Professional Documents
Culture Documents
Để hoàn thành luận văn này, dựa trên sự cố gắng rất nhiều của bản thân em,
nhưng không thể thiếu sự hỗ trợ của các thầy cô, các cô chú tại đơn vị thực tập.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn:
- Các thầy cô Trường Đại Học An Giang, đặc biệt là thầy cô khoa Kinh Tế
-Quản Trị Kinh Doanh đã trang bị cho em nền tảng kiến thức vững chắc về kinh tế
và nhiều lĩnh vực liên quan khác.
- Các thầy cô Khoa Kinh Tế - Quản Trị Kinh Doanh Trường Đại Học An
Giang, các thầy cô Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh đã truyền
dạy cho em những kiến thức chuyên sâu về ngành học Tài chính doanh nghiệp,
trong đó nổi bật lĩnh vực phân tích doanh thu, lợi nhuận thực sự hữu ích cho bản
thân.
- Thầy Bùi Thanh Quang đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em thực hiện và
hoàn thành tốt bài luận văn tốt nghiệp.
- Ban Giám Hiệu Trường đại học An Giang giới thiệu em đến cơ quan thực
tập và Ban Giám Đốc Nhà máy xi măng An Giang đã đồng ý cho em thực tập tại
nhà máy. Các cô chú, anh chị tại nhà máy, đặc biệt là cô Xuân Hoàng -Trưởng
phòng Kế toán-tài vụ, anh Bằng - Phòng Kế hoạch kinh doanh đã tận tình hướng
dẫn chỉ bảo em trong việc thu thập và phân tích số liệu.
Em xin chân thành cảm ơn và gửi đến thầy cô, các cô chú, anh chị ở nhà
máy những lời chúc tốt đẹp cả trong cuộc sống và trong công tác!
LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Thực hiện đường lối đổi mới, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể thể hiện ở tốc độ
tăng trưởng GDP hàng năm, từ đó tạo điều kiện để nước ta bước vào thời kỳ mới
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, từng bước hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đặt ra cho các doanh nghiệp
nước ta nhiều cơ hội và thách thức. Đó là cơ hội thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến, tiếp thu cách làm việc, kinh doanh, quản lý khoa học của nước
ngoài, có cơ hội đưa sản phẩm của mình đến nhiều nước trên thế giới…Mặt khác,
các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt diễn ra trên phạm vi toàn
cầu. Trong nền kinh tế thị trường, một khi không còn sự bảo hộ của Nhà nước, các
doanh nghiệp nước ta phải tự điều hành, quản lý các hoạt động sản xuất kinh
doanh một cách có hiệu quả để đứng vững trên thị trường và ngày càng phát triển.
Muốn vậy, các doanh nghiệp phải tạo được doanh thu và có lợi nhuận, đồng thời
phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá mọi diễn biến và kết quả của quá trình sản
xuất kinh doanh. Bởi vì thách thức lớn nhất hiện nay không chỉ là tăng đầu tư hay
tăng sản lượng mà là tăng cường hiệu quả kinh doanh. Như vậy, thường xuyên
quan tâm phân tích hiệu quả kinh doanh nói chung, doanh thu, lợi nhuận nói riêng
trở thành một nhu cầu thực tế cần thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào.
Trong thời gian học tập ở trường đại học, em được trang bị một nền tảng lý
thuyết về kinh tế, phương pháp phân tích kinh tế. Thời gian thực tập tại Nhà máy
xi măng An Giang, em được tiếp cận với thực tiễn sinh động ở một đơn vị sản
xuất kinh doanh ngành xi măng. Bản thân em có cố gắng nghiên cứu, tìm tòi và
nhận thấy việc phân tích doanh thu, lợi nhuận là một việc làm hết sức quan trọng
cần thiết. Bởi vì, doanh thu, lợi nhuận không chỉ phản ánh kết quả sản xuất kinh
doanh mà còn là cơ sở để tính ra các chỉ tiêu chất lượng khác nhằm đánh giá đầy
đủ hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ hoạt
động. Thông qua việc phân tích này, các nhà quản lý sẽ nắm được thực trạng của
doanh nghiệp, phát hiện những nguyên nhân và sự ảnh hưởng của các nhân tố lên
doanh thu, lợi nhuận. Từ đó, chủ động đề ra những giải pháp thích hợp khắc phục
những mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của các nhân tố ảnh hưởng và huy động
tối đa các nguồn lực nhằm làm tăng doanh thu, lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Xuất phát từ những vấn đề trên đây, em chọn đề tài:
“PHÂN TÍCH DOANH THU VÀ LỢI NHUẬN CỦA NHÀ MÁY XI
MĂNG AN GIANG”
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
- Đánh giá tình hình doanh thu và lợi nhuận đạt được của nhà máy qua 3
năm 2001, 2002, 2003.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình biến động của doanh thu
và lợi nhuận.
- Đề ra một số giải pháp nhằm tăng doanh thu, lợi nhuận để nâng cao hiệu
quả kinh doanh của nhà máy.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để phân tích doanh thu và lợi nhuận, em sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp thu thập - thống kê - tổng hợp số liệu: Trong đề tài này đòi
hỏi cần phải có những số liệu trong những năm gần đây, các số liệu được tập hợp,
thu thập từ các báo cáo, tài liệu của cơ quan thực tập, các thông tin trên báo, đài,
internet…Sau đó tiến hành thống kê, tổng hợp lại cho có hệ thống để phân tích.
- Phương pháp so sánh: Là phương pháp xem xét một chỉ tiêu dựa trên việc
so sánh với một chỉ tiêu cơ sở, qua đó xác định xu hướng biến động của chỉ tiêu
cần phân tích.
Tùy theo mục đích phân tích, tính chất và nội dung của các chỉ tiêu kinh tế
mà ta có thể sử dụng các kỹ thuật so sánh thích hợp như so sánh tuyệt đối, so sánh
tương đối.
- Phương pháp thay thế liên hoàn: Là phương pháp thay thế các nhân tố
theo một trình tự nhất định để xác định mức độ ảnh hưởng của chúng đến chỉ tiêu
phân tích. Các nhân tố này phải có quan hệ với chỉ tiêu phân tích dưới dạng tích số
hoặc thương số.
- Phương pháp liên hệ: Để lượng hóa các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu
kinh tế. Có nhiều cách liên hệ như liên hệ cân đối, liên hệ tuyến tính, liên hệ phi
tuyến…Bài viết này sử dụng phương pháp liên hệ tuyến tính là liên hệ theo một
hướng xác định giữa các chỉ tiêu. Chẳng hạn lợi nhuận có quan hệ cùng chiều với
doanh thu, giá bán… có quan hệ ngược chiều với chi phí.
- Phương pháp chi tiết: Là phương pháp phân tích các chỉ tiêu kinh tế một
cách chi tiết theo các hướng:
+ Chi tiết theo các bộ phận, hay yếu tố cấu thành của chỉ tiêu.
+ Chi tiết theo thời gian.
+ Chi tiết theo địa điểm.
Trong phạm vi bài viết này sử dụng phương pháp chi tiết theo bộ phận hay
yếu tố cấu thành.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đề tài này xin được giới hạn trong phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh
thông qua các số liệu về kết quả doanh thu tiêu thụ, lợi nhuận đạt được…của Nhà
máy xi măng An Giang.
Do thời gian thực tập ngắn ngủi và sự hạn chế của người viết, bài viết
không đi sâu vào chi tiết, chỉ đánh giá tình hình doanh thu và lợi nhuận qua số liệu
thu thập được từ các báo cáo tài chính của nhà máy. Không phân tích tất cả các
nhân tố mà chỉ phân tích một số nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình
biến động doanh thu, lợi nhuận của nhà máy. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm
tăng doanh thu, lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Số liệu phân tích được giới hạn trong 3 năm 2001, 2002, 2003.
n
DT = ∑ (S
i =1
ti * Gi )
Trong đó:
- DT: là doanh thu bán hàng kỳ kế hoạch.
- S ti : Số lượng sản phẩm tiêu thụ của từng loại hoặc dịch vụ cung ứng
của từng loại trong kỳ kế hoạch.
- Gi : Giá bán đơn vị sản phẩm hoặc cước phí đơn vị.
-i : Loại sản phẩm tiêu thụ hoặc dịch vụ cung ứng tiêu thụ.
1.1.3. Ý nghĩa của việc phân tích doanh thu:
Doanh thu phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau, do đó để có thể
khai thác các tiềm năng nhằm tăng doanh thu, cần tiến hành phân tích thường
xuyên đều đặn. Việc đánh giá đúng đắn tình hình doanh thu tiêu thụ về mặt số
lượng, chất lượng và mặt hàng, đánh giá tính kịp thời của tiêu thụ giúp cho các
nhà quản lý thấy được những ưu, khuyết điểm trong quá trình thực hiện doanh thu
để có thể đề ra những nhân tố làm tăng và những nhân tố làm giảm doanh thu. Từ
đó, hạn chế, loại bỏ những nhân tố tiêu cực, đẩy nhanh hơn nữa những nhân tố
tích cực, phát huy thế mạnh của doanh nghiệp nhằm tăng doanh thu, nâng cao lợi
nhuận, vì doanh thu là nhân tố quyết định tạo ra lợi nhuận.
Doanh thu đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Doanh thu càng lớn lợi nhuận càng cao, bởi vậy chỉ tiêu
này là cơ sở để xác định lãi, lỗ sau một quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó, đơn
vị muốn tăng lợi nhuận thì vấn đề trước tiên cần phải quan tâm đến là doanh thu.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI NHUẬN.
1.2.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của lợi nhuận:
1.2.1.1. Khái niệm:
Sau một thời gian hoạt động nhất định doanh nghiệp sẽ có thu nhập bằng
tiền. Lợi nhuận của doanh nghiệp là số chênh lệch giữa doanh thu thuần với trị giá
vốn của hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Do đó, lợi
nhuận phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý của doanh
nghiệp.
Lãi gộp là phần còn lại của doanh thu sau khi trừ chi phí khả biến, là phần
đóng góp dùng đảm bảo trang trải cho chi phí bất biến.
Lợi nhuận trước thuế: là lợi nhuận đạt được trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Lợi nhuận sau thuế: là phần còn lại sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
cho ngân sách Nhà nước, lợi nhuận sau thuế dùng để trích lập các quỹ đối với các
doanh nghiệp.
