You are on page 1of 61

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP:

PHÂN TÍCH DOANH THU, LỢI NHUẬN


CỦA NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN SINH VIÊN THỰC HIỆN

Th.S BÙI THANH QUANG BÙI THỊ TÂM YÊN


LỚP DH1TC3

AN GIANG 04- 2004


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, dựa trên sự cố gắng rất nhiều của bản thân em,
nhưng không thể thiếu sự hỗ trợ của các thầy cô, các cô chú tại đơn vị thực tập.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn:
- Các thầy cô Trường Đại Học An Giang, đặc biệt là thầy cô khoa Kinh Tế
-Quản Trị Kinh Doanh đã trang bị cho em nền tảng kiến thức vững chắc về kinh tế
và nhiều lĩnh vực liên quan khác.
- Các thầy cô Khoa Kinh Tế - Quản Trị Kinh Doanh Trường Đại Học An
Giang, các thầy cô Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh đã truyền
dạy cho em những kiến thức chuyên sâu về ngành học Tài chính doanh nghiệp,
trong đó nổi bật lĩnh vực phân tích doanh thu, lợi nhuận thực sự hữu ích cho bản
thân.
- Thầy Bùi Thanh Quang đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em thực hiện và
hoàn thành tốt bài luận văn tốt nghiệp.
- Ban Giám Hiệu Trường đại học An Giang giới thiệu em đến cơ quan thực
tập và Ban Giám Đốc Nhà máy xi măng An Giang đã đồng ý cho em thực tập tại
nhà máy. Các cô chú, anh chị tại nhà máy, đặc biệt là cô Xuân Hoàng -Trưởng
phòng Kế toán-tài vụ, anh Bằng - Phòng Kế hoạch kinh doanh đã tận tình hướng
dẫn chỉ bảo em trong việc thu thập và phân tích số liệu.
Em xin chân thành cảm ơn và gửi đến thầy cô, các cô chú, anh chị ở nhà
máy những lời chúc tốt đẹp cả trong cuộc sống và trong công tác!
LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Thực hiện đường lối đổi mới, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể thể hiện ở tốc độ
tăng trưởng GDP hàng năm, từ đó tạo điều kiện để nước ta bước vào thời kỳ mới
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, từng bước hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đặt ra cho các doanh nghiệp
nước ta nhiều cơ hội và thách thức. Đó là cơ hội thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến, tiếp thu cách làm việc, kinh doanh, quản lý khoa học của nước
ngoài, có cơ hội đưa sản phẩm của mình đến nhiều nước trên thế giới…Mặt khác,
các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt diễn ra trên phạm vi toàn
cầu. Trong nền kinh tế thị trường, một khi không còn sự bảo hộ của Nhà nước, các
doanh nghiệp nước ta phải tự điều hành, quản lý các hoạt động sản xuất kinh
doanh một cách có hiệu quả để đứng vững trên thị trường và ngày càng phát triển.
Muốn vậy, các doanh nghiệp phải tạo được doanh thu và có lợi nhuận, đồng thời
phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá mọi diễn biến và kết quả của quá trình sản
xuất kinh doanh. Bởi vì thách thức lớn nhất hiện nay không chỉ là tăng đầu tư hay
tăng sản lượng mà là tăng cường hiệu quả kinh doanh. Như vậy, thường xuyên
quan tâm phân tích hiệu quả kinh doanh nói chung, doanh thu, lợi nhuận nói riêng
trở thành một nhu cầu thực tế cần thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào.
Trong thời gian học tập ở trường đại học, em được trang bị một nền tảng lý
thuyết về kinh tế, phương pháp phân tích kinh tế. Thời gian thực tập tại Nhà máy
xi măng An Giang, em được tiếp cận với thực tiễn sinh động ở một đơn vị sản
xuất kinh doanh ngành xi măng. Bản thân em có cố gắng nghiên cứu, tìm tòi và
nhận thấy việc phân tích doanh thu, lợi nhuận là một việc làm hết sức quan trọng
cần thiết. Bởi vì, doanh thu, lợi nhuận không chỉ phản ánh kết quả sản xuất kinh
doanh mà còn là cơ sở để tính ra các chỉ tiêu chất lượng khác nhằm đánh giá đầy
đủ hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ hoạt
động. Thông qua việc phân tích này, các nhà quản lý sẽ nắm được thực trạng của
doanh nghiệp, phát hiện những nguyên nhân và sự ảnh hưởng của các nhân tố lên
doanh thu, lợi nhuận. Từ đó, chủ động đề ra những giải pháp thích hợp khắc phục
những mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của các nhân tố ảnh hưởng và huy động
tối đa các nguồn lực nhằm làm tăng doanh thu, lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Xuất phát từ những vấn đề trên đây, em chọn đề tài:
“PHÂN TÍCH DOANH THU VÀ LỢI NHUẬN CỦA NHÀ MÁY XI
MĂNG AN GIANG”
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
- Đánh giá tình hình doanh thu và lợi nhuận đạt được của nhà máy qua 3
năm 2001, 2002, 2003.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình biến động của doanh thu
và lợi nhuận.
- Đề ra một số giải pháp nhằm tăng doanh thu, lợi nhuận để nâng cao hiệu
quả kinh doanh của nhà máy.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để phân tích doanh thu và lợi nhuận, em sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp thu thập - thống kê - tổng hợp số liệu: Trong đề tài này đòi
hỏi cần phải có những số liệu trong những năm gần đây, các số liệu được tập hợp,
thu thập từ các báo cáo, tài liệu của cơ quan thực tập, các thông tin trên báo, đài,
internet…Sau đó tiến hành thống kê, tổng hợp lại cho có hệ thống để phân tích.
- Phương pháp so sánh: Là phương pháp xem xét một chỉ tiêu dựa trên việc
so sánh với một chỉ tiêu cơ sở, qua đó xác định xu hướng biến động của chỉ tiêu
cần phân tích.
Tùy theo mục đích phân tích, tính chất và nội dung của các chỉ tiêu kinh tế
mà ta có thể sử dụng các kỹ thuật so sánh thích hợp như so sánh tuyệt đối, so sánh
tương đối.
- Phương pháp thay thế liên hoàn: Là phương pháp thay thế các nhân tố
theo một trình tự nhất định để xác định mức độ ảnh hưởng của chúng đến chỉ tiêu
phân tích. Các nhân tố này phải có quan hệ với chỉ tiêu phân tích dưới dạng tích số
hoặc thương số.
- Phương pháp liên hệ: Để lượng hóa các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu
kinh tế. Có nhiều cách liên hệ như liên hệ cân đối, liên hệ tuyến tính, liên hệ phi
tuyến…Bài viết này sử dụng phương pháp liên hệ tuyến tính là liên hệ theo một
hướng xác định giữa các chỉ tiêu. Chẳng hạn lợi nhuận có quan hệ cùng chiều với
doanh thu, giá bán… có quan hệ ngược chiều với chi phí.
- Phương pháp chi tiết: Là phương pháp phân tích các chỉ tiêu kinh tế một
cách chi tiết theo các hướng:
+ Chi tiết theo các bộ phận, hay yếu tố cấu thành của chỉ tiêu.
+ Chi tiết theo thời gian.
+ Chi tiết theo địa điểm.
Trong phạm vi bài viết này sử dụng phương pháp chi tiết theo bộ phận hay
yếu tố cấu thành.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đề tài này xin được giới hạn trong phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh
thông qua các số liệu về kết quả doanh thu tiêu thụ, lợi nhuận đạt được…của Nhà
máy xi măng An Giang.
Do thời gian thực tập ngắn ngủi và sự hạn chế của người viết, bài viết
không đi sâu vào chi tiết, chỉ đánh giá tình hình doanh thu và lợi nhuận qua số liệu
thu thập được từ các báo cáo tài chính của nhà máy. Không phân tích tất cả các
nhân tố mà chỉ phân tích một số nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình
biến động doanh thu, lợi nhuận của nhà máy. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm
tăng doanh thu, lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Số liệu phân tích được giới hạn trong 3 năm 2001, 2002, 2003.

PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH THU:
1.1.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của doanh thu:
1.1.1.1 Khái niệm:
Mục đích cuối cùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
là tiêu thụ được sản phẩm do mình sản xuất ra và có lãi. Tiêu thụ sản phẩm là quá
trình doanh nghiệp xuất giao hàng cho bên mua và nhận được tiền bán hàng theo
hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên mua bán. Kết thúc quá trình tiêu thụ doanh
nghiệp có doanh thu bán hàng.
Doanh thu hay còn gọi là thu nhập của doanh nghiệp, đó là toàn bộ số tiền
sẽ thu được do tiêu thụ sản phẩm, cung cấp lao vụ và dịch vụ của doanh nghiệp.
1.1.1.2. Nội dung của doanh thu:
Nội dung của doanh thu bao gồm hai bộ phận sau:
- Doanh thu về bán hàng: Là doanh thu về bán sản phẩm hàng hoá thuộc
những hoạt động sản xuất kinh doanh chính và doanh thu về cung cấp lao vụ, dịch
vụ cho khách hàng theo chức năng hoạt động và sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Doanh thụ từ tiêu thụ khác, bao gồm:
+ Doanh thu do liên doanh liên kết mang lại.
+ Thu nhập từ các hoạt động thuộc các nghiệp vụ tài chính như: thu
về tiền lãi gửi ngân hàng, lãi về tiền vay các đơn vị và các tổ chức khác, thu nhập
từ đầu tư cổ phiếu, trái phiếu.
+ Thu nhập bất thường như: thu từ tiền phạt, tiền bồi thường, nợ khó
đòi đã chuyển vào thiệt hại.
+ Thu nhập từ các hoạt động khác như: thu về nhượng bán, thanh lý
tài sản cố định; giá trị các vật tư, tài sản thừa trong sản xuất; thu từ bản quyền phát
minh, sáng chế; tiêu thụ những sản phẩm chế biến từ phế liệu, phế phẩm.
Để tìm hiểu rõ hơn về doanh thu, chúng ta tiếp cận một số khái niệm có liên
quan:
- Doanh thu thuần về bán hàng, cung cấp dịch vụ: Là doanh thu về bán hàng
và cung cấp dịch vụ trừ đi các khoản giảm trừ, các khoản thuế. Các khoản giảm
trừ gồm giảm giá hàng bán, hàng bán bị gửi trả lại, chiết khấu thương mại.
- Doanh thu thuần: Là doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ
cộng cho các khoản hoàn nhập như dự phòng giảm giá hàng tồn kho, phải thu nợ
khó đòi không phát sinh trong kỳ báo cáo
1.1.1.3 Vai trò của doanh thu:
Doanh thu là một chỉ tiêu quan trọng của doanh nghiệp, chỉ tiêu này không
những có ý nghĩa với bản thân doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với
nền kinh tế quốc dân.
Doanh thu bán hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn bộ doanh thu của
doanh nghiệp. Nó phản ánh quy mô của quá trình tái sản xuất, phản ánh trình độ
tổ chức chỉ đạo sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi lẽ có được doanh thu
bán hàng chứng tỏ doanh nghiệp sản xuất sản phẩm được người tiêu dùng chấp
nhận: rằng sản phẩm đó về mặt khối lượng, giá trị sử dụng, chất lượng và giá cả
đã phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng.
Doanh thu bán hàng còn là nguồn vốn quan trọng để doanh nghiệp trang
trải các khoản chi phí về tư liệu lao động, đối tượng lao động đã hao phí trong quá
trình sản xuất kinh doanh, để trả lương, thưởng cho người lao động, trích Bảo
hiểm xã hội, nộp thuế theo luật định…
Thực hiện doanh thu bán hàng là kết thúc giai đoạn cuối cùng của quá trình
chu chuyển vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất sau. Vì vậy việc
thực hiện doanh thu bán hàng có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính và quá
trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Nếu vì lý do nào đó mà doanh nghiệp sản xuất
không thực hiện được chỉ tiêu doanh thu bán hàng hoặc thực hiện chậm đều làm
cho tình hình tài chính của doanh nghiệp gặp khó khăn và ảnh hưởng đến quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu:
Doanh thu bán hàng hằng năm nhiều hay ít do nhiều nhân tố quyết định.
Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến doanh thu bán hàng là:
- Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ: Khối lượng sản phẩm sản xuất
hoặc lao vụ, dịch vụ cung ứng càng nhiều thì mức doanh thu bán hàng càng lớn.
Tuy nhiên, khối lượng sản phẩm tiêu thụ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng sản
phẩm sản xuất mà còn phụ thuộc vào tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm
như: việc ký kết hợp đồng tiêu thụ với các khách hàng, việc quảng cáo, tiếp thị,
việc xuất giao hàng, vận chuyển và thanh toán tiền hàng, giữ vững kỷ luật thanh
toán…Tất cả các việc trên nếu làm tốt đều có tác động nâng cao doanh thu bán
hàng. Việc hoàn thành kế hoạch tiêu thụ là nhân tố quan trọng quyết định doanh
thu bán hàng.
- Kết cấu mặt hàng: Khi sản xuất, có thể có những mặt hàng sản xuất tương
đối giản đơn, chi phí tương đối thấp nhưng giá bán lại tương đối cao nhưng cũng
có những mặt hàng tuy sản xuất phức tạp, chi phí sản xuất cao, giá bán lại thấp.
Do đó, việc thay đổi kết cấu mặt hàng sản xuất cũng ảnh hưởng đến doanh thu bán
hàng. Mỗi loại sản phẩm, dịch vụ cung ứng đều có tác dụng nhất định nhằm thoả
mãn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng xã hội. Vì vậy khi phấn đấu tăng doanh thu,
các doanh nghiệp phải đảm bảo thực hiện đầy đủ các hợp đồng đã ký với khách
hàng nếu không sẽ mất khách hàng, khó đứng vững trong cạnh tranh.
- Chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ được
nâng cao không những có ảnh hưởng tới giá bán mà còn ảnh hưởng tới khối lượng
tiêu thụ. Sản phẩm có chất lượng cao, giá bán sẽ cao. Nâng cao chất lượng sản
phẩm và chất lượng cung ứng dịch vụ sẽ tăng thêm giá trị sản phẩm và giá trị dịch
vụ, tạo điều kiện tiêu thụ dễ dàng, nhanh chóng thu được tiền bán hàng và tăng
doanh thu bán hàng.
- Giá bán sản phẩm: Trong trường hợp các nhân tố khác không đổi, việc
thay đổi giá bán có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng hay giảm doanh thu bán
hàng. Thông thường chỉ những sản phẩm, những công trình có tính chất chiến
lược đối với nền kinh tế quốc dân thì Nhà nước mới định giá, còn lại do quan hệ
cung cầu trên thị trường quyết định. Doanh nghiệp khi định giá bán sản phẩm
hoặc giá dịch vụ phải cân nhắc sao cho giá bán phải bù được phần tư liệu vật chất
tiêu hao, đủ trả lương cho người lao động và có lợi nhuận để thực hiện tái đầu tư.
1.1.2. Phương pháp lập kế hoạch doanh thu bán hàng:
Để lập doanh thu bán hàng có hai phương pháp:
1.1.2.1. Phương pháp lập doanh thu bán hàng theo đơn đặt hàng của
khách hàng:
Phương pháp này căn cứ vào các hợp đồng đặt hàng của khách hàng
để lập kế hoạch doanh thu bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp.
Lợi thế của phương pháp này là đảm bảo sản phẩm của doanh
nghiệp sản xuất ra sẽ tiêu thụ được hết. Phương pháp này sẽ khó thực hiện nếu
như không có đơn đặt hàng trước của khách hàng.
1.1.2.2. Lập kế hoạch doanh thu bán hàng căn cứ vào kế hoạch sản
xuất của doanh nghiệp:
Theo phương pháp này, doanh thu bán hàng phụ thuộc vào số lượng sản
phẩm tiêu thụ hoặc dịch vụ cung ứng và giá bán của đơn vị sản phẩm hoặc cước
phí của đơn vị.
Công thức tính doanh thu bán hàng như sau:

