You are on page 1of 12

Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ được mệnh danh là”lá cờ đầu của phong trào

thơ văn chóng pháp ” với khí phách của một nhà nho yêu nước, ông đã thể hiện
được vai trò của mình trước cảnh nước mất nhà tan.
Nhà thơ càng thấy vai trò, trách nhiệm của mình bao nhiêu ông càng cảm thấy đau
xót, thương tiếc bấy nhiêu trước cảnh lầm than của nhân dân.Do đó, những vần
thơ của cụ đồ Chiểu bao giờ cũng chất chứa một khí phách, một thái độ không đội
trời chung với giặc. Trong sự nghiệp sáng tác của mình cụ đã để lại nhiều tác
phẩm có giá trị, một trong số đó phải kể đén là bài”văn tế nghĩa sĩ cần giuộc”.Đây
được xem là “án văn” sáng ngời trong nền văn học nước nhà. Sự trường tồn của nó
không những thể hiện ở sự mẫu mực về mặt nội dung và nghệ thuật mà còn thể
hiện ở tấm lòng, tình cảm sâu đậm của tác giả đối vối những người nghĩa sĩ.Từ
trước đến nay không có bất kì một ai khi đọc qua tác phẩm này mà không có cảm
xúc đặc biệt về nó. Và một lần nữa khi được tiếp xúc lại tác phẩm này em càng
tấm thía hơn về những giá trị thẫm mĩ cũng như những giá trị nhân đạo mà
Nguyễn Đính Chiểu đã gởi gắm.
Trước khi đi vào tìm hiểu bài”văn tế nghĩa sĩ cần giuộc” ,chúng ta cần khái
quá đôi nét về cuộc đời và hoàn cảnh của cụ đồ Chiểu. Bởi chính những điều
khiện khách quan này đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn tính cảm cũng như thái
độ phản kháng của cụ đối với giặc.Có thể nói Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ
từ khi sinh ra và lớn lên đã sống trong cảnh đất nước rối ren, loạn lạc.Ông đã từng
chứng kiến biết bao cảnh li tán của nhân dân:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim giáo giác bay”
(chạy giặc Nguyễn Đình Chiểu)
Hoàn cảnh xã hội thì trăm mối ngỗn ngang, nhân dân không có đ7ược cảnh
an bình yên vui.Sống trong một thời thế như vậy làm sao Nguyễn Đình Chiểu
không khỏi xót xa đau đớn.Ông càng thương người bao nhiêu nhà thơ càng thương
mình bấy nhiêu, bởi chính ông cũng là nạn nhân của sự sắp tàn lụi của một thể chế
thống trị.Mặt khác, Nguyễn Đình Chiểu được sinh ra trong một gia đình nho gia.
Chính dòng máu, tư tưởng yêu nước truyền thống của cha ông đã ăn sâu, thấm
nhuần từ trong tim óc của cụ đồ Chiểu cho nên mặt dù bị mù lòa nhưng cụ vẫn
thấy được trọng trách của mình trước đất nước và quyết tâm chiến đấu vối giặc
bằng ngồi bút văn thơ:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không tẩm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
Tinh thần yêu nước sâu nặng và ý chí căm thù giặc sâu sắc ấy của cụ
Nguyển Đình Chiểu được thể hiện khá cụ thể và điển hình trong bài “văn tế nghĩa
sĩ cần giuộc”.Sau khi thực dân pháp bước chan sâm lược nước ta thì nhiều cuộc
khởi nhgia4 được nổ ra liên tiếp.Tuy các cuộc khởi nghĩa ấy diễn ra không thành
công nhưng nó đã nêu cao tinh thần chiến đấu bất khuất của nhân dân ta. Để tiếp
lửa cho phong trào đấu tranh của nhân dân, đến 1859 khi pháp chiếm gia định,
Nguyễn Trui Phương đã bì mật lãnh đạo nhân dân nổi dậy đánh pháp và giành
nhiều thắng lợi sau đêm 16/12/1961. Bên cạnh đó, nghĩa quân cũng bị tổn thất
nặng nề, có 27 người hy sinh .Trong bối cảnh đó, Nguyễn Tri Phương đã ra lệnh
cho Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế để tưởng niệm, ghi công những người đã
khuất.Đồng thời cũng nêu cao tinh thần anh dũng hy sinh của các nghĩa sĩ giám
quên mình để bảo vệ đất nước. Sau khi được lệnh Nguyễn Đình Chiểu vô cùng
xúc động và viết ra bài văn tế với một tấm lòng cảm phục trước những nghĩa cử
cao đẹp và một trái tim nhân đạo sâu sắc.
Chính xuất phát từ những rung cảm mạnh mẽ của trái tim yêu nước, căm
thù giặc sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu đã mở đầu bài văn tế trong một diễn
cảnh thật là khóc liệt:
“Súng giặc đất rèn
Lòng dân trời tỏ”
Với hình thức câu văn ngắn gọn, tác giả đã khái quát được hoàn cảnh lịch
sử của đất nước ta trong một cuộc chiến tàn khóc. Thông qua tính chất biềm ngẫu,
câu văn đã so sánh thế chiến trong một cán cân không cân xứng. Một bên chiến
đấu với một phương tiện hiện đại, mà sức công phá của nó thật dử dội. Còn một
bên chống lại là “lòng dân” chỉ có giá trị tinh thần, một tấm lòng yêu nước. Trước
sự so sánh, đối chiếu thế chiến đó của cuộc_______________,Nguyễn Đình Chiểu
cũng đã ngầm xác định được tính chất, mục đích của cuộc chiến giữa ta và giặc.
