Professional Documents
Culture Documents
- Mô hình 2 vụ lúa xen canh 1 vụ tôm: Ruộng được trồng 2 vụ lúa Hè-Thu và Đông-
Xuân. Tôm được nuôi kết hợp với lúa Hè-Thu và thu hoạch trước khi bắt đầu vụ Đông Xuân.
Mô hình này thích hợp cho vùng lũ thấp, vẫn giữ sản xuất lúa Hè-Thu.
- Mô hình 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm: Ruộng không trồng vụ lúa Hè-Thu mà chỉ
thả nuôi tôm từ khoảng tháng 3-4 và thu hoạch vào tháng 10-11, sau đó trồng 1 vụ lúa Đông-
Xuân. Mô hình hiện được áp dụng rộng rãi, đặc biệt là vùng ngập lũ sâu, lúa Hè -Thu không
đảm bảo hoặc năng suất thấp do lũ đến sớm.
- Mô hình 2 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm: Sau vụ lúa Hè-Thu, tôm được thả nuôi trong
mùa lũ đến đầu vụ lúa Đông-Xuân thì thu hoạch để cải tạo ruộng trồng lúa Đông-Xuân. Mô
hình này có thời gian nuôi ngắn nên phải tuân thủ đúng thời vụ và phải thả tôm giống có kích
cỡ lớn.
2. Kỹ thuật nuôi
Có nhiều yếu tố quan trọng cần phải xem xét khi chọn lựa địa điểm nuôi tôm trên ruộng. Tốt
nhất chọn nơi có mùa ngập lũ, điều kiện đất đai không nhiễm phèn, có hệ thống kênh-sông để
cấp thoát nước tốt vào đầu vụ nuôi, có khả năng thu mua thức ăn, nhất là thức ăn tươi sống và
rẻ (cua, ốc cá tạp), hay có nguồn tôm giống dễ dàng. Tốt nhất vị trí nuôi nên có diện lưới quốc
gia.
Ruộng nuôi tôm có diện tích từ 0,5-2 ha. Tùy mô hình mà có thể thiết kế ruộng nuôi khác
nhau. Đối với mô hình 2 lúa kết hợp 1 tôm thì nhất thiết ruộng phải có mương bao xung
quanh, chiếm từ 20-25 % tổng diện tích ruộng. Mương rộng từ 2-3 m và sâu 0,8-1,0 m so với
mặt ruộng. Đối với các mô hình còn lại thì ruộng không nhất thiết phải có mương bao mà
dùng máy ủi đất mặt ruộng để đắp bờ ruộng cao và chắc chắn, và ruộng trở thành một ao nổi.
Bờ bao ruộng không nhất thiết là phải cao hơn đỉnh lũ, nhưng tốt nhất cao từ 1-1,2 m và chân
bờ rộng từ 3-4 m. Vào mùa lũ, nên dùng lưới mịn chắn trên mặt bờ bao cao hơn mức nước
khoảng 30-40 cm để ngăn không cho tôm thất thoát.
Trong ruộng nên có khu ương tôm có diện tích khoảng 10% diện tích ruộng nuôi. Khu ương
có thể là một ao nhỏ hay được bao ví bằng lưới. Ao ương rất quan trọng vì có thể ương dưỡng
và quản lý tôm tốt trong 1 tháng đầu trước khi thả ra nuôi đại trà. Đặc biệt, ao ương rất cần
thiết đối với mô hình “2 vụ lúa xen canh 1 vụ tôm” nhằm tận dụng thời để gian ương tôm khi
đang xạ lúa. Ao cũng cần thiết cho mô hình “2 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm” vì phải ương tôm
lớn trong thời gian trồng lúa vụ đầu, để có tôm lớn thả ra sau khi thu hoạch lúa.
Đối với mô hình 2 lúa xen canh 1 tôm, ngoài công tác chuẩn bị ruộng như cày xới để trồng
lúa Hè-Thu như bình thường, cần phải chuẩn bị sên vét mương bao, gia cố bờ bao và ao ương,
bón vôi cho mương và ao ương tôm giống (15-20 kg/100m2). Khi tiến hành sạ lúa Hè-Thu
trên ruộng thì cũng bắt đầu ương tôm giống trong ao ương. Khi tôm ương được 1 tháng thì
cho lên ruộng lúa có mức nước thích hợp với lúa.
Đối với các mô hình luân canh khác, sau khi sau khi thu hoạch lúa, cần chuẩn bị ruộng nuôi
tôm như cắt dọn sạch gốc rạ, sên vét mương bao, bừa trục mặt ruộng, sửa lại bờ bao, lắp các
lỗ mọi, hang hốc. Mương bao cần được bón vôi với lượng khoảng 15-20 kg/100m2. Trước
khi thả giống lên ruộng vài ngày, cho nước vào ngập mặt ruộng 0,6-0,8 m. Nước cấp vào phải
được lọc qua túi lưới lọc mịn, dài để ngăn chặn định hại. Riêng mô hình 2 vụ lúa luân canh 1
vụ tôm thì phải ương tôm 1-1,5 tháng trước khi thu hoạch lúa Hè-Thu để có tôm giống lớn khi
thả nuôi thịt.
Đối với mô hình 2 vụ lúa xen canh 1 vụ tôm, hoặc 1 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm, do có thời
gian nuôi dài, nên có thể thả tôm giống là Postlarvae 15 (trung bình 1,2-1,5cm). Riêng mô
hình 2 vụ lúa luân canh 1 vụ tôm, do thời gian nuôi thịt ngắn, nên cần ương tôm Postlarvae
trước đó 1-1,5 tháng, hoặc mua giống lớn 4-6 cm để thả nuôi thịt. Tuỳ theo mô hình nuôi,
kích cỡ tôm giống và thời gian nuôi thịt và khả năng chăm sóc mà có thể thả với mật độ 3-8
con/m2 ruộng. Mô hình nuôi tôm xen canh với lúa (Hè-Thu) nên nuôi với mật độ thấp vì mức
nước ruộng thấp hơn và khả chăm sóc tôm cũng hạn chế hơn.
Có nhiều loại thức ăn có thể sử dụng cho tôm như thức ăn viên công nghiệp, thức ăn viên tự
chế và thức ăn tươi sống. Thức ăn viên công nghiệp cho tôm càng xanh có chất dinh dưỡng
đầy đủ và cân bằng và tiện sử dụng. Người nuôi cũng tận dụng các nguyên liệu địa phương để
sản xuất thức ăn viên cho tôm để giảm chi phí (Bảng 1).
Bảng 1. Công thức phối chế thức ăn cho tôm càng xanh
Cám gạo 35
Bột mì 10
Bột xương 2
Bột lá gòn 5
Premix 2
Dầu 1
Thức ăn công nghiệp và thức ăn tự viên tự chế thường được sử dụng chủ yếu trong 2-3 tháng
đầu nuôi tôm. Tuy nhiên, trong thời gian lũ, nguồn thức ăn tươi sống như cá tạp, cua, ốc rất
phong phú với giá rẻ nên được sử dụng chủ yếu trong giai đoạn nuôi tôm lớn nhằm giúp tôm
lớn nhanh và giảm chi phí thức ăn. Trong thời gian này, cá tạp cũng nhiều hơn, vì thế, việc
cho tôm ăn bằng ốc, cua cũng giảm chi phí do cá tạp tranh mồi nếu cho ăn bằng thức ăn viên.
Tùy giai đoạn tôm nuôi, lượng thức ăn viên cho tôm ăn hằng ngày được tính theo khối lượng
đàn tôm như Bảng 2. Đơn giản, có thể cho tôm ăn ở tháng tuổi thứ 1, 2, 3, 4 và 5 trở lên lần
lượt là 8, 6, 4, 3, và 2% trọng lượng đàn tôm nuôi. Đối với thức ăn tươi sống có thể dùng
lượng gấp 2-3 lần so với lượng thức ăn chế biến. Cho tôm ăn bằng cách kết hợp rãi thức ăn
khắp ao và sàng ăn. Số lần cho ăn có thể từ 2-4 lần/ngày. Cần theo dõi khả năng bắt mồi của
tôm trên sàng ăn và độ no trên dạ dày của tôm để điều chỉnh lượng thức ăn thích hợp.
4-5 5,5
6-9 4,2-4,5
10-13 3,7-4,0
14-20 3,0-3,5
21-27 2,5-2,7
28-34 1,7-2,0
35-40 1,0-1,4
Trong quá trình nuôi, việc quản lý nước rất quan trọng và khác nhau tùy theo mô hình nuôi.
Đối với mô hình nuôi tôm xen canh với lúa hè thu, mức nước trên ruộng thường phải theo
mức nước cần cho lúa (0,2-0,3m). Tốt nhất, không nên dùng thuốc trừ sâu trong khi nuôi tôm.
Nếu dùng thuốc thì phải tháo nước thật từ từ trong vài ngày để rút tôm xuống mương bao. Sau
1-2 tuần thì mới cho nước vào để tôm lên ruộng. Khi thu hoạch lúa thì tháo nước cho tôm
xuống mương và sau khi thu hoạch lúa lại cho nước vào thật nhiều để tôm lên ruộng ăn thức
ăn tự nhiên. Giai đoạn này cần thay nước thường xuyên để tránh thối nước do gốc rạ.
Đối với mô hình 1 vụ tôm luân canh 1 vụ lúa, trong thời gian trước lũ (từ tháng 4-7 dương
lịch), thông thường cần phải bơm nước để giữ mức nước 0.6-0.8m trên ruộng và phải định kỳ
thay nước, ít nhất là 2 lần/tháng vào lúc nước cường.
Đối với tất cả các mô hình, vào thời gian đầu mùa lũ, nước thường không tốt do nước ô
nhiễm, nước đục, dư lượng thuốc trừ sâu… do đó, hạn chế cho nước vào ruộng. Khi giữa mùa
lũ, môi trường nước sẽ rất tốt, nhiều thức ăn tự nhiên, thì cần tăng cường thay nước, hoặc cho
nước chảy tràn qua cống hay bờ ruộng có lưới chắn. Lưới cần được chắn cẩn thận, chắc chắn
và đủ cao trước khi lũ về để tránh thất thoát tôm. Cần kiểm tra bờ bao và lưới hàng ngày vì
gió và dòng nước thường gây sạt lỡ bờ ruộng hay cuốn lưới bao, làm thất thoát tôm nuôi. Mức
nước trên mặt ruộng vào mùa lũ có thể lên đến 1-1.5m hay có thể sâu hơn.