1.2.1.2. Nội dung của lợi nhuận:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tuỳ theo các lĩnh vực đầu tư khác
nhau, lợi nhuận cũng được tạo ra từ nhiều hoạt động khác nhau:
- Lợi nhuận về nghiệp vụ sản xuất kinh doanh: Là lợi nhuận có được từ hoạt
động sản xuất kinh doanh theo đúng chức năng của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận từ hoạt động liên doanh liên kết.
- Lợi nhuận về hoạt động tài chính: Là các khoản thu về lãi tiền gửi, thu lãi
bán ngoại tệ, thu từ cho thuê tài sản cố định, thu nhập từ đầu tư trái phiếu, cổ
phiếu.
- Lợi nhuận khác: Là lợi nhuận thu được từ những hoạt động bất thường hay
còn gọi là các khoản thu từ các hoạt động riêng biệt với hoạt động sản xuất kinh
doanh thông thường của đơn vị. Những khoản này thường phát sinh không đều
đặn như: Thu tiền phạt, tiền bồi thường do khách hàng vi phạm hợp đồng, thu
được các khoản nợ khó đòi mà trước đây đã chuyển vào thiệt hại, thu các khoản
nợ không xác định được chủ, các khoản lợi nhuận bị sót những năm trước nay mới
phát hiện.
1.2.1.3. Vai trò của lợi nhuận:
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh
doanh. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng, chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp, phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản sản xuất như lao động,
vật tư, tài sản cố định…
Lợi nhuận là một nguồn thu điều tiết quan trọng của Ngân sách Nhà nước,
giúp Nhà nước thực hiện các chương trình kinh tế xã hội, phát triển đất nước.
Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất và mở rộng toàn bộ nền
kinh tế quốc dân và doanh nghiệp.
Lợi nhuận được để lại doanh nghiệp thành lập các quỹ tạo điều kiện mở
rộng quy mô sản xuất, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.
Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng khuyến khích người
lao động và các đơn vị ra sức phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở của chính sách phân phối đúng đắn.
Mục đích cuối cùng của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là sản xuất kinh
doanh thật nhiều sản phẩm, đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn theo quy định của Nhà
nước với giá thành thấp nhất và mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho doanh nghiệp,
tăng tích luỹ mở rộng sản xuất, là điều kiện cải thiện đời sống vật chất của người
lao động trong doanh nghiệp, góp phần làm giàu mạnh đất nước. Ngược lại, doanh
nghiệp kinh doanh thua lỗ sẽ dẫn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp khó
khăn, thiếu khả năng thanh toán, tình hình này kéo dài doanh nghiệp sẽ bị phá sản.
1.2.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận:
Trong quá trình hoạt động có rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan ảnh
hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Các nhân tố chủ yếu là:
- Khối lượng sản phẩm tiêu thụ: Sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp có
tiêu thụ được mới xác định được lãi hay lỗ và lãi, lỗ ở mức độ nào. Sản phẩm,
hàng hoá phải được tiêu thụ ở một số lượng nào đó sẽ có lợi nhuận, khối lượng
tiêu thụ càng nhiều thì lợi nhuận đạt được càng lớn
- Giá thành sản xuất của sản phẩm: Giá thành sản xuất có vai trò to lớn
trong chiến lược cạnh tranh về giá. Giá thành sản xuất thấp cho phép doanh
nghiệp áp dụng giá bán thấp hơn đối thủ nhưng thu được lợi nhuận cao hơn. Giá
thành sản xuất có tác động ngược chiều với lợi nhuận, nếu giá thành thấp lợi
nhuận sẽ cao hơn và ngược lại. Đối với những ngành có số lao động nhiều, chi phí
nhân công có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Hiện nay,
giá nhân công rẻ là một yếu tố thuận lợi của nước ta trong việc tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, vì có thể tiêu thụ sản phẩm với giá rẻ nhưng lợi
nhuận không giảm.
- Giá bán sản phẩm: Trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp muốn tồn
tại và phát triển thì giá bán phải tương ứng với giá trị, nghĩa là giá cả sản phẩm
phải đảm bảo bù đắp được chi phí sản xuất và phải có lợi nhuận thoả đáng để tái
đầu tư. Trong chính sách giá của doanh nghiệp, giữa giá bán và khối lượng bán có
mối quan hệ chặt chẽ, khi khối lượng hàng hoá bán tăng thì giá bán có thể giảm và
ngược lại.
- Kết cấu mặt hàng tiêu thụ: Mỗi loại sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp
có một chi phí sản xuất riêng, do đó có mức lợi nhuận riêng phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như mức độ cạnh tranh trên thị trường, giá bán, giá vốn, thuế,…rất khác
nhau. Bởi vậy, khi doanh nghiệp có cơ cấu hàng hoá kinh doanh thay đổi sẽ làm
ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Thuế suất: Thuế suất do Nhà nước quy định, những thay đổi trong chính
sách thuế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, các doanh nghiệp cần nắm bắt kịp
thời các sự thay đổi này để có những biện pháp can thiệp kịp thời đảm bảo được
lợi nhuận, hạn chế tổn thất.
1.2.2. Phương pháp tính lợi nhuận:
Có hai phương pháp tính lợi nhuận:
1.2.2.1. Phương pháp trực tiếp
Xác định lợi nhuận dựa vào công thức sau:
P = DTT – (Zsxtt + CPBH + CPQL)
Trong đó:
-P : Tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp.
- DTT : Doanh thu thuần về bán hàng và cung ứng dịch vụ.
- Zsxtt : Giá thành sản phẩm tiêu thụ.
- CPBH : Chi phí bán hàng.
- CPQL : Chi phí quản lý.
Xác định lợi nhuận theo phương pháp này dễ tính toán, đơn giản. Tuy
nhiên, nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng thì công việc tính
toán trở nên phức tạp hơn. Mặt khác, dùng phương pháp này không thấy được
những nhân tố làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Phương pháp phân tích:
Để khắc phục nhược điểm của phương pháp trực tiếp, người ta dùng
phương pháp phân tích để xác định lợi nhuận.
Công thức tính lợi nhuận theo phương pháp này như sau:
P = Pss ± Pz ± Pkc ± Pcl ± Pg ± Pđk ± Poss
Trong đó:
- Pss : Lợi nhuận sản phẩm so sánh được tính theo tỷ suất lợi nhuận
kỳ báo cáo.
- Pz : Lợi nhuận thay đổi do ảnh hưởng của nhân tố giá thành.
- Pkc : Lợi nhuận thay đổi do ảnh hưởng của nhân tố kết cấu mặt hàng.
- Pcl : Lợi nhuận thay đổi do ảnh hưởng của nhân tố chất lượng.
- Pđk : Lợi nhuận của sản phẩm kết dư đầu kỳ.
- Poss: Lợi nhuận của sản phẩm không so sánh được.
Như vậy, theo phương pháp này ta có thể biết rõ nhân tố ảnh hưởng làm
thay đổi lợi nhuận kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo, từ đó có các biện pháp khai thác
hoặc khắc phục nhằm tăng lợi nhuận.
Việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận là cơ sở ra quyết định
nhanh, dứt khoát về mua bán hàng hoá thích ứng với sự biến dạng của thị trường.
Dù cho dùng phương pháp nào để phân tích lợi nhuận thì mục đích chung đều là
tìm kiếm các xu hướng tăng lợi nhuận và đầu tư có lợi, khai thác các nhân tố bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp để đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận và mức độ
lợi nhuận ngày càng cao.
1.2.3. Tác động của đòn cân nợ, đòn cân định phí, và đòn cân tổng hợp
đến doanh lợi của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh luôn phải đối phó nhiều
rủi ro. Thường có hai loại rủi ro có thể gặp là: Rủi ro trong kinh doanh và rủi ro tài
chính.
Rủi ro trong kinh doanh: Là loại rủi ro tiềm tàng trong hoạt động của
doanh nghiệp sẽ không có gì chắc chắc xung quanh doanh thu và lợi nhuận của
doanh nghiệp. Chính điều này sẽ tạo ra rủi ro, thể hiện ở chổ doanh nghiệp không
tạo ra đủ số doanh thu hàng năm từ việc bán sản phẩm đạt đến mức đủ thanh toán
các định phí trong sản xuất kinh doanh.
Rủi ro tài chính: Là hậu quả của phương thức huy động nợ và nó sẽ dẫn
đến các khoản phải trả cố định. Doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác
nhau, phải đối diện với mức độ đòn bẩy hoạt động khác nhau, họ có thể thay đổi
phương thức sử dụng đòn bẩy tài chính một cách thích hợp. Một cách tổng quát,
những doanh nghiệp mà bản thân phải chịu nhiều rủi ro trong kinh doanh có
khuynh hướng sử dụng nợ ít hơn doanh nghiệp mà rủi ro kinh doanh có giới hạn.
Mặt khác những doanh nghiệp có rủi ro trong kinh doanh ít hơn có thể gặp rủi ro
tài chính cao hơn.
1.2.3.1. Đòn cân nợ:
Quá trình tài trợ bằng nợ vay tạo ra đòn cân nợ và việc trả lãi tiền vay cố
định làm thay đổi tỷ suất doanh lợi đầu tư.
Đòn cân nợ có tác động đến thu nhập và tiền lời mà chủ sở hữu nhận được.
Đòn cân nợ được tạo ra do cách thức huy động nợ, và chính cách thức huy động
nợ sẽ dẫn đến chi phí tài chính cố định.
Tỷ lệ nợ hoặc độ nghiêng đòn cân nợ càng cao thì tác động của đòn cân nợ
càng lớn. Các doanh nghiệp ít gặp rủi ro trong kinh doanh thì sẽ có khuynh hướng
sử dụng đòn cân nợ. Và ngược lại, doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro trong kinh
doanh họ sẽ ít sử dụng đòn cân nợ.
Để xác định độ nghiêng của đòn cân nợ, ta áp dụng công thức:
Q( P − V ) − F
DFL =
Q( P − V ) − F − R
- DFL : Độ nghiêng đòn cân nợ
- Q : Sản lượng tiêu thụ
- F : Định phí
- V : Biến phí một đơn vị sản phẩm
- P : Giá bán một đơn vị sản phẩm
- R : Lãi vay
*Nếu DFL cao thì rủi ro tài chính sẽ rất lớn
1.2.3.2. Đòn cân định phí
Độ nghiêng đòn cân định phí ( DOL) được xác định như sau:
Q( P − V )
DOL =
Q( P − V ) − F
Từ DCL có thể xác định sự thay đổi sản lượng hay doanh thu trên doanh lợi
vốn tự có, đồng thời cho thấy tương quan giữa đòn cân nợ và đòn cân định phí,
nếu doanh nghiệp quyết định vay nợ để đầu tư vào tài sản cố định sẽ đem đến tình
trạng rủi ro kinh doanh rất cao. Thể hiện: sự giảm sút chút ít doanh thu sẽ gây ra
sự giảm sút rất lớn về doanh lợi vốn tự có
Qua đó, doanh nghiệp có quyết định tỷ lệ sử dụng nợ ở mức độ sản xuất
nào là phù hợp nhất.