Tuy giặc được trang bị vũ khí tối tân, hiện đại nhưng mục đích của chúng là xâm
chiếm, là cướp nước ta vì lợi ích riêng .Đấy là chiến tranh phi nghĩa. Nhưng ngược
lại, nhân dân ta chóng giặc không ngoài một tinh thần yêu nước nhưng ta quyết
tâm chiến đấu, quyết hy sinh vì giữ gìn dân tộc, đất nước. Đấy chính là nhân tố
quan trọng quyết định sự thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa. Chính vì thế
mà chúng ta thấy không phải ngẫu nhiên nhà thơ sử dụng hai động từ “rền”, “tỏ”
có tính chất đối nghịch, mang nội hàm ý nghĩa sâu sắc. Ngay ở động từ “rền” ta
cũng thấy được sức tố cáo của ông đối với giặc. Đó là một hánh động không phải
đạo, không hợp vpo7i1 trời đất, d0o1 là một việc làm trái đạo lí, một hành động
giã man, khóc liệt. Còn “tỏ” là sự soi sáng của đất trời, là chân lí của cuộc sống,
chiến thắng bao giờ cũng về gia cấp chính nghĩa. Đấy là một tư tưởng tiến bộ, một
quan điểm đúng đắn hợp lòng dân. Chính sự đối nhau chan chát giữa hai vế của
một cau văn biềm ngẫu đã làm nổi bật tính chất nghiêm trọng và quyết liệt của
cuộc chiến tranh.
Sau khi giới thiệu khung cảnh của cuộc chiến, Nguễn Đình Chiểu đi vào
nêu bật chủ đề luận lẽ sống chết trong phần lung khỏi .Đó là sự hy sinh vẻ vang
của những người nghĩa sĩ:
“Mười năm công vở ruộng, chưa ắt còn danh nổi như
phao,một trận nghĩa đánh tây, tuy là tiếng vang như mõ”
Cách lập luận câu văn của nhà thơ thật chật chẽ, xác đáng.Bởi bằng những
lí lẽ của mình, ông đã đưa ra những dẫn chứng, những việc làm rất cụ thể, dễ hiểu
“vỡ ruộng” đấy là một việc làm bình thường, quen tay, quen mắt của người dân.
Với ông công việc ấy cho dù người nông dân có làm trong thời gian “mười năm”
đi chăng nữa thì cái danh tiếng của mình chưa chắc được người đời lưu nhớ.Bởi
đấy là việc làm bình thường vì mục đích phục vụ cho cuộc sống, cho cá nhân.
Nhưng bằng ngược lại người nông dân chỉ tham gia trong “ một trận đánh tây” tuy
có thể hy sinh nhưng danh tiếng sẽ được lưu truyền ngàn năm. Bởi đấy là một việc
làm thật cao cả vì mục đích chung cho cả dân tộc, đất nước, nó mang lại ý nghĩa
hết sức lớn lao. Cách so sánh giữa “mười năm công vở ruộng” với “một trận đánh
tây” và “chưa ắt còn danh” với “tiếng vang như mõ” đã tạo ra sự lập luận chặt chẽ,
một cách lí giải hợp lý. Thông qua cách lập luận đó cho ta thấy được quan điểm
“chết vinh còn hơn sống nhục” hay “đánh một trận không thành công cũng thành
nhân” .Đấy không phải là quan điểm riêng của Nguyễn Đình Chiểu mà còn là
quan điểm chung của toàn thể nhân dân việc nam ta khi bị mất nước. Đồng thời
chúng ta cũng thấy được tinh thần căm thù giặc của cụ Đồ Chiểu
Nếu ở phần lung khởi Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi sự hy sinh cao đẹp của
những người nghĩa sĩ thì đến phần thích thực nhà thơ mở đầu bằng việc giới thiệu
hoàn cảnh xuất thân của họ thật đáng thương:
“Nhớ lại xưa
Cui cúc làm ăn, toan lo nghèo khó”
Với một câu văn không quá tám chữ, Nguyễn Đình Chiểu đã làm nổi bật
lên được hai đặc điểm vốn có của người nông dân.Đấy là cuộc sống lam lũ, vất vã
và tính cần cù chịu khó, những con người áo vải, tay không đánh giặc. Nét độc đáo
của câu văn không còn dừng lại ở cách dùng từ “cui cút” rất đắc của tác giả. Bởi
chính từ”cui cút”không những lột tả được cuộc sống lam lũ nghèo khó của họ mà
còn chất chứa cả tấm lòng nổi thương xót của nhà thơ tru6o6c1 số phận của những
người lao động vất vã ấy, thật hình ảnh gợi lên biet1 bao nhiêu qua từ “cui cút”
đáng thương này.