• Thu hoạch
Có thể thu tỉa thu tỉa tôm cái và tôm to có càng xanh sau 4-5 tháng nuôi kể từ khi thả giống
hay thu toàn bộ vào cuối vụ nuôi (tháng 11) trước khi gieo sạ hay cấy vụ lúa Đông-Xuân. Khi
thu hoạch cuối vụ, có thể dùng lưới kéo để thu dần tôm trong 1-2 tuần. Năng suất nuôi đạt
trung bình khoảng 350-800 kg/ha/vụ hay đôi khi đạt trên 1 tấn/ha/vụ tùy mô hình. Thông
thường, nuôi tôm luân canh, có điều kiện chăm sóc tôm tốt hơn, mức nước sâu hơn nên tôm
lớn và tôm cái chậm mang trứng hơn so và năng suất tôm cao hơn với nuôi xen canh với lúa.
Mô hình và các hoạt động nuôi tôm trên ruộng – (1) Mô hình tôm xen canh lúa, (2) Mô hình
tôm luân canh với lúa vào mùa lũ cho thấy đang cho tôm ăn bằng ốc cua, (3) Thức ăn tự chế,
(4) Thu hoạch tôm trong ruộng luân canh (Nguồn: Phương và Hải).
Kinh nghiệm chọn con giống tôm càng xanh chất lượng cao
Chất lượng tôm giống là yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến tỷ lệ hao hụt, năng suất
và hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi tôm càng xanh. Nếu con giống tôm càng xanh kém
chất lượng như: Kích cỡ không đều, bơi lội yếu, bị xây sát hoặc gãy chân do đánh bắt, thân có
màu trắng đục hoặc có nhiều mầm bệnh, vỏ mềm do mới lột xác... sẽ dẫn đến tỷ lệ hao hụt rất
cao ngay từ khi vận chuyển đến địa điểm thả nuôi và sẽ cho năng suất khi thu hoạch kém, mặc
dù các yếu tố khác như: Môi trường nước, thức ăn, phòng bệnh... đều thỏa mãn yêu cầu kỹ
thuật trong suốt quá trình nuôi.
Tôm giống phải có chiều dài tương đối đều nhau, tiêu chuẩn tôm giống phải có chiều dài 3 –
5cm (trong trường hợp chọn từ tôm Post thì tôm Post phải được nuôi dưỡng trong môi trường
nước ngọt hoàn toàn, không có tôm bơi ngửa và chiều dài từ 1 –2cm).
Trong trường hợp trong đàn tôm giống chọn nuôi có một ít tôm lớn hơn hoặc nhỏ hơn so với
chiều dài bình quân của số lượng đàn tôm dự tính chọn nuôi thì số lượng tôm có kích thước
lớn hơn hoặc nhỏ hơn không quá 10%.
Bắt một ít tôm giống (khoảng 80 – 100 con) cho vào một cái chậu có nước cao 7 – 10cm,
dùng tay quay tròn nước trong chậu. Tôm khỏe sẽ bơi ngược dòng nước, đuôi xòe ra hoặc
bám vào thành và đáy thau. Tôm yếu sẽ bị trôi theo chiều nước hoặc tập trung ở lại giữa chậu.
Đàn tôm dự tính được nuôi được coi là tôm khỏe khi số lượng tôm bị trôi theo chiều nước
hoặc tập trung ở giữa chậu chiếm ít hơn 5% trên số lượng tôm kiểm tra.
Hoặc bà con có thể bắt một ít tôm như trên thả vào dung dịch có pha Formol với nồng độ
100ppm (pha 1ml Formol trong 10 lít nước sạch) sau 2 giờ số lượng tôm chết ít hơn 5% trên
tổng số tôm kiểm tra thì chứng tỏ đàn tôm nuôi là khỏe mạnh.
Mặt khác cần chú ý một số yếu tố để chọn tôm khỏe như:
– Tôm khỏe lúc nào đôi râu cũng xếp song song nhau, tôm yếu đôi râu mở hình chữ V.
– Tôm khỏe thì dạ dày (nằm phía trên đầu) có chứa thức ăn và đường ruột vẫn còn thức ăn
(được biểu hiện là đường chỉ có màu nâu, liền nhau không bị đứt đoạn chạy dọc theo thân).
– Tôm khỏe thì bơi lội nhanh nhẹn và khi tắt sục khí tôm sẽ búng mình lên khỏi mặt nước. v3.
Chọn tôm không bị bệnh
Tôm khỏe thân thường có màu xanh trong, phần vỏ và phần chân tôm không có những đốm
nâu đen hoặc vàng xám, trên thân vỏ và phần đuôi không có chỗ bị ăn mòn hoặc khuyết sâu.
Tôm bệnh thường có màu trắng đục, mang có đốm đen, phần vỏ và chân có nhiều chấm nhỏ
màu nâu đen hoặc xám vàng và bị đóng rong.
Vậy khi mua tôm giống nên chọn mua con giống từ những trại tôm hoặc cơ sở có uy tín và
cung cấp con giống có chất lượng .
Để nâng cao chất lượng giống phục vụ cho người chăn nuôi, Trung tâm nghiên cứu sản xuất
giống thuỷ sản tỉnh đã không ngừng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới để nguồn tôm giống
cung ứng cho ngư dân đạt yêu cầu. Một vấn đề được Ngành nông nghiệp tỉnh đặt ra là tăng
cường công tác kiểm tra giám sát những cơ sở sản xuất giống tôm càng xanh nhằm nâng cao
chất lượng giống phục vụ cho người chăn nuôi.
Tiếp xúc với chị Đoàn Thanh Dung, Phó trưởng trại giống Mỹ Thạnh trực thuộc Trung tâm
tâm nghiên cứu sản xuất giống thuỷ sản tỉnh chi cho biết. Từ tháng 4/2003 Trại giống Mỹ
Thạnh tiếp nhận qui trình sản xuất giống tôm theo mô hình nước xanh cải tiến. Sau khi đưa
qui trình vào ứng dụng, Trung tâm đã ương trên 1 triệu con tôm post giống, tuy nhiên khi đưa
đến các hộ chăn nuôi thì tỷ lệ sống chỉ đạt 25%. Trung tâm nghiên cứu sản xuất giống thuỷ
sản tỉnh đã phối hợp với cán bộ kỹ thuật chuyên ngành thuỷ sản để tìm hiểu nguyên nhân trên,
qua đó đã rút ra một số kinh nghiệm là đa số ngư dân nuôi tôm ít quan tâm đến việc quản lý
môi trường, mật độ thả dầy, trong ao ương dưỡng bà con ngư dân không xử lý tảo triệt để nên
gây shook làm cho tôm chết. Về phía Trung tâm nghiên cứu sản xuất giống thuỷ sản thì qui
trình sản xuất giống tôm theo mô hình nước xanh cải tiến tuy có chi phí thấp, giá thành con
giống giảm nhưng con giống lại mẩm cảm với môi trường nên tỷ lệ hao hụt cao làm cho bà
con ngư dân bị thiệt hại nhiều. Để khắc phục tình hình trên, Trung tâm đã triển khai đồng thời
các ao dưỡng nuôi tôm giống bằng cách nhận giống tôm từ các nơi về nuôi dưỡng để đạt post
15 giao lại cho ngư dân. Trong niên vụ năm 2003 Trung tâm đã giao trên 4,6 triệu con tôm
post cho bà con ngư dân trong tỉnh, hầu hết đều đạt tỉ lệ sống cao.
Để tiếp tục khắc phục tồn tại trong việc sản xuất tôm giống, tháng 3/2004 Trại giống Mỹ
Thạnh đã tiếp nhận chuyển giao công nghệ của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II về qui
trình sản xuất tôm giống theo qui trình nước trong hở. Sau khi tiếp nhận công nghệ mới kết
hợp với kinh nghiệm qua nhiều năm sản xuất tôm giống trước đây nên Trại đã ương mẻ giống
đầu tiên với trên 3.500.000 con tôm post với tỷ lệ sống đạt từ 40 đến 50% trở lên, đạt yêu cầu
của Ngành thuỷ sản hiện nay.
Trong niên vụ năm nay, Trung tâm nghiên cứu sản xuất giống thuỷ sản tỉnh dự kiến sẽ sản
xuất 10 triệu con tôm giống để cung ứng cho nhu cầu nuôi trồng thuỷ sản trong tỉnh. Một
trong những vấn đề Trung tâm đang tiếp tục nghiên cứu hiện nay là thực hiện đề án ứng dụng
các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến để ương giống tôm càng xanh toàn đực. Nếu dự án trên thành
công sẽ mở ra triển vọng mới cho phong trào nuôi tôm trong tỉnh hiện nay.
Đặc điểm sinh học và sinh thái của tôm càng xanh
PHÂN LOÀI
Họ: Palaemonidae
Giống: Macrobrachium
Loài tôm càng xanh - M. rosenbergii de Man 1879 (Tên tiếng Anh: Giant prawn)
PHÂN BỐ
Tôm Càng nước ngọt phân bố khắp các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới trên thế giới.
Hiện nay được biết có trên 100 loài, trong đó hơn một phần tư số này có ở châu Mỹ.
Chúng có mặt ở hầu hết các vùng nước ngọt nội địa như sông, hồ, đầm lầy, mương ao cũng
như các vùng cửa sông. Hầu hết các loài đều cần có nước lợ cho các giai đoạn biến thái của ấu
trùng. Một số loài thích nghi môi trường nước trong, một số loài khác gặp trong điều kiện
nước rất đục như Tôm Càng Xanh M. rosenbergii.
Một số quốc gia không có Tôm Càng Xanh phân bố trong tự nhiên như Pháp, Mỹ, khu vực
Đài Loan hiện đã di giống về nuôi trong tự nhiên. Thường tôm càng xanh phân bố ở vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nhưng chủ yếu là vùng Nam và Đông Nam Châu á, một phần của
Đại Tây Dương và vài bán đảo ở Thái Bình Dương.
Ở Việt Nam, tôm càng xanh phân bố từ Nha Trang trở vào.
Hình thái của tôm càng xanh được nhiều tác gi mô t như Holthius; Đức và ctv. (1988 và
1989); Forster và Wickins 1972. Tuy nhiên, ở nước ta trong ao nuôi hay trong khai thác tự
nhiên thì xuất hiện 2 dạng tôm càng mà được gọi là tôm càng xanh và tôm càng lửa.