1.2.4. Phân tích điểm hoà vốn
- Khái niệm điểm hoà vốn: Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó khối lượng sản
phẩm tiêu thụ ở thị trường đạt được doanh thu đủ bù đắp toàn bộ chi phí sản xuất
kinh doanh với giá cả thị trường đã xác định trước.
Tại điểm hoà vốn, doanh nghiệp không có lãi và cũng không bị lỗ. Khi đó
lãi gộp bằng với chi phí bất biến.
Phương pháp xác định điểm hoà vốn:
CPBB
DTHV =
CPKB
1-
DTTH
( DT : Doanh thu)
1.2.5. Phân tích tỷ suất lợi nhuận:
Tổng mức lợi nhuận của doanh nghiệp ảnh hưởng bởi hai loại nhân tố:
- Chịu ảnh hưởng bởi quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quy mô sản xuất kinh doanh càng lớn thì sẽ tạo ra tổng mức lợi nhuận càng nhiều,
quy mô sản xuất kinh doanh càng nhỏ thì tạo ra tổng mức lợi nhuận càng thấp.
- Chịu ảnh hưởng bởi chất lượng công tác tổ chức quản lý kinh doanh
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có tổ chức quản lý tốt quá trình sản xuất
kinh doanh thì doanh nghiệp đó sẽ tạo ra lợi nhuận cao hơn.
Bởi vậy, để đánh giá đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
cần tính và phân tích các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số
của hai chỉ tiêu tuỳ theo mối liên hệ giữa tổng mức lợi nhuận với một chỉ tiêu có
liên quan. Do đó, có rất nhiều chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận, tuỳ theo mục đích phân
tích cụ thể, tính các tỷ suất lợi nhuận thích hợp.
1.2.5.1 Tỷ suất lợi nhuận – doanh thu (LN/DT):
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
LN
LN/DT =
DT
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng về lợi
nhuận. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
càng cao. Bởi vậy, doanh nghiệp phải nâng cao tổng mức lợi nhuận lên.
1.2.5.2. Tỷ suất lợi nhuận – giá vốn hàng bán (LN/GVHB):
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
LN
LN/GVHB =
GVHB
LN
LN/CPBH =
CPBH
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng chi ra cho khâu bán hàng thì sẽ
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, qua đó cho ta thấy phần đóng góp của chi phí bán
hàng vào doanh thu.
Việc phân tích các tỷ suất lợi nhuận phải đồng thời với việc phân
tích những nhân tố ảnh hưởng đến các tỷ suất lợi nhuận đó.
1.2.6. Chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp:
Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng cho nên phân phối lợi nhuận hợp
lý sẽ có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp ngày càng phát huy tinh thần trách
nhiệm và ý thức làm chủ của doanh nghiệp, góp phần động viên mọi người lao
động trong doanh nghiệp vì lợi ích bản thân mình, của doanh nghiệp và của xã hội
mà phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động để không
ngừng phát triển sản xuất kinh doanh.
Chính sách phân phối lợi nhuận có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp có những chính sách riêng nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của mình. Tuy nhiên phải theo quy định của Bộ tài chính.
Lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp sẽ được phân phối như sau:
- Nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước
- Nộp tiền thu về sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước
- Khấu trừ chi phí bất hợp lệ và các khoản tiền phạt.
- Trừ vào các khoản lỗ không được khấu trừ vào lợi tức trước thuế.
- Phần còn lại để trích lập các quỹ như: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự
phòng tài chính, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng và phúc
lợi….
Các quỹ này được trích lập theo quy định Thông tư 70/TCDN của Bộ Tài
Chính năm 1996. Cụ thể:
- Quỹ đầu tư phát triển: trích từ 50% trở lên, không hạn chế mức tối đa.
- Quỹ dự phòng tài chính: trích từ 10% trở lên, số dư của quỹ không vượt
quá 25% vốn điều lệ
- Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm: trích từ 5% trở lên, số dư không vượt
quá 6 tháng lương thực hiện của doanh nghiệp.
- Số lợi tức còn lại sau khi trích các quỹ trên, doanh nghiệp được trích lập
quỹ khen thưởng phúc lợi theo quy định:
+ Doanh nghiệp được trích tối đa bằng 3 tháng lương thực hiện với
điều kiện tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước (vốn Nhà nước bao gồm vốn ngân
sách do Nhà nước cấp, vốn có nguồn gốc ngân sách cấp, vốn do doanh nghiệp tự
bổ sung) dùng trong hoạt động kinh doanh năm nay không thấp hơn tỷ suất lợi
nhuận trên vốn Nhà nước năm trước.
+ Doanh nghiệp được trích tối đa bằng 2 tháng lương thực hiện nếu
tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm nay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận trên vốn
Nhà nước năm trước.
Tỷ lệ trích vào mỗi quỹ do Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc (nếu doanh
nghiệp không có Hội đồng quản trị) quyết định khi đã tham khảo ý kiến của Công
đoàn doanh nghiệp.
Trường hợp số dư các quỹ đã đạt mức tối đa, thì chuyển số lợi nhuận còn
lại vào quỹ đầu tư phát triển.
1.2.7. Ý nghĩa của việc phân tích lợi nhuận:
Quá trình hoạt động của doanh nghiệp là quá trình đan xen giữa thu nhập
và chi phí.
Để thấy được thực chất của kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là cao
hay thấp, đòi hỏi sau một kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải
tiến hành phân tích mối quan hệ giữa tổng thu nhập với tổng chi phí và mức lợi
nhuận đạt được của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là cơ sở để tính ra các chỉ tiêu chất lượng khác, nhằm đánh giá
hiệu quả của các quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá hiệu
quả sử dụng các yếu tố sản xuất vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Qua việc phân tích lợi nhuận có thể tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng
chủ yếu đến doanh lợi của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp khai thác được khả
năng tiềm tàng của doanh nghiệp trong việc phấn đấu nâng cao lợi nhuận, tăng
tích lũy cho Nhà nước và cho nhân viên của doanh nghiệp.
Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, phân tích
các nhân tố ảnh hưởng, mức độ ảnh hưởng và xu hướng tác động của từng nhân tố
đến lợi nhuận giúp doanh nghiệp đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh
tế, trên cơ sở đó đề ra các quyết định đầu tư, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh
doanh.
CHƯƠNG 2:
GIỚI THIỆU NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG
2.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHÀ MÁY
XI MĂNG AN GIANG:
Nhà máy xi măng An Giang là một trong những nhà máy được thành lập
sau ngày miền Nam giải phóng, được khởi công xây dựng từ tháng 11 năm 1978
đưa vào sản xuất cuối năm 1979. Nhà máy xi măng An Giang được đặt tại khu
vực ấp Đông Thạnh, xã Mỹ Thạnh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, với
diện tích mặt bằng chiếm 9 ha cạnh quốc lộ 91, cách trung tâm thành phố Long
Xuyên khoảng 6 km. Hàng năm nhà máy đã góp phần rất lớn trong nền kinh tế
quốc dân, cung cấp xi măng cho các công trình dân dụng và công nghiệp, xây
dựng cơ bản trong tỉnh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Sự ra đời của nhà
máy xi măng là cần thiết để cung cấp nguyên vật liệu cho công trình xây dựng,
khắc phục hậu quả chiến tranh gây ra, đồng thời phát triển kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Từ khi thành lập nhà máy xi măng An Giang hoạt động sản xuất theo chỉ
tiêu kế hoạch của tỉnh. Từ nguồn tích lũy qua nhiều năm đến tháng 4 năm 1995,
nhà máy có 4 máy nghiền (loại có công suất : 2 tấn/giờ), ba dãy nhà kho chứa
nguyên liệu và thành phẩm, một kho chứa phế liệu và sân phơi. Tuy nhiên, đây
cũng chỉ là loại máy móc cũ kỹ, hầu hết dây chuyền sản xuất thủ công là chính,
chất lượng sản phẩm không đồng đều, hiệu quả kinh tế không cao. Hằng năm, nhà
máy nhận chỉ tiêu sản xuất xi măng trên giao, nguyên liệu tự lo và chỉ sản xuất
trên dưới 5.000 tấn xi măng loại mác thấp P 300 (tương đương PC 20) tiêu thụ rất
khó khăn. Sản lượng tiêu thụ trong giai đoạn này chiếm 15% nhu cầu xây dựng cơ
bản của tỉnh An Giang.
Năm 1986, nhà máy hoạt động khá vất vả, khó khăn lớn nhất trong giai
đoạn này là nhà máy nằm trong bối cảnh cả nước tiến tới xóa bao cấp, sản xuất
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sản xuất mang tính độc lập, tự
chủ nên hoạt động của nhà máy rất bấp bênh. Năm 1995, nền công nghiệp xi
măng của tỉnh An Giang nằm trong tình trạng lạc hậu về công nghệ.
Tháng 4 năm 1995, nhà máy xi măng được sáp nhập vào Công ty Xây Lắp
An Giang. Trước yêu cầu của sự công nghiệp hóa - hiện đại hóa cùng với sự phát
triển của kinh tế thị trường, thay đổi cách nhìn và cung cách làm ăn mới, lãnh đạo
Công ty Xây Lắp xin ý kiến Tỉnh ủy - thường trực Ủy Ban Nhân Dân tỉnh và được
sự đồng ý, chỉ đạo cho Nhà máy tiến hành lập dự án đầu tư xây dựng - lắp đặt dây
chuyền nghiền hiện đại đầu tiên, hoàn thành vào tháng 5 năm 1997 có công suất
100.000 tấn/năm, nhập thiết bị Trung Quốc, tổng vốn đầu tư 7.300 triệu đồng. Với
công nghệ kỹ thuật cao, tự động hoá và định lượng hoàn toàn điều khiển bằng
máy vi tính. Cùng với sự nhiệt tình năng nổ của tập thể cán bộ công nhân viên,
nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, áp dụng nhiều sáng kiến, thay đổi mẫu mã mới, tiết
kiệm trong xây dựng, giảm chi phí đầu tư, hạ giá thành sản phẩm, quảng cáo
thương hiệu,…Sau hơn ba năm hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao,
Nhà máy đã hoàn vốn đầu tư, đồng thời đã được Trung Tâm 3 cấp dấu chứng nhận
phù hợp tiêu chuẩn quốc gia vào cuối năm 1998.