Theo mạch ngẫu hướng của lối văn biềm ngẫu, Nguyễn Đình Chiểu muốn
đưa ra hàng lọt những dẫn chứng để chứng minh đây là những con người chưa
quen với cảnh trường nhung
“chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết con trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm, tập khiên, tập súng, tập
mác, tập cờ mắt chưa từng ngó” .Với tính cách mọc mạc, người nông dân việc
nam là những người yêu chuộng hào bình, thích cuộc sống giản dị, lao động sản
xuất nông nghiệp là nghề nghiệp chính. Vì thế, suốt ngày họ chỉ lo quanh quẩn
trong làng, làm những công việc thật quen thuôc “viêc cuốc.việc cày, việc bừa,
việc cáy’.Tuy công việc đồng án có phần vất vã nhưng đối với họ đó là công
việc”tay vốn quen làm.” Nhưng hôm nay trước hoàn cảnh đất nước bị họa xâm lân
thì những con người chân lắm tay bàn, những con người vốn vĩ “chỉ biết ruộng
trâu” kia cũng phải sẵn sàn trong tư thế “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ” mặt
dù đấy là những việc “mắt chưa từng ngó” bởi đây không phải là công việc chuyên
dụng của người nông dân mà đấy là trách nhiệm của quân cơ, quân vận, của những
con người lãnh đạo đất nước. Cho nên “cung ngựa, trường nhung” là thứ mà ngưới
nông dân “chưa quen “ lắm, chưa hiểu biết nhiều về chúng. Chính điều đó cho ta
thấy ,mặc dù họ là những con người áo vải, những con người nông dân bình
thường nhưng chất chứa một trái tim yêu nước nồng nàng. Đối với họ những công
việc quân nhân là những công việc chưa từng biết, chưa thấy qua, nhưng với ý
thức trách nhiệm của một người dân việc nam thì họ không thể nào đứng yên trước
hoàn cảnh dầu sôi lửa bổng này. Và nếu ta thấy được sự đối nhau giữa các cặp từ
“chưa quen”, “chưa từng ngó” với “chỉ biết”, “vốn quen làm” thì càng làm nổi bật
hơn nữa tinh thần yêu nước của người nghĩa sĩ. Chính sự lập luân, đối chiếu, so
sánh của tác giả đã phần nào nói lên được bản chất vốn vĩ của người nông dân việc
nam, càng làm khắc họa hơn lên cái phẩm chất đáng quí của hình tượng người
chiền sĩ cần giuộc và các tinh thần yêu nước kia nó dần dần được bộc lộ qua trạng
thái tâm lý ban đầu:”Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trong tin quan
như trời hạn trong mưa, mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà
nông ghét cỏ.” đó là những thời gian mà người dân phải sống dười tâm trạng căm
tức, phẩn nộ trước những hành động xước ngược của kẽ thù. Tuy thế họ vẫn cố
nhẫn nhục để trông chờ vào triều đình và chúng ta cần nên hiểu
Bữa thấy bồng bông che trắng lớp, muốn tới an gan ngày xem ống khói chạy đen
xì, muốn ra cắn cổ, lo lắng là tâm trạng chung của bất kì người dân nào khi nhìn
thấy bống giặc ở trên đất nước, nhưng nổi phập phồng lo sợ ấy kéo dài “Hơn mươi
tháng” Tâm trạng lo lắng ở đây không phải là vì thấy vẻ hung hãn của giặc mà
người dân sợ chúng , không dám chống lại, không dám đấu tranh mà nổi lo ở đây
là nổi lo của một người công dân yêu nước trước vận mệnh dân tộc. Bởi vì “trông
tin quan như trời hạn trông mưa” thái độ hèn nhác của triều đình nhà nguyễn đã
làm cho dân chúng rơi vào tình trạng nôn nóng “phập phồng” . Mặt dù người dân
biết được sự hèn nhác của triều đình là thế nhưng vẫn tinh tưởng và huy vọng có
một trang nam nhân, một người lãnh đạo để đứng ra đánh đuổi kẻ thù và niềm huy
vọng kia tưởng trừng như vô vọng thì “mùi tinh chiên vấy vá đà ba mươi năm”
.thật độc đáo khi Nguyễn Đình Chiểu sử dụng hình ảnh “mìu tinh chiên”để ám chỉ
kẻ thù. Đấy là những con người thói nát, hôi tanh, là những thứ rác rưỡi bỏ đi.
Điều đó cũng thể hiện được phần nào tâm trạng căm thù, nổi phẩn nộ của nhà thơ
trước những kẻ xâm lược. Điều đó càng trở nên đặc sắc hơn khi tác giả sử dụng so
sánh “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” cách so sánh thật hình ảnh nhưng cũng
rất cụ thể, gần gũi. Bởi người nông dân không có ghét cái gì bằng “cỏ” bởi chính
nó đã phá hoại sự sống của họ , chính nò gián tiếp làm cho họ trở nên vất vả hơn,
cực khổ hơn và không được đầy đủ,no ấm của cuộc sống thanh bình. Đồng thời
cách so sánh ấy cũng tạo cho chúng ta một sự gần gũi, một cách cụ thể , gợi được
tính bộc trực, phẩm chất mộc mạc chất phát của người nông dân –người nghĩa sĩ
Và một khi cái tam trạng căm thù kia được nâng lên một bậc, những con
người nghĩa cử này bộc lộ trạng thái căm phẳng cực độ, mọi hành động việc làm
của chúng cũng khiến người dân giận dữ và hễ gập được chúng lá”muốn ăn
gan””muốn cắn cổ” Trong một câu văn ngắn Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng hình
ảnh mạnh “ăn gan”, “cắn cổ”, đây không phải là hành động dã man nhưng đấy là
cách bộc lộ tâm trạng căm tức của những con người vốn vĩ yêu chuộng hào bình
đối vời kẻ phá hoại cuộc sống bình yên của người khác
Sự chờ đợi trong vô vọng, những con người áo vải, chân bùng đã biến lòng căm
thù tột độ thành hành động, họ ý thức được trách nhiệm của mình trước đất nước.