Tôm càng xanh phân bố ở tất cả các thủy vực nước ngọt (đầm, ao, sông, rạch, ruộng lúa...) và
kể c ở vùng nưóc lợ cửa sông. Trên thế giới tôm phân bố ở khu hệ ấn Độ Dương và Tây Nam
Thái Bình Dương. ở Việt nam, tôm càng xanh phân bố chủ yếu các tỉnh Nam bộ đặc biệt là
các vùng nước ngọt và vùng cửa sông ven biển ở Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Tôm càng xanh có trọng lượng khá lớn, con đực có thể đạt tới 450g/con. Thân tương đối tròn,
con trưởng thành có màu xanh dương đậm. Chuỷ phát triển nhọn, 1/2 chuỷ ngoài cong lên,
trên mắt chuỷ có 11-15 răng, 3-4 răng sau hốc mắt, mắt dưới thường 12-15 răng. Chiều dài
chuỷ của tôm cái khi trưởng thành thường bằng hoặc ngắn hơn vỏ đầu ngực, còn chuỷ tôm
đực dài hơn chiều dài vỏ đầu ngực.
Chân ngực thứ hai luôn luôn phát triển hơn các chân khác, nhất là ở tôm đực trưởng thành,
đôi chân ngực thứ 2 có hình dạng và kích thước giống nhau.
Khi chiều dài bình quân 8-14cm, trọng lượng cơ thể từ 10-20g, tôm càng xanh có sự phát triển
tương đương giữa con đực và con cái. Khi chiều dài vượt quá 14cm, con đực thường phát
triển nhanh hơn con cái.
Trong quá trình nuôi, thả nuôi trực tiếp tôm bột (postlarvea) sau 7 tháng nuôi, cá thể đực lớn
nhất đạt 110g, cá thể cái lớn nhất chỉ đạt 50g.
Vòng đời của tôm càng xanh có 5 giai đoạn chủ yếu:
Trứng - ấu trùng - Tôm bột (postlarvae) - Tôm giống (juvenile) - Tôm trưởng thành (adult).
Mỗi một giai đoạn, đòi hỏi môi trường và điều kiện sống khác nhau.
Khi con cái và con đực trưởng thành, ở con cái có trứng chín thì xảy ra hiện tượng lột xác,
con đực và con cái tiến hành giao vỹ rồi ấp trứng. Khi tôm đang ấp trứng, buồng trứng vẫn
phát triển, phóng thích ấu trùng ở bụng xong, sau 2-5 ngày lại lột xác, giao vỹ và đẻ tiếp.
Theo Ling (1969), ấu trùng trải qua 8 giai đoạn, nhưng theo Uno và Soo (1969), thì ấu trùng
trải qua 11 lần lột xác tương ứng với 11 giai đoạn biến thái khác nhau trước khi biến thái qua
hậu ấu trùng (postlarvae). Mỗi giai đoạn có hình thái và kích thước khác nhau. Giai đoạn 1 dài
khoảng 2mm, giai đoạn 11 dài khoảng 7mm.
Giai đoạn hậu ấu trùng có hình dạng giống như tôm trưởng thành nhỏ, di chuyển chủ yếu
bằng cách bò nhiều hơn là bơi lội tự do. Khi chúng bơi thường theo kiểu mặt lưng ở phía trên
và tiến về phía trước. Chúng có thể lẩn tránh nhanh nhẹn bằng cách co các cơ bụng lại. Các
hậu ấu trùng có khả năng chịu được sự dao động lớn của nồng độ muối.
Tôm Càng Xanh sinh sản gần như quanh năm. Tuy nhiên, ở những khu vực khác nhau thì các
tháng đẻ rộ không trùng nhau. tại Việt Nam, theo Nguyễn Thắng (1993) và Phạm Văn Tình
(1996) mùa đẻ rộ nhất của Tôm Càng Xanh ở Đồng Bằng Nam Bộ tập trung vào hai thời
điểm từ tháng 4 đến tháng 6 và từ tháng 8 đến tháng 10.
Tôm Càng Xanh trưởng thành ở nước ngọt, thành thục phát dục, giao vĩ và đẻ trứng ở đó,
nhưng khi ôm trứng và ấp trứng chúng có xu thế bơi ra vùng nước lợ từ 6-18 phần ngàn.
Lỗ sinh dục đực nằm ở phần gốc của đôi chân ngực thứ 5 (bộ phận được biểu lộ ra ngoài).
Tôm cái có đầu và chân ngực thứ hai nhỏ hơn nhiều so với con đực cùng tuổi. Lỗ sinh dục của
con cái nằm ở ức giữa đôi chân bò thứ 3. Trứng chín có màu đỏ da cam, có thể nhìn thấy qua
lớp vỏ giáp đầu ngực. Quá trình giao vĩ chỉ có thể thực hiện được giữa con đực thành thục
sinh lý có thể trạng khỏe mạnh với con cái vừa mới hoàn tất lột vỏ gọi là "tiền giao vĩ"
(premouting). Có thể chia quá trình giao vĩ thành 4 giai đoạn: Tiếp xúc, Ôm giữ con cái, Trèo
lên lưng, Lật ngửa và gắn túi tinh
Sau khi giao vĩ vài giờ tôm cái bắt đầu đẻ trứng.
Khi đẻ trứng con cái cong mình về phía trước đến khi bụng và ngực tiếp xúc nhau, tạo nên
sức mạnh đẩy đưa trứng từ buồng trứng ra ngoài qua lỗ sinh dục, trứng được thụ tinh ở đây và
rơi thẳng vào buồng ấp trứng.
Buồng ấp trứng được tạo thành bởi màng bụng uốn vào và phần gốc của những chân bụng đầu
tiên phát triển dài ra và có những tấm lông cứng, dài để mang trứng khi tôm sinh sản.
Buồng ấp trứng ở chân bụng thứ 4 được nhận trứng trước tiên, rồi lần lượt chân bụng thứ 3,
thứ 2 và cuối cùng là chân bụng thứ nhất. Trong buồng ấp, trứng được bao bọc bởi một màng
nhày trong suốt, dính chặt vào các sợi lông ở 4 đôi chân bụng đầu tiên. Trứng thụ tinh được
giữ lại ở khoang bụng. Trong quá trình ấp trứng, các đôi chân bụng hoạt động liên tục, cấp
dưỡng khí cho trứng phát triển, trứng nào bị hư sẽ bị loại ra bằng đôi chân ngực thứ 2.
Số lượng trứng đẻ ra tỷ lệ thuận với trọng lượng tôm cái. Sức sinh sản tương đối trung bình từ
700-1000 trứng/ 1 gam tôm mẹ thành thục.
Tôm cái có đặc điểm mắn đẻ, gặp điều kiện thuận lợi thức ăn đầy đủ, tôm có thể đẻ 4-6 lần
trong năm. Buồng trứng thường tái phát dục khi tôm cái đang mang trứng, phóng thích ấu
trùng ở bụng xong sau 2-5 ngày lột xác, giao vĩ và đẻ tiếp.
Khoảng thời gian giữa hai lần lột xác tiền giao vĩ ngắn nhất là 23 ngày.
Trứng có hình hơi bầu dục, dài khoảng 0,6-0,7mm, khi mới đẻ trứng có màu vàng sáng
chuyển dần sang màu da cam, đến ngày thứ 12 màu da cam của trứng nhạt dần và ngả màu
xám xanh nhạt, từ màu xám xanh nhạt chuyển dần sang xám đậm, trước khi nở khoảng hai,
ba ngày thì trứng ngả sang màu xám đen (màu đen là mắt của ấu trùng còn nằm trong trứng).
Như vậy dựa vào màu sắc của trứng có thể dự đoán được ngày ấu trùng nở.
Những con cái không giao vĩ nhưng đã thành thục, chín mùi sinh dục cũng có thể đẻ trứng sau
khi lột vỏ "tiền giao vĩ" nhưng những trứng không được thụ tinh này chỉ được giữ trong
buồng ấp trứng một vài ngày sau đó bị thải ra ngoài. Tôm cái mang trứng dưới bụng và bảo vệ
trứng đến khi nở.
Thời gian tôm cái mang trứng đến khi nở phụ thuộc vào nhiệt độ nước và dao động trong
khoảng trên dưới 3 tuần. Theo Ling (1962), ở nhiệt độ từ 25-310C, thời gian ấp trứng từ 19-
23 ngày, còn Subramanyam (1980) là 15-21 ngày. Với kết quả theo dõi tại viện Hải Dương
học Nha Trang, trong điều kiện thí nghiệm nhiệt độ nước được giữ ổn định ở 280C, thời gian
ấp trứng từ 18-21 ngày. Trong điều kiện không có điều nhiệt, nhiệt độ nước dao động từ 26-
300C thì thời gian ấp trứng từ 17-23 ngày.
Trứng thường nở vào ban đêm, sau 1-2 đêm mới nở hết, ấu trùng được phát tán bởi sự hoạt
động nhanh của các chân bụng tôm mẹ. ấu trùng của Tôm Càng Xanh sống phù du và bơi lội
tích cực, đuôi hướng về phía trước, bụng ngửa lên trên. Chúng sống trong môi trường nước
lợ. Trong tự nhiên, ấu trùng có thể nở ra ở vùng nước ngọt hay nước lợ. Nếu nở ra ở vùng
nước ngọt, ấu trùng phải di chuyển ra vùng nước lợ để sống, nếu không di chuyển được sau 3-
15 ngày sẽ chết hết. ấu trùng thường sống trong vùng nước có độ mặn từ 7-18% để tồn tại và
phát triển. Thời gian ấu trùng chuyển thành tôm bột nhanh nhất 16 ngày và dài nhất khoảng
40 ngày. Khi chuyển thành tôm bột, chúng sẽ di chuyển về vùng nước ngọt để phát triển và
tăng trưởng. Lúc này tôm bột có độ thẩm thấu độ mặn rộng, đó là đặc tính của loài tôm này.
Tôm bột có chiều dài khoảng 7mm, đặc tính bơi giống tôm trưởng thành, cơ thể có màu trong
mờ, phía đầu có màu hơi đỏ.
Vòng đời của tôm càng xanh có có 4 giai đoạn rõ ràng là trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm
trưởng thành. Tôm trưởng thành sống ở vùng nước ngọt, thành thục và giao viù trong nước
ngọt, nhưng sau đó chúng di cư ra vùng nước lợ (có độ mặn 6-18%o) và ấu trùng nở ra, sống
phù du trong nưóc lợ. Khi hoàn thành 11 lần lột xác để thành tôm con thì tôm di chuyển dần
vào trong vùng nước ngọt.
Trong tự nhiên, tôm thành thục và giao vĩ xảy ra hầu như quanh năm. Tùy từng nơi mà chỉ tập
trung vào những mùa chính, ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, có hai mùa tôm sinh sản chính là
khong tháng 4-6 và tháng 8-10. Tôm cái thành thục lần đầu ở khong 3-3.5 tháng kể từ hậu ấu
trùng 10-15 ngày tuổi (PL10-15). Kích cỡ tôm nhỏ nhất đạt thành thục được ghi nhận là
khong 10-13cm và 7.5g. Tuy nhiên, tuổi thành thục và kích cỡ thành thục của tôm còn phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố như môi trường và thức ăn.
