You are on page 1of 23

I.

Định nghĩa ô nhiễm hữu cơ


Chất thải hữu cơ là chất thải có bản chất hữu cơ và bị loại bỏ trong quá trình sản
xuất. Các chất thải hữu cơ có thể có nguồn gốc từ thực vật, động vật, các hợp
chất cacbua hydro hay cả bùn cặn thải ra sau khi xử lý nước thải. Mỗi loại chất
thải hữu cơ có thành phần và tính chất rất khác nhau.
II.Nguồn phát sinh chất thải hữu cơ
a. Chất thải hữu cơ được tạo ra trong quá trình sinh hoạt của loài
người.
Bao gồm:- Chất thải tạo ra từ các nhà bếp ở gia đình hay các nhà bếp tập
thể, các loại chất thải này có bản chất sinh vật. Chúng thường là những phần
động vật hay thực vật không còn sử dụng được nửa hoặc không đáp ứng
được những nhu cầu chế biến, bảo quản hay sử dụng ngay như nguồn thực
phẩm tươi sống. Ví dụ như đầu đuôi, vảy cá, ruột cá, vỏ, rể của các loại rau
quả bị hư hỏng…, đây là những chất thải rất dễ bị phân hủy và gây ô
nhiễm không khí rất mạnh. Do đó không nên lưu trữ lâu các loại chất thải
này. Các loại chất thải từ nhà bếp còn có cả những chất rất khó phân hủy
như các loại bao ni lông, giẻ rách, các loại bao bì từ xenlulose.
- Chất thải từ các khu vực thương mại như chợ, siêu thị. Ở chợ tự do,
người ta thải ra môi trường chủ yếu là các chất thải từ nguồn thực vật
và động vật. Về mặt nào đó, thành phần các chất thải này giống như
các chất thải từ các nhà bếp. Số lượng chất thải ở các khu vật chợ
thường rất lớn và rất đa dạng.
b. Chất thải hữu cơ từ quá trình sản xuất
- Chất thải từ các nhà máy chế biến thực phẩm thường không quá phức
tạp, và chúng chỉ có một loại, hai loại hoặc ba loại, đặc trưng cho
nguồn nguyên liệu của nhà máy hoạt động. Ví dụ, nhà máy chế biến
đồ hộp, rau quả chỉ có chất thải từ nguồn thực vật mà nhà máy sử
dụng làm nguyên liệu. Nhà máy giết mổ gia súc chỉ cò chất thải từ
nguồn động vật. Nhà máy thủy sản chỉ có chất thải có nguồn gốc là
thủy sản. Các loại chất thải này thường không cần phân loại, dễ thu
gom vận chuyển và xử lý.
- Chất thải từ các cơ sở hay xí nghiệp thuộc da bao gồm lông thú, các
mảnh vụn (chứa gelatin) tạo ra trong quá trình chế biến.
- Chất thải từ các cơ sở chăn nuôi, chủ yếu là phân gia súc, thực phẩm
gia súc thừa hoặc những chất dùng để vệ sinh chuồng , trại.
- Chất thải từ các trạm xử lý nước.
- Chất thải từ các nhà máy giấy và các hoạt động công nghiệp khác.
Chất thải hữu cơ

Chất thải hữu cơ từ sinh hoạt Chất thải hữu cơ từ sản xuất

- Chất thải từ các nhà bếp gia đình, - Chất thải từ các nhà máy chế biến
nhà máy xí nghiệp, nhà hàng, thực phẩm.
khách sạn. - Chất thải từ cơ sở sản xuất công
- Chất thải từ các khu thương mại. nghiệp nhẹ như thuộc da, giấy, gỗ
- Chất thải từ các khu vui chơi giải - Chất thải từ cơ sở chăn nuôi, sản
trí. xuất nông nghiệp
- Chất thải từ khai thác, chế biến dàu
mỏ

Hình. Nguồn gốc phát sinh chất thải hữu cơ

Chất thải từ sinh hoạt gọi là chất thải sinh hoạt, thường có đặc điểm là
không đồng nhất, chúng bao gồm cả chất hữu cơ dễ phân hủy, các chất hủy cơ
khó phân hủy và cả các chất vô cơ. Đặc điểm này gây khó khăn rất lớn cho các
quá trình sản xuất sau này. Do đó, nhiều nước trên thế giới đã tổ chức phân loại
tại nguồn. Có một số nước tổ chức phân loại thành hai phần: hữu cơ và vô cơ.
Lại có một số nước phân loại tại nguồn thành ba phần: hữu cơ dễ phân hủy, hữu
cơ khó phân hủy và vô cơ.
Chất thải hữu cơ từ nguồn sản xuất (gọi là chất thải công nghiệp) đồng
nhất hơn, do đó không cần phân loại tại nguồn, hoặc nếu có thì công việc cũng
rất đơn giản , dễ thực hiện. Chất thải hữu cơ có nguồn gốc động vật và thực vật
chiếm số lượng rất lớn trong các loại chất thải hữu cơ. Con đường đi của chất
thải hữu cơ từ động vật và thực vật thường xuất phát từ nông thôn về thành phố
rồi lại từ thành phố trở lại vùng nông thôn
III. Phân loại ô nhiễm hữu cơ
Các nguồn ô nhiễm chất hữu cơ bao gồm:
- Các chất hưu cơ dễ phân hủy: bao gồm các hợp chất hydrat carbon,protien,
chất béo, lignin, pectin,…có từ tế bào và các tổ chức của động vật, thực vật.
Trong nước thải từ khu dân cuwcos khoảng 25- 50% là hydrat carbon, 40-60 %
là protein và 10% chất béo.
Các chất thải này có chủ yếu trong nước thải sinh hoạt từ khu dân cư, nướ thải
công nghiệp từ các xí nghiệp chế biến thực phẩm,lò mổ.Chúng làm suy giảm
lượng oxy hòa tan trong nước, lam ảnh hưởng xấu đến tài nguyên nước như
động vật thủy sinh,làm giảm chất lượng nước sinh hoạt.
- Các chất hữu cơ khó phân hủy(POP- Persistent Organic Pollutants) là các
hóa chất rất độc hại, tồn tại bền vững trong môi trường và rất khó phân hủy
gồm các hợp chất hữu cơ vòng thơm, các hợp chất đa vòng ngưng tụ, các clo
hữu cơ, tròng đó có thuốc trừ sâu,các dạng polyme, các dạng polyancol,..Chúng
khó phân hủy do các tác nhân sinh hoạt bình thường, cho nên chúng tồn tại lâu
dài,tích lũy làm bẩn về mỹ quan, gây độc cho môi trường,gây hại cho đời sống
sinh vật, kể cả con người.
- Các chất hữu cơ có độc tính cao: các chất hữu cơ có độc tính cao thường rất
bền, rất khó bị phân hủy.Chúng tích lũy và tồn lưu trong nước và cơ thể thủy
sinh,gây ô nhiểm nước lâu dài và gây tác hại cho hệ sinh thái nước.chúng có
thể là hợp chất dị vòng của nito và oxy, các hợp chất hydratcarbon đa vòng
ngưng tụ, các hợp chất phenol như polyclobiphenyl, … các chất này thường có
trong nước thải công nghiệp, từ các vùng cây trồng cây nông- lâm nghiệp dùng
nhiều thuốc trừ sâu, các chất diệt cỏ, các loại nông hóa dược khác để bảo vệ
thực vật cũng như những chất kích thích sinh trưởng, từ nguồn nước thải các
bệnh viện, xí nghiệp dùng quá nhiều thuốc sát khuẩn,…
IV. Các chất hữu cơ khó phân hủy(POPs)
IV.1. Polycyclic Aromatic Hydrocarbons(PAHs)
1.Định nghĩa về PAHs
Thuật ngữ PAHs (Polycyclic Aromatic Hydrocarbons) được sử dụng để
chỉ một số các chất hữu cơ gồm hai hay nhiều vòng hydrocarbon thơm liên
kết với nhau tạo thành những hợp chất rất bền vững trong môi trường .
2. Nguồn gốc phát sinh và phân loại
a1. Nguồn gốc phát sinh:
PAHs, bao gồm khoảng hơn 100 chất hữu cơ khác nhau, là sản phẩm của
những quá trình đốt cháy không hoàn toàn của một số các nhiên liệu như
than đá, dầu mỏ, và khí đốt hay của một số các chất hữu cơ khác như rác
thải sinh hoạt, thuốc lá . PAHs cũng có nhiều trong những miếng thịt bị
nướng cháy thành than . Nói một cách tổng quát, PAHs được sinh ra nhiều
nhất từ các hoạt động công nghiệp và các hoạt động khác của con người .
Một số loại thuốc uống hay các loại thuốc nhuộm, chất dẻo hay thuốc trừ
sâu cũng chứa PAHs. Ngoài ra, PAHs còn có trong khói núi lửa hay khói
than đốt.
Các nguồn chính sinh ra PAHs:
Các động cơ chạy bằng dầu Diesel và các loại khí đốt.
Các môi trường làm việc Các khu dịch vụ, các lò nướng sử dụng khí ga và các
nhà máy sản xuất và tiêu thụ nhựa đường.
Các thiết bị đốt nóng Các thiết bị sưởi, các tháp chưng và các loại lò đốt, luyện
kim.
Các lò đốt rác Rác thải đô thị, nguy hiểm, và rác thải y tế.
Các sinh hoạt hàng ngày của con người Việc hút thuốc, đun nấu bằng củi và dầu
hỏa, đốt nóng các loại dầu khác nhau và nướng thịt.
Các quá trình công nghiệp Quá trình cracking bẻ gãy các liên kết mạch dài của
các chất hữu cơ có trong dầu mỏ, các công đoạn đúc sắt thép và sản xuất nhôm,
than chì.
a2. Phân loại
Theo USEPA , PAHs được phân loại thành 12 chất điển hình tùy theo cấu trúc
hóa học như mô tả dưới đây:

