Professional Documents
Culture Documents
19
hóm
N
I. GIỚI THIỆU:
Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, điển hình với hai mùa
rõ rệt: mùa nắng và mùa mưa, lượng mưa bình quân hằng năm cao.
Cùng với đó là sự đa dạng về địa hình (đồi núi, cao nguyên, trung du, đồng
bằng) làm cho nước ta có những hệ sinh thái nhiệt đới và cận nhiệt đới với sự
phong phú về số lượng cũng như chủng loại động thực vật. Thêm vào đó là một
mạng lưới sông ngòi dày đặc mang lại một nguồn sống dồi dào cho hàng trăm
cánh rừng trãi dài từ Bắc đến Nam.
Ngoài ra, Việt Nam còn có một vùng biển rộng lớn hướng ra phía Đông, chứa
vô vàn động vật và hệ thực vật dưới nước,….
Việt Nam luôn tự hào với bạn bè năm châu bốn bể về một hệ sinh thái rừng
nhiệt đới phong phú, đa dạng vẫn còn bảo tồn ở dạng nguyên sinh. Vì lí do đó
mà Việt Nam là điểm đến của nhiều khách du lịch cũng như là nơi lí tưởng của
các nhà Sinh học, Sinh thái học, Địa chất hoc,… đến để nghiên cứu, tìm tòi và
mở rộng kiến thức.
Vì vậy với mục tiêu là nhằm thấy được sự đa dạng và phong phú về động vật,
thực vật, khí hậu,… Và mong muốn tìm hiểu về những ứng dụng của Công nghệ
Sinh học trong thực tiễn, đặc biệt là trong nông nghiệp và lâm nghiệp. Đoàn
thực tập khoa Sinh học gồm các thầy cô hướng dẫn và các sinh viên ngành
Công nghệ Sinh học của trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên đã có một chuyến đi
thực địa từ T P. Hồ Chí Minh đến Đà Lạt và Nha Trang.
Chuyến thực tập đã mang lại nhiều kiến thức hữu dụng về thực tiễn cũng như
lý thuyết cho sinh viên. Và cũng thông qua chuyến đi, thực tế cũng cho sinh
viên thấy rõ được những tác động tích cực cũng như tiêu cực của con người đối
với hệ sinh thái ở Việt nam nói riêng và trên thế giới nói chung.
Đồng Nai
Khánh Hòa
Ninh Thuận
Bình Thuận
Tỉnh Lâm Đồng: thác Pongour, bìa rừng Madagu, đỉnh Rada (Langbian).
Tỉnh Khánh Hòa: thành phố Nha Trang (Hòn Chồng, Hòn Tằm).
Trảng Bom: nằm trong vùng phù sa cổ sinh và phù sa cận sinh . Do đó đất
ở đây là đất podzolic xám, vàng đỏ và phù sa chứa acid.
Dầu Giây: với nền đất là đất huyền vũ, nên khu vực này chỉ có loại đất
lactosol nâu đỏ. Dầu Giây là nơi có miệng núi lửa đã tắt.
La Ngà ( 98m so với mực nước biển): đất nền là sa thạch, diệp thạch, hoa
cương, đất tổ ong. Do đó, khu vực này chứa đất latosol nâu đo, podzolic
vàng đỏ. Cầu La Ngà, hồ, đập…
Từ Đơn Dương (1100m) đổ đèo Ngoạn Mục đến sông Pha (76m) nền là hoa
cương , phù sa cổ sinh. Do đó, khu vực này chứa đất pozolic phức tạp, đất
nâu không vôi trên phù sa cũ và trên đất phù sa .
Sông Pha (76m): chứa đất podzolic cạn trên nền phù sa cổ sinh và phù sa
cận sinh.
Tây Mỹ ( 50m ): đất nâu, đất núi cạn trên nền phù sa cổ sinh và phù sa cận
sinh.
Nhìn chung đất của Đồng Nai đều có địa hình tương đối bằng phẳng, có
82,09% đất có độ dốc < 8 0, 92% đất có độ dốc <150 , các đất có độ
dốc >150 chiếm khoảng 8%.
Trong đó:
Đất phù sa, đất gley và đất cát có địa hình bằng phẳng, nhiều nơi
trũng ngập nước quanh năm.
Đầt đen, nâu, xám hầu hết có độ dốc < 80, đất đỏ hầu hết < 150.