Có thể phân biệt tôm đực và cái dễ dàng thông qua hình dạng bên ngoài của chúng. Tôm đực
có kích cỡ lớn hơn tôm cái, đầu ngực to hơn và khoang bụng hẹp hơn. Đôi càng thứ hai to, dài
và thô. ở con đực còn có nhánh phụ đực mọc kế nhánh trong của chân bụng thứ hai. Nhánh
phụ đực bắt đầu xuất hiện ở giai đoạn ấu niên khi tôm đạt kích cỡ 30 mm và hoàn chỉnh khi
tôm đạt 70 mm. Ngoài ra, ở giữa mặt bụng của đốt bụng thứ nhất còn có điểm cứng.
Tôm cái thường có kích cỡ nhỏ hơn tôm đực, có phần đầu ngực nhỏ và đôi càng thon. Tôm có
3 tấm bụng đầu tiên rộng và dài tạo thành khoang bụng rộng làm buồng ấp trứng. Cơ quan
sinh dục trong của con đực gồm một đôi tinh sào, một đôi ống dẫn tinh và đầu mút. Đôi tinh
sào ngoằn ngoèo nằm giữa lưng của giáp đầu ngực được nối với ống dẫn tinh chạy từ trước
tim dọc sang hai bên viền sau của giáp đầu ngực và đổ vào đầu mút nằm ở đốt coxa của chân
ngực 5.
Tập tính ăn
Tôm Càng Xanh là loài ăn tạp nghiêng về động vật, thức ăn tự nhiên của chúng là các loại
nguyên sinh động vật, giun nhiều tơ, giáp xác, côn trùng, nhuyễn thể, các mảnh cá vụn, các
loài tảo, mùn bã hữu cơ và cát mịn.
Tôm Càng Xanh xác định thức ăn bằng mùi và màu sắc.
Tôm tìm thức ăn bằng cơ quan xúc giác (râu), khi tìm được thức ăn, chúng dùng chân ngực
thứ nhất kẹp gắp thức ăn đưa vào miệng.
Hình dạng và mùi vị thức ăn đóng vai trò quan trọng trong việc hướng tôm đến bắt mồi. Điều
này rất quan trọng trong việc chế biến thức ăn cho tôm.
Tôm thường bắt mồi nhiều vào chiều tối và sáng sớm, tôm thường bò trên mặt đáy ao, dùng
càng nhỏ đưa mồi vào miệng. Đặc tính của tôm càng xanh nếu không đủ thức ăn, chúng hay
ăn thịt lẫn nhau khi lột xác, đây là đặc tính của loài. Khi nuôi tôm thương phẩm phải lưu ý đến
hiện tượng này và dùng các biện pháp kỹ thuật để hạn chế sự ăn thịt lẫn nhau của tôm.
Tôm càng xanh trưởng thành là loài ăn tầng đáy, nó sử dụng nhiều loại động vật khác nhau để
làm thức ăn từ nhuyễn thể, giáp xác đến to sợi và kể c chất thối rữa hữu cơ, và tôm cũng ăn
thức ăn viên công nghiệp. Tôm tìm thức ăn bằng cơ quan xúc giác, chúng dùng râu quét
ngang, dọc phía trước hưóng di chuyển. Khi tìm gặp thức ăn chúng dùng chân ngực thứ nhất
kẹp lấy thức ăn, đưa chân hàm và từ từ đưa vào miệng. Tôm có hàm trên và hàm dưới cấu tạo
bằng chất kitin nên nghiền được các loại thức ăn cứng như nhuyễn thể... Trong quá trình tìm
thức ăn tôm có tính tranh giành cao, cá thể nhỏ thường tránh xa đàn hay khi tìm được một
miếng thức ăn thì di chuyển đi nơi khác, trong khi đó con lớn vẫn chiếm chỗ và đánh đuổi
tôm nhỏ. Ngoài ra, tôm còn ăn đồng loại khi chúng yếu (ví dụ như mới lột) hay khi thiếu thức
ăn.
Lột xác
Giống như các loài giáp xác khác, sinh trưởng của tôm càng xanh không liên tục, có sự gia
tăng kích thước nhanh sau mỗi lần lột xác. Tốc độ sinh trưởng của tôm đực và cái gần như
tương đương nhau cho tới khi chúng đạt kích cở 35-50g, sau đó khác nhau rõ theo giới tính,
tôm đực sinh trưởng nhanh hơn tôm cái và đạt trọng lượng có thể gấp đôi tôm cái trong cùng
một thời gian nuôi. Tôm cái khi bắt đầu thành thục (khong 40g, hay 140-150cm chiều dài) thì
sinh trưởng giảm vì nguồn dinh dưỡng chủ yếu tập trung cho sự phát triển của buồng trứng.
Một hiện tượng thường thấy trong nuôi tôm càng xanh là sự phân đàn khá rõ kể cả trong cùng
một nhóm giới tính. Kích thưóc của tôm có thể đạt 40-50 g trong thời gian 4-5 tháng nuôi.
Kích cở tôm lớn nhất tìm thấy ở ấn độ là 470 g, Thái lan 470 g và Việt nam 434 g.
Để sinh trưởng, cũng như các loài giáp xác khác, Tôm Càng Xanh đều phải lột vỏ theo chu kỳ
của nó, quá trình này được gọi là sự lột xác và tiếp theo sau đó là sự gia tăng đột ngột về kích
thước và trọng lượng.
Khi tôm đã trưởng thành, còn có dạng lột xác sinh sản (xảy ra ở con cái).
Chu kỳ lột xác của tôm tùy thuộc vào giai đoạn sinh trưởng, tình trạng sinh lý, điều kiện dinh
dưỡng, điều kiện môi trường,.... Tôm càng xanh tuân theo qui luật chung của tôm là tôm nhỏ
chu kỳ lột xác ngắủn hơn tôm lớn. Chu kỳ lột xác của tôm trình bày trong bảng 3.1
Cơ chế lột xác của tôm càng xanh giống như các loài giáp xác chân đốt khác. Khi tôm tích lũy
đầy đủ chất dinh dưỡng, năng lượng và tới chu kỳ lột xác thì lúc đó lớp vỏ mới hình thành dần
dưới lớp vỏ cũ, lớp này rất mỏng, mềm và co giãn được. Khi lớp vỏ mới này phát triển đầy đủ
thì tôm tìm nơi vắng và giàu oxy để lột vỏ. Khi lớp vỏ cũ lột đi, vỏ mới còn mềm và co giãn
được và dưới áp lực của khối mô cơ lâu ngày bị ép bởi lớp vỏ cũ, cơ thể tôm bấy giờ giãn nở,
lớn lên nhiều và khác hẳn với lúc trước lột xác. Lớp vỏ mới cứng dần sau 3-6 giờ và tôm sẽ
hoạt động lại bình thường sau đó.
Quá trình lột vỏ của tôm thực hiện rất nhanh chỉ trong vòng 3-5 phút. Khởi đầu tôm ngưng hết
mọi hoạt động bên ngoài, uống cong mình gây nên áp lực ngày càng tăng phá vở lớp màng
giữa giáp đầu ngực và vỏ tạo nên một khong hở ngang lưng. Tôm lúc này co mình thành hình
chữ U, áp lực bên trong cơ thể tăng lên, và dần dần tôm thoát toàn bộ cơ thể qua khoang hở ở
lưng. Sau mỗi lần lột xác, cơ thể tôm tăng lên 9-15% trọng lượng thân.
pH: mức pH thích hợp nhất cho tôm càng xanh là 6.5-8.5, ngoài khoảng này tôm có thể sống
được nhưng sinh trưởng kém, pH dưới 5 tôm hoạt động yếu và chết sau 6 giờ. Khi gặp môi
trường có pH thấp tôm sẽ nổi đầu, dạt vào bờ, mang đổi màu, mang và các phụ bộ bị lở loét,
tôm bơi lội chậm chạp và chết sau đó.
Oxy hòa tan: môi trường phải có oxy hòa tan > 3 mg/l, dưới mức nầy tôm hoạt động yếu, tập
trung ven bờ, nổi đầu và chết sau vài giờ. Nếu hàm lượng oxy vượt quá mức bảo hòa cũng
gây tác hại đến tôm nhất là quá trình hô hấp (chứa nhiều khí trong hệ tuần hoàn, cản trở lưu
thông máu).
ánh sáng: vừa phi, cường độ thiủch hợp nhất là 400 lux. Aủnh sáng cao sẽ ức chế hoạt động
của tôm, do vậy ban ngày có ánh sáng cao tôm xuống đáy thủy vực trú ẩn, ban đêm hoạt động
tìm mồi tích cực. Tôm không ưa ánh sáng có cường độ cao nhưng lại có tính hướng quang
vào ban đêm, khi có luồng sáng thì tôm sẽ tập trung lại, và tôm lớn có tính hướng quang kém
hơn tôm nhỏ.
Nồng độ muối: Tôm thích hợp nồng độ muối từ 0-16%o, tôm trưỏng thành sinh trưởng tốt ở
vùng cửa sông ven biển.
Để giúp tôm lột xác phải tạo điều kiện môi trường sống tốt và đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh
dưỡng cho tôm.
- Tập tính của tôm là ăn tạp thiên về động vật, do đó nên chủ động cung cấp thức ăn sống, nên
cho tôm ăn con mồi vừa mới chết nhưng không quá ươn thối; các loại cá tạp nhỏ, tép, ruốc, ốc
bươu vàng...tươi là những thức ăn thích hợp cho tôm.
- Thuốc diệt cá tạp khi dùng liều lượng, nồng độ thấp (3-5ppm hay 3-5 phần triệu) có thể kích
thích tôm lột vỏ. Tuy nhiên việc dùng thuốc diệt cá tạp hay môt số hoá chất khác có thể kích
thích tôm lột phải thận trọng và tính toán thật chính xác thể tích nguồn nước ao nuôi và lượng
thuốc cần sử dụng.
- Trước khi quyết định dùng thuốc diệt cá tạp hay hoá chất khác để kích thích tôm lột, phải
đánh giá được tình trạng sức khoẻ của tôm nuôi, tình hình khí hậu thời tiết, biên độ, nước thủy
triều... Nếu không nắm vững các yếu tố này, vô tình sẽ làm xáo động điều kiện sống của tôm
và rất có thể đầu độc tôm nuôi khiến tôm có thể chết hàng loạt.