Nhà máy đã hoạt động hết công suất thiét kế nhưng cũng không đáp ứng đủ
nhu cầu tiêu thụ của xã hội, nên đầu năm 2000 lãnh đạo Công ty Xây Lắp đồng ý
cho nhà máy tiếp tục đầu tư thêm dây chuyền thứ hai (công suất 100.000
tấn/năm), về thiết bị chỉ mua máy nghiền bi, máy phân ly của Trung Quốc, một số
thiết bị còn lại như gầu nâng, sàn quay, máy đóng bao vít tải, cân băng điện
tử…nhà máy tự chế tạo và lắp đặt. Rút kinh nghiệm từ dây chuyền trước có cải
tiến máy phân ly, silô xi măng, bố trí dây chuyền hợp lý, nên giảm chi phí đầu tư
công trình gần 2.000 triệu đồng, hoàn thành đưa vào sử dụng trước thời hạn một
tháng (ngày 15/11/2000).
Phát huy hiệu quả sản xuất kinh doanh của hai dây chuyền, tháng 3 năm
2001 được sự chỉ đạo của Công ty Xây Lắp, nhà máy xi măng tiếp tục đầu tư thêm
dây chuyền thứ ba và thứ tư với công nghệ thiết bị như hai dây chuyền nêu trên,
cũng chỉ mua ống nghiền và máy phân ly còn các thiết bị khác do cán bộ công
nhân viên nhà máy chế tạo. Nhờ có kinh nghiệm trong chế tạo và lắp đặt nên tiến
độ xây dựng nhanh hơn, chi phí đầu tư giảm chỉ còn 4.500 triệu đồng (giảm 2.800
triệu đồng so với dây chuyền thứ nhất và giảm 500 triệu đồng so với dây chuyền
thứ hai). Công trình đã đưa vào sử dụng tháng 2 và tháng 12 năm 2002. Nâng tổng
công suất của nhà máy lên 400.000 tấn/năm.
2.2. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA NHÀ MÁY:
Nhà máy xi măng là đơn vị hạch toán kinh tế lý độc lập, cơ cấu bộ máy
quản lý gọn nhẹ, nhưng vẫn đảm bảo năng lực quản lý.
2.2.1 Sơ đồ tổ chức nhà máy xi măng An Giang
GIÁM ĐỐC
KẾ TOÁN PHÓ GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC PHÓ GIAM ĐỐC
TRƯỞNG KẾ HOẠCH - VẬT SẢN XUẤT KINH DOANH
TƯ - TỔ CHỨC
KIÊM NHIỆM KIÊM NHIỆM
TRƯỞNG PHÒNG ĐẠI DIỆN LÃNH
KẾ - TÀI VỤ ĐẠO
SƠ ĐỒ BỘ MÁY KẾ TOÁN
KẾ TOÁN TRƯỞNG
Bảng 2: Doanh thu và lợi nhuận qua 3 năm 2001, 2002, 2003: ĐVT: 1000 đồng
Doanh thu tiêu thụ
Trong đó: Lợi nhuận
Năm
Tổng Gia công Cung cấp trước thuế
Bán xi măng
xi măng dịch vụ
2001 71.356.982 60.251.552 11.105.430 2.954.900 7.870.350
2002 105.510.599 91.246.783 13.470.026 793.790 9.412.908
2003 133.382.281 115.063.051 17.295.991 1.023.239 12.766.851
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
CHƯƠNG 3:
PHÂN TÍCH DOANH THU VÀ LỢI NHUẬN CỦA
NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG 3 NĂM 2001, 2002, 2003
Doanh thu và lợi nhuận là các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ hoạt động. Để đạt kết quả cao nhất
trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải thường xuyên tiến hành phân
tích doanh thu và lợi nhuận. Trên cơ sở đó, đánh giá mặt mạnh, mặt yếu trong
công tác quản lý, và tìm ra biện pháp sát thực để hạn chế, khắc phục mặt yếu, tăng
cường phát huy các mặt mạnh, khai thác triệt để mọi khả năng tiềm tàng nhằm
nâng cao hiệu quả sản suất kinh doanh.
3.1. PHÂN TÍCH DOANH THU CỦA NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG
QUA 3 NĂM (2001, 2002, 2003).
3.1.1. Phân tích chung về tình hình doanh thu của nhà máy qua 3 năm
2001, 2002, 2003:
3.1.1.1. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu của
nhà máy:
Sản phẩm Nhà máy xi măng An Giang bao gồm một phần xi măng An
Giang và một phần gia công cho khách hàng. Để đánh giá tình hình thực hiện kế
hoạch doanh thu, ta lập bảng sau:
Bảng 3: Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu 3 năm 2001, 2002, 2003:
ĐVT: 1000 đồng
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
doanh
Kế Thực % thực Kế Thực % thực Kế Thực % thực
thu
hoạch hiện hiện hoạch hiện hiện hoạch hiện hiện
Xi măng
69.000.000 60.251.552 87.3% 81.700.000 91.246.783 111.7% 106.182.000 115.063.051 108.4%
An Giang
Gia công
6.500.000 11.105.430 170.9% 14.300.000 13.470.026 94.2% 22.100.000 17.295.991 78.3%
xi măng
Cung cấp
2.954.900 793.790 1.023.239
dịch vụ
Tổng 75.500.000 74.311.882 98.4% 96.000.000 105.510.599 109.9% 128.282.000 133.382.281 104.0%
(Nguồn: Kế hoạch kinh doanh và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001,2002,2003)
Bảng 4:Tình hình doanh thu thực tế qua 3 năm 2001, 2002, 2003
ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu doanh 2002/2001 2003/2002
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
thu Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
Xi măng An Giang 60.251.552 91.246.783 115.063.051 30.995.231 51,4% 23.816.268 26,1%
Gia công xi măng 11.105.430 13.470.026 17.295.991 2.364.596 21,3% 3.825.965 28,4%
Cung cấp dịch vụ 2.954.900 793.790 1.023.239 -2.161.110 -73,1% 229.449 28,9%
Tổng 74.311.882 105.510.599 133.382.281 31.198.717 42,0% 27.871.682 26,4%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
100.000 91.247
Ta có thể thấy rằng doanh thu của nhà máy đều tăng qua các năm nhưng
tốc độ tăng doanh thu giữa các năm không đều, thể hiện qua biểu đồ sau:
* Biểu đồ 2:
80.000 74.319
60.000
40.000
20.000
0
2001 2002 2003
Năm
- Đường biểu diễn doanh thu đi lên thể hiện sự gia tăng doanh thu qua các
năm. Từ năm 2001 đến năm 2002 độ dốc đường doanh thu cao do doanh thu tăng
với tốc độ 42% đến năm 2003 độ dốc giảm xuống chứng tỏ doanh thu đã tăng
chậm lại với tốc độ là 26,4%.
- So với năm 2002, năm 2003 tốc độ tăng doanh thu của gia công xi măng
và cung cấp dịch vụ đều tăng lên đáng kể. Trong khi đó sản phẩm xi măng An
Giang gặp sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, người tiêu dùng vẫn chưa mạnh
dạn sử dụng nên doanh thu do bán xi măng An Giang tăng không cao.
- Việc tốc độ tăng doanh thu do gia công xi măng tăng 7%, tốc độ tăng
doanh thu do bán xi măng giảm 25,3% đã làm cho tốc độ tăng của tổng doanh thu
chậm lại. Điều này cho thấy để đạt tốc độ tăng trưởng cao, đòi hỏi khâu tiêu thụ xi
măng An Giang phải phát huy hơn nữa.
* Với những kết quả trên, tình hình doanh thu thực tế trong 3 năm 2001,
2002, 2003 rất khả quan, nhà máy không ngừng nâng cao doanh số, mỗi năm mỗi
tăng. Ngoài doanh thu từ cung cấp dịch vụ có giảm nhưng không ảnh hưởng đáng
kể vì đây là hoạt động phát sinh thêm chiếm tỷ trọng rất nhỏ, còn doanh thu từ các
sản phẩm khác đều tăng chứng tỏ nhà máy đang phát triển với xu hướng tích cực.
3.1.1.3. Phân tích doanh thu theo khối lượng tiêu thụ:
Sản phẩm được tiêu thụ, khi đó nhà máy ghi nhận có doanh thu. Doanh thu
chính là biểu hiện bằng giá trị của sản lượng tiêu thụ.
Xét tình hình tiêu thụ của nhà máy thông qua:
Bảng 5: Khối lượng sản phẩm sản xuất, tiêu thụ năm 2001, 2002, 2003 ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 2002/2001 2003/2002
Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
Sản lượng
57.498.899 86.759.489 101.001.876 29.260.590 50,9% 14.242.387 16,4%
sản xuất
Sản lượng
57.983.941 86.662.397 99.956.798 28.678.456 49,5% 13.294.401 15,3%
tiêu thụ
(Nguồn: Bảng tồn kho thành phẩm năm 2001, 2002, 2003)
Bảng 6: Doanh thu tiêu thụ theo từng thị trường năm 2003
ĐVT: 1000 đồng
Doanh thu
Thị trường
Giá trị Tỷ lệ (%)
An Giang 44.494.882 38,67
Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long 40.456.169 35,16
Tp.Hồ Chí Minh 18.939.378 16,46
Bình Dương 5.131.812 4,46
Tây Ninh 6.040.810 5,25
Tổng 115.063.051 100
Nguồn: Bảng sản lượng tiêu thụ theo địa bàn năm 2003
Như vậy, thị trường chủ yếu vẫn là trong tỉnh nhà, tuy nhiên tỷ trọng trong
doanh thu của thị trường này đã giảm đi, đồng thời tỷ trọng của thị trường đồng
bằng sông Cửu Long tăng lên đáng kể. Tiếp đó, một thị trường đầy hứa hẹn là
thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến 16,46% trong tổng doanh thu tiêu thụ của nhà
máy.
Tóm lại, qua xem xét chỉ tiêu doanh thu ba năm gần đây, cho thấy nhà máy
xi măng An Giang có nhiều chuyển biến tích cực, doanh thu thực tế hoàn thành
được kế hoạch đề ra, và năm sau tăng hơn năm trước. Sản phẩm của nhà máy bán
ra trên thị trường ngày càng nhiều hơn. Nhà máy đang từng bước củng cố thị
trường, chiếm được thị phần khá cao trong tỉnh và trong khu vực đồng bằng sông
Cửu Long. Việc gia tăng sản lượng của nhà máy đã tác động trực tiếp đến việc gia
tăng doanh thu, đồng thời tạo thêm công ăn việc làm và sử dụng lao động hợp lý.