Naphthalene
Acenaphthylene
Acenaphthene
Fluorene
Phenanthrene
Anthracene
Fluoranthene
Pyrene
Chrysene
Benz(a)anthracene
Benzo(k)fluoranthene
Benzo(b)fluoranthene
Benzo(a)pyrene Indeno(1,2,3cd)pyrene
Dibenzo(a,h)anthracene
Benzo(g,h,i)perylene
3.Một số đặc tính cơ bản của PAHs
Tại nhiệt độ thường (từ 15 -350C), PAHs tinh khiết tồn tại ở thể rắn, không
màu hoặc có màu trắng hay màu vàng chanh . Tùy thuộc vào khối lượng
phân tử mà các PAHs có những tính chất vật lý, hoá học khác nhau. Nhìn
chung là nhiệt độ nóng chảy và nhiệt độ sôi cao, áp suất bay hơi thấp và rất
ít tan trong nước . Trên thực tế, người ta thường tìm thấy PAHs ở dạng hỗn
hợp bao gồm từ 2 hợp chất này trở lên trộn lẫn với bồ hóng hoặc gio bếp,
tàn than...
PAHs (Polycyclic Aromatic Hydrocarbons) được sử dụng để chỉ hơn 100
chất hữu cơ gồm hai hay nhiều vòng hydrocarbon thơm liên kết với nhau tạo
thành những hợp chất rất bền vững trong môi trường. Chúng là sản phẩm
của những quá trình đốt cháy không hoàn toàn của một số các nhiên liệu
như than đá, dầu mỏ, và khí đốt hay của một số các chất hữu cơ khác như
rác thải sinh hoạt, thuốc lá từ các hoạt động công nghiệp và các hoạt động
khác của con người . PAHs có thể bị phân huỷ bời những phản ứng quang
hoá trong khí quyển hay bởi tác động của các vi sinh vật hiếu khí và yếm
khí có trong nước và đất. Tuy nhiên, một lượng PAHs bền vững còn lại sẽ bị
tích tụ trong môi trường nước, đất và đi vào chuỗi thức ăn của một số động,
thực vật.
Khi được hấp thụ vào những tế bào thực vật, PAHs làm giảm khả năng sinh
trưởng, sinh sản và phát triển của các loài thực vật cũng như kìm hãm một
số quá trình sinh học trong hệ sinh thái. PAHs được tích tụ trong hệ thực vật
sẽ từ đó đi vào chuỗi thức ăn của động vật và gây ra những tác hại lâu dài và
nghiêm trọng hơn . Trong rất nhiều trường hợp, sự có mặt ở những liều
lượng nhất định của PAHs thường gây ra những tác động không tốt đến sự
sinh sản, sinh trưởng, phát triển, và khả năng miễn dịch của các loài động
vật.
Khi bị nhiễm các hợp chất PAHs, có nhiều yếu tố được tìm hiểu để xem liệu
các tác động gây hại lên sức khỏe của PAHs có xảy ra không và mức độ
nghiêm trọng của các tác động đó la như thế nào. Các yếu tố đó có thể là:
liều lượng, thời gian tiếp xúc, con đường bị nhiễm (ăn, uống, tiếp xúc qua
da, v.v.,), các hợp chất khác mà người đó đang bị nhiễm, các đặc tính cá
nhân của người đó, ví dụ như tuổi, giới tính, kiểu sống, tình trạng sức khỏe .
Hiện nay, chưa có số liệu cụ thể nào chứng minh rằng sự xâm nhập của
PAHs vào cơ thể người sẽ ảnh hưởng đến hệ thần kinh, khả năng sinh sản,
cũng như gây ra hiện tượng đột biến gen ở những thế hệ sau. Tuy nhiên, một
số nghiên cứu đáng tin cậy chỉ ra rằng một số PAHs có thể gây ra ung thư ở
người và động vật. Để phòng tránh các ảnh hưởng xấu có thể xảy ra bởi
PAHs, con người cần hạn chế tiếp xúc với PAHs ở những liều lượng có thể
gây ra tác hại cũng như hạn chế việc tạo ra PAHs từ những hoạt động của
mình
4. PAHs trong khí quyển
PAHs trong không khí có nguồn gốc chủ yếu từ hoạt động của núi lửa, cháy
rừng, sự đốt cháy các loại nguyên nhiên liệu trong một số quy trình sản xuất và
sinh hoạt của con người như đã nêu ở chương I, mục II. Hàm lượng PAHs ở
những vùng đô thị, nơi tập trung phần lớn dân cư và các khu công nghiệp,
thường cao hơn những vùng nông thôn. Một vài PAHs khối lượng phân tử nhỏ,
áp suất bay hơi lớn có trong các sản phẩm dầu mỏ cũng có thể bay hơi vào
không khí . Như vậy, PAHs tồn tại trong khí quyển dưới hai pha: hơi và các
phần tử rắn. Trong môi trường không khí, PAHs tồn tại ở pha hơi có thể bị phân
huỷ bởi các quá trình quang hoá với sự có mặt của các hoá chất khác nhau có
trong không khí (oxit nitơ, axit nitric, oxit lưu huỳnh, axit sunfuric, ô zôn…)
trong khoảng chu kỳ từ một ngày đến một tuần .
Nhưng PAHs bám dính vào các hạt rắn ở dạng rắn rất khó để tham gia những
phản ứng quang hoá này. Sau những trận mưa, chúng sẽ được loại bỏ khỏi bầu
khí quyển, rơi xuống đất hoặc lắng đọng ở đáy hồ, sông, suối, đại dương. Quá
trình làm sạch này phụ thuộc rất nhiều vào kích cỡ của những hợp chất PAHs,
kích cỡ của những hạt bụi lơ lửng mà chúng bám dính cũng như độ ẩm của
PAHs và không khí. Một số các PAHs bám dính vào các hạt bụi nhỏ có kích cỡ
từ 1 Micromet trở lên có thể tồn lưu trong bầu khí quyển từ 1 đến 2 tuần.
Những PAHs bám dính vào những phần tử bụi siêu nhỏ (cỡ dưới 0,1
Micromet ) có thể tồn tại rất bền vững trong bầu khí quyển gây ra những ảnh
hưởng lâu dài cho động thực vật cũng như cho sức khoẻ con người .
5. PAHs trong thuỷ quyển và địa quyển
Được thải ra trong một số quá trình sản xuất và sinh hoạt của con người, PAHs
theo các chất thải công nghiệp và nước thải đô thị đi vào trong các nhà máy xử
lý hoặc đi trực tiếp vào môi trường thuỷ quyển và địa quyển.
Trong một số trường hợp, PAHs có trong môi trường nước và đất là do sự
ngưng tụ từ môi trường không khí, do bị cuốn theo mưa rơi xuống. Do hầu hết
các chất PAHs khó hoà tan trong nước, chúng thường bám dính vào các phần tử
rắn lơ lửng trong nước và lắng đọng xuống lớp bùn đáy của một số sông, hồ.
Chỉ một phần nhỏ PAHs hoà tan thẩm thấu qua đất và làm ô nhiễm nước ngầm .
PAHs có thể bị phân huỷ một lượng khá nhỏ do tác động của các vi sinh vật
hiếu khí và yếm khí có trong nước và đất hoặc do sự bay hơi vào trong khí
quyển. Thời gian phân huỷ sinh học của PAHs phụ thuộc vào từng loại vi sinh
vật khác nhau, điều kiện môi trường, cũng như cấu tạo của các chất PAHs.
Thông thường, vi sinh vật phải mất đến hàng tuần hoặc hàng tháng để phân huỷ
hoàn toàn PAHs. Lượng PAHs bền vững còn lại sẽ bị tích tụ trong môi trường
nước, đất và đi vào chuỗi thức ăn của một số động, thực vật.
6. Ảnh hưởng của PAHs đối với động - thực vật
a. Ảnh hưởng đối với thực vật
Hầu hết các loại thực vật đều rất nhạy cảm với PAHs ở những mức độ khác
nhau. Trong quá trình trao đổi chất, thực vật có thể hấp thụ và hấp phụ PAHs từ
môi trường đất, nước và không khí vào cơ thể qua thân, rễ, lá của chúng. Khi
được hấp thụ vào những tế bào thực vật, PAHs làm giảm khả năng sinh trưởng,
sinh sản và phát triển của các loài thực vật cũng như kìm hãm một số quá trình
sinh học trong hệ sinh thái. PAHs được tích tụ trong hệ thực vật sẽ từ đó đi vào
chuỗi thức ăn của đ ccộng vật và gây ra những tác hại lâu dài và nghiêm trọng
hơn.
Tuy nhiên, một số loại thực vật cũng có khả năng sinh trưởng tại những vùng
đất có hàm lượng PAHs khá cao. Ví dụ như xà lách, lúa mạch, cỏ ba lá, và ngô
có thể sinh trưởng và phát triển ở những nơi có nồng độ PAHs từ 0,3-4 g/kg đất
hay hoa hướng dương có thể phát triển bình thường ở những nơi có nồng độ
PAHs từ 4-9 g/kg đất .
b. Ảnh hưởng đối với động vật
Từ hệ thực vật, PAHs được hấp thụ vào cơ thể của một số loài động thực vật
thông qua các chuỗi thức ăn. Do độ hoà tan trong nước của các PAHs phân tử
lượng nhỏ cao hơn của các PAHs phân tử lượng lớn, chúng có khả năng gây độc
trực tiếp đối với các cơ thể động vật cao hơn là các PAHs khối lượng phân tử
lớn. Tuy nhiên, các PAHs phân tử lượng lớn lại khó phân huỷ sinh học hơn,
chúng thường bị tích tụ rất lâu trong môi trường cũng như trong cơ thể động
vật.
Tuỳ theo cấu tạo của các PAHs và đối tượng tác động, PAHs thường có những
tác động tới các loài động vật (động vật không xương sống, một số loài thuỷ hải
sản, chim, động vật lưỡng cư, các loài bò sát và động vật có vú) ở những mức
độ khác nhau. Rất nhiều các nghiên cứu khoa học hiện nay đưa ra những số liệu