- Tôm càng xanh là loài giáp xác nước ngọt nên đòi hỏi nguồn nước có hàm lượng oxy hoà
tan trong nước cao. Để tăng lượng oxy hoà tan trong nước, cần tiến hành thay nhiều lượng
nước trong ao nuôi qua hệ thống cống có ngăn lưới ở miệng cống, bố trí sục khí cho ao nuôi
hay thiết kế hệ thống quạt nước cho ao.
Biện pháp sục khí hay quạt nước cho ao nuôi tôm thường được áp dụng rộng cho phương thức
nuôi tôm bán thâm canh hoặc thâm canh.
Nhiệt độ thích hợp cho tôm càng xanh sinh trưởng và phát triển 22 – 230C, thích hợp nhất là
28 – 310C. Giới hạn nhiệt độ là 14 – 400C, mùa vụ nuôi tôm càng xanh ở miền Bắc thích hợp
nhất là từ tháng 4 đến tháng 11 (dương lịch). Mùa đông ở miền Bắc nước ta thường kéo dài 4
– 5 tháng, nhiệt độ xuống thấp không những ảnh hưởng lớn đến những loài cá chịu lạnh kém
(cá rô phi, cá chim trắng) mà còn ảnh hưởng nhiều đến sự tồn tại và sinh trưởng, phát triển
của tôm càng xanh. Những năm gần đây, nhiệt độ không khí xuống thấp dưới 100C đã gây
thiệt hại lớn đến nguồn tôm bố mẹ cũng như sản lượng tôm thương phẩm, làm ảnh hưởng đến
kế hoạch SX năm sau.
Để nuôi giữ tôm càng xanh qua đông, một số cơ sở SX ở miền Bắc đã đầu tư nhiều cho công
trình trú đông phục vụ cho tôm càng xanh.
Dùng ao sâu từ 2 –3m nước, nơi khuất gió, trên mặt ao thả bèo với diện tích chiếm 1/2 – 1/3
mặt nước ao hoặc trong ao thả nhiều gốc cây, các bó chà cho tôm trú ẩn. Có một số nơi đã
dùng thùng phi chứa bếp than tổ ong thả xuống nước để nhiệt độ tỏa ra từ bếp làm nóng nước,
tạo nhiệt độ thích hợp cho tôm. Trong quá trình nuôi tôm qua đông cần dùng thức ăn công
nghiệp, cho tôm ăn vào ngày nắng ấm, khẩu phần ăn thức ăn chiếm 1 – 2% khối lượng tôm
nuôi. Nuôi theo cách này tôm có thể đạt tỷ lệ sống 50% – 60%.
Thả lồng nuôi tôm ở những hồ chứa sâu 2 –3m nước, mật độ tôm nuôi từ 100 – 200 con/m3
lồng ngập nước. Cho tôm ăn thức ăn công nghiệp hàm lượng đạt 30%, khẩu phần thức ăn
chiếm 2 – 3%, khối lượng tôm nuôi. Nuôi theo cách này tốc độ sinh trưởng của tôm tuy chậm
nhưng tỷ lệ sống cao, đạt 70 – 80%.
Một số nơi như huyện Kim Bôi (Hòa Bình), Tiên Lãng (Hải Phòng), Tiền Hải (Thái Bình),
Bắc Quang (Hà Giang), Sơn La, Bắc Cạn... có thể dùng nước khoáng ấm để nuôi tôm qua
đông. Nuôi trong ao hoặc bể, song nguồn nước phải đảm bảo sạch, không ô nhiễm, các yếu tố
môi trường phải đảm bảo pH=6–8, ôxy hòa tan>3mg/l, độ cứng 20mg/l, sắt 0,2mg/l. Nuôi
theo cách này tỷ lệ tôm sống đạt 90 – 95%.
Có thể xây các bể nuôi tôm trong nhà kín gió, có mái che, có đủ ánh sáng và có lò hơi đun
bằng than hoặc đặt máy nâng nhiệt độ để điều chỉnh nhiệt độ. Tuy nhiên, nuôi theo cách này
phải theo dõi thường xuyên nhiệt độ và độ chi phí cao.
Nuôi tôm càng xanh qua đông dù bằng cách nào, song cũng phải đặt máy quạt nước hoặc máy
sục khí trong ao hoặc bể đẻ cung cấp ôxy cho tôm. Những năm gần đây, việc sinh sản nhân
tạo tôm càng xanh đã phát triển nuôi rộng ở các tỉnh phía Bắc, do đó cần quan tâm nuôi giữ
tôm qua đông để chủ động được nguồn tôm giống cung cấp cho người nuôi.
Thức ăn, kiểm soát - Tôm giống và thả tôm giống - Bệnh đốm
nâu
THỨC ĂN VÀ PHƯƠNG PHÁP KIỂM SOÁT THỨC ĂN
Thức ăn cho tôm bảo đảm đủ dinh dưỡng và khoáng để tôm phát triển tốt, lột xác dể dàng. Có
thể dùng thức ăn viên, cá vụn, con ruốc hay tép v.v...
Thức ăn phải bảo đảm các thành phần dinh dưỡng như sau:
Protein : 30-35 %
Lipid : 3-5%
Canxi : 2-3%
Phospho : 1-1,5%
Cellulose : 3-5%
Khẩu phần ăn tính theo % trọng lượng thân, hay từng khoảng thời gian một thay đổi hệ số 1
lần.
Trong ruộng lúa chỉ cần cho ăn bằng 1/2 lượng thức ăn trong ao, vì tôm có thể ăn thức ăn tự
nhiên trong ruộng lúa. Có thể dựa vào bảng 4 để tính vào lượng thức ăn hàng ngày.
Cho ăn ngày 2 lần vào 6h và 18h. Thức ăn được rải đều khắp ao để tôm dễ bắt mồi. Trong các
ao để các sàng chứa thức ăn, kiểm tra lượng thức ăn thừa hay thiếu, nếu thiếu phải bổ sung
thêm, nếu thừa thì giảm xuống.
Hiện nay, bà con nông dân quen nuôi tôm có kích thước từ 3-4 cm trở lên, chưa quen nuôi
giống nhỏ, cho nên việc vận chuyển giống lớn phải đảm bảo kỹ thuật mới cho tỷ lệ sống cao.
Khi vận chuyển giống ở ao ương đi xa vùng nuôi, phải thu hoạch trước 1-2 ngày, cho tôm vào
hai bể, để tôm khỏe rồi mới vận chuyển.
Dùng bao ny lon (60 x 90 cm) có bao ngoài bảo vệ, 1/3 nước và 2/3 bơm oxy, đóng 1.000 -
1.200 con/ bao, loại 3-4cm (0,5-1 g/con), nhiệt độ nước trong bao: 24oC. Thời gian vận
chuyển: 8-10h.
Bệnh đốm nâu là bệnh của tôm càng xanh, xuất hiện quanh năm và tấn công vào tôm ấu trùng
đến tôm trưởng thành. Nhưng khi bị bệnh thì tỷ lệ hao hụt của tôm ấu trùng cao hơm tôm lớn.
Người ta còn gọi bệnh này là bệnh hoại tử, do vi khuẩn gây ra và cũng do môi trường sống
của tôm không hợp vệ sinh.
Trên mình tôm xuất hiện nhiều đốm nâu to nhỏ khác nhau, những đốm này trước màu nâu sau
trở sang đen và xuất hiện dưới lớp vỏ kitin và lớp biểu mô của tôm.
Tôm bị bệnh này trở nên kém ăn, mất sức, gầy tọp. Tôm con dễ chết hơn tôm lớn.
Cách phòng bệnh là nên chú ý đến nguồn nước trong ao, cần phải thay nước cho ao thường
xuyên và trong ao nên thả tôm với mật độ vừa phải. Ngoài ra, ta nên cho tôm ăn bổ dưỡng
hơn, để tôm có sức đề kháng chống chọi lại bệnh. Hiện nay, chưa có thuốc đặc trị về bệnh
này.
Tôm càng xanh Macrobrachium rosenberggi sống trong môi trường nước ngọt, có thể nuôi
trong ao, ruộng cấy lúa, là sản phẩm thuỷ sản có giá trị kinh tế, có nhu cầu ở thị trường trong
và ngoài nước. Tôm càng xanh đực và cái có sự khác biệt rõ rệt về tốc độ sinh trưởng, kích cỡ
khi thu hoạch, thường cuối vụ nuôi tôm đực có kích thước lớn hơn đáng kể so với tôm cái.
Việc tạo đàn tôm càng xanh toàn đực phục vụ nuôi tôm càng xanh có năng suất, kích thước
lớn khi thu hoạch là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và nuôi trồng thuỷ sản.
Từ kết quả nghiên cứu bộ nhiễm sắc thể, có chế di truyền điều khiển giới tính ở tôm càng
xanh, các nhà khoa học đã kết luận bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội 2n ở tôm càng xanh là 118,
tôm đực đồng giao tử cặp nhiễm sắc thể giới tính (ZZ) và tôm cái dị giao từ (WZ). Trên thế
giới đã có một số công trình nghiên cứu điều khiểu giới tính tạo tôm càng xanh toàn đực và
hiện có 3 giải pháp công nghệ được coi là có triển vọng ứng dụng, đó là:
Khi cho tôm cái giả ZZ cho sinh sản với tôm đực thường ZZ sẽ có đàn tôm con toàn đực ZZ.
Có thể tạo tôm cái giả có kiểu di truyền ZZ bằng kỹ thuật chuyển giới tính cái sử dụng hooc
môn điều khiển cái hoá.
Tuyến androgenic ở tôm càng xanh chi phối quá trình biệt hoá giới tính đực. Một số nhà
nghiên cứu cho thấy tôm càng xanh đực ở giai đoạn 30-60 ngày thổi khi được cắt bỏ tuyến
androgenic sẽ chuyển giới tính thành tôm cái, tôm cái chuyển gới tính (ZZ) do cắt bỏ tuyến
androgenic khi sinh sản với tôm đực thường (ZZ) cho đàn tôm có tỷ lệ đực từ 98-100%.
Từ năm 1999 đến nay Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I đã kết hợp với Ðại học Quốc
gia Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu thuỷ sản III và Trường trung học thuỷ sản IV tiến hành
một số nghiên cứu nhằm điều khiển giới tính, tạo tôm càng xanh toàn đực. Nhóm nghiên cứu
đã tiến hành thực nghiệm điều khiển giới tính ở tôm càng xanh theo 3 giải pháp công nghệ
nêu trên.