“một mối xa thư xa thư đồ sộ,hà để ai chém rắn đuổi hươu, hai vầng nhật nghuyệt
chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”
Việt Nam là mọt dân tộc nhỏ bé nhưng kể từ khi khai sơ đên nay không bao
giời chịu khuất phục với bất kì một kẻ thù lớn mạnh nào. Và hơn ai hết, mỗi người
dân Việt Nam quyết ra sức bảo vệ “một mối xa thư đồ sộ” này sẽ mãi mãi trường
tồn. Tuy Việt Nam là một quốc gia không lớn mạnh nhưng ngược lại người dân
Việt Nam lại có một tấm lòng yêu nước rất nồng nàng. Do đó, khi đất nước rơi
vào họa xâm lăng thì hàng triệu triệu trái tim yêu nước của người Việt Nam luôn
hướng về nhau, một lòng chung sức đứng lên trong khi sức chịu đựng và lòng kiên
nhẫn đã cạn, người nông dân quyết “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” để trở thành người
chiến sĩ không chuyên : Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình,
chẳng thèm chốn ngược chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”
“Nào đợi ai đòi ai bắt”, đấy là một tinh thần tự giác tự nguyện của người chiến sĩ,
tinh thần ấy nó xuất phát từ lòng yêu nước, từ ý thức trách nhiệm của người công
dân. Thật đẹp và ý nghĩa biết bao tấm lòng cao cả ây s của những con người”áo
vải”. Bắt đầu mỗi vế của một câu văn là từ”nào đọi”, “chẳng thèm”, đến đây một
thái độ hoàn toàn dứt khoát, rõ ràng xác định được mục tiêu hành đông của mình,
chứ không còn trong một trạng thái”phập phồng” như ban đầu. Và bộ mặt hèn
nhát của triều đình phong kiến càng lộ rõ hơn, chúng cũng chỉ là những bọn hoạn
quan vô ích. Không sứng đáng là những con người lãnh đạo dân tộc quốc gia. Từ
đó, cho chúng ta càng thêm yêu quý biết bao cái tinh thần vì nghĩa của các chiến sĩ
“áo vải” đã giám xã thân cứu nước. Họ là những con người chỉ biết “ruộng vườn”
ở trong “làng bộ” vậy mà vẫn hiên ngang dõng dạc đứng lên phất cờ chiến đấu,
đấy quả là một hình tượng đẹp đẽ vô cùng
(Bao giờ vẫn thế, bên cạnh-----khắc hạo nên những vẻ đẹp bất khua6t1cua3 những
nghĩa sĩ thì cũng đồng thời lột tả vẻ mặt xấu xa, độc ác của bọn lang sói qua hình
ảnh “lũ treo dê bán chó “ ,đó là bọn mặt người dạ thú chỉ biết bóc lột chà đạp nhân
dân ta đến tận xương cốt chúng đã gây biết bao tội lỗi .Thật đáng giá với một hình
ảnh tượng trưng mà Nguyễn Đình Chiểu đã hàm chứa biết bao điều tố cáo ,lên án
đối với bọn người xâm lược.Nó vừa có sức đấu tranh vừa thể hiện được thái độ
căm thù của nhà thơ đối với bọn giặc dã thú kia).
Với hình thức sử dụng hoán dụ tu từ “đoạn kình “,”bộ hổ”,cho ta thấy được
sức mạnh ,khí thế hăng hái ra trận của các nghĩa sĩ .Cái khí thế hùng hục hiên
ngang ra trận ấy không phải xuất phát từ sự hiếu chiến mà nó bắt nguồn từ việc
xác định đúng mục tiêu hoạt động chiến đấu là vì mục tiêu giành lại nền độc lập
cho nước nhà ,mang lại cuộc sống bình yên ,hạnh phúc cho mọi người chứ không
chiến đấu vì sự tranh giành quyền lợi của các giaai tầng phong kiến như trước,do
đó “nào đợi ai đòi ai bắt “,”chẳng thèm chốn ngược chốn xuôi “mà họ sẵn sàng
chiến đấu với kẽ thù ,thái độ ấy mới đáng quý đáng trân trọng và điêu ấy càng đẹp
hơn đối với những con người chỉ biết”việc cuốc việc cày việc bừa” lại có cách suy
nghĩ như những bậc trượng phu anh hùng.Đồng thời đây cũng là cái nhìn tiến bộ
của Nguyễn Đình Chiểu trong việc xác định vai trò sứ mệnh lịch sử của người
nông dân trong cuocj cách mạng và nó còn có giá trị mãi sau này.
Nếu ở đoạn văn trên Nguyễn Đình Chiểu tự hào với khí thế hùng hụt ,phấn
khởi ra trận của các nghĩa sĩ thì đến đoạn này như giọng điệu có phần trầm lắng
hơn chi nói đến những thiếu thốn của họ:
“Khá thương thay !
“Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ ,theo dòng ở lính diễn binh ,chẳng qua là dân ấp
dân lân ,mến nghĩa làm quân chiêu mộ”.
Họ vốn dĩ xuất thân từ những con người suốt ngày mắt chỉ quen cái cày
,luống đất ,đối với họ từ xưa đến nay chưa có khái niệm về chốn”trường
nhung”.Nhưng ngược lại cài đáng quý của họ là ở chỗ”mến nghĩa làm quân chiêu
mộ “.Do đó những bước đầu họ củng gặp phải những điều khó khăn về quân cơ
quân ngũ và thiếu thốn ngay cả trong thao trường luyện tập:
“Mười tám ban võ nghệ ,nào đợi tập rèn,chén chịu trận binh thư ,không chờ bày
bố”.
Chính xuất phát từ lòng tự nguyện nên tinh thần tự giác của họ rất cao ,bao
nhiêu khó khăn trong chốn “trường nhung” này không làm giảm đi khí thế hăng
hái đánh giặc của các chiến sĩ.Do đó”nào đợi tập rèn”,”không chờ bày bố”.Thì họ
cũng trang bị cho mình những kiến thức đơn sơ ,cần thiết và sự thiếu thốn này
cũng là điều tất yếu bởi họ đâu có “theo dòng ở lính diễn binh”.