về ảnh hưởng của từng chất PAH cụ thể đối với một số loài động vật nghiên cứu
có chọn lựa. Trong rất nhiều trường hợp, sự có mặt ở những liều lượng nhất
định của PAHs thường gây ra những tác động không tốt đến sự sinh sản, sinh
trưởng, phát triển, và khả năng miễn dịch của các loài động vật. một số PAHs ở
nồng độ đủ lớn còn làm chết các động vật có trong hệ sinh thái tự nhiên. Một số
nghiên cứu chỉ ra rằng chuột sẽ khó sinh con hơn nếu bị cho tiếp xúc với PAH –
benzopyrene trong suốt thời gian mang thai, chuột con nhiễm hợp chất này
cũng gầy và yếu hơn so với trong những điều kiện bình thường.
7. Ảnh hưởng của PAHs đối với sức khỏe con người
a. Con đường xâm nhập cơ thể người và thải ra của PAHs
PAHs trong dầu mỏ thải vào môi trường dưới dạng phức chất của hàng nghìn
hợp chất thơm và hợp chất béo. Hơn nữa, PAHs ít tan trong nước nên chúng ít
bị chuyển hóa và phân huỷ bởi các các vi sinh vật có trong nước.
Cũng không giống như hầu hết các hợp chất hữu cơ độc hại bị cấm hoặc bị giới
hạn thải, PAHs tiếp tục được thải vào môi trường bởi sự hình thành phổ biến
trong quá trình đốt các nguyên liệu hóa thạch và việc thải ra trong quá trình tìm
kiếm, vận chuyển và sử dụng dầu mỏ. Sự tồn lưu trong một thời gian dài của
PAHs trong môi trường sẽ dẫn đến việc con người có thể bị nhiễm PAHs tại
nhà, ngòai đường, nơi làm việc. Một điều cần lưu ý rằng con người sẽ không bị
nhiễm một hợp chất PAHs riêng biệt nào mà thường bị nhiễm hỗn hợp các
PAHs.
Khi PAHs được phóng thích từ một khu vực có diện tích rộng, ví dụ như một
nhà máy công nghiệp, công-ten-nơ, một cụm chung cư, văn phòng hay khu đô
thị v.v., chúng sẽ thâm nhập vào môi trường. Tuy nhiên, việc phóng thích PAHs
vào môi trường không phải lúc nào cũng dẫn đến việc con người sẽ bị nhiễm
hợp chất đó.
Con người sẽ bị nhiễm PAHs nếu có quá trình tiếp xúc với chúng trong một
khoảng thời gian nhất định. Thông thường, PAHs có trong các nguồn nước, đất
và không khí ô nhiễm xâm nhập vào cơ thể người thông qua các con đường: hít
thở, ăn, uống, hút thuốc hoặc tiếp xúc qua da.
Theo một số nghiên cứu gần đây, hàm lượng PAHs có trong môi trường không
khí ở các cùng nông thôn là 0,02-1,2 nanogam/m3 và tương ứng là 0,15-19,3
nanogam/m3c ở các vùng đô thị . Do vậy, người dân sống gần những vùng đô thị
và các khu công nghiệp có nhiều khả năng tiếp xúc với PAHs hơn những người
sống tại các vùng nông thôn.
Tại nơi ở của mình, PAHs có thể có trong khói thuốc lá, khói lò, các loại lương
thực, thực phẩm được trồng, nuôi, hoặc thu hoạch ở trên những vùng đất có
hàm lượng PAHs cao. Đặc biệt, PAHs có rất nhiều trong những loại thịt, cá
nướng cháy.
Do độ hoà tan trong nước thấp và độ hoà tan trong dầu cao, khi xâm nhập vào
cơ thể người qua những con đường khác nhau, PAHs có xu hướng bị tích tụ
nhiều hơn ở thận, gan, và các mô mỡ của con người. Một lượng nhỏ PAHs có
thể bị tích tụ ở lá lách, tuyến thượng thận và buồng trứng.
Khi bị tích tụ, chúng có thể kết hợp hay phản ứng với một số chất khác để hình
thành nhiều loại hợp chất khác nhau. Một số sản phẩm gây ra những tác hại
nghiêm trọng hơn PAHs và một số khác thì ít nghiêm trọng hơn đối với sức
khoẻ của con người. Tuy nhiên, cũng theo những nghiên cứu này, một số loại
PAHs thông thường không tồn trữ lâu dài trong cơ thể con người. Thời gian lưu
giữ của chúng trong cơ thể người chỉ khoảng vài ngày, sau đó là được thải ra
ngoài qua phân và nước tiểu.
b. Tác động của PAHs lên sức khỏe con người
Khi bị nhiễm các hợp chất PAHs, có nhiều yếu tố được tìm hiểu để xem liệu các
tác động gây hại lên sức khỏe của PAHs có xảy ra không và mức độ nghiêm
trọng của các tác động đó la như thế nào. Các yếu tố đó có thể là: liều lượng,
thời gian tiếp xúc, con đường bị nhiễm (ăn, uống, tiếp xúc qua da, v.v.,), các
hợp chất khác mà người đó đang bị nhiễm, các đặc tính cá nhân của người đó,
ví dụ như tuổi, giới tính, kiểu sống, tình trạng sức khỏe .
Hiện nay, chưa có một nghiên cứu nào cho thấy rằng PAHs có thể giết chết con
người sau khi xâm nhập vào cơ thể. Tuy nhiên, từ một số nghiên cứu đối với
chuột trong phòng thí nghiệm, người ta suy ra được rằng một số PAHs có thể
làm giảm tuổi thọ của con người. Ví dụ như sau khi tiếp xúc với liều lượng
benzopyrene 46,5 mg/m3, chuột sẽ giảm tuổi thọ từ 109 tuần xuống còn 60 tuần
. Tuy nhiên, chưa có số liệu cụ thể nào chứng minh rằng sự xâm nhập của PAHs
vào cơ thể người sẽ ảnh hưởng đến hệ thần kinh, khả năng sinh sản, cũng như
gây ra hiện tượng đột biến gen ở những thế hệ sau.
Một số nghiên cứu đáng tin cậy chỉ ra rằng một số PAHs có thể gây ra ung thư
ở người và động vật. Một số công nhân làm việc tại những nơi tiếp xúc trực tiếp
với PAHs (hầm mỏ, nhà máy chế biến dầu mỏ...) có tỷ lệ ung thư cao hơn
những công nhân làm việc ở những nơi ít tiếp xúc với PAHs.
Các chuyên gia y tế Mỹ khuyến cáo một số chất PAHs có thể gây nguy cơ ung
thư khi hít thở hay tiếp xúc. Thử nghiệm trên động vật cho thấy khi hít phải
PAHs có thể gây nguy cơ ung thư phổi, khi nuốt phải có thể gây nguy cơ ung
thư dạ dày, và khi chạm phải có thể gây nguy cơ ung thư da.
Kết quả cho thấy khi phụ nữ bị ô nhiễm chất phế thải polycyclic aromatic
hydrocarbons (PAHs) trong thời điểm phụ nữ lần đầu tiên có kinh nguyệt sẽ
làm tăng cao nguy cơ ung thư vú trước thời kỳ mãn kinh sau này.
Đối với phụ nữ bị ô nhiễm PAHs khi sinh con đầu lòng thì nguy cơ ung thư vú
sẽ tăng sau thời kỳ mãn kinh. Tất cả những phụ nữ kể trên đều chưa bao giờ hút
thuốc lá.
Kết quả này phù hợp với giả thuyết cho rằng khi sớm bị ô nhiễm những hóa
chất gây ung thư thì dễ bị nguy cơ ung thư.
c. Cách thức phòng tránh sự xâm nhập của PAHs
Để phòng tránh sự xâm nhập của PAHs, chúng ta cần hạn chế và kiểm soát sự
phát sinh của những hợp chất này trong sản xuất và sinh hoạt. Ví dụ như giảm
thiểu việc sử dụng những nguồn nguyên, nhiên liệu có thể sản sinh ra PAH
trong giao thông và công nghiệp, kiểm soát nghiêm ngặt các quá trình đốt để
tránh các quá trình cháy không hoàn toàn của một số lò đốt rác thải, hạn chế
hút thuốc và ăn các sản phẩm nướng cháy.
Tổ chức US Environmental Protect Agency (EPA) cũng đưa ra mức nồng độ an
toàn của PAHs trong quá trình tiếp xúc để không gây ảnh hưởng có hại cho sức
khoẻ để chúng ta tham khảo và tuân theo. Ví dụ: Không nên tiếp xúc với một
số chất PAHs tại những nồng độ lớn hơn những mức sau: 0,3 mg anthracene
/kg cơ thể người, 0,06 mg acenaphthene/kg cơ thể người, 0,04 mg fluoranthene
/kg cơ thể người, 0,03 mg pyrene/kg cơ thể người...
IV.2.Polychlorbiphenyl (PCBs)
Polychlorbiphenyl : là một loại hóa chất tổng hợp gồm có nhiều đồng phân
và thường được dùng nhiều trong công nghệ điện, kỹ thuật điện, tụ điện, công
nghiệp sơn, các vật liệu xây dựng và công nghệ nhựa.
Hầu hết các loại PCB được biết đều không tan trong nước, chúng tan trong
mỡ và không bị phân hủy sinh học. PCB là nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng
trong môi trường vì chúng rất ổn định tích tụ trong mô động vật và khuếch đại
trong chuổi dinh dưỡng… Chúng làm ô nhiễm môi trường nước và gây ảnh
hưởng đến sự sinh sản của cá và các động vật có xương sống trên cạn. Quan sát
trứng chim bị nhiễm PCB thì chúng dễ rạn vỡ,
Trong mô mỡ của nhiều loại động vật có vú ở biển có chứa nồng độ
PCBs lớn gấp mười triệu lần nồng độ PCBs trong nước. PCBs có thể làm
giảm khả năng sinh sản, giảm khả năng học tập của trẻ em; chúng cũng có
thể là các tác nhân gây ung thư… và vì thế mà ảnh hưởng đến số lượng quần
thể trong thời gian dài.
Bảng 1. Thành phần PCBs trong môi trường