Riêng đất tầng mỏng và đá bọt có độ dốc cao
3. ĐẤT ĐAI:
Tỉnh Đồng Nai có quỹ đất phong phú và phì nhiêu. Có 10 nhóm đất chính.
Tuy nhiên theo nguồn gốc và chất lượng đất có
thể chia thành 3 nhóm chung sau:
Các loại đất hình thành trên đá
bazan: Gồm đất đá bọt, đất đen, đất đỏ
có độ phì nhiêu cao, chiếm 39,1% diện
tích tự nhiên (229.416 ha), phân bố ở
phía bắc và đông bắc của tỉnh. Các loại
đất này thích hợp cho các cây công
nghiệp ngắn và dài ngày như: cao su, cà
phê, tiêu…
Đất đỏ ở Đồng Nai
Các loại đất hình thành trên phù sa cổ và trên đá phiến sét như
đất xám, nâu xám, loang lổ chiếm 41,9% diện tích tự nhiên (246.380
ha), phân bố ở phía Nam, Đông Nam của tỉnh (huyện Vĩnh Cửu, Thống
Nhất, Biên Hoà, Long Thành, Nhơn Trạch). Các loại đất này thường có
4. KHÍ HẬU:
Khí hậu Đồng Nai là khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có hai mùa
tương phản nhau (mùa khô và mùa mưa). Nhiệt độ cao quanh năm là điều
kiện thích hợp cho phát triển cây trồng nhiệt đới, đặc biệt là các cây công
nghiệp có giá trị xuất khẩu cao. Nhiệt độ bình quân năm 25-26oC chênh lệch
nhiệt độ cao nhất giữa tháng nóng nhất và lạnh nhất là 4,2oC; số giờ nắng
trung bình từ 5-9, 6-8 giờ/ngày. Lượng mưa tương đối lớn và phân bố theo
3. ĐẤT ĐAI:
Lâm Đồng có diện tích đất chiếm 98% diện tích tự nhiên, tương đương với
khoảng 965.969 ha, bao gồm 8 nhóm đất và 45 đơn vị đất.
Nhóm đất phù sa (Fluvisols) được hình thành do sự bồi lắng của
sông, suối, tính chất đất thay đổi phụ thuộc vào sản phẩm phong hoá
của mẫu chất tạo thành đất ở vùng thượng nguồn của từng lưu vực,
thời gian và điều kiện bồi lắng. Nhóm đất này có 3 đơn vị đất: đất phù
sa chua, đất phù sa giàu mùn chua, đất phù sa glây với tổng diện tích
28.866 ha.
Nhóm đất glây (Gleysols) được hình thành ở địa hình thấp trũng,
mực nước ngầm nông, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình khử trong
đất xảy ra, dẫn tới đất có màu xanh, đất có nguồn gốc thuỷ thành.
Lượng mưa
Ngoài ra còn có một số hồ khác như Nam Phương (Bảo Lộc), Nam Sơn
(Đức Trọng) nằm ngay ở trung tâm thị xã, thị trấn, là những địa điểm có
nhiều khả năng xây dựng khu vui chơi, giải trí.
Nước ngầm
Trữ lượng nước ngầm của Lâm Đồng phân phối rất không đồng đều
giữa các vùng và có thể được chia ra các đơn vị chứa nước sau:
Tầng chứa nước lỗ hổng thành tạo Aluvi thông Hôloxen
Tầng nước này phân bố ở thềm bậc I và lòng thung lũng các sông
suối, diện lộ nhiều nhất ở Cát Tiên, Đạ Tẻh và rải rác ở Đơn Dương, Lâm
Hà trên một diện tích khoảng 220 km2.
Thác Cam Ly
Thác nằm trên dòng suối Cam
Ly, cách trung tâm thành phố 2km
về hướng nam. Thác Cam Ly có
rất nhiều truyền thuyết gắn liền
với đời sống và các cuộc đấu
tranh của đồng bào dân tộc bản
địa. Trong quá khứ, đây là một
thắng cảnh tuyệt đẹp với nhiều
rừng cây bao quanh thác nước.