Ngoài những thiếu thốn về mặt chuyên dụng họ còn phải gặp khó khăn về quân
trang ,vũ khí:”ngoài cật có một manh áo vải nào đợi mang bao tấu ,bầu ngòi ,trong
tay cầm một ngọn tầm vông ,chi mài sắm dao tu ,nón gõ”.
Nếu trong cuộc sống họ là những con người lam lũ ,nghèo khổ thì bước vào
chiến đấu thì cũng gặp cảnh thiếu thốn khổ nghèo ,thật đáng thương thay cho
những con người “mến nghĩa” mặc dù ,khó khăn nối tiếp khó khăn nhưng vẫn
không làm trùng bước tiến quân của các nghĩa sĩ.Ngược lại họ phải khắc phục
những khó khăn đó và bước ra trận với những vũ khí thô sơ bằng “ngọn tầm
vông”,”lưỡi dao phai”,”rơm con cúi”.Tuy trong tay chỉ có những vũ khí thô sơ
nhưng với một khí thế quyết tâm chiến đấu thì những thứ thô sơ kia cũng phát huy
được sức mạnh:
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi ,cũng đốt xong nhà dạy đạo kia ,gươm đeo dùng
bằng lưỡi dao phai cũng chém rớt đầu quan hai nọ”.
Đến đây ta thấy dọng điệu của câu văn trở nên mạnh mẽ như chính khí thế
hùng hồn của nghĩa quân.Chính câu văn cũng đã khắc họa nên được dáng vẽ anh
dũng ,hiên ngang ra trận của người chiến sĩ và càng tự hào hơn nữa là chỉ bằng
những công cụ đơn sơ như”rơm con cúi”,”lưỡi dao phai” cũng cho bọn giặc sống
dỡ chết dỡ.
Trên đà thắng lợi nghĩa quân nâng cao khí thế tiến công và quyết tâm đuổi
giặc:
“Chi nhọc quan quản giống trống kì trống giục ,đạp rào lướt
tới coi giặc cngx như không ,nào sợ thằng tây bắn đạn nhỏ đạn to ,xô cửa xông
vào ,liều mình như chẳng có kẽ đâm ngang người chém ngược làm cho nã tà ma ní
hồn kinh ,bọn hè trước lũ ở sau chối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”.
Mỗi câu văn của Nguyễn Đình Chiểu như khác họa thêm một đường nét cụ
thể của hình tượng người nghĩa sĩ đó là tấm lòng dũng cảm hiên ngang.Hinh như
càng viết Nguyễn Đình Chiểu càng say sưa ,phấn khởi với những chiến thắn của
nghĩa quân .Và đến đây ta cảm nhận được là cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng đang ra
trận cùng các nghĩa sĩ với vũ khí là ngọn bút đang bay lượn với khí thế tiến công
đó.
Với hai câu văn biền ngẫu ,nhà thơ đã ca ngợi dáng vẽ hiên ngang ,tinh thần
hỏa cãm quyết hy sinh của người nghĩa sĩ.Hình ảnh hiên ngang “đạp rào lướt
tới”đã làm cho bọn “mã tà ma tí hồn kinh”.
Nếu những người nông dân khi xưa chỉ biết “coi cút làm ăn ,toan lo nghèo khó”thì
chính hôm nay những con người”áo vải”đó đã trở thành những người chiến sĩ
dũng mãnh xông pha trên chiến trận với một khí thế “coi giặc như không ,nào sợ
thằng tây bắn đạn nhỏ đạn to ,xô cửa xông vào”.Điều đó cho ta thấy những vũ khí
hiện đại của giặc như “đạn nhỏ đạn to”,”tàu sắt”,”tàu đồng súng nổ” đã không làm
cho nghĩa sĩ khiếp sợ.Ngược lại nghĩa quân tiến công với một khí thế chiến thắng
tăng dần qua các tứ như:”đạp ,lướt ,xô ,xông,đâm ,chém ,hè ,ó”đây là những động
từ mạnh chính nó cũng đã góp phần tạo thêm sức mạnh chiến đấu của nghĩa quân
và chỉ với hai câu ngắn gọn Nguyễn Đình Chiểu cũng đã miêu tả lại cảnh tiến
công giết giặc của nghĩa quân rất là sinh động ,dũng cảm và đồng thời cũng thể
hiện được niềm tự hào của tác giả đối với những người nghĩa sĩ.
Qua đó ,chúng ta thây Nguyễn Đình Chiểu khắc họa hình tượng kì vĩ của
người nghĩa sĩ vừa để ca ngợi ,tự hào vừa thẻ hiện một chân lý lịch sử đung đắn.
Đó là một dân tộc nhỏ bé chiến dấu bằng vũ khí thô sơ nhưng vẫn có thể chiến
thắng kẻ thù lớn mạnh với vũ khí hiện đại ,và chân lý thời đại này đã được đảng ta
vận dụng qua mấy mươi năm lèo lái con thuyền cách mạnh.Đây chính là cái nhìn
tiến bộ ,cái nhìn vượt thời đại của tác giả.Ông đã thấy được vai trò sứ mệnh lịch sử
của người nông dân.Đó là những con người chân lấm tay bùn nhưng có một tầm
lòng yêu nước sâu sắc cũng như nhà thơ Nguyễn Đình Thi nói:
“Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”.
Họ là những con người áo vải bình dân nhưng có một sức mạnh tiềm tàng
và một khi sức mạnh đó được liên kết ,được phát huy thì nó sẽ tạo ra một luống
sóng dữ dội cuốn trôi tất cả.Và điều đó được Nguyễn Đình Chiểu thể hiện khá đặc
sắc qua hình ươnj đẹp đẽ của người nghĩa sĩ cân giuộc.