3.1.2. Phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh thu:
3.1.2.1. Khối lượng sản xuất và tiêu thụ:
Sản xuất và tiêu thụ là hai giai đoạn của một quá trình sản xuất kinh doanh.
Sản phẩm tiêu thụ nhanh chóng thúc đẩy sản xuất phát triển, sản phẩm sản xuất
đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường, giá thành hạ, giá bán đủ sức cạnh
tranh trên thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tiêu thụ nhanh chóng. Tiêu thụ nhanh
chóng khối lượng lớn tạo điều kiện tăng doanh thu.
- Phân tích hệ số sản xuất và tiêu thụ sản phẩm:
Hệ số tiêu thụ sản phẩm sản xuất của ba năm đều lớn hơn 1, đây là biểu
hiện rất tốt chứng tỏ nhịp điệu sản xuất của nhà máy phù hợp nhịp điệu tiêu thụ.
Nói cách khác, sản xuất bao nhiêu tiêu thụ bấy nhiêu. Điều này phản ánh sản
phẩm sản xuất ra chưa đủ đáp ứng nhu cầu tăng lên của thị trường, vì vậy nhà máy
cần mở rộng quy mô sản xuất, tăng nhanh khối lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu
xi măng cho xây dựng.
- Phân tích tình hình tồn đọng sản phẩm:
Tình hình tồn động sản phẩm được tính như sau:
Thông qua bảng 8 (trang 34), ta tính tồn kho thành phẩm của các năm
2001, 2002, 2003:
∆TK01 = 15.576 – 500.618 = -485.042 (nghìn đồng)
∆TK02 = 112.668 – 15.576 = 97.092 (nghìn đồng)
∆TK03 = 1.157.746 – 112.668 = 1.045.078 (nghìn đồng)
Từ kết quả tính toán trên cho thấy lượng tồn kho mỗi năm mỗi tăng, đây
không phải là sự yếu kém trong tiêu thụ mà là do nhà máy tăng cường sản xuất để
một mặt đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong kỳ, mặt khác dự trữ phục vụ cho tiêu thụ
sản phẩm kỳ sau. Xét cụ thể:
Bảng 8: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ 3 năm 2001, 2002, 2003 ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 2002/2001 2003/2002
Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
Tồn đầu
500.618 15.576 112.668 -485.042 -96,9% 97.092 623,3%
kỳ
Nhập
57.498.899 86.759.489 101.001.876 29.260.590 50,9% 14.242.387 16,4%
trong kỳ
Xuất
57.983.941 86.662.397 99.956.798 28.678.456 49,5% 13.294.401 15,3%
tiêu thụ
Tồn cuối
15.576 112.668 1.157.746 97.092 623,3% 1.045.078 927,6%
kỳ
(Nguồn: Tồn kho thành phẩm năm 2001, 2002, 2003)
- Năm 2001, lượng tồn kho đầu kỳ thấp, việc sản xuất nhập kho ít hơn
lượng xuất tiêu thụ làm cho lượng tồn kho cuối kỳ giảm mạnh, do đó lượng dự trữ
đầu kỳ năm 2002 giảm đến 96,9%.
- Sang năm 2002, lượng dự trữ đầu kỳ giảm nên việc sản xuất được đẩy
mạnh, cùng lúc khâu tiêu thụ cũng được tiến hành tốt, cụ thể lượng nhập trong kỳ
tăng 50,9% và lượng xuất tiêu thụ tăng 49,5%. Tuy nhiên do sản xuất nhiều hơn
tiêu thụ nên lượng tồn kho cuối kỳ tăng cao, so với lượng dự trữ khá thấp năm
2001 thì năm này tăng đến 623,3%. Nhưng lượng dự trữ này không phải là xấu vì
nhu cầu tiêu thụ đang tăng nhanh, nên phải tăng dự trữ đảm bảo cho tiêu thụ kỳ
sau.
- Năm 2003, lượng sản xuất được điều chỉnh tăng 16,4% do nhu cầu tiêu
thụ tăng, lượng tiêu thụ cũng tăng lên 15,3%. Lượng tồn kho cuối kỳ tăng rất cao
đến 927,6%.Việc tăng mạnh lượng dự trữ này do nhà máy dự đoán nhu cầu tiêu
thụ xi măng sẽ vẫn còn cao vào những năm sau nữa.
Như vậy, tình hình dự trữ là hợp lý, chẳng những đáp ứng cho yêu cầu tiêu
thụ trong kỳ mà còn đảm bảo cho kỳ sau. Nhờ đó quá trình trình tiêu thụ được liên
tục và không bị gián đoạn.
3.1.2.2. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ:
Mỗi loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường có mức chi phí, giá bán
khác nhau, do đó sự thay đổi trong kết cấu mặt hàng sản xuất sẽ ảnh hưởng đến
doanh thu. Xét cụ thể qua bảng sau:
Bảng 9: Kết cấu doanh thu năm 2001, 2002, 2003 ĐVT:1000 đồng
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Tỷ Tỷ Tỷ
doanh thu Doanh thu
trọng
Doanh thu
trọng
Doanh thu
trọng
Xi măng An Giang 60.251.552 81,1% 91.246.783 86,5% 115.063.051 86,3%
Gia công xi măng 11.105.430 14,9% 13.470.026 12,8% 17.295.991 13%
Cung cấp dịch vụ 2.954.900 4% 793.790 0,8% 1.023.239 0,8%
Tổng 74.311.882 100% 105.510.599 100% 133.382.281 100%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
Bên cạnh thu nhập của người dân, sự phát triển của ngành công nghiệp xây
dựng cũng không ngừng gia tăng:
Bảng 10: Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế tỉnh An Giang
năm 2001, 2002, 2003
Tốc độ tăng trưởng Tỷ trọng trong cơ cấu
(% GDP) kinh tế (%)
Ngành kinh tế
Năm Năm Năm Năm Năm Năm
2001 2002 2003 2001 2002 2003
Nông-Lâm-Ngư nghiệp 2,1 10,34 2,75 39,9 39,86 37,65
Công nghiệp- Xây dựng 11,65 9,62 12,77 12,2 12,53 12,73
Dịch vụ 7,04 11,02 13,58 47,9 47,61 49,62
Tổng 4,52 10,54 9,13 100 100 100
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh An Giang
Với đà phát triển mới, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh nhà có sự
thay đổi phù hợp với xu thế của thời đại, tỷ trọng của ngành Công nghiệp – Xây
dựng ngày một lớn hơn trong cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng của ngành Công
nghiệp – Xây dựng cũng tăng nhanh. Như vậy, với sự phát triển đầy hứa hẹn của
ngành Công nghiệp – Xây dựng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà máy mở rộng quy
mô sản xuất và tăng cường tiêu thụ.
Tóm lại, trong khi nhu cầu xi măng tăng mạnh, sản phẩm xi măng An
Giang được sản xuất có chất lượng cao thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn quy định
về chất lượng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu trong tỉnh và trong khu vực
đồng bằng sông Cửu Long. Điều này lý giải vì sao sản lượng tiêu thụ đều tăng qua
các năm, sản phẩm ngày càng được người tiêu dùng tín nhiệm.
Kết luận chung về tình hình doanh thu của nhà máy:
Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu của nhà máy cũng như doanh thu
thực tế đều rất khả quan. Đạt được kết quả như vậy là do nhà máy mạnh dạn đưa
dây chuyền công nghệ mới vào sản xuất, nâng cao sản lượng sản xuất, đẩy mạnh
tiêu thụ.
Qua phân tích cụ thể tình hình doanh thu của Nhà máy xi măng An Giang,
sự gia tăng doanh thu hàng năm đã chứng tỏ năng lực quản lý của nhà máy cũng
như những chủ trương, chiến lược của nhà máy hiện tại là đúng đắn và cần phát
huy hơn nữa để đạt hiệu quả kinh doanh ngày một cao hơn.
3.2. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LỢI NHUẬN CỦA NHÀ MÁY XI MĂNG AN
GIANG QUA 3 NĂM 2001, 2002, 2003:
Xét về góc độ kinh tế, lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp,
nói khác lợi nhuận là hiệu quả kinh tế trước tiên mà doanh nghiệp cần phải có.
Các doanh nghiệp luôn luôn quan tâm đến hoạt động sản xuất kinh doanh và kết
quả của hoạt động đó. Do vậy mà phân tích lợi nhuận được tiến hành thường
xuyên, cụ thể để phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp và cả những mục tiêu
kinh tế khác.