Nghiên cứu chuyển giới tính: Ðược tiến hành trong 2 năm 1999 và 2000. Ðã tiến hành nghiên
cứu thăm dò dùng hooc môn 17a -methyltestosterone (MT) với 2 phương pháp xử lý: trộn
hooc môn vào thức ăn và hoà tan thành dung dịch để tắm tôm. Ðã thí nghiệm trộn với các
hàm lượng 30,40 và 50 mg MT/kg thức ăn, cho tôm giai đoạn PL5 và PL10 ăn thức ăn trộn
hooc môn trong thời gian 30 ngày và 45 ngày ở các nồng độ 3ppm, 5ppm và 10ppm MT.
Cũng đã thí nghiệm tắm tôm giai đoạn PL5 và PL10 trong thời gian 9 ngày và 15 ngày. Sau 6
đợt thí nghiệm, tỷ lệ tôm đực ở các lô thí nghiệm cho ăn thức ăn trộn hooc môn dao động từ
42,1 76,5%, ở các lô thí nghiệm tắm trong dung dịch hooc môn là 29,7-72,7%, không đạt tỷ lệ
giới tính như mong muốn.
Nghiên cứu tạo tôm cái ZZ bằng sử dụng hooc môn: Ðã thí ngiệm sử dụng 2 loại hooc môn
nhóm estrogen là Diethynylstibestrol (DES) và Ethynylestradiol (EE). Mỗi loại hooc môn đều
thí nghiệm với tôm giai đoạn PL5 và PL10 ăn thức ăn trộn 100 và 200 mg/kg thức ăn trong
thời gian 30 và 45 ngày, tỷ lệ tôm cái ở các lô thí nghiệm đạt từ 10-54,6% không sai khác tỷ
lệ giới tính ở các lô đối chứng. Các lô thí nghiệm tắm tôm giai đoạn PL5 ở nồng độ 5ppm
trong thời gian 9 và 15 ngày cho tỷ lệ tôm cái 28,6-50%.
Các thí nghiệm chuyển giới tính và tạo tôm cái giả ZZ bằng sử dụng hooc môn nói trên đều
không đạt kết quả như mong muốn mặc dù chúng tôi đã cố gắng tìm kiếm thông tin từ các
nghiên cứu nước ngoài về loại hooc môn sử dụng, liều lượng, thời điểm, giai đoạn tôm xử lý
để ứng dụng vào nghiên cứu ở nước ta. Tỷ lệ chuyển giới tính tôm trong các lô thí nghiệm của
chúng tôi đều thấp cho thấy có thể các loại hooc môn sử dụng hoàn toàn không có tác dụng,
hoặc tác dụng rất ít đến quá trình biệt hoá giới tính ở tôm càng xanh. Hooc môn chuyển giới
tính đực 17a -methyltestosterone có bản chất steroid, trong khi đó một số nghiên cứu gần đây
cho rằng hooc môn biệt hoá giới tính đực ở giáp xác rất có thể có bản chất protein. Ngoài ra
do chưa xác định chính xác tuổi của tôm bắt đầu biệt hoá giới tính, do vậy không thể loại trừ
khả năng tôm được đưa vào thí nghiệm ở giai đoạn phát triển (PL5 và PL10), với những thời
gian 30-45 ngày ở hình thức cho ăn và 9-15 ngày ở hình thức tắm là chưa thích hợp.
Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2000 về nghiên cứu điều khiển giới
tính cá rô phi xanh và tôm càng xanh, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I và Ðại học
Quốc gia Hà Nội hợp tác nghiên cứu tổ chức học tuyến androgenic, xác định vị trí tuyến trên
tiêu bản tổ chức học và trên tiêu bản tôm sống làm cơ sở ứng dụng kỹ thuật giải phẫu cắt bỏ
tuyến. Tháng 6 năm 2000 được sự tài trợ của Hội đồng Anh tại Hà Nội, chúng tôi đã có đợt
thực tập về xác định vị trí, kỹ thuật giải phẫu tuyến androgenic trên tôm càng xanh, tôm he
chân trắng, tôm vỏ cứng do Giáo sư A. Sagi (Israel) chỉ dẫn. Từ cuối năm 2000 đến nay,
chúng tôi đã tiến hành giải phẫu cắt bỏ tuyến androgenic ở hàng trăm tôm càng xanh giai
đoạnh 60 ngày tuổi, nuôi tôm đã giải phẫu trong điều kiện ao nuôi tại Bắc Ninh và sau 5 tháng
đã thu được những tôm cái chuyển giới tính mang trứng, khẳng định triển vọng ứng dụng kỹ
thuật giải phẫu cắt bỏ tuyến androgenic điều khiển giới tính tôm càng xanh ở nước ta.
Các công trình nghiên cứu của nước ngoài cho thấy tôm cái mang trứng do cắt bỏ tuyến
androgenic là trứng thụ tinh, sinh sản với tôm đực thường cho tỷ lệ đực ở thế hệ con là 98-
100%, tuy nhiên kết quả của các tác giả đó mới ở phạm vi nghiên cứu, số lượng tôm thí
nghiệm còn ít. Chúng tôi chưa thấy những công bố kết quả ở phạm vi sản xuất. Do vậy, trước
khi đưa công nghệ tạo tôm càng xanh toàn đực bằng kỹ thuật tạo tôm cái ZZ do cắt bỏ tuyến
androgenic vào sản xuất ở nước ta, theo chúng tôi cần phải tiến hành những kiểm nghiệm
công nghệ đánh giá tỷ lệ đực và mức độ ổn định của nó ở đàn tôm con của tôm cái
Chúng ta có thể phân biệt tôm càng xanh đực với tôm cái khi chúng chưa thành thục hoàn
toàn nhờ những biểu hiện bên ngoài của cơ quan sinh dục. Ở gốc đôi chân bò thứ 5 nếu có lỗ
sinh dục thì đó là tôm đực, còn lỗ sinh dục tôm cái ở giữa đôi chân bò thứ 3, ngay sau đôi
càng. Ở tôm đực, trên chân bơi thứ 2 ngoài phụ bộ phía ngoài, phụ bộ phía trong và cọng tơ,
còn có bộ phụ đực còn gọi là trâm giao hợp (không phải ống dẫn tinh). Bằng mắt thường ta có
thể thấy trên chân bơi thứ 2 của tôm đực có 2 nhánh, còn ở tôm cái vị trí này chỉ có một
nhánh.
Khi tôm trưởng thành, sự khác biệt giữa tôm đực và tôm cái rõ ràng hơn: Tôm đực lớn nhanh
hơn tôm cái, nên trong những con cùng tuổi và cùng điều kiện chăm sóc thì con đực bao giờ
cũng to hơn con cái. Ngoài ra trong những con tôm cùng cỡ thì con đực có đầu và càng to hơn
các bộ phận tương tự ở con cái. Tôm đực trưởng thành có 3 kiểu: Kiểu đực nhỏ, kiểu có càng
màu cam và kiểu có màu càng xanh dương. Tôm đực nhỏ có thể phát triển thành tôm đực màu
càng cam. Tôm càng màu xanh phát triển trội hơn tôm càng màu xanh dương. Mỗi kiểu trong
số 3 kiểu trên đều có tập tính sinh sản và đặc điểm sinh dục thứ cấp nổi bật. Trong 3 kiểu này,
tôm càng màu cam sinh trưởng nhanh nhất.
Năng suất của ao nuôi tôm càng xanh toàn đực thường cao hơn ao nuôi toàn tôm cái. Nhưng
khi nuôi toàn đực, tôm càng xanh có sự phân hóa về kích thước rất rõ: Một số có kích thước
to kỷ lục, một số lại còi cọc, tỷ lệ sống không cao. Trong khi tôm cái có kích thước đều hơn,
có tỷ lệ sống cao hơn. Nguyên nhân của hiện tượng này là vì tôm đực rất hiếu chiến, hay đánh
nhau và những con tôm đang lột xác có thể bị ăn thịt.
Vài năm gần đây, nuôi TCNN ở ấn Ðộ mới được quan tâm phát triển. Sau cơn bộc phát bệnh
đốm trắng trong nuôi tôm biển và sự xuất hiện các biện pháp quản lý cải tiến mang lại năng
suất cao hơn, ngày càng có nhiều nông dân bắt đầu triển khai nuôi loài tôm này. Tuy nhiên,
mặc dù có công nghệ nuôi tiên tiến đạt năng suất cao nhưng hầu hết trại nuôi TCNN ở ấn Ðộ
vẫn sử dụng hệ thống nuôi quảng canh. Bài viết này giới thiệu một số hướng dẫn giúp người
nuôi tôm tăng sản lượng tôm và hiệu quả bền vững của trại nuôi.
ở ấn Ðộ hiện có 2 nguồn giống TCNN : một là giống tự nhiên từ hạ lưu sông và các vùng
nước lợ, hai là nguồn giống sản xuất từ trại giống. Tuy nhiên, nguồn giống tự nhiên thường
của nhiều loài khác nhau và ở những giai đoạn phát triển khác nhau nên khi thu hoạch, cỡ tôm
thường không đồng đều và không đạt cỡ thương phẩm phù hợp. Do vậy, người nuôi tôm cần
tách riêng loài có thể nuôi khỏi các loài tôm khác và cần thả giống của loài định nuôi với cỡ
bằng nhau hoặc gần bằng nhau. Ðể khắc phục những vấn đề trên, nên sử dụng nguồn giống
sản xuất tại trại giống. So với tôm giống lấy từ tự nhiên, tôm giống sản xuất trong trại giống
có tỷ lệ sống, khả năng kháng bệnh và sức chống chịu tốt hơn với môi trường.
Nếu có thể, trước khi thả nên thử nghiệm khả năng kháng bệnh của tôm giống. Hiện một số
trại giống có thể cung cấp giống sạch bằng cách sử dụng kỹ thuật chẩn đoán phân tử tiên tiến
như PCR, ELISA và Latex. Giống được thuần hoá 2-3 ngày trước khi thả vào ao để giúp
chúng thích nghi với điều kiện nuôi.
Nuôi lớn
TCNN chủ yếu được nuôi lớn trong ao đất có diện tích từ 500m2 đến 1 ha, độ sâu trung bình
1-1,5m. Thả PL 1-20 và tôm non cỡ 1-2g là phù hợp nhất. Mật độ thả ấu trùng tôm và tôm
non phụ thuộc vào cỡ thương phẩm mong muốn và thiết bị tại trại nuôi. Nói chung, cỡ thương
phẩm vào thời điểm thu hoạch giảm khi tăng mật độ thả giống. Nên thả tôm giống với mật độ
khoảng 5 10/m2 để đạt cỡ phù hợp khi thu hoạch. Khi cỡ ấu trùng tôm lớn hơn, cần tạo nơi
trú ẩn bằng cách thả các mảnh ngói vỡ, ống PVC hoặc tảng đất xuống đáy ao nhằm giảm hiện
tượng ăn thịt lẫn nhau của chúng trong ao nuôi.