n
DT = ∑ (S
i =1
ti * Gi )
Trong đó:
- DT: là doanh thu bán hàng kỳ kế hoạch.
- S ti : Số lượng sản phẩm tiêu thụ của từng loại hoặc dịch vụ cung ứng
của từng loại trong kỳ kế hoạch.
- Gi : Giá bán đơn vị sản phẩm hoặc cước phí đơn vị.
-i : Loại sản phẩm tiêu thụ hoặc dịch vụ cung ứng tiêu thụ.
1.1.3. Ý nghĩa của việc phân tích doanh thu:
Doanh thu phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau, do đó để có thể
khai thác các tiềm năng nhằm tăng doanh thu, cần tiến hành phân tích thường
xuyên đều đặn. Việc đánh giá đúng đắn tình hình doanh thu tiêu thụ về mặt số
lượng, chất lượng và mặt hàng, đánh giá tính kịp thời của tiêu thụ giúp cho các
nhà quản lý thấy được những ưu, khuyết điểm trong quá trình thực hiện doanh thu
để có thể đề ra những nhân tố làm tăng và những nhân tố làm giảm doanh thu. Từ
đó, hạn chế, loại bỏ những nhân tố tiêu cực, đẩy nhanh hơn nữa những nhân tố
tích cực, phát huy thế mạnh của doanh nghiệp nhằm tăng doanh thu, nâng cao lợi
nhuận, vì doanh thu là nhân tố quyết định tạo ra lợi nhuận.
Doanh thu đóng vai trò quan trọng trong suốt quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Doanh thu càng lớn lợi nhuận càng cao, bởi vậy chỉ tiêu
này là cơ sở để xác định lãi, lỗ sau một quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó, đơn
vị muốn tăng lợi nhuận thì vấn đề trước tiên cần phải quan tâm đến là doanh thu.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI NHUẬN.
1.2.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của lợi nhuận:
1.2.1.1. Khái niệm:
Sau một thời gian hoạt động nhất định doanh nghiệp sẽ có thu nhập bằng
tiền. Lợi nhuận của doanh nghiệp là số chênh lệch giữa doanh thu thuần với trị giá
vốn của hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Do đó, lợi
nhuận phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý của doanh
nghiệp.
Lãi gộp là phần còn lại của doanh thu sau khi trừ chi phí khả biến, là phần
đóng góp dùng đảm bảo trang trải cho chi phí bất biến.
Lợi nhuận trước thuế: là lợi nhuận đạt được trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Lợi nhuận sau thuế: là phần còn lại sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
cho ngân sách Nhà nước, lợi nhuận sau thuế dùng để trích lập các quỹ đối với các
doanh nghiệp.
1.2.1.2. Nội dung của lợi nhuận:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tuỳ theo các lĩnh vực đầu tư khác
nhau, lợi nhuận cũng được tạo ra từ nhiều hoạt động khác nhau:
- Lợi nhuận về nghiệp vụ sản xuất kinh doanh: Là lợi nhuận có được từ hoạt
động sản xuất kinh doanh theo đúng chức năng của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận từ hoạt động liên doanh liên kết.
- Lợi nhuận về hoạt động tài chính: Là các khoản thu về lãi tiền gửi, thu lãi
bán ngoại tệ, thu từ cho thuê tài sản cố định, thu nhập từ đầu tư trái phiếu, cổ
phiếu.
- Lợi nhuận khác: Là lợi nhuận thu được từ những hoạt động bất thường hay
còn gọi là các khoản thu từ các hoạt động riêng biệt với hoạt động sản xuất kinh
doanh thông thường của đơn vị. Những khoản này thường phát sinh không đều
đặn như: Thu tiền phạt, tiền bồi thường do khách hàng vi phạm hợp đồng, thu
được các khoản nợ khó đòi mà trước đây đã chuyển vào thiệt hại, thu các khoản
nợ không xác định được chủ, các khoản lợi nhuận bị sót những năm trước nay mới
phát hiện.
1.2.1.3. Vai trò của lợi nhuận:
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh
doanh. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng, chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp, phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản sản xuất như lao động,
vật tư, tài sản cố định…
Lợi nhuận là một nguồn thu điều tiết quan trọng của Ngân sách Nhà nước,
giúp Nhà nước thực hiện các chương trình kinh tế xã hội, phát triển đất nước.
Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất và mở rộng toàn bộ nền
kinh tế quốc dân và doanh nghiệp.
Lợi nhuận được để lại doanh nghiệp thành lập các quỹ tạo điều kiện mở
rộng quy mô sản xuất, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.
Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng khuyến khích người
lao động và các đơn vị ra sức phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở của chính sách phân phối đúng đắn.
Mục đích cuối cùng của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là sản xuất kinh
doanh thật nhiều sản phẩm, đảm bảo chất lượng tiêu chuẩn theo quy định của Nhà
nước với giá thành thấp nhất và mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho doanh nghiệp,
tăng tích luỹ mở rộng sản xuất, là điều kiện cải thiện đời sống vật chất của người
lao động trong doanh nghiệp, góp phần làm giàu mạnh đất nước. Ngược lại, doanh
nghiệp kinh doanh thua lỗ sẽ dẫn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp khó
khăn, thiếu khả năng thanh toán, tình hình này kéo dài doanh nghiệp sẽ bị phá sản.
1.2.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận:
Trong quá trình hoạt động có rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan ảnh
hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Các nhân tố chủ yếu là:
- Khối lượng sản phẩm tiêu thụ: Sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp có
tiêu thụ được mới xác định được lãi hay lỗ và lãi, lỗ ở mức độ nào. Sản phẩm,
hàng hoá phải được tiêu thụ ở một số lượng nào đó sẽ có lợi nhuận, khối lượng
tiêu thụ càng nhiều thì lợi nhuận đạt được càng lớn
- Giá thành sản xuất của sản phẩm: Giá thành sản xuất có vai trò to lớn
trong chiến lược cạnh tranh về giá. Giá thành sản xuất thấp cho phép doanh
nghiệp áp dụng giá bán thấp hơn đối thủ nhưng thu được lợi nhuận cao hơn. Giá
thành sản xuất có tác động ngược chiều với lợi nhuận, nếu giá thành thấp lợi
nhuận sẽ cao hơn và ngược lại. Đối với những ngành có số lao động nhiều, chi phí
nhân công có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Hiện nay,
giá nhân công rẻ là một yếu tố thuận lợi của nước ta trong việc tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, vì có thể tiêu thụ sản phẩm với giá rẻ nhưng lợi
nhuận không giảm.
- Giá bán sản phẩm: Trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp muốn tồn
tại và phát triển thì giá bán phải tương ứng với giá trị, nghĩa là giá cả sản phẩm
phải đảm bảo bù đắp được chi phí sản xuất và phải có lợi nhuận thoả đáng để tái
đầu tư. Trong chính sách giá của doanh nghiệp, giữa giá bán và khối lượng bán có
mối quan hệ chặt chẽ, khi khối lượng hàng hoá bán tăng thì giá bán có thể giảm và
ngược lại.
- Kết cấu mặt hàng tiêu thụ: Mỗi loại sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp
có một chi phí sản xuất riêng, do đó có mức lợi nhuận riêng phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như mức độ cạnh tranh trên thị trường, giá bán, giá vốn, thuế,…rất khác
nhau. Bởi vậy, khi doanh nghiệp có cơ cấu hàng hoá kinh doanh thay đổi sẽ làm
ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Thuế suất: Thuế suất do Nhà nước quy định, những thay đổi trong chính
sách thuế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, các doanh nghiệp cần nắm bắt kịp
thời các sự thay đổi này để có những biện pháp can thiệp kịp thời đảm bảo được
lợi nhuận, hạn chế tổn thất.
1.2.2. Phương pháp tính lợi nhuận:
Có hai phương pháp tính lợi nhuận:
1.2.2.1. Phương pháp trực tiếp
Xác định lợi nhuận dựa vào công thức sau:
P = DTT – (Zsxtt + CPBH + CPQL)
Trong đó:
-P : Tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp.
- DTT : Doanh thu thuần về bán hàng và cung ứng dịch vụ.
- Zsxtt : Giá thành sản phẩm tiêu thụ.
- CPBH : Chi phí bán hàng.
- CPQL : Chi phí quản lý.
Xác định lợi nhuận theo phương pháp này dễ tính toán, đơn giản. Tuy
nhiên, nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng thì công việc tính
toán trở nên phức tạp hơn. Mặt khác, dùng phương pháp này không thấy được
những nhân tố làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Phương pháp phân tích:
Để khắc phục nhược điểm của phương pháp trực tiếp, người ta dùng
phương pháp phân tích để xác định lợi nhuận.
Công thức tính lợi nhuận theo phương pháp này như sau:
P = Pss ± Pz ± Pkc ± Pcl ± Pg ± Pđk ± Poss

Trong đó:
- Pss : Lợi nhuận sản phẩm so sánh được tính theo tỷ suất lợi nhuận
kỳ báo cáo.
- Pz : Lợi nhuận thay đổi do ảnh hưởng của nhân tố giá thành.
- Pkc : Lợi nhuận thay đổi do ảnh hưởng của nhân tố kết cấu mặt hàng.
- Pcl : Lợi nhuận thay đổi do ảnh hưởng của nhân tố chất lượng.
- Pđk : Lợi nhuận của sản phẩm kết dư đầu kỳ.
- Poss: Lợi nhuận của sản phẩm không so sánh được.
Như vậy, theo phương pháp này ta có thể biết rõ nhân tố ảnh hưởng làm
thay đổi lợi nhuận kỳ kế hoạch so với kỳ báo cáo, từ đó có các biện pháp khai thác
hoặc khắc phục nhằm tăng lợi nhuận.
Việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận là cơ sở ra quyết định
nhanh, dứt khoát về mua bán hàng hoá thích ứng với sự biến dạng của thị trường.
Dù cho dùng phương pháp nào để phân tích lợi nhuận thì mục đích chung đều là
tìm kiếm các xu hướng tăng lợi nhuận và đầu tư có lợi, khai thác các nhân tố bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp để đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận và mức độ
lợi nhuận ngày càng cao.
1.2.3. Tác động của đòn cân nợ, đòn cân định phí, và đòn cân tổng hợp
đến doanh lợi của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh luôn phải đối phó nhiều
rủi ro. Thường có hai loại rủi ro có thể gặp là: Rủi ro trong kinh doanh và rủi ro tài
chính.
Rủi ro trong kinh doanh: Là loại rủi ro tiềm tàng trong hoạt động của
doanh nghiệp sẽ không có gì chắc chắc xung quanh doanh thu và lợi nhuận của
doanh nghiệp. Chính điều này sẽ tạo ra rủi ro, thể hiện ở chổ doanh nghiệp không
tạo ra đủ số doanh thu hàng năm từ việc bán sản phẩm đạt đến mức đủ thanh toán
các định phí trong sản xuất kinh doanh.
Rủi ro tài chính: Là hậu quả của phương thức huy động nợ và nó sẽ dẫn
đến các khoản phải trả cố định. Doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác
nhau, phải đối diện với mức độ đòn bẩy hoạt động khác nhau, họ có thể thay đổi
phương thức sử dụng đòn bẩy tài chính một cách thích hợp. Một cách tổng quát,
những doanh nghiệp mà bản thân phải chịu nhiều rủi ro trong kinh doanh có
khuynh hướng sử dụng nợ ít hơn doanh nghiệp mà rủi ro kinh doanh có giới hạn.
Mặt khác những doanh nghiệp có rủi ro trong kinh doanh ít hơn có thể gặp rủi ro
tài chính cao hơn.
1.2.3.1. Đòn cân nợ:
Quá trình tài trợ bằng nợ vay tạo ra đòn cân nợ và việc trả lãi tiền vay cố
định làm thay đổi tỷ suất doanh lợi đầu tư.
Đòn cân nợ có tác động đến thu nhập và tiền lời mà chủ sở hữu nhận được.
Đòn cân nợ được tạo ra do cách thức huy động nợ, và chính cách thức huy động
nợ sẽ dẫn đến chi phí tài chính cố định.
Tỷ lệ nợ hoặc độ nghiêng đòn cân nợ càng cao thì tác động của đòn cân nợ
càng lớn. Các doanh nghiệp ít gặp rủi ro trong kinh doanh thì sẽ có khuynh hướng
sử dụng đòn cân nợ. Và ngược lại, doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro trong kinh
doanh họ sẽ ít sử dụng đòn cân nợ.
Để xác định độ nghiêng của đòn cân nợ, ta áp dụng công thức:

Q( P − V ) − F
DFL =
Q( P − V ) − F − R
- DFL : Độ nghiêng đòn cân nợ
- Q : Sản lượng tiêu thụ
- F : Định phí
- V : Biến phí một đơn vị sản phẩm
- P : Giá bán một đơn vị sản phẩm
- R : Lãi vay
*Nếu DFL cao thì rủi ro tài chính sẽ rất lớn
1.2.3.2. Đòn cân định phí
Độ nghiêng đòn cân định phí ( DOL) được xác định như sau:

Q( P − V )
DOL =
Q( P − V ) − F

*Nếu DOL cao thì rủi ro kinh doanh cũng sẽ cao.


Ngưyên nhân là do họ đã đầu tư nhiều vào tài sản cố định và có bộ máy
quản lý cồng kềnh, kết quả là định phí cao. Tốt nhất là doanh nghiệp nên chọn
DOL vừa phải.
1.2.3.3. Đòn cân tổng hợp:
Độ nghiêng đòn cân tổng hợp ký hiệu là DCL.
Tác động tổng hợp cả đòn cân định phí và đòn cân nợ chính là độ nghiêng
đòn cân tổng hợp:

DCL =DOL x DFL

Từ DCL có thể xác định sự thay đổi sản lượng hay doanh thu trên doanh lợi
vốn tự có, đồng thời cho thấy tương quan giữa đòn cân nợ và đòn cân định phí,
nếu doanh nghiệp quyết định vay nợ để đầu tư vào tài sản cố định sẽ đem đến tình
trạng rủi ro kinh doanh rất cao. Thể hiện: sự giảm sút chút ít doanh thu sẽ gây ra
sự giảm sút rất lớn về doanh lợi vốn tự có
Qua đó, doanh nghiệp có quyết định tỷ lệ sử dụng nợ ở mức độ sản xuất
nào là phù hợp nhất.
1.2.4. Phân tích điểm hoà vốn
- Khái niệm điểm hoà vốn: Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó khối lượng sản
phẩm tiêu thụ ở thị trường đạt được doanh thu đủ bù đắp toàn bộ chi phí sản xuất
kinh doanh với giá cả thị trường đã xác định trước.
Tại điểm hoà vốn, doanh nghiệp không có lãi và cũng không bị lỗ. Khi đó
lãi gộp bằng với chi phí bất biến.
Phương pháp xác định điểm hoà vốn:

CPBB
DTHV =
CPKB
1-
DTTH

- DTHV: Doanh thu hoà vốn.