Nếu như trong phần thích thực ngòi bút của Nguyển Đình Chiểu bay lượng
tự hào bao nhiêu thì đến phần ai văn nhà thơ lại càng xót thương nhỏ lệ trước
những con người vì nghĩa lớn lại có cuộc đời ngắn ngủi:
“Những -----------------------------,đâu biết xác phàm vội bỏ”.
Biết rằng trong bất kì một cuộc chiến nào cũng có kẽ thắng người thua và sự thất
bại của nghĩa quân cũng là một điều tất yếu .bởi lẽ nghĩa quân chúng ta chưa đủ
tinh nhuệ ,chưa được trang bị vũ khí hiện đại mặc dù sức mạnh tinh thần có thừa.
Nhưng sự thất bại này không làm nhục chí người dân mà ngược lại chình sự ngả
xuống oanh liệt của các nghĩa sĩ sẽ là nguồn động lực lớn cổ vũ cho chúng ta nối
bước.Bởi không có bất kì một sự thành công nào mà không có mất mát nhưng có
lẽ đây là một sự mất mát quá đột ngột nên đã làm cho tác giả tác động mạnh.Lẽ
chăng những con người hiền lành chất phát ,những con người vì nghĩa lớn đáng
phải có một cuộc sống hạnh phúc ,một sự cống hiến lâu dài cho đất nước nhưng
phải chết một cách đột ngột chưa vẹn trò trí bình sinh.Và sự hi sinh đó không vì là
tủi nhục ,ân hận mà họ xem đó như là một sụ nhẹ nhàng:
“Một chất sa trường gần chữ hạnh,nào hay da ngựa bọc thây,
trăm năm âm phủ ấy chữ quy ,nào đợi gươm hùm treo mộ”.
Tuy câu văn nó đượm chất triết lí phật giáo nhưng vẫn cảm nhận được sự
ngậm ngùi thương tiếc và niềm cổ kính trang nghiêm trước cái chết của những
người nghĩa sĩ.Tác giả đã đưa vào câu văn tích cỗ “gươm hùm treo mộ” đã làm
cho hình tượng người nghĩa sĩ thêm phần trang trọng ,một sự ngưỡng mộ trước
tấm lòng vì nghĩa lớn .Đồng thời cái chết kia cũng có thanh thân ,nhẹ nhàng hơn
trở về “chữ quy”.Đấy là nhà văn đang kiềm nén cảm xúc của mình nên mới dùng
cách nói tránh nói giảm như thế ,cũng như Quang Dũng từng nói :
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông mã gầm lên khúc độc hành”.
Và ở đây cũng chính sự ra đi vì nghĩa của các nghĩa sĩ đã để lại niềm tiếc
thương cho tất cả mọi người và cỏ cây:
“Đoái sông cần giuộc ,cỏ cây mấy dặm sầu giăng ,nhìn chợ
trường bình ,già trẻ hai hàng lụy nhỏ”.
Cách đưa nhuwngc địa danh như “đoái sông cần giuộc”,”chợ trường bình”
vào câu văn tạo tinh khách quan ,cụ thể hơn như chính chúng là những chứng nhân
lịch sử.”Cỏ cây”là những vật vô tri vô giác mà còn”mấy dặm sầu giăng” huống chi
Nguyễn Đình Chiểu là một con người bằng xương bằng thit vả lại có một trái tim
thương yêu mọi người bao la nữa thì sao tránh khỏi sự xúc động.
Chính vì thương vì thấu hiểu được hoàn cảnh thiếu thốn mà tác giả đã lí
giải một cách khéo léo mục đích hoạt động vì nghĩa:
“Chẳng phải án cướp án đầy tớ ,mà vì binh đánh giặc cho cam
tâm ,vốn không giữ thành giữ lũy bỏ đi ,mà hiệu lực theo quân cho đáng số”.
Càng cảm thông bao nhiêu Nguyễn Đình Chiểu càng xót thương nhỏ lệ cho
những con nhười hiền lành:
“Tất đất ngon rau ơn chúa ,tài bồi cho nước nhà ta ,bát cơm
manh áo ở đời ,mắc mớ chi ông cha nó”
Đến đây giọng văn có phần bực tức phẫn nộ của tác giả trước những hành
động trái đạo lí của bọn cướp nước .Giọng điệu của câu”mắc mớ chi ông cha
nó”đã lột tả được thái độ căm phẫn của nhà văn .Nhưng đồng thời nó cũng nhằm
khẳng định các quyền độc lập tự chủ của mỗi dân tộc ,quốc gia.Đó là một cái
quyền mà không cho bất kì một ai xâm phạm đến .Cũng như thuở xưa Lý Thường
Kiệt khẳng định:
“Nam quốc sơn hà nam đé cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư”.
Và cũng chính những hành động trái đạo lí ,bản chất khát máu đi xâm
chiếm của bọn lang sói đã gây biết bao khổ nhọc cho dân tộc khác:
“Vì ai khiến quan quân khó nhọc ,ăn tuyết nằm sương ,vì ai xui đồn lũy tam tành
,xiêu mưa ngả gió “.