Hợp chất Nước biển Nước Nước Tảo Cá Động vật biển Người(mỡ)
ppm mặt ngầm ppm ppm ppm ppm
Ppm ppm
PCBs 0.1 3 1 2000 2500 1000000 10000

Cục Bảo vệ môi trường cũng khảo sát đợt 1 vào năm ngoái tại 31 tỉnh
thành trong cả nước, đã phát hiện khoảng 8.000 tấn dầu các loại có chứa chất
PCB và những hợp chất tương tự PCB ở rải rác khắp nơi. Tuy nhiên nhiều nhà
khoa học cho rằng con số này chưa phản ánh đúng thực trạng nhiễm độc PCB
trong sinh hoạt hiện nay, mà thực tế còn cao hơn rất nhiều
UNEP đặc biệt cảnh báo đối với hợp chất PCB, do đặc tính sinh ra từ
nhiều hoạt động hàng ngày của con người. Lý do vì PCB thường xuất hiện ở
dạng dầu thải từ các thiết bị điện trong gia đình, các thiết bị sử dụng trong
ngành điện như máy biến thế, tụ điện, đèn huỳnh quang, dầu chịu nhiệt, dầu
biến thế... PCB còn được thải ra qua chất làm mát trong truyền nhiệt, trong các
dung môi chế tạo mực in, ngành công nghiệp sản xuất sơn cũng như trong quá
trình sản xuất của nhiều ngành công nghiệp khác.

Các triệu chứng nhiễm độc cho người và động vật chủ yếu thường xuất
hiện qua đường tiêu hóa và hô hấp. Nhiễm độc ở mức độ cao và cấp tính sẽ bị
bỏng da, trầy da, thay đổi cấu trúc của da và móng tay, thay đổi chức năng gan
và hệ thống miễn dịch; ảnh hưởng đến hệ hô hấp gây đau đầu, suy nhược thần
kinh, hoa mắt, mất trí nhớ, hoảng loạn và bất lực. Nhiễm độc mãn tính với nồng
độ PCB dù nhỏ cũng dẫn đến phá hủy gan, rối loạn sinh sản và đặc biệt là biến
đổi gen gây hàng loạt bệnh nguy hiểm như ung thư, quái thai, dị dạng và những
vấn đề khác ảnh hưởng đến môi sinh, môi trường. Về mặt hóa học, PCB dễ bị
oxy hóa tạo thành các hợp chất vô cùng độc hại khác như Dioxin hoặc các hợp
chất Furan. Chúng có khả năng phát tán rộng và tích tụ sinh học cao trong các
mô của sinh vật, gây tác hại nghiêm trọng cho sức khoẻ con người (gây ra các
bệnh về sinh sản, thần kinh, miễn dịch, ung thư, tổn thương gen...), đa dạng
sinh học và môi trường sống.
Theo các số liệu đã công bố, Việt Nam còn khối lượng dầu có chứa PCB có thể
lên tới 19.000 tấn, chủ yếu từ các máy biến thế điện kiểu cũ. Tổng lượng chất
thải nguy hại ước tính năm 2003 là 160.000 tấn mỗi năm, trong đó 130.000 tấn
từ các chất thải công nghiệp, 21.000 tấn từ các chất thải y tế của các bệnh viện,
trạm xá và viện điều dưỡng, và 8.600 tấn từ sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra,
một số vùng có dư lượng các chất dioxin và furans ở trong đất do hậu quả của
việc sử dụng tới 72 triệu lít thuốc diệt cỏ trong thời kỳ chiến tranh 1961-1971

IV.3. DichoroDiphenylTrichloroethan (DDT)

DichoroDiphenylTrichloroethan: là hợp chất chứa clo rất độc, được sử


dụng là thuốc diệt côn trùng, gián, rết rất hiệu nghiệm và phổ biến nhưng từ
1970 đã bị cấm sử dụng vì ảnh hưởng của chúng đến môi trường.
DDT là hợp chất rất độc đối với sinh vật khi được thải ra trong môi trường.
DDT tồn tại rất lâu trong môi trường, không bị phân hủy sinh học và khả
năng khuếch đại sinh học cao. Ngoài tính chất diệt trừ sâu rầy trong nông
nghiệp, DDT còn được xử dụng như một hoá chất hữu hiệu nhất trong công
tác diệt trừ muỗi, nguyên nhân chính của bịnh sốt rét.
sau khi được xử dụng, DDT vẫn tiếp tục tồn tại trong nguồn nước, lòng
đất và bụi DDT vẫn lơ lững trong không khí. Theo ước tính của các nhà
khoa học thì gần 2/3 lượng DDT (khoảng 1 triệu tấn) do con người sản xuất
vẫn còn tồn tại trong nước biển. DDT không hoà tan trong nước nhưng hòa
tan trong dung môi hữu cơ và xếp vào danh sách hóa chất cần phải kiểm
soát vì có nguy cơ tạo ra ung thư cho người và thú vật. Đa số DDT được
dùng trong việc pha chế thuốc bảo vệ thực vật vì giá thành rẻ và có hiệu quả
tương đối tốt so với các hoá chất bảo vệ thực vật khác.
1.Hiện trạng sử dụng
Tuy đã bị cấm xử dụng từ năm 1970 vì những khám phá ảnh hưởng lên
môi trường, hiện nay, hóa chất trên vẫn được dùng rộng rãi ở Phi Châu,
Indonesia, Ấn Độ, Châu Mỹ La tinh và Việt Nam trong công tác diệt trừ
muỗi, tác nhân của bịnh sốt rét do ấu trùng Plasmodium falciparum, một
trong 4 loại ấu trùng nguy hiểm nhất của bịnh chuyển từ muỗi sang người.
Riêng tại Việt Nam, DDT đã được dùng ngoài công tác trên, còn được xem
như là hóa chất nền chính trong việc pha chế hầu hết hóa chất bảo vệ thực
vật dùng trong nông nghiệp và chăn nuôi.
Sở dĩ, DDT vẫn còn được chiếu cố ở các quốc gia đang phát triển vì cho đến
hôm nay, hoá chất nầy vẫn còn hữu hiệu trong việc phòng chống bịnh sốt
rét. Theo thống kê mới nhất của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
(USAID), hàng năm có khoảng từ 300 đến 500 triệu người bị bịnh sốt rét
trên tòan cầu, và có khoảng 1,2 triệu tử vong, đa số là trẻ em vùng sa mạc
Sahara, Phi Châu. Thêm nữa, kinh phí cho việc chửa trị cho số bịnh nhân
còn lại ước tính lên đến 1,7 tỷ Mỹ kim. Tuy nhiên, xử dụng DDT để phòng
bịnh không còn là một phương pháp hữu hiệu nữa vì ấu trùng bịnh sốt rét
ngày càng tăng thêm sức đề kháng kể từ khi con người lần lượt dùng thuốc
chloroquine, sulfadoxine, chuyển qua artemisinine, và gần đây pyrethroids.
Do đó, hiện nay, việc tổng hợp thuốc sau cùng với DDT mới đạt được mức
hữu hiệu trong công việc đề phòng bằng cách phun xịt lên các bức tường
trong nhà.
Ở Việt Nam trước năm 1975, Miền Nam đã xử dụng DDT trong công tác
diệt trừ sốt rét, do đó hàng năm chỉ nhập cảng từ 8 đến 10 ngàn tấn mà thôi.
Trong hiện tại, Việt Nam nhập hàng năm trung bình trên 100 ngàn tấn. Lý
do là, đa số DDT được dùng trong việc pha chế thuốc bảo vệ thực vật vì giá
rẻ và có hiệu quả tương đối tốt so với các hoá chất bảo vệ thực vật khác. Tại
Tp HCM, hiện có 3 công ty sản xuất (thực ra là pha trộn) hóa chất bảo vệ
thực vật lớn là Xí nghiệp thuốc sát trùng Bình Triệu và Tân Thuận và xí
nghiệp thuốc trừ sâu Sàigòn.
2.Con đường xâm nhập của DDT vào cơ thể con người
DDT xâm nhập vào cơ thể con người bằng nhiều cách khác nhau như:
- Hấp thụ xuyên qua các lỗ chân lông trên da
- Đi vào thực quản qua thức ăn hoặc nước uống
- Đi vào khí quản qua đường hô hấp
Tùy theo vùng sinh sống và cách sinh hoạt, con người có thể bị nhiễm độc
trực tiếp hay gián tiếp như sau:
- Người dân sống trong vùng nông nghiệp chuyên canh về lúa có thể bị
nhiễm độc qua đường nước;
- Người dân sống trong vùng chuyên canh về thực phẩm xanh như các loại
hoa màu thường bị nhiễm qua đường hô hấp;
- Còn người dân ở đô thị bị nhiễm khi tiêu thụ sản phẩm đã bị nhiễm độc.