3.2.1. Phân tích chung về tình hình lợi nhuận 3 năm 2001, 2002, 2003:
Nhiệm vụ chính của nhà máy là sản xuất và gia công xi măng, Ban lãnh
đạo nhà máy đã xác định khâu tiêu thụ là then chốt vì để tồn tại và phát triển, nhà
máy phải bán được hàng hóa:”Chỉ bán cái khách hàng cần, không bán cái mà
mình sẵn có”. Sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng mới được
tiêu thụ nhiều, nhanh và sản phẩm ít bị tồn đọng. Xác định được mục tiêu và
phương kinh doanh trên, Nhà máy xi măng An Giang đã không ngừng tìm kiếm
những thông tin hữu ích, cơ hội mới, thị trường mới để qua đó tăng doanh thu và
tối đa hóa lợi nhuận
3.2.1.1. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận:
Các năm qua, nhà máy đã phấn đấu đạt lợi nhuận theo kế hoạch đề ra. Xét
cụ thể qua bảng sau:
Bảng 13: Tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận 3 năm 2001, 2002, 2003: ĐVT:1000 đồng
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Chỉ tiêu %
Kế Thực % thực Kế Thực Kế Thực % thực
thực
hoạch hiện hiện hoạch hiện hoạch hiện hiện
hiện
Tổng DT 75.500.000 74.585.703 98.8% 96.000.000 105.778.751 110.2% 128.282.000 133.382.334 104.0%
Tổng CP 67.616.000 66.715.353 98.7% 84.750.000 96.365.843 113.7% 115.385.000 120.615.483 104.5%
LNTT 7.884.000 7.870.350 99.8% 11.250.000 9.412.908 83.7% 12.897.000 12.766.851 99%
(Nguồn: Kế hoạch kinh doanh và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)
Bảng 12: Tình hình lợi nhuận thực tế năm 2001, 2002, 2003 ĐVT:1000 đồng
Tỷ Tỷ Tỷ
STT Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
trọng trọng trọng
1 Tổng DT 74.311.882 100% 105.510.599 100% 133.382.281 100%
2 GVHB 60.502.714 81,4% 87.415.653 82,9% 109.267.952 81,9%
3 LN gộp 13.809.168 18,6% 18.094.946 17,1% 24.114.329 18,1%
4 DT - HĐTC 3.765 0,0% 0 0,0% 0 0,0%
5 CP - HĐTC 550.602 0,74% 731.510 0,69% 1.328.274 1,0%
6 CPBH 2.325.432 3,1% 3.979.855 3,8% 4.817.237 3,6%
7 CPQL 3.304.369 4,4% 4.238.825 4,0% 5.202.020 3,9%
8 LN - HĐKD 7.632.530 10,3% 9.144.756 8,7% 12.766.798 9,6%
9 LN - BT 237.820 0,3% 268.152 0,3% 53 0,0%
10 LNTT 7.870.350 10,6% 9.412.908 8,9% 12.766.851 9,6%
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003
Ghi chú: Tỷ trọng của các chỉ tiêu là so với doanh thu thuần
Ta biết rằng tỷ trọng % giữa lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh
doanh trong bảng trên cũng chính là tỷ suất lợi nhuận – doanh thu tiêu thụ. Từ chỉ
tiêu này cho chúng ta thấy lợi tức năm 2001 là cao nhất, và thấp nhất vào năm
2002 do những chi phí phát sinh trong năm này rất lớn. Tỷ trọng của chi phí bán
hàng những năm sau cao hơn năm 2001, nhưng tỷ trọng chi phí quản lý lại giảm
dần qua các năm. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp đang cố gắng giảm những chi
phí không hợp lý nhất là trong khâu quản lý, bên cạnh đó tăng chi phí bán hàng
nhằm đẩy mạnh khâu tiêu thụ sản phẩm. Với những nổ lực trên, nhà máy tăng
được lợi nhuận trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Để đánh giá chung về tình hình thực hiện lợi nhuận thực tế, ta có:
Bảng 13: Tổng hợp doanh thu - chi phí - lợi nhuận 3 năm 2001, 2002, 2003
ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 2002/2001 2003/2002
Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
Tổng DT 74.585.703 105.778.751 133.382.334 31.193.048 41,8% 27.603.583 26,1%
Nhìn chung hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy qua các năm đều
có lãi, mức lãi năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể so với năm 2001, tổng doanh
thu của nhà máy tăng 31.193.048 nghìn đồng, tương ứng tăng 41,8%. Trong khi
đó chi phí tăng với tỷ lệ 44,4% tức là tăng 29.650.491 nghìn đồng, làm cho lợi
nhuận trước thuế tăng 19,6% cụ thể là tăng 1.542.557 nghìn đồng.
Năm 2003, so với năm 2002 doanh thu tiếp tục tăng lên 26,1% tương ứng
tăng 27.603.583 nghìn đồng, tổng chi phí tăng 25,2% tức là 24.249.640 nghìn
đồng, do đó lợi nhuận cũng tăng hơn 3.353.943 nghìn đồng, tỷ lệ tăng là 35,6%.
Như vậy, qua phân tích có thể thấy mức lợi nhuận mỗi năm tăng lên là do nhà
máy tăng được doanh số đồng thời tổng chi phí - xét về tỷ lệ - đã giảm xuống. Nói
cách khác, giá thành toàn bộ đơn vị sản phẩm đã giảm hơn nhiều, chính yếu tố này
đã làm cho lợi nhuận tăng lên cả về số tương đối lẫn tuyệt đối.
3.2.2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận:
3.2.2.1. Tác động của doanh thu:
Doanh thu là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp lên lợi nhuận, có tác động
cùng chiều với lợi nhuận, khi doanh thu tăng hay giảm sẽ làm lợi nhuận tăng hay
giảm theo. Doanh thu càng lớn thì lợi nhuận đạt được càng nhiều thể hiện qua chỉ
tiêu đòn bẩy hoạt động của doanh nghiệp. Đòn bẩy hoạt động chỉ cho chúng ta
thấy với một tốc độ tăng nhỏ của doanh thu sẽ tạo ra một tốc độ tăng lớn hơn về
lợi nhuận, chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Soá dö ñaûm phí (SDĐP)
Ñoøn baåy hoaït ñoäng =
(ĐBHĐ) Lôïi nhuaän (LN)
Để tính số dư đảm phí ta phải phân tổng chi phí thành chi phí khả biến và
chi phí bất biến. Tuy nhiên, để xác định chính xác mức độ hoạt động của nhà máy,
phải loại doanh thu và chi phí bất thường khỏi tổng doanh thu và tổng chi phí. Sau
đó, thực hiện theo công thức trên ta được bảng sau:
Bảng 14: Bảng tính đòn bẩy hoạt động của nhà máy 3 năm 2001, 2002, 2003
ĐVT: 1000 đồng
Số dư Đòn bẩy
Năm Chi phí Doanh thu đảm phí
Lợi nhuận
hoạt động
Bất biến Khả biến
Tổng CP (DT) (SDĐP) (LN) (ĐBHĐ)
(F) (V)
2001 4.118.834 62.564.283 66.683.117 74.315.647 11.751.364 7.632.530 1,540
2002 5.815.395 90.550.448 96.365.843 105.510.599 14.960.151 9.144.756 1,636
2003 8.157.104 112.458.379 120.615.483 133.382.281 20.923.902 12.766.798 1,639
Nguồn: Bảng chi phi và báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003
Năm 2001, đòn bẩy hoạt động của nhà máy là 1,54 nghĩa là khi doanh thu
tăng lên 10% thì lợi nhuận tăng lên 15,4%. Năm 2002, đòn bẩy hoạt động tăng lên
1,636, năm 2003 là 1,639, đòn bẩy hoạt động tăng là do nhà máy tăng sử dụng tài
sản cố định, tăng chi phí bất biến, làm số dư đảm phí tăng.
Đòn bẩy hoạt động cao là một biểu hiện tốt, tuy nhiên, khi đòn bẩy hoạt
động cao hơn nhà máy phải chịu rủi ro nhiều hơn vì lợi nhuận sẽ nhạy cảm hơn
đối với doanh thu. Nói cách khác, khi thuận lợi, doanh thu tăng thì lợi nhuận sẽ
phát triển rất nhanh và ngược lại khi doanh thu giảm lợi nhuận sẽ giảm nhanh đôi
khi nhà máy bị lỗ hoặc phá sản.
3.2.2.2. Tác động của chi phí:
Chi phí là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lợi nhuận, nó làm giảm lợi
nhuận khi phát sinh tăng và ngược lại, Trong quá trình sản xuất kinh doanh, bất kỳ
doanh nghiệp nào cũng muốn giảm thấp chi phí kinh doanh, hạ giá thành sản
phẩm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, việc giảm chi phí phải hợp lý để
tránh làm giảm chất lượng, đảm bảo được khả cạnh tranh của sản phẩm.
Từ bảng 13, ta thực hiện phương pháp so sánh qua các năm, được bảng:
Bảng 15: Bảng so sánh chênh lệch DT - CP - LN qua 3 năm
ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch Chênh lệch
STT Chỉ tiêu 2002/2001 2003/2002
Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
1 Tổng DT 31.198.717 42% 27.871.682 26,4%
2 GVHB 26.912.939 44,5% 21.852.299 25%
3 LN gộp 4.285.778 31% 6.019.383 33,3%
4 DT - HĐTC -3.765 -100% 0 0%
5 CP - HĐTC 180.908 32,9% 596.764 81,6%
6 CPBH 1.654.423 71,1% 837.382 21%
7 CPQL 934.456 28,3% 963.195 22,7%
8 LN - HĐKD 1.512.226 19,8% 3.622.042 39,6%
9 LN - Bất thường 30.331 12,8% -268.098 -99,98%
10 LN trước thuế 1.542.557 19,6% 3.353.944 35,6%
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003
Năm 2002, so với năm 2001, giá vốn hàng bán tăng 26.912.939 nghìn đồng
tương ứng tỷ lệ tăng là 44,5%, chi phí bán hàng tăng lên 1.654.423 nghìn đồng với
tỷ lệ 71,1%, chi phí quản lý tăng 934.456 nghìn đồng tương ứng 28,3%. Chi phí
hoạt động tài chính phát sinh trong năm là lãi vay, tuy nhiên các hoạt động tài
chính này nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải là
một khoản chi nhằm đem lại một khoản thu nhập riêng cho nhà máy. Về tỷ trọng,
chi phí bán hàng tăng lên do nhà máy tăng cường khuyến mãi, quảng cáo… nhằm
thúc đẩy tiêu thụ cho phù hợp với lượng sản xuất tăng trong kỳ.
Năm 2003, giá vốn hàng bán tăng 25%, tỷ lệ tăng của giá vốn giảm so với
năm 2002 chứng tỏ nhà máy đã nổ lực trong việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá
thành sản phẩm, có thể nói đây là một thành công của nhà máy trong điều kiện giá
nguyên vật liệu đang gia tăng. Chi phí bán hàng tăng 21%, chi phí quản lý tăng
22,7%, như vậy, các khoản chi phí đều tăng với tốc độ thấp hơn trước do nhà máy
đang thực hiện tiết kiệm chi phí hợp lý. Trong năm này phát sinh thêm lãi vay nên
chi phí hoạt động tài chính tăng cao làm giảm tổng lợi nhuận trước thuế.
Phân tích lợi nhuận trong mối quan hệ với doanh thu - chi phí không chỉ
giúp doanh nghiệp đánh giá tổng quát quá trình sản xuất kinh doanh, kết quả của
quá trình này và các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình lợi nhuận, mà còn phục vụ
cho các quyết định quản trị trong điều hành hiện tại và hoạch định kế hoạch cho
tương lai.