Nếu câu trên là một lời khẳng định như quyền dân tộc thì đây là một lời buộc tội
sắc bén của Nguễn Đình Chiểu đối với bọn cướp nước.Giọng điệu câu văn có phần
lên xuống nặng nhẹ bộc lộ hết hàm ý tác giả muốn nói.Đó chính là sự lên án chế
độ thực dân độc ác đi phá hoại cuộc sống bính yên của người khác, đồng thời nó
cũng chứa đựng tấm lòng yêu mến, thông cảm của tác giả đến những con người vì
nghĩa lớn phải chết một cách oan uổng như thế.Cách sử dụng đại từ nghi vấn “vì
ai” như nó mở ra một câu hỏi lớn cho toàn xã hội, đó không còn là câu hỏi trăn trở
của riêng tác giả mà nó trở thành một vấn đề chung cho những bậc yêu nước,
những bậc trượng phu.Hay nói đúng hơn, Nguyễn Đình Chiểu đã gián tiếp đòi
quyền sống, quyền tự do độc lập cho cả dân tộc Việt Nam ta.Và đến đây tiếng
khóc nghẹn ngào của tác giả đã vỡ hòa ra thành một tiếng hét lớn giữa đất trời,
đồng thời cũng thể hiện một thái độ cứng rắn quyết không đội trời chung với giặc:
“Sống làm chi theo quân tả đạo, -----------------,xô bàn độc, thấy lại thêm buồn,
sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ “..
Thà thác mà đặng công địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ
đầu tây ở với ma di rất khổ.”
Từ khi có bước chân xâm lược của bọn thực dân pháp, các lối sống tây háo của
chúng đã phá vỡ đi những viền mối phong tục tốt đẹp của dân tộc ta. Nó làm cho
nhân dân cảm thấy trái mắt với những hành động xước ngược, lưu manh của
chúng. Mà vả lại, Nguyễn Đình Chiểu lại là một con người học theo sách thánh
hiền thì càng thấy đau lòng hơn khi bọn “tả đạo”,”quẳng vùa hương”,”xô bàn
độc”. Lẽ chăng, Nguyễn Đình Chiểu khi viết đến đây như lòng mình quặn thất lại
và nghẹn ngào thốt lên những lời đau đớn “thấy lại thêm buồn”.Vâng, có thương
thì mới có buồn,có yêu thí mới có đau đớn và đấy là trạng thái tâm lý chung của
con người. Nhưng ở Nguyễn Đình Chiểu ngoài việc thể hiện tấm lòng yêu nước,
thương dân sâu sắc ra thì còn chất ẩn một khí thế, một lối sống phân biệt rạch giữa
ta và giặc. Do đó, mở đầu của mỗi vế câu văn tác giả nhấn mạnh “sống làm chi”
đã làm nổi bật một thái độ khoang thai dứt khoát. Đồng thời tác giả còn thể hiện
một thái độ khinh bỉ trước hành động “chia rượu lạt, gặm bánh mì’.Tác giả đã sử
dụng những hình ảnh cụ thể nhưng tính đã kích, phê phán rất sâu sắc các động từ
“chia”,”gặm” là những từ dùng với sắc thái xem thường, khinh rẽ đói vối những
hạn người không đàng hoàng.
Đấy chính là thái độ cương trực của những bậc trượng phu, do đó Nguyễn Đính
chiểu cũng từng nói:
“thà đuôi mà giữ đạo nhà
Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ
Thà đuôi mà khỏi danh nhơ
Còn hơn sáng mắt ăn dơ tanh rính”
Sống thì sống cho trọn nghĩa còn chết thì phải chết một cách vinh quang:
“thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ
đầu tây, ở vói man di rất khổ”.
Sống cũng đánh giặc và chết cũng đánh giặc đấy là khí thề bất khuất của những
bật trượng phu và càng đẹp đẽ hơn khi những người nghĩa sĩ cần giuộc tiếp bước
truyền thống oai hùng đó của dân tộc. Nét đẹp của một tinh thần bất tử và nó được
mãi mãi ghi danh:
“chùa tông thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm,
đồn lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ”.
Nguyễn Đình Chiểu đã thật sự thành công khi đưa những địa danh “chùa tông
thạnh”,”đồn lang sa” vào cậu.
Văn trên. Bởi tính cụ thể, khách quan của các địa danh đã làm nổi bật lên cái hay.
Tuy tác giả đau đớn xót thương cho những con người “phận bạc” nhưng nổi đau
đó không miên man mà là tấm lòng của Nguyễn Đình Chiểu giánh cho các nghĩa
sĩ , hay nói đúng hơn, các địa danh đó như là một chứng nhân lịch sử cảu một cuộc
chiến đẫm máu giữa ta và kẻ thù.
Nếu tác giả càng căm giận cho bè lũ bán nước, cướp nước bao nhiêu Nguyễn Đình
Chiểu càng xót xa thương cảm bấy nhiêu trước nổi đau mất người thân của những
người mẹ người vợ đáng thương.
“Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong liều, não nùng
thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”
Chỉ một câu văn ngắn, Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ nên một khung cảnh ảm đạm,
một sự chết chốc điu tàn. Chẳng có nổi đau nào bằng nổi đau mất người thân, nó
đau đớn như chính “phần thịt da mình mất đi’.Cái đáng nói ở đây chính là sức tố
cáo dữ dội của câu văn.Đó là tác giả đã sử dụng rất đắc hình ảnh “mẹ già khóc trẻ”
va “vợ yếu chạy tìm chồng”. “Mẹ già, vợ yếu” là những con người cần được chở
che, nâng đỡ nhưng ngược lại phải rơi vào cảnh đau đớn khóc thương cho cảnh
chia lìa đôi ngã.Điều đó cho thấy sức tìm tàn của ______________________, nó
gây biết bao cảnh đời ngang trái. “Đau đớn bấy”, “não nùng thay!” là những tiếng
thở dài xót xa của tác giả khi phải chứng kiến những cảnh đau lòng ấy. Đáng
thương biết bao khi mẹ già khóc con dưới “ngọn đèn khuya leo lét trong liều” ,”vợ
yếu” chạy tìm chồng đến “cơn bóng số dật dờ”,sự đau xopt1 đau đớn của họ tưởng
chừng như vô tận Hai hình ảnh “ngọn cờ leo lét” và “bóng xế dật dờ” nó mang
một sức tố cáo rất sắc xảo.Bởi chính “vì ai” đã gây ra những cảnh thương tâm,
đau lòng như thế.
