CẨN.
(Bài Hai) (8/18/2006)
l Phản Ứng Của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam Sau Khi Bị Hoa Kỳ Liệt Kê Vào Danh Sách "Các Nước Đặc Biệt Quan
Tâm" (8/18/2006)
l Thư Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh (8/18/2006)
l Tân đề mục
l Vòng Đua Cuối Cùng BUSH, CON NGƯỜI VÀ CHÍNH SÁCH (8/18/2006)
l Vụ Án siêu Nghiêm Trọng Giữa Cung Đình Hà Nội: Cuộc Đấu Đá Ngày Thêm Gay Gắt (8/18/2006)
l Thơ: DÒNG LỆ XÓT XA - THƠ GỞI MẸ (8/18/2006)
l Thơ: BÁC THA HƯƠNG ĐÓN CHÀO TÂN LÃNH SỰ NHÀ HỒ - BÀI HỌC THỨ NHẤT CHO TÂN LÃNH SỰ HỌ TRẦN - BÀ ƠI,
THƯƠNG LẤY BÁC HỒ - TRẬN ĐỒ BA LÁ (8/18/2006)

Số báo khác: Số 42

Copyright(c) 2006 by daiviet.org | »» Liên lạc»» | »» Trang nhà»» | »» Giới thiệu»»

http://www.daiviet.org/dvc2.asp?action=vdt&mdn=194&chude_id=47 31/10/2006
PDF created with pdfFactory Pro trial version www.pdffactory.com

You might also like