Cấu tạo của DDT


Công thức lập thể DDT
3.Ảnh hưởng của DDT đối với môi trường
Qua nhiều báo cáo khoa học khác, nhiều nhà khoa học đã bắt đầu nghi
ngờ việc xử dụng DDT trong công tác diệt trừ sốt rét bằng cách phun xịt lên
tường trong nhà ở. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng từ năm 1945 trở đi việc
xử dụng DDT đã làm cho 19 loài muỗi có mang ấu trùng sốt rét tăng thêm
sức đề kháng, do đó cần phải phun xịt một liều lượng cao hơn.
Vì vậy việc xử dụng hóa chất nầy không còn được các nhà khoa học hưởng
ứng nữa so với tác hại của chúng lên môi trường.
Việc đem DDT vào nông nghiệp và chăn nuôi ở Việt Nam và một số quốc
gia đang phát triển là một việc làm có tính cách nhất thời. Vì sao? Vì DDT
sẽ tồn tại lâu dài trong môi trường, sẽ chuyển hoá thành DDE và có độc tính
tương đương như dioxin, do đó còn có tên là dioxin-tương đương. Vì vậy,
ảnh hưởng lên môi trường của DDT trong việc pha chế các thuốc bảo vệ
thực vật cần phải được loại trừ, vì hiện nay, ngành công nghệ sinh học tiên
tiến có khả năng tạo giống mới cho cây trồng có sức đề kháng cao. Công
nghệ nầy áp dụng cấy mô hay tế bào vào cây trồng hay động vật để tạo ra
kháng thể tự nhiên cho các thế hệ về sau, do đó cây cỏ và gia súc sẽ có tính
miễn nhiễm và đề kháng cao đối với sâu rầy
4.Ảnh hưởng của DDT lên con người
Ảnh hưởng của DDT lên con người được mô tả từ nhẹ đến nặng tùy theo
mức độ tiếp nhiễm DDT: Con người cảm thấy nhức đầu, người yếu dần, bị
tê các đầu ngón tay, ngón chân, thường hay bị chóng mặt. Và khi bị nhiễm
nặng thì bị mất trí nhớ, sống trong tâm trạng hồi họp thường xuyên, bắp thịt
ngực bị co thắt, không kiểm soát được đường tiểu, thở rất khó khăn và bị
động kinh. Nhiều bà mẹ đã bị xảy thai vì sống trong vùng ảnh hưởng của
hóa chất nầy. Qua những khám phá mới nhất, các bà mẹ bị tiếp nhiễm trong
thời gian mang thai, trẻ sơ sinh có thể bị sinh sớm và cò những triệu chứng
chậm phát triển về thần kinh, cũng như tỉ lệ tử vong trong bụng mẹ rất cao.

Tên súc vật Mèo Chuột bạch Chuột Thỏ Chó


thường
Lều gây 300 300 500 600-700 10000
chết
(mg/kg)

Vì DDT sẽ tồn tại lâu dài trong môi trường, sẽ chuyển hoá thành DDE và
có độc tính tương đương như dioxin, do đó còn có tên là dioxin-tương
đương. Vì vậy, ảnh hưởng lên môi trường của DDT trong việc pha chế các
thuốc bảo vệ thực vật cần phải được loại trừ.

Thực phẩm có phun DDT 5.5% Lượng DDT còn sót lại (mg/kg)
Táo 0.5-1
Rau xanh 0-14.8
Ngũ cốc 0.7-0.8
Xu hào, cải bắp, cà chua,khoai 3.6
tây, hành lá
Như vậy, nếu người ăn các loại lương thực thực phẩm đã được phun DDT với
lượng còn sót lại như trên và ăn kéo dài thì có nhiều nguy cơ dẫn tới ngộ độc
mãn tính. Ðó là điều đáng lo ngại cần có biện pháp tích cực phòng tránh.

Nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho phép khẳng định khả năng ngộ độc
DDT ở những trẻ bú sữa mẹ. DDT được bài tiết ra ngoài không chỉ qua đường
nước tiểu và phân mà còn qua sữa mẹ. Ở nước ta đã có một số công trình
nghiên cứu và cho kết quả là: Tất cả các bà mẹ dù có tiếp xúc hay không tiếp
xúc trực tiếp với DDT đều có lượng DDT trong sữa mẹ rất cao, vì DDT xâm
nhập vào cơ thể chủ yếu qua đường tiêu hóa, cao hơn rất nhiều lần so với liều
lượng cho phép của OMS (0,05ppm), của Liên Xô (0,14ppm) và của Hungary
(0,13ppm).

Vỏ trứng bị tấn công bởi DDT dư thừa do quá lạm dụng

IV.4.Dioxin
Dioxin là sản phẩm của sự phát triển công nghiệp toàn cầu. Rất nhiều ngành
có thể phát sinh dioxin. Ví dụ ngành công nghiệp nhựa PVC, sơn, công
nghiệp giấy, dệt, công nghiệp luyện kim, nhiệt điện, sản xuất thuốc bảo vệ
thực vật v.v.. Mức độ phát sinh dioxin phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề và
qui mô sản xuất. Đến đầu những năm 60, lượng dioxin trên toàn thế giới phát
sinh từ các hoạt động sản xuất công nghiệp lên tới hàng tấn mỗi năm. Dioxin
cũng phát sinh trong một số hoạt động dân sinh, ví dụ các trường hợp đốt củi,
rơm rạ, đốt rác thải .v.v.
Dioxin- PCDD(polyclorinbenzodioxin) là hợp chất chứa clor rất độc, có
khoảng 75 dẫn xuất khác nhau và độc nhất là 2,3,7,8
TCDD(tetraclodibezo-p-dioxin) hay còn gọi là chất độc màu da cam.
Dioxin được tạo ra khi đốt các sản phẩm chứa chlor, quá trình sản xuất
giấy, nhựa PVC, cháy rừng…
Trong môi trường sinh thái, dioxin ít hoà tan trong nước nhưng khả năng
hấp thụ vào đất lại khá cao. Khi xâm nhập vào đất, dioxin kết hợp với các
chất hữu cơ biến thành các phức chất không hoà tan trong nước và ít bị rửa
trôi, do vậy, những lớp đất có lượng mùn cao ở khu vực nhiễm độc dioxin
có khả năng tích tụ dioxin nhiều nhất. Dioxin có thể chuyển rời ra khỏi
những nơi tích tụ ban đầu nếu khu vực đất nhiễm dioxin bị sạt lở, và theo
dòng nước cuốn đi xa, tạo thành những khu vực nhiễm độc mới.
Những nghiên cứu trên cơ thể thực vật cho thấy, khi bị phun rải chất độc
da cam, cơ thể thực vật sẽ có những phản ứng sinh lý, như xuất hiện nhiều
u nổi trên lá, một số thay đổi khá rõ nét về hình dáng thân, cành, lá, hoa và
quả, nhiều trường hợp dẫn tới rụng lá. Nếu cây không mọc lá trở lại, có
nghĩa là chấm dứt sự quang hợp, dẫn đến chết cây. Chất độc da cam cũng
gây tiêu huỷ các chất hữu cơ trong đất, dẫn đến sự giảm sút các hoạt động
của vi sinh vật trong đất, gây hậu quả phá huỷ cơ cấu thành phần thổ
nhưỡng và xói mòn đất. Hệ động vật cũng chịu tổn thất rất nặng nề. Sau
mỗi đợt máy bay phun rải chất độc hoá học, trên mặt đất la liệt xác động
vật chết. Những cá thể loài sống sót vẫn có thể tiếp tục chết nếu ăn phải
thức ăn hoặc uống phải nguồn nước bị nhiễm độc.