Gần đây, do dân số của Ðà Lạt
Đồi Cù
Ðồi Cù nằm ở trung tâm thành phố Ðà Lạt, cạnh hồ Xuân Hương, rộng
150 ha, với nhiều quả đồi tròn trịa, mấp mô, tiếp nối nhau như một thảo
nguyên bát ngát, lác đác những cụm thông. Theo đồ án xây dựng thành
phố năm 1942 của kiến trúc sư người Pháp Lagisquet thì Ðồi Cù là khu
vực "bất khả xâm phạm", nhằm tạo ra một tầm nhìn thoáng đãng cho Ðà
Lạt. Từ đó một sân golf 9 lỗ đã được xây dựng tại đây. Ðồi Cù là nơi hóng
mát, cắm trại và picnic của dân chúng và du khách. Năm 1992, Ðồi Cù
được đưa vào liên doanh với nước ngoài để xây dựng sân golf 18 lỗ.
Đà Lạt còn có nhiều thắng cảnh đẹp khác nằm ở những vị trí xa trung tâm
ít người biết đến như thác Cửa Thần (M’Bông Yang) cao 15m, thác Khát Vọng
(Liang K’Bít), thác Ba Tầng (Liang Pe Knũ). Cả ba thác này đều nằm ở xã Tà
Nung cách Đà Lạt gần 20km về phía Tây. Ở Tà Nung còn có hòn đá Mẹ (Lu Me
Yang) có hình móng chân ngựa liên quan đến truyền thuyết cuộc chiến tranh
Chăm - Cơ Ho từ nhiều thế kỷ trước.
Ngày chúng tôi khởi hành chuyến thực tập thiên nhiên là một ngày đẹp trời
trong cái không khí mát mẻ, trong lành của buổi sáng sớm Sài Gòn dường như
làm cho tất cả đoàn sinh viên thực tập chuyến đi đều cảm thấy thoải mái,
phấn chấn cho một chuyến thực tập dài ngày.
Sài Gòn trước kia là đất xám phù sa cổ nghèo nàn chất hữu cơ. Tầng đá mẹ
rắn chắc nên nơi đây rất thuận lợi cho việc xây dựng nhà cửa, đô thị. Ở một
số nơi ngoại ô Sài Gòn đất có màu sôcôla, mùi lưu huỳnh do xác động thực
vật bị chôn vùi yếm khí, một nét đặc trưng của đất nhiễm phèn. Vì vậy nơi
đây hiện diện nhiều cây năng, một loại cây chỉ thị cho sự hiện diện của đất
phèn. Cây năng càng nhiều, đất càng nhiều phèn. Cây năng cũng chính là
nguồn thức ăn cho Sếu đầu đỏ, một loài động vật quý hiếm đang nằm trong
sách đỏ của thế giới.
Khi xe lăn bánh, nhìn hai bên đường với những toà nhà, khu dân cư với những
hàng cây xanh, những con đường buôn bán sầm uất - một quang cảnh quen
thuộc trên đất Sài Gòn. Xe cứ lăn bánh và khung cảnh cũng dần thay đổi.
Những khu dân cư sầm uất cũng dần khuất bóng, thay vào đó là những ngôi
nhà đơn sơ, những khu vườn đầy cây cảnh và cây trồng nhỏ. Đất đai nơi đây
rất ít bị bê tông hoá, đất đai dường như tốt tươi hơn, cây cối nhiều và rất xanh
tươi.
Từ Sài Gòn đến Dầu Giây; đất là đất xám bạc màu, đất podzolic; nay đã được
khai phá xây nhà, dựng đô thị. Đá cáo dạng phù cổ sinh, cận sinh. Cây cối
được trồng rất nhiều chủ yếu là cây ăn quả như chôm chôm, xoài, mít… Thời
gian chúng tôi đi vào mùa chôm chôm, nên nhìn qua làn kính ôtô, màu đỏ
tươi của những cây chôm chôm tốt tươi xanh rờn thật đẹp.
Thảm thực vật nơi đây giống như ở Đông Nam Bộ và Tây Nam bộ, có họ Cúc, họ
Lác… Ở đây có rất nhiều cây mai dương- một loại cây ngoại lai. Hoa của nó giống
hoa trinh nữ, thuộc bộ họ Đậu, lá kép có phù lên ở tuyến lá. Tuyến phù gây độc, khi
chạm vào nó sẽ tiết ra một loại acid kích thích bơm nước ra, bơm proton H+ vào,
nướcbị lấy ra→ lá không còn căng nữa→ bị khép lại.
Chúng tôi lại tiếp tục lên đường, từ Dầu Giây đến La Ngà, Định Quán.