- CPBB : Chi phí bất biến.
- CPKB : Chi phí khả biến.
- DTTH : Doanh thu thực hiện.
Phân tích khối lượng sản phẩm tại điểm hoà vốn là tính toán khối lượng sản
phẩm tiêu thụ và doanh thu tại điểm mà ở đó doanh nghiệp có khả năng bù đắp
được những chi phí vật chất trong quá trình sản xuất và tiêu thụ. Trên cơ sở đó,
xác định khối lượng tiêu thụ tung vào thị trường nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
- Thời gian hoà vốn: Là thời gian cần thiết để đạt được doanh thu hoà vốn
trong một kỳ kinh doanh
DTHV
TGHV = X 12
DTTH

- TGHV: Thời gian hoà vốn (tháng)


- DTTH: Doanh thu thực hiện
*Thời gian hoà vốn càng ngắn càng tốt
- Doanh thu an toàn: Là phần doanh thu vượt qua điểm hoà vốn, là phần
doanh thu bắt đầu tạo lợi nhuận cho doanh nghiệp. Doanh thu an toàn càng lớn,
điểm hoà vốn càng gần hơn, độ rủi ro giảm đi.
DT an toàn = DTTH – DTHV

( DT : Doanh thu)
1.2.5. Phân tích tỷ suất lợi nhuận:
Tổng mức lợi nhuận của doanh nghiệp ảnh hưởng bởi hai loại nhân tố:
- Chịu ảnh hưởng bởi quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quy mô sản xuất kinh doanh càng lớn thì sẽ tạo ra tổng mức lợi nhuận càng nhiều,
quy mô sản xuất kinh doanh càng nhỏ thì tạo ra tổng mức lợi nhuận càng thấp.
- Chịu ảnh hưởng bởi chất lượng công tác tổ chức quản lý kinh doanh
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có tổ chức quản lý tốt quá trình sản xuất
kinh doanh thì doanh nghiệp đó sẽ tạo ra lợi nhuận cao hơn.
Bởi vậy, để đánh giá đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
cần tính và phân tích các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số
của hai chỉ tiêu tuỳ theo mối liên hệ giữa tổng mức lợi nhuận với một chỉ tiêu có
liên quan. Do đó, có rất nhiều chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận, tuỳ theo mục đích phân
tích cụ thể, tính các tỷ suất lợi nhuận thích hợp.
1.2.5.1 Tỷ suất lợi nhuận – doanh thu (LN/DT):
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:

LN
LN/DT =
DT

Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng doanh thu thì có bao nhiêu đồng về lợi
nhuận. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
càng cao. Bởi vậy, doanh nghiệp phải nâng cao tổng mức lợi nhuận lên.
1.2.5.2. Tỷ suất lợi nhuận – giá vốn hàng bán (LN/GVHB):
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:

LN
LN/GVHB =
GVHB

(GVHB: Giá vốn hàng bán)


Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng giá vốn của sản phẩm thì sẽ tạo
ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ hiệu quả sản
suất kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn.
1.2.5.3 Tỷ suất lợi nhuận – tổng tài sản (LN/TTS):
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức:
LN
LN/TTS =
TTS

(TTS: Tổng tài sản của doanh nghiệp)


Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng tài sản dùng vào sản xuất kinh
doanh trong kỳ, thì tạo ra được bao nhiêu đồng về lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng
cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh càng lớn.
1.2.5.4 Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận - chi phí bán hàng (LN/CPBH)
Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:

LN
LN/CPBH =
CPBH

Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng chi ra cho khâu bán hàng thì sẽ
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, qua đó cho ta thấy phần đóng góp của chi phí bán
hàng vào doanh thu.
Việc phân tích các tỷ suất lợi nhuận phải đồng thời với việc phân
tích những nhân tố ảnh hưởng đến các tỷ suất lợi nhuận đó.
1.2.6. Chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp:
Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng cho nên phân phối lợi nhuận hợp
lý sẽ có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp ngày càng phát huy tinh thần trách
nhiệm và ý thức làm chủ của doanh nghiệp, góp phần động viên mọi người lao
động trong doanh nghiệp vì lợi ích bản thân mình, của doanh nghiệp và của xã hội
mà phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động để không
ngừng phát triển sản xuất kinh doanh.
Chính sách phân phối lợi nhuận có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp có những chính sách riêng nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của mình. Tuy nhiên phải theo quy định của Bộ tài chính.
Lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp sẽ được phân phối như sau:
- Nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước
- Nộp tiền thu về sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước
- Khấu trừ chi phí bất hợp lệ và các khoản tiền phạt.
- Trừ vào các khoản lỗ không được khấu trừ vào lợi tức trước thuế.
- Phần còn lại để trích lập các quỹ như: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự
phòng tài chính, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng và phúc
lợi….
Các quỹ này được trích lập theo quy định Thông tư 70/TCDN của Bộ Tài
Chính năm 1996. Cụ thể:
- Quỹ đầu tư phát triển: trích từ 50% trở lên, không hạn chế mức tối đa.
- Quỹ dự phòng tài chính: trích từ 10% trở lên, số dư của quỹ không vượt
quá 25% vốn điều lệ
- Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm: trích từ 5% trở lên, số dư không vượt
quá 6 tháng lương thực hiện của doanh nghiệp.
- Số lợi tức còn lại sau khi trích các quỹ trên, doanh nghiệp được trích lập
quỹ khen thưởng phúc lợi theo quy định:
+ Doanh nghiệp được trích tối đa bằng 3 tháng lương thực hiện với
điều kiện tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước (vốn Nhà nước bao gồm vốn ngân
sách do Nhà nước cấp, vốn có nguồn gốc ngân sách cấp, vốn do doanh nghiệp tự
bổ sung) dùng trong hoạt động kinh doanh năm nay không thấp hơn tỷ suất lợi
nhuận trên vốn Nhà nước năm trước.
+ Doanh nghiệp được trích tối đa bằng 2 tháng lương thực hiện nếu
tỷ suất lợi nhuận trên vốn Nhà nước năm nay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận trên vốn
Nhà nước năm trước.
Tỷ lệ trích vào mỗi quỹ do Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc (nếu doanh
nghiệp không có Hội đồng quản trị) quyết định khi đã tham khảo ý kiến của Công
đoàn doanh nghiệp.
Trường hợp số dư các quỹ đã đạt mức tối đa, thì chuyển số lợi nhuận còn
lại vào quỹ đầu tư phát triển.
1.2.7. Ý nghĩa của việc phân tích lợi nhuận:
Quá trình hoạt động của doanh nghiệp là quá trình đan xen giữa thu nhập
và chi phí.
Để thấy được thực chất của kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là cao
hay thấp, đòi hỏi sau một kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải
tiến hành phân tích mối quan hệ giữa tổng thu nhập với tổng chi phí và mức lợi
nhuận đạt được của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là cơ sở để tính ra các chỉ tiêu chất lượng khác, nhằm đánh giá
hiệu quả của các quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đánh giá hiệu
quả sử dụng các yếu tố sản xuất vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Qua việc phân tích lợi nhuận có thể tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng
chủ yếu đến doanh lợi của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp khai thác được khả
năng tiềm tàng của doanh nghiệp trong việc phấn đấu nâng cao lợi nhuận, tăng
tích lũy cho Nhà nước và cho nhân viên của doanh nghiệp.
Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, phân tích
các nhân tố ảnh hưởng, mức độ ảnh hưởng và xu hướng tác động của từng nhân tố
đến lợi nhuận giúp doanh nghiệp đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh
tế, trên cơ sở đó đề ra các quyết định đầu tư, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh
doanh.
CHƯƠNG 2:
GIỚI THIỆU NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG
2.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NHÀ MÁY
XI MĂNG AN GIANG:
Nhà máy xi măng An Giang là một trong những nhà máy được thành lập
sau ngày miền Nam giải phóng, được khởi công xây dựng từ tháng 11 năm 1978
đưa vào sản xuất cuối năm 1979. Nhà máy xi măng An Giang được đặt tại khu
vực ấp Đông Thạnh, xã Mỹ Thạnh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, với
diện tích mặt bằng chiếm 9 ha cạnh quốc lộ 91, cách trung tâm thành phố Long
Xuyên khoảng 6 km. Hàng năm nhà máy đã góp phần rất lớn trong nền kinh tế
quốc dân, cung cấp xi măng cho các công trình dân dụng và công nghiệp, xây
dựng cơ bản trong tỉnh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Sự ra đời của nhà
máy xi măng là cần thiết để cung cấp nguyên vật liệu cho công trình xây dựng,
khắc phục hậu quả chiến tranh gây ra, đồng thời phát triển kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Từ khi thành lập nhà máy xi măng An Giang hoạt động sản xuất theo chỉ
tiêu kế hoạch của tỉnh. Từ nguồn tích lũy qua nhiều năm đến tháng 4 năm 1995,
nhà máy có 4 máy nghiền (loại có công suất : 2 tấn/giờ), ba dãy nhà kho chứa
nguyên liệu và thành phẩm, một kho chứa phế liệu và sân phơi. Tuy nhiên, đây
cũng chỉ là loại máy móc cũ kỹ, hầu hết dây chuyền sản xuất thủ công là chính,
chất lượng sản phẩm không đồng đều, hiệu quả kinh tế không cao. Hằng năm, nhà
máy nhận chỉ tiêu sản xuất xi măng trên giao, nguyên liệu tự lo và chỉ sản xuất
trên dưới 5.000 tấn xi măng loại mác thấp P 300 (tương đương PC 20) tiêu thụ rất
khó khăn. Sản lượng tiêu thụ trong giai đoạn này chiếm 15% nhu cầu xây dựng cơ
bản của tỉnh An Giang.
Năm 1986, nhà máy hoạt động khá vất vả, khó khăn lớn nhất trong giai
đoạn này là nhà máy nằm trong bối cảnh cả nước tiến tới xóa bao cấp, sản xuất
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sản xuất mang tính độc lập, tự
chủ nên hoạt động của nhà máy rất bấp bênh. Năm 1995, nền công nghiệp xi
măng của tỉnh An Giang nằm trong tình trạng lạc hậu về công nghệ.
Tháng 4 năm 1995, nhà máy xi măng được sáp nhập vào Công ty Xây Lắp
An Giang. Trước yêu cầu của sự công nghiệp hóa - hiện đại hóa cùng với sự phát
triển của kinh tế thị trường, thay đổi cách nhìn và cung cách làm ăn mới, lãnh đạo
Công ty Xây Lắp xin ý kiến Tỉnh ủy - thường trực Ủy Ban Nhân Dân tỉnh và được
sự đồng ý, chỉ đạo cho Nhà máy tiến hành lập dự án đầu tư xây dựng - lắp đặt dây
chuyền nghiền hiện đại đầu tiên, hoàn thành vào tháng 5 năm 1997 có công suất
100.000 tấn/năm, nhập thiết bị Trung Quốc, tổng vốn đầu tư 7.300 triệu đồng. Với
công nghệ kỹ thuật cao, tự động hoá và định lượng hoàn toàn điều khiển bằng
máy vi tính. Cùng với sự nhiệt tình năng nổ của tập thể cán bộ công nhân viên,
nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, áp dụng nhiều sáng kiến, thay đổi mẫu mã mới, tiết
kiệm trong xây dựng, giảm chi phí đầu tư, hạ giá thành sản phẩm, quảng cáo
thương hiệu,…Sau hơn ba năm hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao,
Nhà máy đã hoàn vốn đầu tư, đồng thời đã được Trung Tâm 3 cấp dấu chứng nhận
phù hợp tiêu chuẩn quốc gia vào cuối năm 1998.
Nhà máy đã hoạt động hết công suất thiét kế nhưng cũng không đáp ứng đủ
nhu cầu tiêu thụ của xã hội, nên đầu năm 2000 lãnh đạo Công ty Xây Lắp đồng ý
cho nhà máy tiếp tục đầu tư thêm dây chuyền thứ hai (công suất 100.000
tấn/năm), về thiết bị chỉ mua máy nghiền bi, máy phân ly của Trung Quốc, một số
thiết bị còn lại như gầu nâng, sàn quay, máy đóng bao vít tải, cân băng điện
tử…nhà máy tự chế tạo và lắp đặt. Rút kinh nghiệm từ dây chuyền trước có cải
tiến máy phân ly, silô xi măng, bố trí dây chuyền hợp lý, nên giảm chi phí đầu tư
công trình gần 2.000 triệu đồng, hoàn thành đưa vào sử dụng trước thời hạn một
tháng (ngày 15/11/2000).
Phát huy hiệu quả sản xuất kinh doanh của hai dây chuyền, tháng 3 năm
2001 được sự chỉ đạo của Công ty Xây Lắp, nhà máy xi măng tiếp tục đầu tư thêm
dây chuyền thứ ba và thứ tư với công nghệ thiết bị như hai dây chuyền nêu trên,
cũng chỉ mua ống nghiền và máy phân ly còn các thiết bị khác do cán bộ công
nhân viên nhà máy chế tạo. Nhờ có kinh nghiệm trong chế tạo và lắp đặt nên tiến
độ xây dựng nhanh hơn, chi phí đầu tư giảm chỉ còn 4.500 triệu đồng (giảm 2.800
triệu đồng so với dây chuyền thứ nhất và giảm 500 triệu đồng so với dây chuyền
thứ hai). Công trình đã đưa vào sử dụng tháng 2 và tháng 12 năm 2002. Nâng tổng
công suất của nhà máy lên 400.000 tấn/năm.
2.2. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA NHÀ MÁY:
Nhà máy xi măng là đơn vị hạch toán kinh tế lý độc lập, cơ cấu bộ máy
quản lý gọn nhẹ, nhưng vẫn đảm bảo năng lực quản lý.
2.2.1 Sơ đồ tổ chức nhà máy xi măng An Giang
GIÁM ĐỐC

KẾ TOÁN PHÓ GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC PHÓ GIAM ĐỐC
TRƯỞNG KẾ HOẠCH - VẬT SẢN XUẤT KINH DOANH
TƯ - TỔ CHỨC
KIÊM NHIỆM KIÊM NHIỆM
TRƯỞNG PHÒNG ĐẠI DIỆN LÃNH
KẾ - TÀI VỤ ĐẠO