Ngoài doanh thu và chi phí, lợi nhuận còn chịu sự ảnh hưởng của các nhân
tố khác như giá bán, kết cấu các mặt hàng, chủng loại kinh doanh….Để có cái
nhìn chung về các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, ta lập bảng tổng hợp sau:
Bảng 16: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận sau thuế
năm 2002/2001
Đvt: 1000 đồng
Các nhân tố làm tăng Các nhân tố làm giảm Tổng
Chỉ tiêu hợp
Do tăng Do giảm Do tăng Do giảm
DT thuần 31.198.717
GVHB 26.912.939
DT - HĐTC 3.765
CP - HĐTC 180.908
CPBH 1.654.423
CHQL 934.456
LN bất thường 30.331
Thuế TNDN 352.838
Tổng cộng 31.229.048 30.035.564 3765 1.189.719
Tiến hành như bảng trên cho năm 2003 so với năm 2002, ta được bảng
tổng hợp sau:
Bảng 17: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận sau thuế
2003/2002
ĐVT: 1000 đồng
Các nhân tố làm tăng Các nhân tố làm giảm Tổng
Chỉ tiêu
Do tăng Do giảm Do tăng Do giảm hợp
DT thuần 27.871.682
GVHB 21.852.299
CP - HĐTC 596.764
CPBH 837.382
CHQL 963.195
LN bất thường 268.098
Thuế TNDN 817.360
Tổng cộng 27.871.682 25.067.000 268.098 2.536.584
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001,2002,2003
Trong thời gian qua, nhà máy ổn định giá bán trong khi giá nguyên vật liệu
tăng, chấp nhận lợi nhuận đạt được thấp, nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ. Nhờ vậy, doanh số tăng đảm bảo lợi
nhuận cũng tăng hơn. Trong hai năm 2002, 2003 việc tiêu thụ sản phẩm xi măng
An Giang được đẩy mạnh chứng tỏ nhà máy đang chú trọng phát triển mặt hàng
này vì lợi nhuận cao hơn gia công xi măng. Chính nhờ những biện pháp thích hợp
trong sản xuất và tiêu thụ, nhà máy đã đạt được kết quả khả quan: lợi nhuận luôn
hoàn thành kế hoạch được giao, đồng thời mức lợi nhuận và tốc độ tăng lợi nhuận
năm sau cao hơn năm trước.
3.2.3. Phân tích tác động của đòn cân nợ và đòn cân định phí lên lợi
nhuận:
Doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh phải đối mặt với nhiều
rủi ro tài chính hoặc rủi ro kinh doanh. Các rủi ro này phần nào tác động đến lợi
nhuận của doanh nghiệp. Dựa vào các công thức tính độ nghiêng đòn cân nợ, đòn
cân định phí, và đòn cân tổng hợp ta lập bảng sau:
Bảng 18 : Độ lớn các đòn cân nợ, đòn cân định phí, đòn cân tổng hợp của nhà máy qua
3 năm (2001, 2002, 2003)
ĐVT: 1000 đồng
Tổng Tổng Đòn Đòn Đòn cân
Doanh thu Tỷ lệ
Nă biến phí định phí Lãi vay cân cân tổng
(DT) tăng
m (CPKB) (CPBB) nợ định phí hợp
DCL
Q.P Q.V F R (DFL) (DOL) (DCL)
200 74.315.647 62.596.519 4.118.834 550.602 1,078 1,542 1,662
200 105.510.599 90.550.448 5.815.395 731.510 1,087 1,636 1,778 1,07
200 133.382.281 112.458.379 8.157.104 1.328.274 1,116 1,639 1,829 1,03
Nguồn: Bảng chi phi và báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003
Bảng 19: Giá trị của các chỉ tiêu tại điểm hoà vốn ĐVT: 1000đồng
Bất biến Khả biến TGHV
Năm (F) (V) DTTH DTHV DTAT
(Tháng)
2001 4.118.834 62.564.283 74.315.647 26.047.514 48.268.133 4,21
2002 5.815.395 90.550.448 105.510.599 41.014.680 64.495.919 4,66
2003 8.157.104 112.458.379 133.382.281 51.998.577 81.383.704 4,68
Thực hiện so sánh giá trị các chỉ tiêu này qua các năm ta được bảng:
Bảng 20 : Bảng so sánh giá trị của các chỉ tiêu tại điểm hoà vốn
Chênh lệch 2002/2001 Chênh lệch 2003/2002
Chỉ tiêu ĐVT
Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ
DTHV 1000 đồng 14.967.167 57,46% 10.983.897 17,03%
DTAT 1000 đồng 16.227.785 33,62% 16.887.785 26,18%
TGHV Tháng 0,46 10,91% 0,01 0,29%
Nguồn: bảng 19_ Giá trị của các chỉ tiêu tại điểm hoà vốn
Theo quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng của nhà máy, các khoản định
phí tăng cao hơn do đó làm doanh thu hoà vốn, thời gian hoà vốn, cũng tăng lên.
Qua bảng so sánh, ta thấy tỷ lệ tăng lên của các chỉ tiêu doanh thu hoà vốn, thời
gian hoà vốn năm 2003 so với 2002 thấp hơn năm 2002 so với năm 2001. Từ đó
có thể khẳng định điểm hoà vốn của nhà máy dịch chuyển đi lên mỗi năm, nhưng
đó không phải là xu hướng xấu vì hoàn toàn phù hợp với quy mô kinh doanh của
nhà máy thể hiện qua tỷ lệ tăng lên của các chỉ tiêu hoà vốn đang giảm dần khi
nhà máy đưa các dây chuyền công nghệ vào sản xuất ổn định.
Xét riêng doanh thu an toàn, vì chỉ tiêu này càng cao nhà máy càng ít rủi
ro. Qua bảng so sánh tỷ lệ tăng doanh thu an toàn giảm nghĩa là năm 2003, nhà
máy chịu rủi ro cao hơn. Nguyên nhân là do tác động của đòn cân nợ và đòn cân
định phí tăng hơn vào năm này (đã phân tích ở phần trên).
3.2.5. Đánh giá các tỷ suất lợi nhuận:
Lợi nhuận chính là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất
kinh doanh nhà máy xi măng An Giang. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chịu sự tác động
của chất lượng công tác mà còn ảnh hưởng bởi quy mô kinh doanh của nhà máy.
Vì vậy, để đánh giá đúng đắn hiệu quả kinh doanh của nhà máy, phải sử dụng và
phân tích các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận. Thực hiện các công thức tính tỷ suất lợi
nhuận, ta được bảng:
Bảng 21: Một số tỷ suất lợi nhuận năm 2001, 2002, 2003 ĐVT:1000 đồng
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Lợi nhuận (LN) 7.870.350 9.412.908 12.766.851
Doanh thu (DT) 74.311.882 105.510.599 133.382.281
Giá vốn hàng bán 60.502.714 87.415.653 109.267.952
Tổng tài sản (TTS) 25.510.701 49.985.544 50.920.963
Chi phí bán hàng (CPBH) 2.325.432 3.979.855 4.817.237
Tỷ suất LN / DT 10,59% 8,92% 9,57%
Tỷ suất LN / GVHB 13,01% 10,77% 11,68%
Tỷ suất LN / TTS 30,85% 18,83% 25,07%
Tỷ suất LN/CPBH 338,5 236,5 265
LN năm sau
+ Nhân tố DT :
DT năm sau – DT năm trước
- Tổng hợp các mức độ ảnh hưởng lên tỷ suất LN/DT cũng chính là hiệu
của tỷ suất LN/DT năm sau và tỷ suất LN/DT năm trước
- Từ các bước trên, ta lập bảng sau:
Bảng 22 : Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
đến tỷ suất LN / DT
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu
2002/2001 2003/2002
1. LN 2,1% 3,2%
2. DT -3,7% -2,5%
Tổng cộng -1,7% 0,7%
Nguồn: Bảng 21 _ Một số tỷ suất lợi nhuận năm 2001, 2002, 2003
(Ghi chú: Các bảng 20, 21, 22, 23 đều thực hiện phương pháp như trên)
Nhìn vào bảng trên, ta thấy năm 2002, tỷ suất này giảm về số tuyệt đối là
1,7% so với năm 2001 mặc dù có sự tăng lên của lợi nhuận làm cho tỷ suất tăng
lên 2,4%, nhưng sự tăng mạnh của doanh thu làm giảm tỷ suất này 3,7%. Năm
2003, cùng với lợi nhuận tăng lên 35,6% làm tăng tăng tỷ suất LN/DT 3,18%, thì
doanh thu cũng tăng 26,4% làm giảm tỷ suất này 2,53%. Kết quả là tỷ suất tăng
0,65% so với năm trước.
3.2.5.2. Tỷ suất lợi nhuận – giá vốn hàng bán (LN/GVHB)
Qua bảng 21 cho thấy, chỉ tiêu này tăng lên sau mỗi năm. Năm 2001, tỷ
suất LN/GVHB là 13%, nghĩa là trong 100 đồng chi phí bỏ ra sẽ mang về 13 đồng
lợi nhuận, năm 2002 đem lại 10,7 đồng, năm 2003 là 11,7 đồng. Sự biến động của
chỉ tiêu này là do những nguyên sau:
Bảng 23: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
đến tỷ suất LN/GVHB
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu
2002/2001 2003/2002
1. LN 2,55% 3,8%
2. GVHB -4,79% -2,9%
Tổng cộng -2,24% 0,9%
Nguồn: Bảng 21_Một số tỷ suất lợi nhuận năm 2001, 2002,
Chỉ tiêu này năm 2002 giảm hơn năm 2001 là 2,3% chủ yếu là do lợi nhuận
tăng làm tỷ suất này tăng lên 2,5%. Nhưng đồng thời giá vốn cũng tăng lên làm
cho tỷ suất LN /GVHB giảm đi 4,8%. Chỉ tiêu này năm 2003 có sự tăng nhẹ, lợi
nhuận tăng làm tỷ suất tăng 3,8%, nhưng giá vốn cũng tăng nên làm giảm tỷ suất
này 2,9%, do đó mà tỷ suất tăng lên 0,9%, Tình hình này cho thấy những chi phí
sản xuất kinh doanh năm 2002 do đầu tư vào tài sản cố định đã tăng lên đáng kể,
mang lại lợi nhuận không nhiều, sang năm 2003, nhà máy đã tiết kiệm phần nào
chi phí nên tỷ suất này bắt đầu tăng, đây là một chuyển biến tốt cần phát huy hơn
nữa.