Quản lý nước
Các chỉ số về chất lượng nước là yếu tố sống còn trong nuôi TCNN. Chất lượng nước thay đổi
trên cơ sở mật độ thả giống, tỷ lệ cho ăn và việc thay nước. Thiếu ôxy là hiểm hoạ phổ biến
nhất tại các trại nuôi tôm, do có nhiều chất hữu cơ, cho ăn quá nhiều, và hiện tượng tảo nở
hoa. Có thể tăng lượng ôxy bằng cách sử dụng máy sục khí hoặc thay nước. Các chỉ số tối ưu
của nước trong ao nuôi tôm như sau: pH : 7,5-8,5; nhiệt độ 29-31oC; độ cứng 100-150mg/l
theo CaC03; độ kiềm > 50ppm; ammonia 0,1ppm; CaC03 > 40ppm; ôxy hoà tan 4ppm.
Tỷ lệ tăng trưởng của tôm giảm khi độ cứng của nước cao. Không nên bón phân chuồng và
phân hữu cơ, dễ làm cho nước ao bị thiếu ôxy khi vi khuẩn phân huỷ chất hữu cơ dư thừa.
Cần thay nước với tỷ lệ và vào thời điểm thích hợp để duy trì chất lượng nước.
Các tác nhân như vi khuẩn, virut, nấm, ký sinh trùng, chất độc và các yếu tố bất lợi khác có
thể gây bệnh cho tôm và làm cho toàn bộ hệ thống nuôi tôm ngừng hoạt động. Do vậy, cần
quan tâm đến việc chẩn đoán, kiểm soát và ngăn ngừa dịch bệnh. Cần kiểm tra bệnh cho con
giống trước khi thả. Cũng cần kiểm tra kỹ lưỡng những triệu chứng hoặc dấu hiệu bất kỳ nào
khi xảy ra bệnh. Ðiều này giúp đảm bảo thả con giống có chất lượng, giảm nguy cơ dịch bệnh
tại trại nuôi. Nói chung, môi trường bất lợi như lượng ôxy hoà tan thấp, nhiệt độ luôn biến
động, pH hoặc độ cứng của nước cao có thể gây nhiều bệnh nguy hiểm và làm giảm năng
suất. Ðể kiểm soát và làm giảm bộc phát dịch bệnh do vi khuẩn gây ra, người nuôi cần duy trì
chỉ số chất lượng nước trong phạm vi cho phép, có cách cho ăn hợp lý, đảm bảo các yếu tố
môi trường khác và thả giống với mật độ phù hợp.
Nhiều bệnh trong hệ thống nuôi TCNN do virut gây ra. Hiện chưa có thuốc hay vacxin nào
điều trị hiệu quả những bệnh này, do virut không nhạy cảm với kháng sinh. Tuy nhiên, có thể
giảm và tránh lây lan bệnh do virut gây ra bằng cách quản lý tốt nhằm duy trì chất lượng
nước, quản lý thức ăn và chăm sóc sức khoẻ tôm một cách phù hợp.
Thu hoạch tôm là thời điểm quan trọng quyết định thành công trong nuôi TCNN. Cần kiểm
tra vỏ tôm để giảm thu hoạch tôm bấy. Thời điểm thu hoạch tốt nhất là buổi sáng hoặc buổi
tối do cường độ ánh sáng mặt trời lúc ban ngày có thể là tác nhân gây lột xác, dẫn đến tỷ lệ
tôm bấy cao. Tốt hơn là chỉ nên thu hoạch tôm đạt cỡ thương phẩm, thả lại tôm nhỏ hơn để
nuôi tiếp đến khi đạt cỡ thương phẩm. Bằng cách thu tỉa này, mật độ tôm giảm và do vậy,
nâng cao tỷ lệ tăng trưởng của tôm còn lại trong ao.
Sau thu hoạch, rửa sạch tôm bằng nước sạch để loại bỏ chất bẩn và tạp chất khác. Trước khi
bán hay chuyển tôm đến nhà máy chế biến, cần ướp lạnh tôm nhằm giảm sự phá huỷ của vi
khuẩn, sự tự phân huỷ làm ươn hỏng. Nước đá dùng ướp lạnh tôm phải làm từ nước sạch. Tốt
nhất nên ướp lạnh tôm bằng nước đá theo tỷ lệ khối lượng 1:1. Có thể sử dụng đá vảy để ướp
lạnh tôm vì loại nước đá này mềm và không gây thương tổn tôm so với sử dụng đá cây đập
nhỏ.
Với nguồn nước ngọt và nước lợ dồi dào, ấn Ðộ có tiềm năng to lớn phát triển nuôi TCNN.
Hạn chế hiện nay là thiếu nguồn cung cấp giống có chất lượng, sử dụng phương thức nuôi
quảng canh và người nuôi thiếu kiến thức về quản lý tốt. Nếu quản lý chất lượng nước và trại
nuôi hợp lý, quan tâm nhiều hơn đến sức khoẻ tôm thì TCNN có thể trở thành nguồn thực
phẩm và nguồn thu nhập chính cho người dân vùng nông thôn. Những hướng dẫn trên đây có
thể sẽ giúp ích cho người nuôi nâng cao sản lượng và duy trì tính bền vững của trại nuôi
TCNN.
Kỹ thuật nuôi:
Diện tích ao: 2.000 – 3.000m2, nước sâu 1 – 1,5m, chủ động lấy và thoát nước, nguồn nước
sạch. Mật độ thả 30 – 40 con/m2 (cỡ 2 – 3g/con). Phải tẩy dọn khử trùng ao sạch trước khi thả
giống. Cho ăn thức ăn trực tiếp các loại cám gạo, bột đậu xay, bã đậu. Ngày cho ăn 2 lần, sáng
sớm và chiều tối. Lượng cho ăn bằng 5 – 7% trọng lượng tôm trong ao.
Quản lý ao: Bón lót phân ban đầu và định kỳ để cung cấp thức ăn tự nhiên cho tôm.
- Ao nuôi ghép với cá mè vừa bón phân vừa cho ăn trực tiếp. Sau 5 tháng nuôi đạt năng suất
tôm và cá 750 – 1.500kg/ha.
* Cách nuôi đơn giản hơn là thả tôm bố mẹ đã ôm trứng vào ao nuôi cá. Mật độ thả 4 –
5kg/ha. Trước khi thả thử vào giai đặt ở trong ao, tôm đẻ và nở xong vớt tôm mẹ đi, thả tôm
con ra ao. Ao cũng phải được tẩy dọn (bón vôi với lượng 30kg/100m2); bón phân gây mầu,
bằng phân hữu cơ đã ủ hoai (với lượng 45 – 75kg/100m2).
Chú ý:
- Chỉ nuôi tôm càng với cá không ăn động vật như: Cá mè trắng, cá trắm cỏ, cá trôi. Tránh
nuôi ghép tôm càng trong các ao nuôi cá chép, cá diếc, cá rô phi, cá vược v.v… Ao nuôi tôm
càng có thể ghép thêm trai ngọc nước ngọc để tận dụng quan hệ sinh thái cá – tôm – trai để
nâng cao hiệu quả nuôi tổng hợp.
Chuẩn bị ao: Ao nuôi được vét bùn sạch, chiều sâu khoảng 2,5m, chiều rộng và dài tùy theo
kích thước ao. Bón khoảng 20kg vôi bột cho 100m2 ao, có thể bón thêm vôi khi độ pH chưa
đạt mức 7 – 7,5. Bón thêm 40kg phân chuồng hoai và 0,5kg NPK cho 100m2 ao. Sau đó cho
nước sông vào đạt độ sâu 1m (nước sông phải qua lưới lọc để tránh cá dữ). Khi mùi nước
trong ao ương có mùi đặc trưng của nước sông là đạt yêu cầu. Phơi nắng ao một tuần cho
nước có màu xanh của tảo thì tiến hành làm vèo trong ao.
Làm vèo trong ao: Chăng 4 cọc tre trong ao bằng kích thước của vèo, sau đó căng theo 8 góc.
Trong trường hợp có kích thước lớn thì có thể đóng thêm cọc tre theo đường viền của vèo.
Luồn dây sắt theo đường viền của vèo rồi căng ra theo các cọc tre. Căng vèo xong tiến hành
tháo thêm nước sông vào cho độ sâu nước trong vèo đạt 1,5m. Xung quanh vèo đặt thêm
những bó chà cho tôm có chỗ trú ẩn khi nắng nóng và cũng là nơi lột xác của tôm. Có thể thả
trong ao ít bèo lục bình cho mát nước và đồng thời làm thêm sàn ăn bằng tre trong vèo.
Thả tôm trong vèo: Khi làm vèo xong thì thả tôm post, mật độ 300 – 500 con/m2 (nếu không
có sục khí, nếu có sục khí thì thả cao gấp đôi). Cần chú ý tùy theo số lượng tôm thả mà treo
các bó chà cho phù hợp.
Chăm sóc tôm: Cho tôm ăn một ngày 4 lần bằng thức ăn công nghiệp dạng viên. Lượng thức
ăn của tôm bằng 1/10 trọng lượng tôm thả và mỗi ngày tăng lên 5 – 7% so với trọng lượng
ban đầu. Cứ 2 ngày thì lấy bàn chải chà quanh vèo một lần, làm tăng độ thoáng khí cho vèo và
khoảng 4 – 5 ngày phải vệ sinh sàn ăn và bó chà. Kiểm tra xem trong ao có các loại cá tạp, cá
dữ, ếch nhái vào không, nếu có cần phải có biện pháp diệt ngay. Sau 1 tháng thì tiến hành vớt
những con to, có chiều dài khoảng 4 – 5cm, trọng lượng 1,5 – 2g/con để thả ra ruộng. Những
con nhỏ hơn ương thêm 1 tháng nữa mới thả hết sang ruộng rộng.
Chuẩn bị ao nuôi
Bốn ao có diện tích từ 1.500 - 4.500m2, độ sâu từ 1,2 - 1,8m, với bờ ao bao chắc chắn, tiện
cấp - thoát nước. Xung quanh ao có xây dựng hệ thống lưới chắn để tránh ếch, cua, cá rô
đồng... vào ao hại tôm.
Thả giống
- Đợt 1: Thả 6 vạn con, trọng lượng 1.500 con/kg.
- Đợt 2: Sau đó khoảng 20 ngày, thả 6 vạn con có trọng lượng 1.400 con/kg. Mật độ thả 8
con/m2.
Thức ăn
Thức ăn dùng nuôi tôm gồm cám tổng hợp, kết hợp bón phân chuồng và lá dầm. Tháng đầu
cho thức ăn chuyên dùng cho cá có độ đạm cao 36-40%, lượng thức ăn cho ăn bằng 40%
trọng lượng tôm.