Dioxin đi vào môi trường đất, nước và khuếch đại trong chuỗi thực phẩm.
Dioxin có thể tích tụ trong các mô mỡ của người và gây các loại ung thư
khác nhau.Ở nông độ rất thấp, dioxin làm rối loạn chức năng hormon, hệ
miễn dịch. Nhiễm độc nặng có thể gây các bệnh về gan, máu,ung thư và tử
vong. Phụ nữ có thai khi tiếp xúc có thể gây hỏng chức năng hệ thần kinh
ở phôi và gây quái thai. Chất này rất độc đối với một số động vật, động
vật nhiễm dioxin giảm trọng lượng 50% và chết trong vòng 2-3 tuần. Độc
tính cao của nó được thể hiện bởi khả năng tích lủy trong cơ thể ở liều
lượng không gây tử vong nhưng lại gây ra những tổn thương lâu dài trong
các bộ phận của cơ thể dẫn đến ung thư, quái thai, đột biến gen,…chỉ với
hàm lượng rất nhỏ.
Sự tồn tại của Dioxin
- Dioxin có thể có trong đất, nước, không khí, các mô bào động thực
vật và người.
- Khi vào cơ thể động vạt và người, dioxin tích tụ nhiều trong mô mỡ,
mô cơ, sữa. Thời gian để cơ thể chúng ta thải trừ được một nửa lượng
dioxin phải mất 10 năm.
- Ảnh hưởng của dioxin
- Có thể tóm tắt các tác hại do dioxin gây ra dựa trên những kết quả
nghiên cứu khoa học được công bố như sau:
- Dioxin có thể là nguyên nhân gián tiếp của nhiều loại ung thư như ung
thư phổi, gan, thận, ung thư vú, ung thư tủy xương...
- Ảnh hưởng đến quá trình sinh sản và phát triển của bào thai.
- Giảm khả năng miễn dịch của cơ thể
- Gây dị tật bẩm sinh, bệnh đái đường, ảnh hưởng đến da và chức năng
của da,tóc
- Ảnh hưởng đến trí não và nhiều ảnh hưởng khác
Nguy cơ nhiễm dioxin
- Những người sống trong vùng bị nhiễm dioxin, làm việc trong các nhà
máy hóa chất có sử dụng hay sản xuất những chất dioxin và giống
dioxin... có nguy cơ nhiễm dioxin cao hơn những đối tượng khác.
- Khi mẹ bị nhiễm, dioxin sẽ có mặt trong sữa
Có thể tóm tắt con đường truyền của Dioxin như sau:
-Con đường thứ nhất: Từ đất Dioxin vào thảm thực vật(qua quá
trình hấp thụ từ rễ cây), đi vào các loài ăn cỏ như bò, vào máu bò và được
tích tụ trong mỡ bò, sữa bò, thịt bò.Người ăn thịt bò và sữa bò sẽ bị nhiễm
Dioxin. Có tới hơn 95% chất độc tiếp xúc với con người thông qua chuỗi
thức ăn, đặc biệt qua chất béo động vật.
- Con đường thứ hai: Dioxin bị rửa trôi vào nguồn nước mặt. Tảo
và thực vật nước là sinh vật hấp thụ Dioxin đầu tiên. Động vật nguyên
sinh ăn tảo và cá ăn động vật nguyên sinh chứa Dioxin. Người lại dùng cá
như một loại thức ăn và như vậy, qua chuỗi thức ăn mà Dioxin được
truyền từ nước sang. Hay từ cá nhiễm Dioxin, người ta làm thức ăn cho gà.
Và từ đó, gà cũng bị nhiễm Dioxin, đẻ ra trứng. Trứng gà nhiễm Dioxin dễ
vỡ, vỏ mỏng và không có khả năng nở con
Cơ chế phản ứng gây độc của Dioxin lên tế bào rất phức tạp, nó được thực
hiện bởi một dây chuyền gồm 8 phản ứng dây chuyền:
Phản ứng 1: Dioxin tan trong mỡ, qua thành tế bào vào trong nguyên sinh
chất.
Phản ứng 2: Vào trong tế bào chất, nó gắn kết với AhR( chất mang) tạo
thành liên kết hóa học Dioxin- AhR.
Phản ứng 3: Nhờ chất mang AhR, Dioxin mới có thể đi qua màn nhân vào
trong nhân tế bào.
Phản ứng 4: Liên kết Dioxin- AhR tìm tới đoạn cấu trúc tên gọi DRE
(DRE sigment) trong phân tử AND trong nhân tế bào và gắn kết vào đó.
Phản ứng 5: Đoạn AND có gắn kết Dioxin tổng hợp ANRm với những
thông tin sai lệch.
Phản ứng 6: ARNm tham gia tổng hợp protein sẽ tạo ra các loại protein :
Lucifarase(CALUC), Cytochrome P450 1A1 (EROD) và một số loại
protein có độc tính cao.
Để xác định các loại protein tạo ra do ảnh hưởng của Dioxin thì người ta
có thể dựa vào một số tính chất sinh hóa đặc biệt của CALUX (theo Phản
ứng 7) và EROD (Phản ứng 8).
Phản ứng 7: Lucifarase + ATP +Lucifarase -- Phát quang + CO2 +
Oxylucifarin
Nhờ máy đo phát quang mà người ta có thể xác định cường độ phản
ứng và từ đó suy ra lượng Lucifarase được tổng hợp.
Phản ứng 8: 7- Ethoxyresorufin + Cytochrome P450 1A1 phát huỳnh
quang + Resofurin
Nhờ máy đo huỳnh quang mà người ta có thể xác định cường độ phản ứng
và từ đó suy ra lượng
Cytochrome p450 1A1 được tổng hợp từ phản ứng 6.

IV.5. Thuốc trừ sâu hại

Thuốc trừ sâu (TTS) được tìm thấy trong môi trường ở tất cả các khu vực của
thế giới, cả ở những nơi sử dụng và nơi mà chúng chưa bao giờ được sử dụng, thí
dụ ở Bắc Cực. TTS được sử dụng trên phạm vi rộng bắt đầu khỏang thập niên
1950 và 1960 và việc sử dụng khá cẩu thả ở giai đọan này.Các nhà sản xuất và
người sử dụng không nhận thức được mối nguy hiểm khi sử dụng TTS, liên quan
đến việc phân tán và ảnh hưởng tại chỗ trong môi trường của chúng
Một khi TTS được sử dụng, sự tồn tại của nó là không kiểm sóat được nữa. Tùy
thuộc vào lọai thuốc và điều kiện môi trường như oxy, ánh sáng mặt trời, gió,
nhiệt độ, độ ẩm, họat tính của đất, lọai đất,v.v. TTS được phát tán đi rất xa nơi nó
được sử dụng bởi gió, hơi nước, nước mưa, nước ngầm, suối và sông, và trong
các mô cơ thể người và động vật. Một lọai TTS thường biến đổi đi sau khi sử
dụng thành một hoặc nhiều chất chuyển hóa mà các chất này có thể có tính chất
hóa học và độc tính khác với hợp chất ban đầu. Trong nhiều trường hợp, các chất
chuyển hóa bền vững và độc hơn lọai TTS sử dụng ban đầu
TTS hữu cơ bao gồm các hydrocarbon có chứa Clo như DDT, aldrin, dieldrin,
chlordane, heptachlor, lindane, dendrin, và toxaphene. Do đặc tính khó tan trong
nước và có khuynh hướng gắn kết với các hạt đất theo con đường hóa học, các
hợp chất này hiếm khi thấy thâm nhập vào nước ngầm và thường xuyên phát hiện
các hợp chất này làm ô nhiễm nguồn nước mặt. Các lọai TTS có chứa Clo đã bị
hạn chế hoặc cấm sử dụng do ảnh hưởng độc hại của chúng và do mối quan tâm
về khả năng tích tụ lâu dài trong môi trường của các lọai thuốc này. Các hợp chất
organophosphorous như malathion và diazinon đã bắt đầu thay thế cho các lọai
TTS có chứa Clo. Mặc dù một số hợp chất organophosphorous có độc tính cao
đối với con người, nói chung chúng phân hủy nhanh chóng trong môi trường và
vì thế ít phát hiện thấy trong nước ngầm. Một nhóm các hợp chất hoặc TTS khác
đã dùng để thay thế cho các lọai hydrocạcbon có chứa Clo là TTS carbamate bao
gồm aldicarb, carbofuran và oxamyl. Các hợp chất này có khuynh hướng tan
trong nước và chỉ bị đất hấp thụ yếu. Do đó, nếu không phân hủy trong lớp đất
mặt, các hợp chất này lại có một khuynh hướng là dịch chuyển vào trong tầng
nước ngầm. Trong khi những lọai TTS lọai mới thường ít bị phát hiện hơn các
lọai TTS từ các hợp chất hydrocạcbon có chứa Clo, chúng có thể được tìm thấy
trong nguồn nước mặt là nguồn cấp nước cho cộng đồng và các hộ gia đình. Hơn
nữa, điều quan trọng cần lưu ý rằng trong khi các lọai TTS từ các hợp chất
hydrocạcbon có chứa Clo được kiểm sóat chặt chẽ hơn trước đây, chúng vẫn duy
trì một mối nguy do nhiều lọai thuốc phân hủy rất chậm và có thể làm ô nhiễm
đất trong một thời gian rất dài. Ví dụ, chlordane, một lọai TTS rất bền vững, được
sử dụng rất phổ biến để diệt mối cho đến khi bị cấm sử dụng vào năm 1989. Lọai
thuốc này vẫn có thể tìm thấy trong nước uống ở nhiều khu vực trên thế giới.