3.2.4.3. Tỷ suất lợi nhuận – tổng tài sản (LN/TTS)
Năm 2001, tỷ suất này là 30,8%, tức là trong 100 đồng tài sản tạo ra 30,8
đồng lợi nhuận, năm 2002 chỉ còn mang lại 18,8 đồng lợi nhuận, và năm 2003 là
25,1 đồng lợi nhuận. Xét những yếu tố làm thay đổi tỷ suất này thông qua bảng
sau:
Bảng 24: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
đến tỷ suất LN /TTS
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu 2002/2001 2003/2002
1. LN 6,05% 6,71%
2. TTS -18,07% -0,47%
Tổng cộng -12,02% 6,24%
Nguồn: Bảng 21_Một số tỷ suất lợi nhuận năm 2001, 2002, 2003
So với năm 2001, năm 2002 tổng tài sản của nhà máy tăng gần gấp đôi,
chính vì vậy làm cho tỷ suất này giảm 18,1%, sự gia tăng trong lợi nhuận làm tỷ
suất này tăng lên 6,1%. Do đó, tỷ suất LN/TTS giảm đến 12%, và điều này chủ
yếu là do việc đầu tư thêm tài sản của nhà máy. Năm 2003, tài sản tăng ít nên tỷ
suất chỉ giảm 0,5%, đồng thời vì lợi nhuận tăng lên nên tỷ suất này tăng 6,7%.
Tổng hợp lại, tỷ suất LN/TTS tăng hơn năm trước 6,24%.
Bảng 26: Tình hình phân phối lợi nhuận của nhà máy
3 năm 2001, 2002, 2003
ĐVT:1000 đồng
+ Nhận xét, đánh giá hình phân phối lợi nhuận của nhà máy:
Tỷ lệ trích lập các quỹ của doanh nghiệp năm 2001, 2002 phù hợp với quy
định của Thông tư 70/TCDN của Bộ Tài Chính ngày 5/11/1996. Riêng năm 2003,
về việc trích lập Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm có sự thay đổi theo thông tư
82/2003/TT-BTC ngày 18/4/2003 như sau: mức trích lập Quỹ dự phòng từ 1% -
3% (nhà máy áp dụng tỷ lệ 2%) trên quỹ tiền lương làm cơ sở đóng tiền bảo hiển
xã hội của doanh nghiệp.
Trường hợp số dư các quỹ đều đạt mức không chế thì số lợi nhuận còn lại
được chuyển vào quỹ đầu tư phát triển.
Trong năm 2002 nhà máy trích 2 tháng lương bình quân do tỷ suất lợi
nhuận trên vốn Nhà nước năm này thấp hơn năm 2001, năm 2003 tỷ suất này lớn
hơn năm 2002, nên nhà máy được trích 3 tháng lương bình quân. Cụ thế là:
Như vậy, Nhà máy xi măng An Giang đã chấp hành tốt theo quy định của
Bộ Tài Chính về việc trích lập các quỹ. Đây cũng là một điiểm tích cực thúc đẩy
cán bộ công nhân viên nhà máy yên tâm công tác, nâng cao năng suất lao động
nhằm mang lại kết quả sản xuất kinh doanh ngày càng cao.
Ì Nh tình hình Doanh thu – Lợi nhuận của Nhà máy xi măng An Giang
qua 3 năm 2001, 2002, 2003 là rất khả quan. Ban Giám Đốc nhà máy và tập thể
cán bộ công nhân viên có mối đoàn kết tốt, biết phát huy sức mạnh nội lực, thể
hiện sự năng động sáng tạo, cải tiến quy trình công nghệ, tính toán hiệu quả sản
xuất kinh doanh, nổ lực phấn đấu thực hiện hoàn thành kế hoạch hàng năm, tăng
trưởng năm sau cao hơn năm trước. Việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng
theo ISO 9001:2000 giúp tăng uy tín chất lượng sản phẩm của nhà máy trên thị
trường, người tiêu dùng bắt đầu tín nhiệm cao, tiêu thụ xi măng khá.
Tuy nhiên, hiện nay nhà máy chưa phát huy hết công suất hoạt động trong
khi nhu cầu xi măng cho xây dựng khá cao. Nhà máy vẫn chưa làm thay đổi được
thói quen sử dụng những sản phẩm xi măng đã có từ lâu như xi măng Hà Tiên II,
xi măng Sao Mai (Holcim) của người tiêu dùng. Công tác tiêu thụ chưa được chú
trọng đúng mức, nhà máy vẫn chưa có bộ phận marketing riêng biệt. Việc quảng
cáo sản phẩm chưa được thực hiện rộng rãi…Bên cạnh đó những khó khăn khác
như: giá cả nguyên liệu tăng cao, cạnh tranh gay gắt trong tiêu thụ, tình hình ngập
lũ ảnh hưởng đến sản xuất, bảo quản và vận chuyển luôn là thách thức đối với nhà
máy…
Như vậy với xu hướng phát triển tích cực thể hiện qua các chỉ tiêu doanh
thu và lợi nhuận cho thấy khả năng mở rộng quy mô tái sản xuất kinh doanh của
nhà máy là rất cao. Mặt khác, trên cơ sở phân tích doanh thu và lợi nhuận giúp
nhà máy phát hiện ra một số hạn chế còn vướng mắc, từ đó tìm ra biện pháp khắc
phục những hạn chế trên, hướng tới mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
CHƯƠNG IV:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU LÀM TĂNG DOANH THU,
LỢI NHUẬN CỦA NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG
Trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường, nhà máy xi măng An Giang đã
không ngừng nỗ lực phấn đấu để duy trì và phát triển, ngày càng mở rộng sản xuất
kinh doanh. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng tập thể Cán bộ công nhân viên nhà
máy đã phấn đấu hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, nhà máy cũng thực
hiện tốt chủ trương chính sách của nhà nước, góp phần đóng góp ngân sách tỉnh
nhà, nâng cao đời sống cho Cán bộ công nhân viên.
Sau thời gian thực tập và tìm hiểu tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh
của nhà máy, qua phân tích tình hình doanh thu, lợi nhuận 3 năm 2001, 2002,
2003 đã cho thấy: với những kết quả hoạt động trong các năm qua, xu hướng phát
triển của nhà máy ngày càng có cơ sở để tiến nhanh, ổn định theo đà phát triển
chung của đất nước.
Dựa trên phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh thu và lợi
nhuận, em xin được đề ra một số giải pháp chủ yếu làm tăng doanh thu và lợi
nhuận của Nhà máy xi măng An Giang:
4.1. NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG DOANH THU:
Quá trình nhà máy xi măng An Giang có được doanh thu bán hàng là quá
trình xuất giao hàng cho người mua, vận chuyển và thanh toán tiền hàng. Nhằm
tăng doanh thu, trước hết phải đẩy mạnh khối lượng và tốc độ tiêu thụ, đồng thời
phải xúc tiến các chiến lược kinh doanh. Xuất phát từ nhu cầu thực tế, theo em
nhà máy cần chú trọng những vấn đề sau:
4.1.1. Đẩy nhanh tiến độ sản xuất, tăng sản lượng sản phẩm:
Sản xuất sản phẩm trước tiên phải nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường
với mục tiêu đạt được lợi nhuận tối đa. Qua phân tích tình hình doanh thu lợi
nhuận 3 năm 2001, 2002, 2003 sản lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của nhà
máy đạt khoảng 82,5% công suất thiết kế của hệ thống dây chuyền công nghệ
mới.
Hiện nay, với tốc độ đô thị hóa cao, các công trình xây dựng nâng cấp của
các tỉnh, thành phố đang được thực hiện, nhu cầu sửa chữa, xây dựng nhà ở cũng
tăng mạnh. Do đó, cùng với các vật liệu xây dựng khác, nhu cầu xi măng là rất
lớn. Nhà máy cần phát huy hơn nữa năng lực sản xuất để tăng sản lượng sản phẩm
sản xuất ra, từ đó phối hợp với công tác tiếp thị để tăng khối lượng sản phẩm tiêu
thụ.
Điều cơ bản nhất, sản xuất phải đảm bảo đúng kế hoạch sản xuất, đáp ứng
kịp thời đầy đủ cho nhu cầu tiêu thụ.
4.1.2. Đảm bảo chất lượng sản phẩm đúng tiêu chuẩn quy định:
Nhà máy sản xuất chủ yếu hai loại xi măng: xi măng Hoa Mai An Giang và
xi măng Sư Tử phù hợp với TCVN 6260:1997. Xi măng Pooclăng hỗn hợp theo
yêu cầu kỹ thuật Việt Nam (mác PC 30). Để đảm bảo chất lượng sản phẩm theo
những yêu cầu kỹ thuật, nhà máy cần tiến hành kiểm tra thử mẫu từ nguyên vật
liệu đến thành phẩm.
+ Nguyên vật liệu chính là Clinker, chất lượng Clinker phải đảm bảo
các chỉ tiêu chất lượng của Mỹ (ASTM) hoặc của Anh (BC-12-78).
+ Thành phẩm đảm bảo TCVN 6260 : 1997.
Trong quá trình sản xuất, nhà máy cần luôn luôn áp dụng những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật mới nhất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm thiểu chi
phí, tăng sản lượng để nhà máy có thể đứng vững và ngày càng phát triển trên thị
trường. Bên cạnh chất lượng xi măng, nhà máy cũng nên chú trọng đến chất luợng
bao bì. Bao bì phải có chất lượng tốt, bền, đẹp, mẫu mã ấn tượng. Từ đó, sẽ góp
phần vào việc tăng chất lượng sản phẩm, quảng bá thương hiệu sản phẩm.
4.1.3. Đẩy mạnh khâu tiêu thụ sản phẩm:
Công tác tiêu thụ sản phẩm được coi trọng hàng đầu vì chỉ khi tiêu thụ
được sản phẩm nhà máy mới có doanh thu và lợi nhuận. Nhưng hiện nay, công tác
này chưa được chú trọng đúng mức. Nhà máy chưa có đội ngũ Marketing riêng
biệt nên chưa nắm bắt kịp thời diễn biến thị trường.
Chức năng của bộ phận Marketing bao gồm việc phân tích, lập kế hoạch,
thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chương trình đã đề ra, duy trì các quan hệ
và trao đổi với khách hàng theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Với sự cần thiết
hiện nay và đặc biệt là trong hoàn cảnh nhà máy muốn vươn đến mục tiêu xuất
khẩu sang thị trường Campuchia, thì việc thành lập bộ phận Marketing là điều cần
phải làm. Nhà máy tuyển chọn một bộ phận Marketing cụ thể để thu thập thông
tin về thị trường chính xác, nhanh chóng, từ đó xúc tiến khâu sản xuất cũng như
đẩy mạnh khối lượng và tốc độ tiêu thụ tạo điều kiện tăng doanh thu.
Như vậy, mục tiêu của việc đẩy mạnh khâu tiêu thụ là phương thức kinh
doanh linh hoạt, mở thêm nhiều thị trường nhằm phục vụ thỏa mãn nhu cầu khách
hàng sao cho kinh doanh có hiệu quả và người tiêu dùng có lợi.