Ne6u1ngu7o7i2 chết đã chết một cách vinh quan để chọn nghĩa chọn tình, với non
sông đất nước thì người ở lại càng cảm thấy xót đau trước những tấm gương vì
nghĩa đó. Và sự hy sinh đó của họ mãi ngày sau còn ghi danh:
“Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”
Qua cuộc nổi dậy, nghĩa quân có thể bị mất mát rất nhiều, tổn thất rất lớn nhưng
ngược lại nó đã tạo được tiếng vang lớn, Đó là tiếng phản kháng mạnh liệt của
người dân. Tuy thất bại nhưng nó đã nêu cao ngọn cờ khởi nghĩa của người dân
nam bộ nói riêng và nhân dân cả nước nói chung
Mặc dù, Nguyễn Đình Chiểu đau đớn trước sự hy sinh anh dũng của những người
chiến sĩ, biết nghĩa quân tổn thất nặng nề nhưng bên cạnh đó ông vẫn hy vọng sẽ
có một ngày có người quân tử đứng lên dấy nghĩa đuổi bọn cướp nước:
“Binh tướng nó hãy đóng sông bến nghé, ai làm nên bốn phái mây đen, ông cha ta
còn ở đất đồng nai, ai cứu đặng một phường con đỏ”
Đấy là lời trăm trở của Nguyễn Đình Chiểu trước vận mệnh tiền đồ của đất nước .
Với một con người suốt đờ tôn thờ dòng máu nho gia, quyết làm theo bật trượng
phu thì làm sau không lo lắng, không trăm trở trước cảnh loạn lạc của quê hương.
Càng yêu nước thương dân bao nhiêu , Nguyễn Đình Chiểu càng thấy xót xa cho
lớp người “phường con đỏ” bấy nhiêu và xem sự hy sinh của họ là một sự giác
ngộ được chân lí của con đường đấu tranh:
“Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm lừng 6 tỉnh chúng đều khen, thác mà
ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”
Chính từ tinh thần tự giác, tự nguyện đó, mà các nghĩa sĩ đã vương cao ngọn cờ
đấu tranh trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc mọi nơi, bất kể còn sống hay đã chết:
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ linh, muôn kiếp được
nguyện trả thù kia, sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời du dạy đã rành rành, một
chữ ấm dủ đền công đó”
“Sống cũng đánh giặc, thác cũng đánh giặc” một sự khẳng định vững vàng và
đanh thép. Đấy vừa là lời ca ngợi tinh thần anh dũng, bất khuất đấu tranh của của
các nghĩa sĩ mà còn là niềm tự hào của tác giả đối với truyền thống tố đẹp của dân
tộc. truyền thống này đã ăn sâu vào trong khối óc con tim của mõi người dân Việt
Nam. Do đó bất kì hoàn cảnh nào, bất kì khó khăn nào, bất kì một kẻ thù lớn mạnh
nào họ cũng điều vượt qua và giành thắng lợi vẻ vang. Lịch sử đã chứng minh điều
đó và mãi đến hôm nay nó vẫn đang được phát huy.
Nếu ở các câu trên tác giả hết lời ca ngợi tấm lòng vì nghĩa của các nghĩa
_______đến câu cuois giọng văn có phần trầm lắng hẳn đi như lời tưởng niệm:
“Nước mắt anh hùng lao chẳng ráo, thương vì hai chử thiên dân; cây hương nghĩa
sĩ thấp thêm thơm, ___________”
“Nươc mắt” khóc thương cho những nghĩa sĩ ở đây không còn là nước mắt riêng
của tác giả hay của người mẹ, người vợ mà nó đã hòa lẫn chung của cả dân tộc
cùng hướng về những con người nghĩa chính sự hy sinh hiên ngang đó của họ mà
đã khiến cho người đời phải nghiêng mình tưởng niệm, ghi nhớ công lao “cây
hương nghĩa sĩ thấp thêm thơm”, gợi tả một giá trị sâu sắc của lòng tưởng nhớ, nó
mang lại những giá trị thuộc về thời gian tâm linh con người, một sự cảm phục cái
tinh thần quả cảm và chắc hẳn nó vẫn tỏ sáng mãi ngàn sau.
Tóm lại bài văn “Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc” là một tác phẩm mẩu mực của văn
chương. Chính những khắc họa đường nét tài tình mà Nguyễn Đình Chiểu đã dựng
lên một bức tượng đài bất khuất của người nghĩa sĩ cần giuộc. những con người
vốn xuất thân từ đồng ruộng, từ cuộc sống lam lũ phút chốc trỡ thành một hình
tượng vì vĩ, dũng cảm, hiên ngang trước kẻ thù. Đó chính là nét độc đáo của hình
tượng người nghĩa sĩ cần giuộc, đồng thời cũng thể hiện dược quan điểm tiến bộ
của Nguễn Đình Chiểu trong việc đánh giá vai trò quan trọng của người nông dân.
Bên cạnh đó, xuất phát từ tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc mà cụ Nguyễn đã
kết hợp tài tình giữa tài năng _________ và nhân đạo để hòa chung vào một dòng
thác cảm xúc chân thật, độc đáo, đẹp đẻ, vì vĩ. Và có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu
là một ngôi sao sáng mở đường cho nền văn học cách mạng sau này phát triển.
Hay nói đúng hơn, Nguyễn Đình Chiểu đã thấy được chưc năng của văn học trong
thời đại mới.

You might also like