Thuốc trừ sâu


STT Năm Tổng Số Gía trị Khối lượng Tỷ lệ(%)
(Tấn) (Triệu USD) (tấn)
1 1990 21600 9,0 1759 82
2 1991 20300 22,5 16900 83
3 1992 23100 24,1 18000 75
4 1993 24800 33,4 18000 72
5 1994 20380 58,9 15226 68
6 1995 25666 100,4 16451 64
7 1996 32751 124,3 17352 53
(nguồn :bộ NN VÀ PTNT,1998)
1.Phân loại
Thuốc trừ sâu hại gồm có 3 loại:
- Thuốc trừ sâu:
• các hợp chất clor hữu cơ những chất này không tan trong nước và
bền tới 10 năm như aldrin,DDT,BHC,
• hợp chất photpho hữu cơ nhanh chóng bị phân giải sinh vật trong
nước như Arinphos,mrthmyl,Dicglorvos
• những hợp chất cacbonat loại này ít độc hại đối với động vật máu
nóng
- Thuốc trừ nấm
• thông dụng nhất là những loại nấm thủy ngân hữu cơ chúng được
dùng phối hợp với thuốc trừ sâu clor hữu cơ như Bordeaux hỗn
hợp,đồng oxy,mancozed,metiram,propinneb thiram
- Thuốc trừ cỏ
• -các chất dẫn xuất của axit phenoxy axetic như
bromofenoxim,dinocseb acetate
-các triazines như ametryn,atrazine, methoprotrotryne simazine,
terbutryn.
2.Hiện trạng sử dụng thuốc trừ sâu
Theo FAO, lượng chất thải hoá học độc hại từ các loại thuốc trừ sâu không
được phép sử dụng hoặc đã quá hạn sử dụng ở Mỹ Latinh lớn hơn rất nhiều so
với trước đây. Trên cơ sở thông tin do nhiều quốc gia cung cấp, tổng lượng hoá
chất trước đây khoảng 10.000 tấn được quy định xử lý tại chỗ, nhưng hiện nay
số lượng các loại chất này chứa trong kho đã cao hơn rất nhiều, ước tính khoảng
30.000 đến 50.000 tấn.
Ở Bắc Colombia, đã phát hiện khoảng 200 tấn thuốc trừ sâu độc hại nhất tại
El Copey, thuộc khu vực Cesar, 170.000 lít mêtyl parathion rất nguy hại và
10.000 lít chất ô nhiễm hữu cơ bền toxaphere. FAO đã giúp đỡ Chính phủ
Colombia điều tra vị trí và các hoá chất được bao gói lại và tiêu huỷ. Các nhà
chức trách Colombia đã phát hiện ở một địa phương đã chôn lấp khoảng 5000
tấn thuốc trừ sâu, tại đó một số gia đình đã chuyển đến xây dựng nhà ở.
Paraguay đang khẩn trương thực hiện việc tiêu huỷ 125 tấn thuốc trừ sâu và
vật liệu ô nhiễm nặng đã bị huỷ hoại do hoả hoạn xảy ra tại thủ đô Asumcion
vào năm 2003. Những nỗ lực dập tắt ngọn lửa đã gây ô nhiễm nặng gần khu
vực sông Paraguay, chảy vào các công sở Ác-hen-ti-na và đổ ra Đại Tây
Dương. Những người dân sinh sống ở làng ven sông hiện nay đang có nhiều
triệu chứng nhiễm độc mãn tính.
FAO đang giúp Paraguay xác định số lượng các kho thuốc trừ sâu quá hạn tại
một số khu vực của quốc gia. Nguồn tài chính cần thiết để loại bỏ và tiêu huỷ
chất thải độc hại này khoảng 3 triệu USD.
Ở Bolivia, người ta đã phát hiện ra những kho thuốc trừ sâu cũ, thành phần
chủ yếu là asen và các hợp chất thuốc khử trùng dễ bay hơi tại các khu vực dân
cư và gần những nguồn nước quan trọng gồm có hồ Titicaca. Bilivia. Bolivia là
một trong những quốc gia nghèo nhất trong khu vực đã có những nỗ lực nhằm
quản lý kho thuốc và đảm bảo an toàn các hoá chất độc hại này bằng cách đóng
gói lại với sự giúp đỡ của FAO. Nhưng Bolivia vẫn cần 3 triệu USD để loại bỏ
các hoá chất không sử dụng và đưa ra những biện pháp nhằm tăng cường quản
lý hoá chất.
FAO đã tổ chức một chương trình đào tạo khu vực cho 9 nước Nam Mỹ. Các
quan chức chính phủ, nhân viên bộ tình trạng khẩn cấp, đại diện các ngành công
nghiệp và đã nghiên cứu đưa ra biện pháp để hoàn thành bản kiểm kê chi tiết
an toàn, hiệu quả, chính xác và đánh giá rủi ro môi trường của các loại thuốc trừ
sâu quá hạn, triển khai quản lý các hoạt động làm sạch.
Các loại thuốc trừ sâu quá hạn vẫn chưa được giải quyết ngay sau các chiến
dịch kiểm soát dịch hại ở cây bông và các sản phẩm cây trồng khác. Những kho
chứa thuốc trừ sâu tồn đọng do một số chất bị cấm vì lý do gây hại cho sức
khoẻ và môi trường, nhưng chưa được chuyển đi và xử lý. Các kho chứa thuốc
trừ sâu đã bị hỏng thường gây ô nhiễm môi trường và rủi ro cho con người.
Nguồn: FAO, 6/2005
3.Ảnh hưởng của dư lượng thuốc trừ sâu đến nguồn nước
a.nguồn nước ngầm
• các dư lựong thuốc trừ sâu sau khi sử dụng tưới tiêu thủy lợi nông
nghiệp làm cho nguồn nước bị nhiễm bởi các thuốc trừ sâu ,thuốc
diệt cỏ thấm qua đất vào nguồn nước ngầm
• khi nguồn nước ngầm bị nhiễm thuốc trừ sâu nó không có khả năng
tự làm sạch như nguồn nước mặt,dòng chảy trong nguồn nước ngầm
rất chậm các dư lượng thuốc trừ sâu không pha loãng hay phân tán
được,do vậy nó tồn tại trong khoảng thời gian rất lâu có thể hàng
trăm năm để làm sạch những chất ô nhiễm.
• Đã có bằng chứng khoa học cho thấy tồn lưu một hàm lượng lớn gấp
nhiều lần cho phép các loại hoá chất độc, kim loại nặng từ thuốc trừ
sâu trong đất, nước và nông sản tại Tây Ninh, Long An, Trà Vinh và
một số vùng ngoại thành ở TP.HCM (truy cập ngày 02/07/2004)
• Tại Tây Ninh, có đến 60% điểm đo có hàm lượng vi sinh vượt giới
hạn tối đa cho phép (tiêu chuẩn loại B). Nguồn nước giếng ở Tân
Châu, Gò Dầu, Trảng Bàng, Bến Cầu, Châu Thanh... bắt đầu có dấu
hiệu ô nhiễm vi sinh. Các khảo sát thực địa và lấy mẫu các chỉ tiêu lý
hóa, vi sinh cho thấy mức độ ô nhiễm thuốc trừ sâu ở nguồn nước
ngầm là khá cao và cao hơn nguồn nước mặt
b.Ảnh hưởng tới nguồn nước mặt
-thuốc trừ sâu đổ ra từ đồng ruộng ,kênh ,rạch, ao, hồ theo sông pha loãng
vào nước lang rộng khắp nơi làm cho nguồn nước mặt bị ô nhiễm gây ra
những tác động nguy hại tới hệ thực vật và động vật.
Đây lầ những dư lượng thuốc trừ sâu trực tiếp thải xuống sôg ảnh hưởng đến
sức khỏe con người rất nhiều
-Tại Trà Vinh, nguồn nước ở sông Long Bình cũng ở tình trạng nhiễm bẩn
nghiêm trọng. Các chỉ tiêu về COD, ammoniac, nitơ,... đều vượt tiêu chuẩn cho
phép từ 1,35-7,81 lần. Riêng hàm lượng clo vào mùa khô hiện diện rất cao,
điểm thấp nhất cũng đã lên đến 178mg/l. So với tiêu chuẩn quy định, nước sông
Long Bình đã thuộc loại 2 và không dùng cho sinh hoạt
4.Ảnh hưởng tới con người
Các ảnh hưởng cụ thể của TTS đến sức khỏe do sự phơi nhiễm tùy thuộc vào
nồng độ, khả năng hấp thu của cơ thể, thời gian các hợp chất bị đồng hoá và
thải ra khỏi cơ thể ngắn hay dài, và các yếu tố khác.
- Khi TTS được tìm thấy trong nguồn nước cấp, thông thường chúng không
hiện diện ở nồng độ đủ cao để gây ra các ảnh hưởng cấp tính đến sức khỏe như
phỏng do hóa chất, buồn nôn, hay co giật. Phần lớn, TTS chủ yếu hiện diện ở
nồng độ vết (tức là ở nồng độ rất nhỏ), và mối quan tâm chủ yếu là khả năng
gây các ảnh hưởng mãn tính đến sức khỏe như suy giảm chức năng của các cơ
quan trong cơ thể (như gan, thận), rối lọan hệ thần kinh, khiếm khuyết về sinh
sản, và/hoặc gây ung thư.
- TTS có khả năng là một nguyên nhân làm gia tăng tỉ lệ một số bệnh ung thư ở
nông dân. Nông dân là đối tượng có rủi ro cao hơn so với các thành phần khác
trong cộng đồng đối với một số bệnh ung thư: ung thư gan, ung thư lá lách,
bướu ác tính ở da, đa u tủy, bệnh bạch cầu, và ung thư môi, dạ dày, tiền liệt
tuyến và não
- Phơi nhiễm với thuốc 2,4-D; 2,4,5-T; mecoprop, acilfluorfen và các lọai TTS
khác đã từng được liên hệ với bệnh ung thư gan, lá lách
- Phơi nhiễm với các lọai thuốc diệt côn trùng cho thấy có mối liên hệ với các
bệnh ung thư máu, u tủy và ung thư não
- Có khả năng gây tổn hại đến hệ di truyền, hệ thần kinh, hệ nội tiết hoặc các
hệ thống miễn dịch của cơ thể.
- Năm 2003, Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (US-EPA) đã kết luận rằng trẻ
em ở độ tuổi 15 có rủi ro về ung thư cao gấp 3 lần so với người trưởng thành
khi phơi nhiễm với các chất gây đột biến. Các chất gây đột biến có thể gây ung
thư bằng cách phá hủy các phân tử AND chứa cấu trúc di truyền và các chất này
được tìm thấy trong một số lọai TTS.
- việc sử dụng thuốc diệt côn trùng chứa organophosphate tại nhà đã làm tăng
lên những rủi ro cho trẻ sơ sinh và trẻ em đang tuổi tập đi. Nhiều
organophosphate độc cho não bộ và hệ thần kinh, đặc biệt có thể làm tổn
thương cho não trong thời kỳ sơ sinh và tuổi niên thiếu.
5.Hậu quả nguồn nước bị nhiễm thuốc trừ sâu
-nguồn nước bị ônhiễm gây ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống sinh hoạt kinh
tế xã hội
 dư lượng thuốc trừ sâu thải trực tiếp xuống kênh rạch,sông ngòi đã ảnh
hưởng rất nhiều đến công tác cấp nước sinh hoạt cho hoạt động của con
người
 gây ảnh hưởng nhiều đến hệ sinh vật trong nước,gây độc hại cho tảo như
là muối đồng,các chromattes.thuốc trừ cỏ rất độc đối với phiêu sinh thực
vật,thuốc trừ cỏ gốc urê còn ngăn cản sự tăng trưởng của phytoflagellta ở
nồng độ thấp ở mức ppb
 nông dược còn làm xáo trộn sự tạo phôi của động vật sống thủy sinh
 nguồn nước nhiễm thuốc bảo vệ thực vật còn ảnh hưởng đến sức khỏe
con người rất nhiều như nguồn nước ngầm,nước giếng ở xã Thạch Sơn-
Lâm Thao–Phú Thọ được phát hiện có nhiều người dân trong xã bị ung
thư do nguồn nước nhiễm thuốc trừ sâu(theo tờ báo kinh tế nông thôn
ngày 13/03/2007-Phan Duy viết) ngoài ra nó còn gây ra nhiều bệnh khác
cho con người
 Nguồn nước ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật nó tiêu diệt nhiều thiên địch
trong nền nông nghiệp làm cho nhiều dịch bệnh sâu hại mới xuất hiện
IV.6. Dichlorophenoxyacetat acid.(2,4D)
1. Định nghĩa
Là hợp chất có chứa gốc carbonyl( tính acid) và gốc clo.2,4D tương đối bền
vững về mặt hóa học, nhanh chóng bị phân hủy trong môi trường đất( thời
gian phân hủy từ 1-2 tuần) và có khả năng lan truyền rộng thông qua tác
động lên nguồn nước mặt và nước ngầm.
2. Hiện trạng sử dụng
2,4 D có tên đầy đủ là 2,4 D chlorophenoxyacetic acid. Đây là thuốc diệt cỏ
được sử dụng rộng rãi nhiều nhất trên thế giới, điển hình là ở Canada và
nam Mỹ 2,4 D đứng thứ 3 trong các loại thuốc diệt cỏ được sử dụng.
- Được sử dụng rộng rãi ở các lĩng vực khá đa dạng và phong phú bao gồm
nông nghiệp, khu dân cư(trong sân vườn, sân golf…)
- Nếu sử dụng 2,4 D ở liều lượng thấp sẽ có tác dụng kích thích sinh trưởng.
VD: ở Mỹ:
- Cây mận: nhằm ngăn chặn sự rụng lá trước khi thu hoạch, người ta phun
2,4 D với nồng độ 15 – 20 ppm.