La Ngà ( 98m so với mực nước biển) đất nền là đá sa thạch, diệp thạch,
hoa cương, đá tổ ong. Do đó khu vực này chứa đất lactosol nâu đỏ,
pozodlic nâu đỏ. Cầu La Ngà, hồ, đập…
Định Quán ( 260 m so với mực nước biển ):
+ Đá: đá huyền vũ, sa thạch, diệp thạch, hoa cương
+ Đất: từ đất xám bạc màu chuyển sang đất lactosol nâu đỏ, podzolic nâu
đỏ. Đất không bằng phẳng, nhiều đồi. Đất nhiều nhất là đất đỏ, nhiều sỏi
Hệ thực vật nơi đây càng lúc càng dày đặc phong phú, xanh tốt hơn. Tôi thấy
được những loại cây như: chôm chôm, cao su, điều. Nhiều cây dại và cây ngoại lai ở
Nha Trang hiện nay có diện tích tự nhiên là 251 km². Nha Trang nằm trên tọa
độ 12°8'33" đến 12°25'18" Bắc và 109°7'16" đến 109°14'30" Đông. Phía Bắc
giáp xã Ninh Ích, huyện Ninh Hoà, phía Nam giáp các xã Cam Hải, Cam Tân,
thị xã Cam Ranh, phía Tây giáp các xã Diên An, Diên Phú, huyện Diên Khánh,
phía Đông giáp biển Đông.
Thành phố Nha Trang, tỉnh lỵ của Khánh Hòa, cách thành phố Hồ Chí Minh 439
km về phía Bắc, cách thành phố Đà Lạt 215 km về phía Đông Bắc, cách thành phố
Đà Nẵng 521 km về phía Nam.
Nha Trang nằm bên bờ biển xinh đẹp và thơ mộng, lưng dựa núi, mặt hướng ra
biển, với 19 hòn đảo lớn nhỏ nằm rải rác như một pháo đài vững chắc che chắn
thành phố. Được mệnh danh là “Lẵng hoa tươi rực rỡ đặt trên bờ biển Đông”, “Chiếc
boong tàu đầy nắng”, Nha Trang là kiệt tác của thiên nhiên, phong cảnh núi biển
mộng mơ, khí hậu quanh năm mát mẻ, cùng với cơ sở hạ tầng hiện đại, người dân
hiền hòa, chân thành, mến khách… Vì thế, Nha Trang sớm trở thành trung tâm văn
hóa – kinh tế du lịch của tỉnh Khánh Hòa và là điểm du lịch sinh thái biển hấp dẫn,
Nha Trang – cầu nối giữa lục địa và hải đảo. Đó là các đảo: Hòn Miễu, Hòn Tằm,
Hòn Mun, Hòn Một, Hòn Yến, Hòn Tre, Hòn Thị, Hòn Lao, con Sẻ Tre, Bãi Cầu Gai, Bãi
Ngọc Trai, Bãi Tiên, Trí Nguyên…
Khí hậu Nha Trang vừa chịu sự chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vừa mang
tính chất của khí hậu đại dương nên tương đối ôn hoà. Nhiệt độ trung bình năm là
26,5oC. Lượng mưa trung bình hàng năm trên 1.200mm.
Thác Bà Ponagar
Trên đường trở về Sài Gòn, chúng tôi được đi qua Phan Rang, Phan Thiết. Nơi
khô hạn nhất nước ta. Khí hậu khu vực này là bán sa mạc, lượng mưa rất ít do
kín gió.
Phan Rang:
+Phía Bắc: đèo Cả
+Phía Nam: mũi Dinh chặn ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc và Tây Nam.
Phan Rí:
+ 70 ngày mưa, 770 mm/năm
+ Ẩm độ thấp.
0 0
+ Biên độ nhiệt độ cao: ngày 32 C; đêm 22 C
Phan Thiết:
+ Khí hậu dễ chịu hơn.
Đất khu vực này chủ yếu là đất cát. Thực vật chủ yếu cây bụi thấp, xoè ra trên
mặt đất. Một số cây ăn quả phổ biến nơi này: nho, thanh long, dừa. Người dân ở khu
vực này cũng trồng khá nhiều cây tỏi. Ở đây cũng có hiện tượng sa mạc hoá do
rừng bị chặt phá rất nhiều, người dân đào ao nuôi tôm sau đó lại bỏ đi. Việc phá
rừng làm đất mất nước; đào ao gây ra phèn hóa. Ngoài ra người dân còn hốt cát ven
sông để bán, làm bờ sông bị sạt lở→sông rộng, cạn và ngắn→ gây ra lũ và khô hạn.