Các tháng tiếp theo sử dụng cám Con cò, kết hợp với cám gạo, ngô, sắn, lượng thức ăn cho ăn
giảm dần từ 20% ở tháng thứ 2, xuống 10% tháng thứ 3, rồi 5% tháng thứ 4 và 3-2% ở tháng
thứ 5. Cho tôm ăn 3 lần/ngày vào buổi sáng, chiều và tối, trong đó lượng thức ăn buổi sáng và
chiều chiếm 70%. Phân chuồng và lá dầm bón 1 lần/tháng, mỗi loại 10 - 15kg/100m2 ao.
Cấp nước 1 lần/tháng và sử dụng máy quạt nước khi cần thiết.
Phòng bệnh
Định kỳ bón 4kg vôi/100m2/lần/tháng để trừ tạp chất, diệt vi khuẩn gây bệnh cho tôm.
Kết quả là sau 6 tháng nuôi, với diện tích 1ha thu được 1.200kg tôm, cỡ trung bình 30-
40g/con, thu lãi hơn 17 triệu đồng.
Kỹ thuật ương tôm càng xanh từ giai đoạn bột lên giống
1. Hình thức ương:
Tôm càng xanh là đối tượng thủy sản nước ngọt có giá trị kinh tế cao, được nuôi nhiều nước
trên thế giới. Ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), các mô hình nuôi tôm càng
xanh trong mương vườn, ruộng lúa, ao hồ...ngày càng phát triển. Trở ngại lớn nhất đối với các
nông hộ khi nuôi tôm thịt từ giống nhân tạo mua từ các cơ sở ương là về chất lượng ( kích cỡ
không đồng đều) và giá tôm giống cao (chiếm ³ 30% chi phí sản xuất). Để giảm thiểu tối đa
tổn thất cho người nuôi thì việc chọn hình thức ao ương sang (ương ngay trong ao nuôi thịt)
sẽ khắc phục được tình trạng khó khăn lúc thu hoạch (hao hụt nhiều do thao tác) và công việc
vận chuyển tôm đến ao nuôi (có thể làm tôm bị yếu). Lợi điểm chính của ao ương sang là tôm
tập trung nên có thể theo dõi chính xác hơn và cho ăn dễ dàng hơn. Do đó, việc ngăn một
phần ao nuôi để ương tôm là có hiệu quả hơn dùng hệ thống ao ương riêng biệt đối với các
nông hộ sản xuất tôm thịt.
2. Công trình ương:
* Chọn địa điểm: Nơi có nguồn nước tốt và giữ được nước; Hoàn toàn có thể chủ động nguồn
nước cấp khi cần thiết để thay.Thuận lợi giao thông cho việc vận chuyển tôm giống; Gần nơi
cung cấp nguồn post. Việc chọn địa điểm phù hợp cho sản xuất nhằm giảm giá thành xây
dựng, giảm chi phí sản xuất và có thể điều chỉnh hệ thống nuôi cho phù hợp với những thay
đổi về kinh tế và môi trường là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế trong sản xuất
mà người nuôi nên cẩn thận xem xét. *Diện tích phần ương: Dựa trên nhu cầu số lượng tôm
giống cần cho nuôi thịt và mật độ thả ương để quyết định diện tích phần ương trong ao, có thể
chiếm từ 15-20% diện tích ao nuôi. Phần ương này có thể giới hạn lại bằng cách dùng lưới để
ngăn ao hoặc dùng giai đặt trong ao để ương. Đối với những hộ ương để cung ứng giống cho
người nuôi tôm thịt cũng phải căn cứ vào nhu cầu con giống trong khu vực để bố trí ao ương
cho phù hợp, thường từ 300-500 m2/ao để thuận tiện cho việc chăm sóc và quản lý. *Hệ
thống cấp thoát nước và mực nước : Bố trí cống cấp và thoát nước dạng chìm, riêng biệt với
tổng đường kính cống từ 30-50 cm/1000m2 đặt ở đầu và cuối ao nuôi với yêu cầu:Đảm bảo
cấp đầy hay tháo cạn nước trong vòng 4-6 giờ; Cống thoát nằm ở nơi thấp nhất; Độ dốc đáy
ao là 1:200 giảm dần từ cống cấp đến cống thoát.Trong suốt quá trình ương phải duy trì mực
nước từ 0,8- 1,2m. *Giá thể: Dùng chà tre khô bó lại thả xuống ao để tạo nơi trú ẩn cho tôm,
tốt nhất diện tích thả chà nên chiếm 5% diện tích mặt nước.
3. Các biện pháp kỹ thuật:
*Chất lượng nước ao: Một số chỉ tiêu môi trường nước thích hợp trong ao ương nuôi tôm
càng xanh cần duy trì trong quá trình sản xuất:- Nhiệt độ:28- 30oC; Độ trong: 25- 40 cm; Oxy
hòa tan: 4- 7 mg/l ; Độ pH: 7- 8; H2S: 0,01- 0,05 mg/l; NO2-: 0,01- 0,3 mg/l; NH3+: 0,05-
0,7 mg/l* Chuẩn bị ao ương* Cải tạo ao: Ao ương trước khi thả giống 7 ngày cần phải được
cải tạo đúng qui trình: tát cạn ao; bắt hết cá dữ, cá tạp và các địch hại khác gây nguy hại cho
tôm ương; vét bớt bùn đáy chỉ để lại khoảng 10-20 cm bùn; san bằng nền đáy dốc về phía
cống thoát; đắp bờ, lấp hang hốc; phơi đáy ao 2-3 ngày... *Bón vôi: dùng vôi sống CaO với
liều lượng liều lượng 10-15 kg/100 m2 nhằm vệ sinh, khử trùng ao ương và phòng bệnh cho
tôm; Lấy nước vào ao ương 0,3- 0,5 m qua cống cấp có lưới xanh nhiều lớp hoặc vải thật mịn
để ngăn ngừa cá tạp và địch hại; Gây màu nước bằng phân chuồng đã ủ hoai thật kỹ với liều
lượng 100 - 150g/m3 nước, cần ngâm trong nước 1 ngày, sau đó tóe đều khắp mặt ao để tránh
phân bị trôi dạt về phía góc ao. Nếu có điều kiện có thể bón thêm phân vô cơ hàng tuần từ 0,5
- 1kg/1000 m2. Tốt nhất là sử dụng phân gà phơi khô hoặc phân gà vi sinh (có bổ sung một số
khoáng vi lượng); Sau khi bón 3 ngày khi thấy nước có màu xanh lá non thì tiếp tục cho nước
vào cho đến 0,8 - 1,0 m rồi tiến hành thả post. *Thả giống: Chọn giống: postlarvae có ngày
tuổi từ 12 -15 có kích cỡ đồng đều, không dị hình, bơi lội nhanh nhẹn, màu sắc đặc trưng; Mật
độ thả: ương với mật độ vừa phải từ150 - 200con/m2 tùy vào trình độ kỹ thuật, nhu cầu con
giống, khả năng cung cấp thức ăn cho tôm; Thời điểm thả ương: từ tháng 4 - 6 và từ tháng 8-
10 dl; Cách thả giống: vận chuyển post trong bao có bơm oxy vào lúc mát trời; để tránh tôm
bị sốc nhiệt độ nên ngâm bao chứa tôm trong ao ương từ 15- 20 phút, sau đó mở miệng bao
tát nước vào từ từ và để tôm tự bơi ra. Chú ý nên thả tôm cách bờ trên 1 m vào lúc sáng sớm
hoặc chiều mát. *Chăm sóc và quản lý: *Cho ăn: Loại thức ăn: nên sử dụng thức ăn công
nghiệp dạng viên dành cho tôm càng xanh giống với hàm lượng đạm từ 30 - 35% để cung cấp
dinh dưỡng ổn định cho tôm trong sốt quá trình ương. Ngoài ra, tùy sự sẵn có các nguồn thức
ăn ở địa phương như cá biển, ốc bươu vàng, cua đồng, hến...dùng thay thế một phần thức ăn
công nghiệp sau khi ương được 15 ngày bằng cách xay nhỏ rồi mới cho tôm ăn. Lượng thức
ăn: cho ăn 20% TLT đối với ương mật độ 200 con/m2. Có thể ước tính liều lượng cho ăn của
10.00 tôm post như sau: Ngày thứ 01-10: 25-35g/ngày , Ngày thứ 11-20: 40 - 50 g/ngày ,
Ngày thứ 21–30: 60 - 80g/ ngày. Thời gian cho ăn: nên cho tôm ăn 3- 4 lần/ ngày.Vào lúc
sáng sớm và chiều mát thì lượng cho ăn trong ngày phân chia nhiều hơn các lần còn lại. Sàng
ăn : sử dụng sàng ăn để kiểm tra việc cho ăn, biết được khả năng sử dụng thức ăn, sức khỏe
của tôm để kịp thời điều chỉnh hàng ngày lượng thức ăn cho phù hợp với sự sinh trưởng của
tôm nuôi. Có thể bố trí 02 sàng ăn /300m2 với đường kính 70 -80 cm hoặc hình vuông với
kích thước 60 x 60cm, đặt sát đáy ao, nơi sạch và hơi xa bờ ao. *Chăm sóc:Thường xuyên
kiểm tra bờ, lưới, cống để tránh thất thoát, không cần thay nước, chỉ bổ sung lượng nước bốc
hơi, các thông số như pH và độ trong nên kiểm tra hàng ngày để theo dõi sự biến động của
môi trường ương.
4. Thu hoạch tôm ương:
Sau một tháng ương, bung vèo hoặc giai cho tôm ra ao. Tỉ lệ sống từ 70 - 85% .Trọng lượng
bình quân 0,5 - 1,0g/con, có thể đạt kích cỡ từ 3-5 cm. Đối với ao ương riêng biệt thì trước
khi thu hoạch phải chuẩn bị giai chứa để trong ao hay bể có sục khí. Nên thu hoạch vào sáng
sớm bằng cách tháo cạn nước, dùng lưới kéo thu một phần sau đó tát cạn thu toàn bộ.*Cách
vận chuyển tôm giống: Dùng bao nilon cỡ 60 x 90 cm có bơm oxy chuyển từ 1000 - 1500
con/bao cho vào khoảng 5-10 lít nước của bể chứa tôm vận chuyển trong 8-10 giờ.
Th.s Phạm Thị Thu Hồng- CHI CỤC THỦY SẢN VĨNH LONG
Bản tin Nông nghiệp và Nông thôn Vĩnh Long (Tháng 02/2006)