- Đối với cam: phun 2,4 D với nồng độ 8 – 16 ppm.

- Đối với nho thì tùy thuộc từng mùa.

- Nếu sử dụng với liều lượng cao: 2,4 D là loại thuốc diệt cỏ được tuyển chọn
để diệt những loài không có ích mà ít gây tổn hại đến cây trồng.
Không giống như chất kích thích 2,4 D tồn tại ở liều lượng cao trong mô tế
bào ơhats triểu nhanh hơn bình thường và cỏ sẽ chết khi hệ thống vận
chuyển bị cản trở và quá trình phá huỷ bởi sự phát triển

• Tiêu chuẩn giới hạn:

Mức cho phép tối đa của 2,4 D trong đất là 0,2 mg/kg,; còn trong nước là
30mg/l.(EPA).Tùy vào từng loài cụ thể sẽ có những giới hạn khác nhau với 2,4
D

3.Ảnh hưởng đến con người và môi trường


 2,4 D là hợp chất gây độc ở gốc clo. Tính gây độc của 2,4D phụ thuộc
vào tính chọn lọc và khả năng xâm nhập của các hợp chất 2,4 D.

o Tính chọn lọc của 2,4 D phụ thuộc vào nhiều yếu tố: liều lượng,
loại hợp chất 2,4 D, thời tiết, giống cây trồng và giai đoạn sinh
trưởng của sinh vật.

Khả năng xâm nhập của các hợp chất 2,4 D phụ thuộc vào nhiều yếu tố: nhiệt
độ, độ ẩm không khí và cường độ ánh sáng
a.Ảnh hưởng đến con người
Ngắn hạn: với liều lượng lớn có thể gây ra những ảnh hưởng lên thần kinh .
Dài hạn: ảnh hưởng lên hệ thần kinh và toàn bộ cơ thể
Triệu chứng nhiễm độc cấp tính: hoa mắt, chóng mặt, run, nôn mửa ,tiêu chảy,
rối loạn nhịp tim, mất ý thức…
Triệu chứng nhiễm độc mãn tính: gây kích thích cơ quan hô hấp, khó thở, viêm
phế quản, viêm Amidam, và viêm mũi mãn tính
Ngoài ra 2,4 D còn gây một số bệnh sau đối với người:
- Ung thư tuyến hô hấp, tuyến tiền liệt.
- Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy, bệnh tra u tủy
- Tiểu đường nhóm 2.
b. Ảnh hưởng đến môi trường
- Ảnh hưởng đến môi trường đất và môi trường nướcPhá hủy đất trồng và nước
ngầm: gây sói mòn đất, thay đổi thành phần của đất, thay đổi thành phần thổ
nhưỡng làm giảm thảm thực vật, động vật và dẫn đến thay đổi sinh thái môi
trường.
- Phá hủy trong nước: tỷ lệ phá hủy tăng khi tăng chất dinh dưỡng, trầm tích và
cacbon hữu cơ hòa tan
Ảnh hưởng đến động vật
gây sói mòn đất, thay đổi thành phần của đất, thay đổi thành phần thổ nhưỡng
làm giảm thảm thực vật, động vật và dẫn đến thay đổi sinh thái môi trường.
Phá hủy trong nước: tỷ lệ phá hủy tăng khi tăng chất dinh dưỡng, trầm tích và
cacbon hữu cơ hòa tan
Ảnh hưởng đến động vật:
 Làm ảnh hưởng đến hệ emzim của sinh vật, làm sai lệch các phản
ứng,đôi khi làm ảnh hưởng đến sự sinh sản, có thể gây quái thai.

 2,4 D tan trong mỡ hay tích tụ trong trứng cá gây ảnh hưởng đến
sự phát triển và duy trì nòi giống.

 Làm giảm số lượng côn trùng, sâu bọ=> siảm số lượng chim;hay
nói cách khác làm giảm số lượng cà sự đa dạng sinh học của chim

 ở các thí nghiệm trên động vật cho thấy khi vào cơ thể 2,4 D
làm:Giảm hàm lượng hemoglobin trong máu, làm giảm hoạt tính
của các enzim ở gan và làm giảm lượng thận , theo thí nghiệm của
EPA nồng độ gây độc tác động lên máu, gan và thận là 0.01
mg/kg/ngày.

 Giảm khả năng thụ thai, tăng tỷ lệ chết của thai chuột, gây quái
thai.

 Tăng các khối u do làm giảm các tế bào lympho  gây ung thư

Ảnh hưởng đến thực vật:


• Gây cản trở quá trình phát triển bình thường của cây.

• Có khả năng xâm nhập nhanh vào tế bào thực vật.

• Làm rối loạn quá trình trao đổi chất, sinh trưởng của cây khi ở
nồng độ cao dẫn đến gây chết ở thực vật

.KẾT LUẬN
Nói tóm lại ô nhiễm hữu cơ đang là vấn đề báo động trên thế giới và Việt nam.
Đăc biệt là các hợp chất hữu cơ khó phân hủy, có tính hại độc cao đã và đang
gây ra những ảnh hưởng rất lớn đối với con người trong cuộc sống hiện tại và
cả các thế hệ mai sau. Do đó, vì một tương lai phát triển bền vững chúng ta cần
phải có biện pháp xử lý và kiểm soát nguồn ô nhiễm này để tiến tới một môi
trường trong sạch , lành mạnh.
Thuốc bảo vệ thực vật rất hữu ích đối với nông nghiệp, tiêu diệt các sâu hại
làm tăng năng suất cây trồng, làm tăng được phẩm chất sản phẩm, hạn chế được
nhiều sản phẩm bị sâu hại, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhưng bên cạnh những
mặt tích cực còn có nhiều mặt tiêu cực gây ảnh hưởng không ích đến sức khỏe
con người, vật nuôi các động vật có ích trong nông nghiệp và có thể làm phát
sinh thêm nhiều bệnh dịch mới ảnh hưởng đến năng suất cây trồng .Vì vậy với
việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật chúng ta cần phải sử dụng đúng lúc, đúng
liều lượng, đúng nồng độ, đúng thời vụ và khi cần thiết thì mới nên sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật không nên sử dụng bừa bãi và chúng ta khuyến khích
nông dân có thể sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc tự nhiên để giảm
bớt nguy hại cho môi trường sống chúng ta.

Tài liệu tham khảo:


1.Hóa học môi trường- Đăng Kim Chi, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ
thuật-2006.
2.Môi trường và sức khỏe-Nguyễn Đức Khiển, Nhà xuất bản LĐ-XH.
Trang; trang 25,98 110
3.Công nghệ sinh học môi trường- Nguyễn Đức Lượng, Nguyễn Thị
Thùy Dương; trang 19,20.
4.Độc tố học môi trường- Trần Thị Mai Phương, ĐHKHTN TPHCM.
5.Environment chemistry-James E.Girard, American University.
6.website: http://www.en.wikipedia.org và các tài liệu tham khảo khác

You might also like