TRƯỞNG PHÒNG TRƯỞNG TRƯỞNG QUẢN ĐỐC QUẢN ĐỐC


TỔ CHỨC HÀNH PHÒNG PHÒNG PHÂN XƯỞNG PHÂN XƯƠNG
CHÁNH KẾ HOẠCH KỸ THUẬT - KCS CƠ ĐIỆN SẢN XUẤT

QUAN HỆ CHỈ ĐẠO - BÁO CÁO

2.2.2. Bộ máy quản lý:


- Ban Giám Đốc: gồm 01 Giám đốc và 03 Phó Giám đốc
+ Giám đốc nhà máy xi măng: là người đứng đầu và đại diện cho
cán bộ công nhân viên toàn Nhà máy, hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh,
hệ thống quản lý chất lượng đáp ứng các yêu cầu nêu trong tiêu chuẩn TCVN,
ISO 9001:2000. Phân công trách nhiệm quyền hạn và mối quan hệ của hệ thống
quản lý cho cán bộ công nhân viên. Thu nhận và cho cán bộ công nhân viên nghỉ
việc theo chế độ chính sách Nhà nước. Chịu trách nhiệm về tất cả các mặt hoạt
động sản xuất kinh doanh trước Công ty chủ quản và cấp trên.
Trợ giúp cho Giám đốc là các phó giám đốc và kế toán trưởng, gồm:
+ Phó giám đốc phụ trách kế hoạch - vật tư - tổ chức.
+ Phó giám đốc phụ trách kinh doanh, kiêm nhiệm Trưởng phòng kinh
doanh.
+ Kế toán trưởng kiêm Trưởng phòng kế toán: Là người giúp Giám đốc
kiểm tra giám sát mọi hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Giám sát việc thực
hiện pháp lệnh kế toán thống kê và điều lệ kế toán trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của Nhà máy. Liên hệ các Phó giám đốc và Trưởng các bộ phận trong công
tác nhập, xuất kho nguyên vật liệu, thành phẩm, vật tư kỹ thuật. Phối hợp với
Trưởng phòng kinh doanh trong công tác thu hồi công nợ.
- Các Phòng Ban: các Trưởng Phó phòng điều hành trực tiếp và chịu trách
nhiệm trước Giám đốc.
Nhiệm vụ của các Phòng Ban như sau:
+ Phòng tổ chức hành chánh:
Có nhiệm vụ tham mưu cho Ban giám đốc, chịu trách nhiệm trước Phó
giám đốc Kế hoạch - Vật tư - Tổ chức. Điều hành về tổ chức hành chánh, lao động
tiền lương, khen thưởng trong năm. Nghiên cứu và xây dựng mục tiêu chất lượng
về tổ chức hành chánh hàng năm trên cơ sở chính sách và mục tiêu chất lượng của
Nhà máy. Quản lý toàn bộ hồ sơ, tài liệu về tổ chức và lao động. Xây dựng kế
hoạch tuyển dụng, đào tạo cán bộ công nhân viên. Chăm lo đời sống cán bộ công
nhân viên, phục vụ khách giao dịch với Nhà máy.
+ Phòng kế hoạch, kinh doanh:
Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng tháng, quý, năm. Phân công
điều động và kiểm tra việc lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài vụ, tổ chức công
tác cung ứng nguyên vật liệu, vật tư kỹ thuật cho sản xuất. Theo dõi các hợp đồng
kinh tế, tiêu thụ sản phẩm, thống kê cập nhật chứng từ. Tham mưu cho Ban giám
đốc điều hành, phân công, cung ứng vật tư, nguyên vật liệu đảm bảo chất lượng
theo đúng quy định.
Tham mưu cho Ban giám đốc lập kế hoạch và tổ chức triển khai kế hoạch
kinh doanh hàng tháng, quý, năm. Lập mục tiêu chất lượng Phòng kinh doanh
hàng năm trên cơ sở chính sách và mục tiêu chất lượng của Nhà máy. Tổ chức tiếp
thị - quảng cáo, điều tra nghiên cứu mở rộng thị trường. Phối hợp với kế toán
trưởng về quản lý công nợ bán hàng.
+ Phòng kế toán tài vụ:
Tổ chức công tác hạch toán kế toán, tài chính, thống kê lên bảng cân đốI kế
toán, theo dõi thu chi, chứng từ, hợp đồng kinh tế, tiêu thụ sản phẩm. Bộ máy kế
toán được tổ chức tập trung, giúp công tác quản lý tài chính được quản lý chặt
chẽ. Hiện nay cơ cấu bộ máy kế toán của Nhà máy gồm:
- Kế toán trưởng kiêm kế toán tổng hợp.
- Kế toán chi tiết.
- Kế toán thanh toán.
- Thủ quỹ
Hình thức sổ kế toán áp dụng cho Nhà máy là hình thức Nhật ký chung

SƠ ĐỒ BỘ MÁY KẾ TOÁN

KẾ TOÁN TRƯỞNG

KẾ TOÁN KẾ TOÁN KẾ TOÁN THỦ QUỸ


VẬT TƯ THANH TOÁN CHI TIẾT

QUAN HỆ CHỈ ĐẠO


QUAN HỆ ĐỐI CHIẾU

+ Phòng kỹ thuật – KCS:


Điều hành phân công và kiểm tra cán bộ công nhân viên phòng kỹ thuật –
KCS thực hiện các hoạt động: Xây dựng mục tiêu chất lượng phòng kỹ thuật –
hàng năm; lập kế hoạch và thực hiện kiểm định, hiệu chuẩn, kiểm tra…Phối hợp
với phân xưởng sản xuất, phân xưởng cơ điện, kiểm tra - kiểm soát dây chuyền
công nghệ theo PC Plan ( quá trình sản xuất). Điều hành hoạt động của phòng thí
nghiệm, kiểm tra thử nghiệm nguyên vật liệu và xi măng thành phẩm theo QC
Plan ( chất lượng sản phẩm). Báo cáo trực tiếp Phó giám đốc phụ trách sản xuất.
Liên hệ các trưởng phòng khác để phối hợp công tác hàng ngày…
+ Phân xưởng cơ - điện:
Điều hành, phân công và kiểm tra cán bộ công nhân phân xưởng cơ - điện
thực hiện công tác: Quản lý, xây dựng – theo dõi kế hoạch bảo trì, bảo dưỡng sửa
chữa thiết bị; lập kế hoạch mua trang thiết bị, phụ tùng thay thế, gia công cấu
kiện; lập kế hoạch và trang bị bảo hộ lao động cho công nhân cơ - điện và nhân
viên phân xưởng; lập kế hoạch an toàn lao động vệ sinh công nghiệp, phòng
chống cháy nổ, an toàn lao động trong khi ngừng máy sửa chữa. Đề suất cải tiến
công nghệ, cải tiến hệ thống quản lý chất lượng tại phân xưởng cơ điện.
+ Phân xưởng sản xuất:
Lập mục tiêu chất lượng của phân xưởng sản xuất hàng năm trên cơ sở
chính sách mục tiêu chất lượng của Nhà máy. Điều hành, phân công và kiểm tra
cán bộ công nhân viên phân xưởng sản xuất thực hiện các hoạt động: Quản lý tổ
chức sản xuất; sản xuất sản phẩm xi măng PCB theo kế hoạch hàng tuần, hàng
tháng; theo dõi , đề nghị cấp nguyên vật liệu sản xuất; lập các lệnh sản xuất các
lệnh đóng bao, phiếu… và biên bản bàn giao sản phẩm xi măng. Phối hợp với
phòng kỹ thuật – KCS kiểm soát quá trình sản xuất (PC Plan), kiểm soát chất
lượng sản phẩm (QC PLan), kết hợp phân xưởng cơ - điện trong công tác bảo
dưỡng, sửa chữa; kiểm soát tài liệu, hồ sơ…tại phân xưởng sản xuất; xử lý sản
phẩm không phù hợp, khắc phục, phòng ngừa và cải tiến…
2.2.3. Tình hình nhân sự của Nhà máy:
Tổng số cán bộ công nhân viên của Nhà máy hiện nay là 240 người. Trong
đó: 11 nữ, Ban Giám đốc có 4 người. Trình độ đại học 15 người cao cấp chính trị
1 người, trung cấp chuyên môn và chính trị 6 người, Đảng viên 25 người.
Bảng1: Tình hình nhân sự của nhà máy năm 2003
STT Các bộ phận sản xuất Số người
1 Vận chuyển vật liệu tiêu thụ 9
2 Vận hành máy 32
3 Tổ đóng bao 112
4 Tổ phối liệu 14
5 Trưởng ca 3
6 Tổ cơ khí, điện 36
7 Phòng kỹ thuật 8
8 Quản lý gián tiếp 26
Tổng cộng 240
2.3. THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ VÀ PHƯƠNG THỨC KINH DOANH:
Hàng hóa sản xuất ra nhằm mục đích tiêu thụ được, nghĩa là được thị
trường chấp nhận. Khối lượng hàng hóa tiêu thụ càng nhiều, mức doanh thu tiêu
thụ càng lớn. Khối lượng tiêu thụ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng và chất
lượng hàng hoá sản xuất ra mà còn phụ thuộc vào công tác tổ chức tiêu thụ hàng
hóa như: việc ký kết hợp đồng bán hàng với các đại lý, với khách hàng, việc
quảng cáo, tiếp thị, việc vận chuyển hàng hóa… Những doanh nghiệp thực hiện
tốt các khâu tiêu thụ trên sẽ có được thị trường tiêu thụ rộng lớn và theo đó doanh
thu bán hàng cũng sẽ tăng lên. Mặc dù trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị
trường, hiện nay mạng lưới tiêu thụ của nhà máy xi măng An Giang rộng khắp
khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là bán cho các công trình xây dựng
trong tỉnh nhà.
Phương thức kinh doanh chủ yếu của nhà máy là bán xi măng cho các đại
lý, bên cạnh đó nhà máy cũng áp dụng phương thức bán lẻ đáp ứng nhu cầu cho
khách hàng. Chủ yếu sản phẩm bán cho đại lý theo hình thức bán gối đầu theo
từng hợp đồng cụ thể đã được ký kết trước. Thời gian thu hồi tiền bán hàng là từ
10 đến 15 ngày sau khi xuất giao hàng. Phương thức thanh toán là thu bằng tiền
mặt hoặc chuyển khoản qua ngân hàng.
Nhà máy tổ chức phân công theo dõi tình hình nợ chặt chẽ nhằm hạn chế
trường hợp bị khách hàng chiếm dụng vốn quá lâu làm ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của Nhà máy.
2.4. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA NHÀ MÁY:
2.4.1. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng Ủy, Ban Giám Đốc Công ty Xây
Lắp An Giang và các cơ quan ban ngành của Tỉnh trong việc mua vật liệu phục vụ
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm xi măng An Giang vào xây dựng các công trình
trong Tỉnh.
- Sự tham gia tích cực của toàn thể cán bộ công nhân viên Nhà máy trong
lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả,
mở rộng thị trường tiêu thụ nhiều nơi.
- Nhà máy hiện có đội ngũ cán bộ có trình độ quản lý hệ thống bảo đảm
chất lượng xi măng theo tiêu chuẩn quốc gia và dây chuyền công nghệ hiện đại
điều khiển bằng máy vi tính từ đầu vào nguyên liệu đến ra xi măng thành phẩm.
2.4.2. Khó khăn:
- Sản phẩm xi măng Hoa Mai An Giang mới tiếp cận thị trường nên người
tiêu dùng còn e dè chưa mạnh dạn sử dụng.
- Công tác tiếp thị đôi lúc chưa được thực hiện tốt khắp khu vực đồng bằng
sông Cửu Long.
2.5. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA NHÀ MÁY TRONG THỜI
GIAN QUA:
Từ khi thành lập đến nay, hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy trải
qua nhiều bước thăng trầm. Những năm trước đây, do ngành kiến thiết, xây dựng
cơ bản chưa phát triển mạnh, việc sản xuất và tiêu thụ xi măng của nhà máy tăng
chậm. Những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đang trên đường phát triển, các
chính sách kinh tế ngày một đổi mới thông thoáng hơn nhằm tạo điều kiện cho
Việt Nam hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Theo đà trên, mức
tăng trưởng của ngành công nghiệp xây dựng tăng lên đáng kể, từ đó tạo điều kiện
thuân lợi cho việc sản xuất, kinh doanh xi măng của nhà máy. Bên cạnh đó nhà
máy xi măng An Giang luôn xem việc nộp ngân sách Nhà nước là nghĩa vụ trọng
tâm hàng đầu, nhà máy luôn nộp thuế đủ, đúng hạn, không để xảy ra tình trạng nợ
thuế tồn đọng.
Trong sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, nổ lực phát huy thuận lợi, khắc
phục khó khăn, những năm qua hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy đạt
được một số kết quả sau:

Bảng 2: Doanh thu và lợi nhuận qua 3 năm 2001, 2002, 2003: ĐVT: 1000 đồng
Doanh thu tiêu thụ
Trong đó: Lợi nhuận
Năm
Tổng Gia công Cung cấp trước thuế
Bán xi măng
xi măng dịch vụ
2001 71.356.982 60.251.552 11.105.430 2.954.900 7.870.350
2002 105.510.599 91.246.783 13.470.026 793.790 9.412.908
2003 133.382.281 115.063.051 17.295.991 1.023.239 12.766.851
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)

CHƯƠNG 3:
PHÂN TÍCH DOANH THU VÀ LỢI NHUẬN CỦA
NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG 3 NĂM 2001, 2002, 2003
Doanh thu và lợi nhuận là các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ hoạt động. Để đạt kết quả cao nhất
trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải thường xuyên tiến hành phân
tích doanh thu và lợi nhuận. Trên cơ sở đó, đánh giá mặt mạnh, mặt yếu trong
công tác quản lý, và tìm ra biện pháp sát thực để hạn chế, khắc phục mặt yếu, tăng
cường phát huy các mặt mạnh, khai thác triệt để mọi khả năng tiềm tàng nhằm
nâng cao hiệu quả sản suất kinh doanh.
3.1. PHÂN TÍCH DOANH THU CỦA NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG
QUA 3 NĂM (2001, 2002, 2003).
3.1.1. Phân tích chung về tình hình doanh thu của nhà máy qua 3 năm
2001, 2002, 2003:
3.1.1.1. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu của
nhà máy:
Sản phẩm Nhà máy xi măng An Giang bao gồm một phần xi măng An
Giang và một phần gia công cho khách hàng. Để đánh giá tình hình thực hiện kế
hoạch doanh thu, ta lập bảng sau:
Bảng 3: Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu 3 năm 2001, 2002, 2003:
ĐVT: 1000 đồng
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
doanh
Kế Thực % thực Kế Thực % thực Kế Thực % thực
thu
hoạch hiện hiện hoạch hiện hiện hoạch hiện hiện
Xi măng
69.000.000 60.251.552 87.3% 81.700.000 91.246.783 111.7% 106.182.000 115.063.051 108.4%
An Giang
Gia công
6.500.000 11.105.430 170.9% 14.300.000 13.470.026 94.2% 22.100.000 17.295.991 78.3%
xi măng
Cung cấp
2.954.900 793.790 1.023.239
dịch vụ
Tổng 75.500.000 74.311.882 98.4% 96.000.000 105.510.599 109.9% 128.282.000 133.382.281 104.0%
(Nguồn: Kế hoạch kinh doanh và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001,2002,2003)

Qua số liệu bảng 3 ta thấy:


- Năm 2001, tổng doanh thu cả năm chỉ đạt 98,4% so với kế hoạch. Xét cụ
thể từng sản phẩm:
+ Xi măng An Giang: doanh thu thực hiện chỉ bằng 87,3% kế hoạch đề ra.
+ Gia công xi măng: doanh thu đạt 170,9%, vượt xa mức kế hoạch.
+ Cung cấp dịch vụ: đây là khoản phát sinh thêm khi khách hàng có nhu
cầu, nhà máy không lập kế hoạch cho hoạt động này.
Như vậy, lượng xi măng An Giang tiêu thụ thấp hơn kế hoạch đề ra, do sản
phẩm này còn mới trên thị trường, trong khi người tiêu dùng đã quen sử dụng loại
xi măng có từ lâu như xi măng Hà Tiên, xi măng Sao Mai…nên chưa mạnh dạn sử
dụng. Lượng xi măng gia công tăng nhờ chất lượng xi măng gia công tương đối
tốt.
Tuy nhiên, giá gia công xi măng thấp hơn giá bán xi măng An Giang cho nên
doanh thu gia công dù vượt kế hoạch đến 70,9% nhưng vẫn không đủ bù đắp được
phần doanh thu thiếu kế hoạch của xi măng An Giang. Mặt khác, doanh thu từ
cung cấp dịch vụ là 2.954.900 nghìn đồng đã góp phần đáng kể vào việc tăng tổng
doanh thu thực tế, nhờ đó tổng doanh thu đạt 98,4% so với kế hoạch.
- Năm 2002, tổng doanh thu của nhà máy vượt kế hoạch đề ra, đạt 109,9%.
Đạt kết quả khả quan này là do:
+ Xi măng An Giang: doanh thu đạt 111,7% kế hoạch nhờ trong
năm này nhà máy xi măng An Giang tăng sản lượng sản xuất đồng thời thực hiện
đẩy mạnh việc tuyên truyền quảng cáo sản phẩm.
+ Gia công xi măng: doanh thu năm này đạt 94,2%, thấp hơn so với
kế hoạch chút ít. Nguyên nhân là do, rút kinh nghiệm từ năm trước nhà máy đã đề
ra chỉ tiêu kế hoạch khá cao, doanh thu thực tế đạt được tỷ lệ này cho thấy nhà
máy đã nỗ lực rất nhiều để hoàn thành kế hoạch đề ra.
+ Cung cấp dịch vụ: doanh thu từ hoạt động này đạt 793.790 nghìn
đồng, tuy không nhiều nhưng đã góp phần giúp tổng doanh thu vượt mức kế
hoạch.
- Năm 2003, tổng doanh thu đạt 103,9%, vượt mức kế hoạch 3,9%. Cụ thể:
+ Xi măng An Giang: doanh thu đạt 108,4% kế hoạch.
+ Gia công xi măng: doanh thu đạt 78,3% kế hoạch.
+ Cung cấp dịch vụ: doanh thu là 1.023.239 nghìn đồng.
Doanh thu tăng hơn kế hoạch thể hiện những nỗ lực của nhà máy trong
khâu tiêu thụ sản phẩm khi mà thị trường vật liệu xây dựng luôn diễn ra sự cạnh
tranh gay gắt. Trong khi đó, do có sự thay đổi từ các đơn vị khách hàng, lượng xi
măng gia công giảm hơn kế hoạch rất nhiều. Tuy nhiên, giá bán xi măng cao hơn
giá gia công, nên với lượng vượt kế hoạch của xi măng An Giang và phần doanh
thu phát sinh từ cung cấp dịch vụ đã giúp cho tổng doanh thu kỳ thực hiện không
chỉ đạt mà còn vượt kế hoạch.
Như vậy, qua 3 năm 2001, 2002, 2003, tình hình thực hiện kế hoạch doanh
thu là khá tốt. Trừ năm 2001 doanh thu đạt xấp xỉ mức kế hoạch, các năm sau đều
vượt kế hoạch đề ra. Sở dĩ đạt được kết quả khả quan này là do nhà máy nắm bắt
được nhu cầu tăng lên không ngừng của thị trường vật liệu xây dựng, đẩy mạnh
khâu tiêu thụ như quảng cáo, khuyến mãi…Sản phẩm xi măng An Giang do nhà
máy sản xuất dần tìm được chỗ đứng trên thị trường, có khả năng cạnh tranh cùng
với các sản phẩm khác.
3.1.1.2. Đánh giá tình hình doanh thu thực tế của Nhà máy xi măng
An Giang 3 năm 2001, 2002, 2003:
Ta đánh giá tình hình doanh thu thực tế của nhà máy thông qua bảng sau:

Bảng 4:Tình hình doanh thu thực tế qua 3 năm 2001, 2002, 2003
ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu doanh 2002/2001 2003/2002
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
thu Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
Xi măng An Giang 60.251.552 91.246.783 115.063.051 30.995.231 51,4% 23.816.268 26,1%
Gia công xi măng 11.105.430 13.470.026 17.295.991 2.364.596 21,3% 3.825.965 28,4%
Cung cấp dịch vụ 2.954.900 793.790 1.023.239 -2.161.110 -73,1% 229.449 28,9%
Tổng 74.311.882 105.510.599 133.382.281 31.198.717 42,0% 27.871.682 26,4%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)

Qua số liệu bảng trên ta thấy:


- Năm 2002, doanh thu thực tế tăng 42% tương ứng với 31.198.717 nghìn
đồng so với năm 2001. Việc tăng là do:
+ Đối với sản phẩm xi măng An Giang: doanh thu năm 2002 tăng hơn năm 2001
là 30.995.231 nghìn đồng với tỷ lệ tăng là 51,4%.
+ Đối với gia công xi măng: doanh thu năm 2002 tăng hơn 2001 là
2.364.596 nghìn đồng với tỷ lệ tăng là 21,3%.
+ Về cung cấp dịch vụ: so với năm 2001, doanh thu giảm rất nhiều, tỷ lệ
giảm là 73,1% tương ứng với 2.161.110 nghìn đồng.
- Sang năm 2003, doanh thu tiếp tục tăng 27.871.682 nghìn đồng tức tăng
26,4%. Nguyên nhân là do doanh thu của các sản phẩm và dịch vụ trong năm này
đều tăng, cụ thể là:
+ Xi măng An Giang: doanh thu tăng 23.816.268 nghìn đồng, tỷ lệ là 26,1%.
+ Gia công xi măng: doanh thu tăng 3.825.965 nghìn đồng, tỷ lệ tăng 28,4%.
+ Cung cấp dịch vụ: doanh thu tăng 229.449 nghìn đồng, tỷ lệ tăng là 28,9%.
Nhìn chung, với việc tăng doanh thu hàng năm cho thấy nhà máy hoạt động
khá hiệu quả. Tất cả những kết quả trên có được là do theo đà phát triển chung của
đất nước, ngành công nghiệp xây dựng trong tỉnh và trong khu vực đồng bằng
sông Cửu Long cũng phát triển khá mạnh. Nhu cầu về sửa chữa, xây dựng các
công trình, nhà ở tăng mạnh nên cùng với các vật liệu xây dựng khác, nhu cầu về
xi măng cũng gia tăng. Mặt khác, việc tăng doanh thu của nhà máy còn do nhà
máy mạnh dạn đầu tư thiết bị công nghệ mới nâng cao trình độ đội ngũ công nhân,
thực hiện tốt công tác tiếp thị, chất lượng sản phẩm lại tương đối tốt. Như vậy, nhà
máy xi măng An Giang ngày càng khẳng định mình, tìm được chỗ đứng trên thị
trường. Biểu đồ doanh thu qua các năm cho chúng ta thấy rõ hơn nỗ lực của nhà
máy trong khâu tiêu thụ, nâng doanh số bán ngày một cao hơn:
* Biểu đồ 1:

Biểu đồ biểu diển doanh thu qua các năm


Triệu đồng
140.000
115.063
120.000

100.000 91.247

80.000 Xi măng An Giang


60.252
60.000 Gia công xi măng
40.000
Cung cấp dịch vụ
13.470 17.296
20.000 11.105
2.955 794 1.023
0
2001 2002 2003
Năm

Ta có thể thấy rằng doanh thu của nhà máy đều tăng qua các năm nhưng
tốc độ tăng doanh thu giữa các năm không đều, thể hiện qua biểu đồ sau:
* Biểu đồ 2:

Biểu đồ tốc độ tăng doanh thu 3 năm


Triệu đồng
160.000
140.000 133.382
120.000
100.000 105.511

80.000 74.319
60.000
40.000
20.000
0
2001 2002 2003
Năm

- Đường biểu diễn doanh thu đi lên thể hiện sự gia tăng doanh thu qua các
năm. Từ năm 2001 đến năm 2002 độ dốc đường doanh thu cao do doanh thu tăng
với tốc độ 42% đến năm 2003 độ dốc giảm xuống chứng tỏ doanh thu đã tăng
chậm lại với tốc độ là 26,4%.
- So với năm 2002, năm 2003 tốc độ tăng doanh thu của gia công xi măng
và cung cấp dịch vụ đều tăng lên đáng kể. Trong khi đó sản phẩm xi măng An
Giang gặp sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, người tiêu dùng vẫn chưa mạnh
dạn sử dụng nên doanh thu do bán xi măng An Giang tăng không cao.
- Việc tốc độ tăng doanh thu do gia công xi măng tăng 7%, tốc độ tăng
doanh thu do bán xi măng giảm 25,3% đã làm cho tốc độ tăng của tổng doanh thu
chậm lại. Điều này cho thấy để đạt tốc độ tăng trưởng cao, đòi hỏi khâu tiêu thụ xi
măng An Giang phải phát huy hơn nữa.
* Với những kết quả trên, tình hình doanh thu thực tế trong 3 năm 2001,
2002, 2003 rất khả quan, nhà máy không ngừng nâng cao doanh số, mỗi năm mỗi
tăng. Ngoài doanh thu từ cung cấp dịch vụ có giảm nhưng không ảnh hưởng đáng
kể vì đây là hoạt động phát sinh thêm chiếm tỷ trọng rất nhỏ, còn doanh thu từ các
sản phẩm khác đều tăng chứng tỏ nhà máy đang phát triển với xu hướng tích cực.
3.1.1.3. Phân tích doanh thu theo khối lượng tiêu thụ:
Sản phẩm được tiêu thụ, khi đó nhà máy ghi nhận có doanh thu. Doanh thu
chính là biểu hiện bằng giá trị của sản lượng tiêu thụ.
Xét tình hình tiêu thụ của nhà máy thông qua:
Bảng 5: Khối lượng sản phẩm sản xuất, tiêu thụ năm 2001, 2002, 2003 ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 2002/2001 2003/2002
Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
Sản lượng
57.498.899 86.759.489 101.001.876 29.260.590 50,9% 14.242.387 16,4%
sản xuất
Sản lượng
57.983.941 86.662.397 99.956.798 28.678.456 49,5% 13.294.401 15,3%
tiêu thụ
(Nguồn: Bảng tồn kho thành phẩm năm 2001, 2002, 2003)

Qua bảng trên ta thấy:


- Sản lượng tiêu thụ năm 2002 tăng nhiều so với năm trước. Tổng giá trị
tiêu thụ tăng là 28.678.456 nghìn đồng tỷ lệ tăng là 49,5%. Thành phẩm nhập để
tiêu thụ cũng tăng cao với giá trị tăng là 29.260.590 nghìn đồng ứng với tỷ lệ tăng
là 50,9%.
- Năm 2003, sản lượng tiêu thụ tăng hơn năm 2002 là 13.294.401nghìn
đồng tức tăng 15,3%. Sản phẩm sản xuất cũng tăng khoảng 16,4% tương ứng
14.242.387 nghìn đồng.
Như vậy sản lượng sản xuất và tiêu thụ tăng qua các năm. Sở dĩ đạt được
tình hình khả quan như trên là do nhà máy đã nắm bắt dược nhu cầu thiết yếu về
kiến thiết, xây dựng cơ bản đang phát triển mạnh, từ đó điều chỉnh kịp thời hoạt
động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, điều kiện thực tế của nhà máy thuận lợi để
tăng cường sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Do vào tháng 2 và tháng 12, nhà máy
đã chính thức đưa hai dây chuyền công nghệ mới vào sản xuất. Bên cạnh việc tăng
sản xuất, nhà máy còn mở rộng thêm một số đại lý trong và ngoài tỉnh để thúc đẩy
tiêu thụ sản phẩm. Sự thành công trong việc gia tăng sản lượng tiêu thụ, chứng tỏ
công tác tiêu thụ của nhà máy đã được tổ chức hợp lý.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm: trước đây, thị trường tiêu thụ chủ yếu của
nhà máy là tỉnh An Giang (70% sản lượng tiêu thụ là ở trong tỉnh nhà), đến nay
nhà máy đã mở rộng thị trường ra các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Do vậy, chỉ
đến năm 2003, nhà máy mới phân sản lượng tiêu thụ theo địa bàn để dễ theo dõi:

Bảng 6: Doanh thu tiêu thụ theo từng thị trường năm 2003
ĐVT: 1000 đồng
Doanh thu
Thị trường
Giá trị Tỷ lệ (%)
An Giang 44.494.882 38,67
Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long 40.456.169 35,16
Tp.Hồ Chí Minh 18.939.378 16,46
Bình Dương 5.131.812 4,46
Tây Ninh 6.040.810 5,25
Tổng 115.063.051 100
Nguồn: Bảng sản lượng tiêu thụ theo địa bàn năm 2003

Như vậy, thị trường chủ yếu vẫn là trong tỉnh nhà, tuy nhiên tỷ trọng trong
doanh thu của thị trường này đã giảm đi, đồng thời tỷ trọng của thị trường đồng
bằng sông Cửu Long tăng lên đáng kể. Tiếp đó, một thị trường đầy hứa hẹn là
thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến 16,46% trong tổng doanh thu tiêu thụ của nhà
máy.
Tóm lại, qua xem xét chỉ tiêu doanh thu ba năm gần đây, cho thấy nhà máy
xi măng An Giang có nhiều chuyển biến tích cực, doanh thu thực tế hoàn thành
được kế hoạch đề ra, và năm sau tăng hơn năm trước. Sản phẩm của nhà máy bán
ra trên thị trường ngày càng nhiều hơn. Nhà máy đang từng bước củng cố thị
trường, chiếm được thị phần khá cao trong tỉnh và trong khu vực đồng bằng sông
Cửu Long. Việc gia tăng sản lượng của nhà máy đã tác động trực tiếp đến việc gia
tăng doanh thu, đồng thời tạo thêm công ăn việc làm và sử dụng lao động hợp lý.
3.1.2. Phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh thu:
3.1.2.1. Khối lượng sản xuất và tiêu thụ:
Sản xuất và tiêu thụ là hai giai đoạn của một quá trình sản xuất kinh doanh.
Sản phẩm tiêu thụ nhanh chóng thúc đẩy sản xuất phát triển, sản phẩm sản xuất
đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị trường, giá thành hạ, giá bán đủ sức cạnh
tranh trên thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tiêu thụ nhanh chóng. Tiêu thụ nhanh
chóng khối lượng lớn tạo điều kiện tăng doanh thu.
- Phân tích hệ số sản xuất và tiêu thụ sản phẩm:

DTBH & CCDV


Hệ số tiêu thụ sản
=
phẩm sản xuất (H) Giá trị hàng hóa
sản xuất
(DTBH & CCDV: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ)
Thực hiện tính toán số liệu, ta lập bảng hệ số tiêu thụ sản phẩm sản xuất
của nhà máy 3 năm 2001, 2002, 2003:
Bảng 7: Hệ số tiêu thụ sản phẩm sản xuất ĐVT: 1000 đồng
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
DTBH & CCDV 74.311.882 105.510.599 133.382.281
Giá trị sản phẩm sản xuất 57.498.899 86.759.489 101.001.876
Hệ số tiêu thụ sản phẩm sản xuất 1,29 1,22 1,32
(Nguồn: Bảng tồn kho thành phẩm năm 2001, 2002, 2003)

Hệ số tiêu thụ sản phẩm sản xuất của ba năm đều lớn hơn 1, đây là biểu
hiện rất tốt chứng tỏ nhịp điệu sản xuất của nhà máy phù hợp nhịp điệu tiêu thụ.
Nói cách khác, sản xuất bao nhiêu tiêu thụ bấy nhiêu. Điều này phản ánh sản
phẩm sản xuất ra chưa đủ đáp ứng nhu cầu tăng lên của thị trường, vì vậy nhà máy
cần mở rộng quy mô sản xuất, tăng nhanh khối lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu
xi măng cho xây dựng.
- Phân tích tình hình tồn đọng sản phẩm:
Tình hình tồn động sản phẩm được tính như sau:

∆TK = Tồn kho cuối kỳ – tồn kho đầu kỳ

Thông qua bảng 8 (trang 34), ta tính tồn kho thành phẩm của các năm
2001, 2002, 2003:
∆TK01 = 15.576 – 500.618 = -485.042 (nghìn đồng)
∆TK02 = 112.668 – 15.576 = 97.092 (nghìn đồng)
∆TK03 = 1.157.746 – 112.668 = 1.045.078 (nghìn đồng)
Từ kết quả tính toán trên cho thấy lượng tồn kho mỗi năm mỗi tăng, đây
không phải là sự yếu kém trong tiêu thụ mà là do nhà máy tăng cường sản xuất để
một mặt đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong kỳ, mặt khác dự trữ phục vụ cho tiêu thụ
sản phẩm kỳ sau. Xét cụ thể:
Bảng 8: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ 3 năm 2001, 2002, 2003 ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 2002/2001 2003/2002
Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
Tồn đầu
500.618 15.576 112.668 -485.042 -96,9% 97.092 623,3%
kỳ
Nhập
57.498.899 86.759.489 101.001.876 29.260.590 50,9% 14.242.387 16,4%
trong kỳ
Xuất
57.983.941 86.662.397 99.956.798 28.678.456 49,5% 13.294.401 15,3%
tiêu thụ
Tồn cuối
15.576 112.668 1.157.746 97.092 623,3% 1.045.078 927,6%
kỳ
(Nguồn: Tồn kho thành phẩm năm 2001, 2002, 2003)

- Năm 2001, lượng tồn kho đầu kỳ thấp, việc sản xuất nhập kho ít hơn
lượng xuất tiêu thụ làm cho lượng tồn kho cuối kỳ giảm mạnh, do đó lượng dự trữ
đầu kỳ năm 2002 giảm đến 96,9%.
- Sang năm 2002, lượng dự trữ đầu kỳ giảm nên việc sản xuất được đẩy
mạnh, cùng lúc khâu tiêu thụ cũng được tiến hành tốt, cụ thể lượng nhập trong kỳ
tăng 50,9% và lượng xuất tiêu thụ tăng 49,5%. Tuy nhiên do sản xuất nhiều hơn
tiêu thụ nên lượng tồn kho cuối kỳ tăng cao, so với lượng dự trữ khá thấp năm
2001 thì năm này tăng đến 623,3%. Nhưng lượng dự trữ này không phải là xấu vì
nhu cầu tiêu thụ đang tăng nhanh, nên phải tăng dự trữ đảm bảo cho tiêu thụ kỳ
sau.
- Năm 2003, lượng sản xuất được điều chỉnh tăng 16,4% do nhu cầu tiêu
thụ tăng, lượng tiêu thụ cũng tăng lên 15,3%. Lượng tồn kho cuối kỳ tăng rất cao
đến 927,6%.Việc tăng mạnh lượng dự trữ này do nhà máy dự đoán nhu cầu tiêu
thụ xi măng sẽ vẫn còn cao vào những năm sau nữa.
Như vậy, tình hình dự trữ là hợp lý, chẳng những đáp ứng cho yêu cầu tiêu
thụ trong kỳ mà còn đảm bảo cho kỳ sau. Nhờ đó quá trình trình tiêu thụ được liên
tục và không bị gián đoạn.
3.1.2.2. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ:
Mỗi loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường có mức chi phí, giá bán
khác nhau, do đó sự thay đổi trong kết cấu mặt hàng sản xuất sẽ ảnh hưởng đến
doanh thu. Xét cụ thể qua bảng sau:
Bảng 9: Kết cấu doanh thu năm 2001, 2002, 2003 ĐVT:1000 đồng
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Tỷ Tỷ Tỷ
doanh thu Doanh thu
trọng
Doanh thu
trọng
Doanh thu
trọng
Xi măng An Giang 60.251.552 81,1% 91.246.783 86,5% 115.063.051 86,3%
Gia công xi măng 11.105.430 14,9% 13.470.026 12,8% 17.295.991 13%
Cung cấp dịch vụ 2.954.900 4% 793.790 0,8% 1.023.239 0,8%
Tổng 74.311.882 100% 105.510.599 100% 133.382.281 100%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)

Qua bảng trên, ta thấy doanh thu xi măng An Giang luôn


chiếm tỷ trọng rất cao, thường chiếm từ 80% trở lên trong tổng doanh thu. Tỷ
trọng doanh thu từ gia công xi măng chiếm trong khoảng 12% đến 15%. Tỷ trọng
này năm 2001 là 14,9%, giảm xuống còn 12,8% vào năm 2002, đến năm 2003
tăng lên chút ít khoảng 13%. Doanh thu cung cấp dịch vụ thường không ổn định
và không có kế hoạch nên tăng giảm không đều. Năm 2001, tỷ trọng của doanh
thu này là 4%, giảm xuống còn 0,8% vào những năm sau.
3.1.2.3. Giá cả sản phẩm:
Trong những năm gần đây, giá xi măng An Giang không có sự biến đổi nào
lớn mặc dù giá nguyên vật liệu (đặc biệt là clinker) đang gia tăng. Nhờ giữ giá ở
mức ổn định này mà nhà máy đảm bảo được khả năng cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường. Hiện nay tình hình cạnh tranh trên thị trường vật liệu xây dựng
diễn ra gay gắt, tuy là sản phẩm còn mới mẻ so với các loại xi măng có từ lâu đời
khác, nhưng với lợi thế giá thấp, xi măng An Giang chẳng những tồn tại được mà
còn ngày càng phát triển.
Giá xi măng được giữ ổn định hoặc biến động chút ít xung quanh mức giá
672.000 đồng/tấn, giá bán lẻ từ 38.000 đến 39.500 đồng/bao (bao 50 kg). So với
giá xi măng Sadico Cần Thơ là 760.000 đồng/tấn; và 45.000 đến 50.000
đồng/bao. Do chiến lược thích hợp về giá, lượng xi măng tiêu thụ ngày càng tăng,
theo đó, doanh thu của nhà máy cũng tăng qua các năm.
3.1.2.4. Yếu tố chất lượng:
Trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, nâng cao chất
lượng sản phẩm là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Bởi vậy chất lượng là yêu
cầu hết sức quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Các
tiêu chuẩn về chất lượng được quy định riêng cho từng loại sản phẩm, từng mặt
hàng cụ thể. Xi măng An Giang đáp ứng được những yêu cầu sau:
- Đạt chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN 6260 : 1997
- Được sản xuất theo hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 : 2000
Chất lượng sản phẩm chỉ bộc lộ hết khi được tiêu dùng nghĩa là được khách
hàng chấp nhận do tin tưởng vào giá trị sử dụng và thời gian sử dụng. Nâng cao
chất lượng sản phẩm, làm tăng thêm giá trị sử dụng, kéo dài thời gian sử dụng của
sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm nhằm đẩy nhanh tốc
độ chu chuyển vốn, nâng cao mức doanh lợi cho nhà máy, đồng thời giúp nhà máy
giữ vững uy tín của mình.
3.1.2.5. Ảnh hưởng của nhu cầu tiêu dùng đến doanh thu:
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng là “thượng đế”, nhu cầu tiêu dùng
của khách hàng sẽ tác dụng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Mức thu nhập của khách hàng là một yếu tố hết sức quan trọng vì để thỏa
mãn mọi nhu cầu trước hết người dân phải có thu nhập để trang trải các chi phí
phục vụ cho nhu cầu đó. Cùng với sự phát triển chung của xã hội, cuộc sống của
người dân được nâng lên đáng kể, thu nhập bình quân đầu người trong tỉnh An
Giang các năm qua đều có sự gia tăng (số liệu Cục thống kê tỉnh An Giang)
Năm 2001: GDP/người là: 4.797.000 đồng.
Năm 2002: GDP/người là: 5.407.000 đồng.
Năm 2003: GDP/người là: 6.147.000 đồng.
(Ghi chú: Số liệu năm 2003 là số ước thực hiện)
Thu nhập của người dân tăng lên, theo đó việc chi tiêu cho xây dựng cũng
gia tăng. Theo số liệu thống kê, chi tiêu của người dân dành cho nhà ở trong giai
đoạn 1997 – 1999 là 15,17% đến 2000 – 2003 là 20,5%

Bên cạnh thu nhập của người dân, sự phát triển của ngành công nghiệp xây
dựng cũng không ngừng gia tăng:
Bảng 10: Tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế tỉnh An Giang
năm 2001, 2002, 2003
Tốc độ tăng trưởng Tỷ trọng trong cơ cấu
(% GDP) kinh tế (%)
Ngành kinh tế
Năm Năm Năm Năm Năm Năm
2001 2002 2003 2001 2002 2003
Nông-Lâm-Ngư nghiệp 2,1 10,34 2,75 39,9 39,86 37,65
Công nghiệp- Xây dựng 11,65 9,62 12,77 12,2 12,53 12,73
Dịch vụ 7,04 11,02 13,58 47,9 47,61 49,62
Tổng 4,52 10,54 9,13 100 100 100
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh An Giang
Với đà phát triển mới, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh nhà có sự
thay đổi phù hợp với xu thế của thời đại, tỷ trọng của ngành Công nghiệp – Xây
dựng ngày một lớn hơn trong cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng của ngành Công
nghiệp – Xây dựng cũng tăng nhanh. Như vậy, với sự phát triển đầy hứa hẹn của
ngành Công nghiệp – Xây dựng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà máy mở rộng quy
mô sản xuất và tăng cường tiêu thụ.
Tóm lại, trong khi nhu cầu xi măng tăng mạnh, sản phẩm xi măng An
Giang được sản xuất có chất lượng cao thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn quy định
về chất lượng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu trong tỉnh và trong khu vực
đồng bằng sông Cửu Long. Điều này lý giải vì sao sản lượng tiêu thụ đều tăng qua
các năm, sản phẩm ngày càng được người tiêu dùng tín nhiệm.
 Kết luận chung về tình hình doanh thu của nhà máy:
Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu của nhà máy cũng như doanh thu
thực tế đều rất khả quan. Đạt được kết quả như vậy là do nhà máy mạnh dạn đưa
dây chuyền công nghệ mới vào sản xuất, nâng cao sản lượng sản xuất, đẩy mạnh
tiêu thụ.
Qua phân tích cụ thể tình hình doanh thu của Nhà máy xi măng An Giang,
sự gia tăng doanh thu hàng năm đã chứng tỏ năng lực quản lý của nhà máy cũng
như những chủ trương, chiến lược của nhà máy hiện tại là đúng đắn và cần phát
huy hơn nữa để đạt hiệu quả kinh doanh ngày một cao hơn.
3.2. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LỢI NHUẬN CỦA NHÀ MÁY XI MĂNG AN
GIANG QUA 3 NĂM 2001, 2002, 2003:
Xét về góc độ kinh tế, lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp,
nói khác lợi nhuận là hiệu quả kinh tế trước tiên mà doanh nghiệp cần phải có.
Các doanh nghiệp luôn luôn quan tâm đến hoạt động sản xuất kinh doanh và kết
quả của hoạt động đó. Do vậy mà phân tích lợi nhuận được tiến hành thường
xuyên, cụ thể để phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp và cả những mục tiêu
kinh tế khác.
3.2.1. Phân tích chung về tình hình lợi nhuận 3 năm 2001, 2002, 2003:
Nhiệm vụ chính của nhà máy là sản xuất và gia công xi măng, Ban lãnh
đạo nhà máy đã xác định khâu tiêu thụ là then chốt vì để tồn tại và phát triển, nhà
máy phải bán được hàng hóa:”Chỉ bán cái khách hàng cần, không bán cái mà
mình sẵn có”. Sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng mới được
tiêu thụ nhiều, nhanh và sản phẩm ít bị tồn đọng. Xác định được mục tiêu và
phương kinh doanh trên, Nhà máy xi măng An Giang đã không ngừng tìm kiếm
những thông tin hữu ích, cơ hội mới, thị trường mới để qua đó tăng doanh thu và
tối đa hóa lợi nhuận
3.2.1.1. Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận:
Các năm qua, nhà máy đã phấn đấu đạt lợi nhuận theo kế hoạch đề ra. Xét
cụ thể qua bảng sau:
Bảng 13: Tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận 3 năm 2001, 2002, 2003: ĐVT:1000 đồng
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Chỉ tiêu %
Kế Thực % thực Kế Thực Kế Thực % thực
thực
hoạch hiện hiện hoạch hiện hoạch hiện hiện
hiện
Tổng DT 75.500.000 74.585.703 98.8% 96.000.000 105.778.751 110.2% 128.282.000 133.382.334 104.0%

Tổng CP 67.616.000 66.715.353 98.7% 84.750.000 96.365.843 113.7% 115.385.000 120.615.483 104.5%

LNTT 7.884.000 7.870.350 99.8% 11.250.000 9.412.908 83.7% 12.897.000 12.766.851 99%
(Nguồn: Kế hoạch kinh doanh và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003)

Qua bảng số liệu trên, ta nhận thấy:


- Năm 2001, doanh thu và lợi nhuận đạt được có thấp hơn so với kế hoạch
đề ra nhưng không nhiều, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch của các chỉ tiêu đều xấp xỉ
100%. Sở dĩ doanh thu và lợi nhuận không đạt kế hoạch là do lượng xi măng An
Giang tiêu thụ ít trong khi lượng gia công xi măng tăng mạnh hơn so với kế hoạch
trong khi giá gia công luôn thấp hơn giá bán xi măng.
Tuy nhiên với những chỉ tiêu định sẵn, nhà máy đã cố gắng thực hiện tốt
các hợp đồng gia công, đồng thời chủ động nắm bắt thời cơ, thực hiện thêm loại
hình sản xuất kinh doanh nữa là cung cấp dịch vụ. Tổng doanh thu cung cấp dịch
vụ năm 2001 là 2.954.900 nghìn đồng. Với loại hình kinh doanh này đã góp phần
đáng kể vào thu nhập của doanh nghiệp, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
Nhìn chung, trong năm 2001, nhà máy đã hoàn thành kế hoạch về doanh
thu, lợi nhuận.
- Năm 2002, lợi nhuận không đạt được kế hoạch đề ra, mặc dù doanh thu
đạt 110,2% kế hoạch. Nguyên nhân là do trong năm này, nhà máy xây dựng và
hoàn thành hai dây chuyền công nghệ thiết bị mới đưa vào sản xuất đồng thời đẩy
mạnh khâu tiêu thụ nhờ vậy khối lượng sản xuất và tiêu thụ đều gia tăng, đồng
thời những chi phí phát sinh cũng rất cao. Doanh thu tăng hơn kế hoạch 10,2%
trong khi chi phí tăng cao đến 13,7%, vì vậy lợi nhuận chỉ đạt 83,7% kế hoạch.
- Năm 2003, so với kế hoạch đề ra doanh thu đạt 104%, chi phí tăng lên
104,5%, lợi nhuận chỉ đạt 99%. So với năm 2002, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch của
doanh thu có giảm hơn, trong khi tỷ lệ chi phí thực hiện lại thấp hơn nên tỷ lệ
hoàn thành kế hoạch lợi nhuận tăng lên chỉ kém kế hoạch 1%. Điều này chứng tỏ,
bên cạnh việc nổ lực trong khâu sản xuất và tiêu thụ, nhà máy đã giảm những
khoản chi phí không cần thiết, nhằm hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường.
- Chỉ tiêu lợi nhuận là kết quả của việc thực hiện các chỉ tiêu doanh thu và
các chi phí sản xuất kinh doanh… Nhìn chung, mức doanh thu đạt được kế hoạch
đề ra nhưng chi phí vượt so với dự tính, điều này đã làm ảnh hưởng đến lợi nhuận
của nhà máy.
3.2.1.2. Phân tích tình hình lợi nhuận thực tế qua 3 năm 2001, 2002,
2003:
Để đánh giá tình hình lợi nhuận thực tế của nhà máy qua các năm, phải đặt
lợi nhuận trong mối quan hệ với doanh thu và chi phí. Căn cứ vào số liệu báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh của nhà máy ta lập bảng phân tích lợi nhuận thông
qua phân tích các yếu tố cấu thành lợi nhuận và so sánh tỷ trọng giữa chúng với
doanh thu.
Bảng 12 sau đây cho chúng ta thấy:

Bảng 12: Tình hình lợi nhuận thực tế năm 2001, 2002, 2003 ĐVT:1000 đồng
Tỷ Tỷ Tỷ
STT Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
trọng trọng trọng
1 Tổng DT 74.311.882 100% 105.510.599 100% 133.382.281 100%
2 GVHB 60.502.714 81,4% 87.415.653 82,9% 109.267.952 81,9%
3 LN gộp 13.809.168 18,6% 18.094.946 17,1% 24.114.329 18,1%
4 DT - HĐTC 3.765 0,0% 0 0,0% 0 0,0%
5 CP - HĐTC 550.602 0,74% 731.510 0,69% 1.328.274 1,0%
6 CPBH 2.325.432 3,1% 3.979.855 3,8% 4.817.237 3,6%
7 CPQL 3.304.369 4,4% 4.238.825 4,0% 5.202.020 3,9%
8 LN - HĐKD 7.632.530 10,3% 9.144.756 8,7% 12.766.798 9,6%
9 LN - BT 237.820 0,3% 268.152 0,3% 53 0,0%
10 LNTT 7.870.350 10,6% 9.412.908 8,9% 12.766.851 9,6%
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003
Ghi chú: Tỷ trọng của các chỉ tiêu là so với doanh thu thuần

Ta biết rằng tỷ trọng % giữa lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh
doanh trong bảng trên cũng chính là tỷ suất lợi nhuận – doanh thu tiêu thụ. Từ chỉ
tiêu này cho chúng ta thấy lợi tức năm 2001 là cao nhất, và thấp nhất vào năm
2002 do những chi phí phát sinh trong năm này rất lớn. Tỷ trọng của chi phí bán
hàng những năm sau cao hơn năm 2001, nhưng tỷ trọng chi phí quản lý lại giảm
dần qua các năm. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp đang cố gắng giảm những chi
phí không hợp lý nhất là trong khâu quản lý, bên cạnh đó tăng chi phí bán hàng
nhằm đẩy mạnh khâu tiêu thụ sản phẩm. Với những nổ lực trên, nhà máy tăng
được lợi nhuận trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
 Để đánh giá chung về tình hình thực hiện lợi nhuận thực tế, ta có:
Bảng 13: Tổng hợp doanh thu - chi phí - lợi nhuận 3 năm 2001, 2002, 2003
ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 2002/2001 2003/2002
Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
Tổng DT 74.585.703 105.778.751 133.382.334 31.193.048 41,8% 27.603.583 26,1%

Tổng CP 66.715.352 96.365.843 120.615.483 29.650.491 44,4% 24.249.640 25,2%


LN trước
thuế 7.870.350 9.412.908 12.766.851 1.542.557 19,6% 3.353.943 35,6%
Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002, 2003.

Nhìn chung hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy qua các năm đều
có lãi, mức lãi năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể so với năm 2001, tổng doanh
thu của nhà máy tăng 31.193.048 nghìn đồng, tương ứng tăng 41,8%. Trong khi
đó chi phí tăng với tỷ lệ 44,4% tức là tăng 29.650.491 nghìn đồng, làm cho lợi
nhuận trước thuế tăng 19,6% cụ thể là tăng 1.542.557 nghìn đồng.
Năm 2003, so với năm 2002 doanh thu tiếp tục tăng lên 26,1% tương ứng
tăng 27.603.583 nghìn đồng, tổng chi phí tăng 25,2% tức là 24.249.640 nghìn
đồng, do đó lợi nhuận cũng tăng hơn 3.353.943 nghìn đồng, tỷ lệ tăng là 35,6%.
Như vậy, qua phân tích có thể thấy mức lợi nhuận mỗi năm tăng lên là do nhà
máy tăng được doanh số đồng thời tổng chi phí - xét về tỷ lệ - đã giảm xuống. Nói
cách khác, giá thành toàn bộ đơn vị sản phẩm đã giảm hơn nhiều, chính yếu tố này
đã làm cho lợi nhuận tăng lên cả về số tương đối lẫn tuyệt đối.
3.2.2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận:
3.2.2.1. Tác động của doanh thu:
Doanh thu là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp lên lợi nhuận, có tác động
cùng chiều với lợi nhuận, khi doanh thu tăng hay giảm sẽ làm lợi nhuận tăng hay
giảm theo. Doanh thu càng lớn thì lợi nhuận đạt được càng nhiều thể hiện qua chỉ
tiêu đòn bẩy hoạt động của doanh nghiệp. Đòn bẩy hoạt động chỉ cho chúng ta
thấy với một tốc độ tăng nhỏ của doanh thu sẽ tạo ra một tốc độ tăng lớn hơn về
lợi nhuận, chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Soá dö ñaûm phí (SDĐP)
Ñoøn baåy hoaït ñoäng =
(ĐBHĐ) Lôïi nhuaän (LN)

Để tính số dư đảm phí ta phải phân tổng chi phí thành chi phí khả biến và
chi phí bất biến. Tuy nhiên, để xác định chính xác mức độ hoạt động của nhà máy,
phải loại doanh thu và chi phí bất thường khỏi tổng doanh thu và tổng chi phí. Sau
đó, thực hiện theo công thức trên ta được bảng sau:

Bảng 14: Bảng tính đòn bẩy hoạt động của nhà máy 3 năm 2001, 2002, 2003
ĐVT: 1000 đồng
Số dư Đòn bẩy
Năm Chi phí Doanh thu đảm phí
Lợi nhuận
hoạt động
Bất biến Khả biến
Tổng CP (DT) (SDĐP) (LN) (ĐBHĐ)
(F) (V)
2001 4.118.834 62.564.283 66.683.117 74.315.647 11.751.364 7.632.530 1,540
2002 5.815.395 90.550.448 96.365.843 105.510.599 14.960.151 9.144.756 1,636
2003 8.157.104 112.458.379 120.615.483 133.382.281 20.923.902 12.766.798 1,639
Nguồn: Bảng chi phi và báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003

Ghi chú: SDĐP = DT - V

Năm 2001, đòn bẩy hoạt động của nhà máy là 1,54 nghĩa là khi doanh thu
tăng lên 10% thì lợi nhuận tăng lên 15,4%. Năm 2002, đòn bẩy hoạt động tăng lên
1,636, năm 2003 là 1,639, đòn bẩy hoạt động tăng là do nhà máy tăng sử dụng tài
sản cố định, tăng chi phí bất biến, làm số dư đảm phí tăng.
Đòn bẩy hoạt động cao là một biểu hiện tốt, tuy nhiên, khi đòn bẩy hoạt
động cao hơn nhà máy phải chịu rủi ro nhiều hơn vì lợi nhuận sẽ nhạy cảm hơn
đối với doanh thu. Nói cách khác, khi thuận lợi, doanh thu tăng thì lợi nhuận sẽ
phát triển rất nhanh và ngược lại khi doanh thu giảm lợi nhuận sẽ giảm nhanh đôi
khi nhà máy bị lỗ hoặc phá sản.
3.2.2.2. Tác động của chi phí:
Chi phí là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lợi nhuận, nó làm giảm lợi
nhuận khi phát sinh tăng và ngược lại, Trong quá trình sản xuất kinh doanh, bất kỳ
doanh nghiệp nào cũng muốn giảm thấp chi phí kinh doanh, hạ giá thành sản
phẩm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, việc giảm chi phí phải hợp lý để
tránh làm giảm chất lượng, đảm bảo được khả cạnh tranh của sản phẩm.
Từ bảng 13, ta thực hiện phương pháp so sánh qua các năm, được bảng:
Bảng 15: Bảng so sánh chênh lệch DT - CP - LN qua 3 năm
ĐVT: 1000 đồng
Chênh lệch Chênh lệch
STT Chỉ tiêu 2002/2001 2003/2002
Số tiền Tỷ lệ Số tiền Tỷ lệ
1 Tổng DT 31.198.717 42% 27.871.682 26,4%
2 GVHB 26.912.939 44,5% 21.852.299 25%
3 LN gộp 4.285.778 31% 6.019.383 33,3%
4 DT - HĐTC -3.765 -100% 0 0%
5 CP - HĐTC 180.908 32,9% 596.764 81,6%
6 CPBH 1.654.423 71,1% 837.382 21%
7 CPQL 934.456 28,3% 963.195 22,7%
8 LN - HĐKD 1.512.226 19,8% 3.622.042 39,6%
9 LN - Bất thường 30.331 12,8% -268.098 -99,98%
10 LN trước thuế 1.542.557 19,6% 3.353.944 35,6%
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003

Năm 2002, so với năm 2001, giá vốn hàng bán tăng 26.912.939 nghìn đồng
tương ứng tỷ lệ tăng là 44,5%, chi phí bán hàng tăng lên 1.654.423 nghìn đồng với
tỷ lệ 71,1%, chi phí quản lý tăng 934.456 nghìn đồng tương ứng 28,3%. Chi phí
hoạt động tài chính phát sinh trong năm là lãi vay, tuy nhiên các hoạt động tài
chính này nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải là
một khoản chi nhằm đem lại một khoản thu nhập riêng cho nhà máy. Về tỷ trọng,
chi phí bán hàng tăng lên do nhà máy tăng cường khuyến mãi, quảng cáo… nhằm
thúc đẩy tiêu thụ cho phù hợp với lượng sản xuất tăng trong kỳ.
Năm 2003, giá vốn hàng bán tăng 25%, tỷ lệ tăng của giá vốn giảm so với
năm 2002 chứng tỏ nhà máy đã nổ lực trong việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá
thành sản phẩm, có thể nói đây là một thành công của nhà máy trong điều kiện giá
nguyên vật liệu đang gia tăng. Chi phí bán hàng tăng 21%, chi phí quản lý tăng
22,7%, như vậy, các khoản chi phí đều tăng với tốc độ thấp hơn trước do nhà máy
đang thực hiện tiết kiệm chi phí hợp lý. Trong năm này phát sinh thêm lãi vay nên
chi phí hoạt động tài chính tăng cao làm giảm tổng lợi nhuận trước thuế.
Phân tích lợi nhuận trong mối quan hệ với doanh thu - chi phí không chỉ
giúp doanh nghiệp đánh giá tổng quát quá trình sản xuất kinh doanh, kết quả của
quá trình này và các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình lợi nhuận, mà còn phục vụ
cho các quyết định quản trị trong điều hành hiện tại và hoạch định kế hoạch cho
tương lai.
Ngoài doanh thu và chi phí, lợi nhuận còn chịu sự ảnh hưởng của các nhân
tố khác như giá bán, kết cấu các mặt hàng, chủng loại kinh doanh….Để có cái
nhìn chung về các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, ta lập bảng tổng hợp sau:
Bảng 16: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận sau thuế
năm 2002/2001
Đvt: 1000 đồng
Các nhân tố làm tăng Các nhân tố làm giảm Tổng
Chỉ tiêu hợp
Do tăng Do giảm Do tăng Do giảm
DT thuần 31.198.717
GVHB 26.912.939
DT - HĐTC 3.765
CP - HĐTC 180.908
CPBH 1.654.423
CHQL 934.456
LN bất thường 30.331
Thuế TNDN 352.838
Tổng cộng 31.229.048 30.035.564 3765 1.189.719
Tiến hành như bảng trên cho năm 2003 so với năm 2002, ta được bảng
tổng hợp sau:
Bảng 17: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận sau thuế
2003/2002
ĐVT: 1000 đồng
Các nhân tố làm tăng Các nhân tố làm giảm Tổng
Chỉ tiêu
Do tăng Do giảm Do tăng Do giảm hợp
DT thuần 27.871.682
GVHB 21.852.299
CP - HĐTC 596.764
CPBH 837.382
CHQL 963.195
LN bất thường 268.098
Thuế TNDN 817.360
Tổng cộng 27.871.682 25.067.000 268.098 2.536.584
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001,2002,2003

Trong thời gian qua, nhà máy ổn định giá bán trong khi giá nguyên vật liệu
tăng, chấp nhận lợi nhuận đạt được thấp, nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ. Nhờ vậy, doanh số tăng đảm bảo lợi
nhuận cũng tăng hơn. Trong hai năm 2002, 2003 việc tiêu thụ sản phẩm xi măng
An Giang được đẩy mạnh chứng tỏ nhà máy đang chú trọng phát triển mặt hàng
này vì lợi nhuận cao hơn gia công xi măng. Chính nhờ những biện pháp thích hợp
trong sản xuất và tiêu thụ, nhà máy đã đạt được kết quả khả quan: lợi nhuận luôn
hoàn thành kế hoạch được giao, đồng thời mức lợi nhuận và tốc độ tăng lợi nhuận
năm sau cao hơn năm trước.
3.2.3. Phân tích tác động của đòn cân nợ và đòn cân định phí lên lợi
nhuận:
Doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh phải đối mặt với nhiều
rủi ro tài chính hoặc rủi ro kinh doanh. Các rủi ro này phần nào tác động đến lợi
nhuận của doanh nghiệp. Dựa vào các công thức tính độ nghiêng đòn cân nợ, đòn
cân định phí, và đòn cân tổng hợp ta lập bảng sau:

Bảng 18 : Độ lớn các đòn cân nợ, đòn cân định phí, đòn cân tổng hợp của nhà máy qua
3 năm (2001, 2002, 2003)
ĐVT: 1000 đồng
Tổng Tổng Đòn Đòn Đòn cân
Doanh thu Tỷ lệ
Nă biến phí định phí Lãi vay cân cân tổng
(DT) tăng
m (CPKB) (CPBB) nợ định phí hợp
DCL
Q.P Q.V F R (DFL) (DOL) (DCL)
200 74.315.647 62.596.519 4.118.834 550.602 1,078 1,542 1,662
200 105.510.599 90.550.448 5.815.395 731.510 1,087 1,636 1,778 1,07
200 133.382.281 112.458.379 8.157.104 1.328.274 1,116 1,639 1,829 1,03
Nguồn: Bảng chi phi và báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003

Từ bảng tính trên, xét thấy:


- Do nhu cầu mở rộng sản xuất, đầu tư thêm máy móc thiết bị, nhu cầu sử
dụng nợ của nhà máy tăng lên. Do vậy mà mỗi năm chi phí lãi vay mỗi tăng, từ đó
độ nghiêng đòn cân nợ năm sau tăng hơn năm trước.
- Độ nghiêng đòn cân định phí tăng lên mỗi năm nhưng không nhiều,
chứng tỏ nhà máy đang đầu tư lớn vào tài sản cố định, đồng thời thực hiện tiết
kiệm hợp lý những khoản định phí. Điều này thể hiện rõ hơn qua độ lớn đòn cân
tổng hợp. Năm 2002 đòn cân tổng hợp tăng hơn năm 2001 với tỷ lệ 1,07, tỷ lệ này
giảm còn 1,03 vào năm 2003. Khi tăng nợ vay và định phí nhà máy phải chịu
nhiều rủi ro hơn, tuy vậy tỷ lệ tăng đòn cân tổng hợp giảm hơn những năm trước
thể hiện những nổ lực của nhà máy trong việc quản lý nợ và chi phí nhằm phục vụ
hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.2.4. Phân tích điểm hòa vốn:
Trong quyết định kinh doanh, mỗi khối lượng sản xuất ra cần phân tích
thành hai phần: một phần để bù đắp cho toàn bộ chi phí đầu vào; phần còn lại
mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Bởi vậy, các nhà quản lý doanh nghiệp cần
biết rằng: phải sản xuất ra một khối lượng sản phẩm là bao nhiêu để khi bán ra
với mức giá trên thị trường có thể bù đắp được toàn bộ chi phí đầu vào. Đó chính
là sản lượng tại điểm hòa vốn. Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó lợi nhuận bằng
không.
Điểm hòa vốn của nhà máy được thể hiện trên hai chỉ tiêu: doanh thu và
thời gian hòa vốn, ngoài ra còn phải tính mức doanh thu an toàn, mức doanh thu
này cao thì nhà máy ít gặp rủi ro trong kinh doanh.
Từ bảng 18, áp dụng các phương pháp tính toán được bảng sau:

Bảng 19: Giá trị của các chỉ tiêu tại điểm hoà vốn ĐVT: 1000đồng
Bất biến Khả biến TGHV
Năm (F) (V) DTTH DTHV DTAT
(Tháng)
2001 4.118.834 62.564.283 74.315.647 26.047.514 48.268.133 4,21
2002 5.815.395 90.550.448 105.510.599 41.014.680 64.495.919 4,66
2003 8.157.104 112.458.379 133.382.281 51.998.577 81.383.704 4,68

Thực hiện so sánh giá trị các chỉ tiêu này qua các năm ta được bảng:

Bảng 20 : Bảng so sánh giá trị của các chỉ tiêu tại điểm hoà vốn
Chênh lệch 2002/2001 Chênh lệch 2003/2002
Chỉ tiêu ĐVT
Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ
DTHV 1000 đồng 14.967.167 57,46% 10.983.897 17,03%
DTAT 1000 đồng 16.227.785 33,62% 16.887.785 26,18%
TGHV Tháng 0,46 10,91% 0,01 0,29%
Nguồn: bảng 19_ Giá trị của các chỉ tiêu tại điểm hoà vốn

Theo quy mô kinh doanh ngày càng mở rộng của nhà máy, các khoản định
phí tăng cao hơn do đó làm doanh thu hoà vốn, thời gian hoà vốn, cũng tăng lên.
Qua bảng so sánh, ta thấy tỷ lệ tăng lên của các chỉ tiêu doanh thu hoà vốn, thời
gian hoà vốn năm 2003 so với 2002 thấp hơn năm 2002 so với năm 2001. Từ đó
có thể khẳng định điểm hoà vốn của nhà máy dịch chuyển đi lên mỗi năm, nhưng
đó không phải là xu hướng xấu vì hoàn toàn phù hợp với quy mô kinh doanh của
nhà máy thể hiện qua tỷ lệ tăng lên của các chỉ tiêu hoà vốn đang giảm dần khi
nhà máy đưa các dây chuyền công nghệ vào sản xuất ổn định.
Xét riêng doanh thu an toàn, vì chỉ tiêu này càng cao nhà máy càng ít rủi
ro. Qua bảng so sánh tỷ lệ tăng doanh thu an toàn giảm nghĩa là năm 2003, nhà
máy chịu rủi ro cao hơn. Nguyên nhân là do tác động của đòn cân nợ và đòn cân
định phí tăng hơn vào năm này (đã phân tích ở phần trên).
3.2.5. Đánh giá các tỷ suất lợi nhuận:
Lợi nhuận chính là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất
kinh doanh nhà máy xi măng An Giang. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chịu sự tác động
của chất lượng công tác mà còn ảnh hưởng bởi quy mô kinh doanh của nhà máy.
Vì vậy, để đánh giá đúng đắn hiệu quả kinh doanh của nhà máy, phải sử dụng và
phân tích các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận. Thực hiện các công thức tính tỷ suất lợi
nhuận, ta được bảng:
Bảng 21: Một số tỷ suất lợi nhuận năm 2001, 2002, 2003 ĐVT:1000 đồng
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Lợi nhuận (LN) 7.870.350 9.412.908 12.766.851
Doanh thu (DT) 74.311.882 105.510.599 133.382.281
Giá vốn hàng bán 60.502.714 87.415.653 109.267.952
Tổng tài sản (TTS) 25.510.701 49.985.544 50.920.963
Chi phí bán hàng (CPBH) 2.325.432 3.979.855 4.817.237
Tỷ suất LN / DT 10,59% 8,92% 9,57%
Tỷ suất LN / GVHB 13,01% 10,77% 11,68%
Tỷ suất LN / TTS 30,85% 18,83% 25,07%
Tỷ suất LN/CPBH 338,5 236,5 265

3.2.4.1. Tỷ suất lợi nhuận – doanh thu (LN/DT):


Qua bảng 21, ta thấy tỷ suất LN/DT của năm 2002 giảm hơn năm 2001,
đến năm 2003 tuy có tăng hơn năm 2002 nhưng vẫn thấp so với năm 2001. Những
biến động này là do sự tăng giảm về doanh thu và lợi nhuận gây ra.
Để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận, cần áp dụng
phương pháp thay thế liên hoàn. Ví dụ cụ thể vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng
đến tỷ suất LN/DT, ta tiến hành các bước sau:
- Xác định đối tượng cần phân tích: LN/DT năm sau – LN/DT năm trước
- Xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố: để phân tích các nhân tố
ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận, cần áp dụng phương pháp thay thế liên hoàn:

LN năm sau – LN năm trước


+ Nhân tố lợi nhuận :
DT năm trước

LN năm sau
+ Nhân tố DT :
DT năm sau – DT năm trước
- Tổng hợp các mức độ ảnh hưởng lên tỷ suất LN/DT cũng chính là hiệu
của tỷ suất LN/DT năm sau và tỷ suất LN/DT năm trước
- Từ các bước trên, ta lập bảng sau:
Bảng 22 : Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
đến tỷ suất LN / DT
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu
2002/2001 2003/2002
1. LN 2,1% 3,2%
2. DT -3,7% -2,5%
Tổng cộng -1,7% 0,7%
Nguồn: Bảng 21 _ Một số tỷ suất lợi nhuận năm 2001, 2002, 2003

(Ghi chú: Các bảng 20, 21, 22, 23 đều thực hiện phương pháp như trên)

Nhìn vào bảng trên, ta thấy năm 2002, tỷ suất này giảm về số tuyệt đối là
1,7% so với năm 2001 mặc dù có sự tăng lên của lợi nhuận làm cho tỷ suất tăng
lên 2,4%, nhưng sự tăng mạnh của doanh thu làm giảm tỷ suất này 3,7%. Năm
2003, cùng với lợi nhuận tăng lên 35,6% làm tăng tăng tỷ suất LN/DT 3,18%, thì
doanh thu cũng tăng 26,4% làm giảm tỷ suất này 2,53%. Kết quả là tỷ suất tăng
0,65% so với năm trước.
3.2.5.2. Tỷ suất lợi nhuận – giá vốn hàng bán (LN/GVHB)
Qua bảng 21 cho thấy, chỉ tiêu này tăng lên sau mỗi năm. Năm 2001, tỷ
suất LN/GVHB là 13%, nghĩa là trong 100 đồng chi phí bỏ ra sẽ mang về 13 đồng
lợi nhuận, năm 2002 đem lại 10,7 đồng, năm 2003 là 11,7 đồng. Sự biến động của
chỉ tiêu này là do những nguyên sau:
Bảng 23: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
đến tỷ suất LN/GVHB
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu
2002/2001 2003/2002
1. LN 2,55% 3,8%
2. GVHB -4,79% -2,9%
Tổng cộng -2,24% 0,9%
Nguồn: Bảng 21_Một số tỷ suất lợi nhuận năm 2001, 2002,

Chỉ tiêu này năm 2002 giảm hơn năm 2001 là 2,3% chủ yếu là do lợi nhuận
tăng làm tỷ suất này tăng lên 2,5%. Nhưng đồng thời giá vốn cũng tăng lên làm
cho tỷ suất LN /GVHB giảm đi 4,8%. Chỉ tiêu này năm 2003 có sự tăng nhẹ, lợi
nhuận tăng làm tỷ suất tăng 3,8%, nhưng giá vốn cũng tăng nên làm giảm tỷ suất
này 2,9%, do đó mà tỷ suất tăng lên 0,9%, Tình hình này cho thấy những chi phí
sản xuất kinh doanh năm 2002 do đầu tư vào tài sản cố định đã tăng lên đáng kể,
mang lại lợi nhuận không nhiều, sang năm 2003, nhà máy đã tiết kiệm phần nào
chi phí nên tỷ suất này bắt đầu tăng, đây là một chuyển biến tốt cần phát huy hơn
nữa.
3.2.4.3. Tỷ suất lợi nhuận – tổng tài sản (LN/TTS)
Năm 2001, tỷ suất này là 30,8%, tức là trong 100 đồng tài sản tạo ra 30,8
đồng lợi nhuận, năm 2002 chỉ còn mang lại 18,8 đồng lợi nhuận, và năm 2003 là
25,1 đồng lợi nhuận. Xét những yếu tố làm thay đổi tỷ suất này thông qua bảng
sau:
Bảng 24: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
đến tỷ suất LN /TTS
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu 2002/2001 2003/2002
1. LN 6,05% 6,71%
2. TTS -18,07% -0,47%
Tổng cộng -12,02% 6,24%
Nguồn: Bảng 21_Một số tỷ suất lợi nhuận năm 2001, 2002, 2003

So với năm 2001, năm 2002 tổng tài sản của nhà máy tăng gần gấp đôi,
chính vì vậy làm cho tỷ suất này giảm 18,1%, sự gia tăng trong lợi nhuận làm tỷ
suất này tăng lên 6,1%. Do đó, tỷ suất LN/TTS giảm đến 12%, và điều này chủ
yếu là do việc đầu tư thêm tài sản của nhà máy. Năm 2003, tài sản tăng ít nên tỷ
suất chỉ giảm 0,5%, đồng thời vì lợi nhuận tăng lên nên tỷ suất này tăng 6,7%.
Tổng hợp lại, tỷ suất LN/TTS tăng hơn năm trước 6,24%.

3.2.4.5. Tỷ suất lợi nhuận – chi phí bán hàng (LN/CPBH)


Sự biến động của chỉ tiêu này qua ba năm diễn ra như sau: năm 2001, cứ
100 đồng chi phì bán hàng bỏ ra sẽ góp phần tạo nên 338,5 đồng lợi nhuận, năm
2002 giảm còn 236,5 đồng lợi nhuận và năm 2003 tăng lên 265 đồng lợi nhuận.

Bảng 25: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng


đến tỷ suất LN/CPBH
Chênh lệch Chênh lệch
Chỉ tiêu
2002/2001 2003/2002
1. LN -4,84% -11,11%
2. CPBH 17,58% 6,56%
Tổng cộng 12,73% -4,55%
Nguồn: Bảng một số tỷ suất lợi nhuận năm 2001, 2002, 2003
Thông qua bảng tính toán các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất LN/CPBH, ta
nhận thấy, năm 2002 do tăng cường quảng cáo, tiếp thị nên chi phí bán hàng tăng
mạnh làm giảm tỷ suất đi 168,3%, lợi nhuận có tăng nhưng chỉ làm tăng tỷ suất
lên 66,3%, tổng hợp hai nhân tố khiến tỷ suất LN/CPBH giảm 120%. Năm 2003,
lợi nhuận tăng với tốc độ cao hơn tốc độ tăng chi phí bán hàng làm cho tỷ suất này
tăng hơn năm 2002 là 28,5%.
 Tóm lại, các tỷ suất lợi nhuận năm 2002 giảm so với năm 2001, và tăng
hơn vào năm 2003. Điều này chứng tỏ nhà máy đã quản lý tốt các khoản chi phí
và sử dụng hiệu quả tài sản, nguồn vốn… hứa hẹn sự phát triển hơn nữa của nhà
máy trong các kỳ kinh doanh sau.
3.2.5. Đánh giá tình hình phân phối lợi nhuận của nhà máy:
Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng cho nên phân phối lợi nhuận hợp
lý sẽ có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp ngày càng phát huy tinh thần trách
nhiệm và ý thức làm chủ của doanh nghiệp. Trong quá trình phân phối lợi nhuận,
sau khi thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, phải xác lập tỷ lệ phân phối
lợi nhuận hợp lý, phù hợp quy định của nhà nước, nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.

Bảng 26: Tình hình phân phối lợi nhuận của nhà máy
3 năm 2001, 2002, 2003
ĐVT:1000 đồng

Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003


Lợi nhuận chịu thuế 7.870.350 9.412.908 12.766.851
Thuế TNDN 2.247.091 2.599.929 3.417.289
Thu sử dụng vốn 33.170 258.055 333.476
Lợi nhuận để lại 5.590.089 6.554.924 9.016.086
*Trích lập các quỹ:
_ Quỹ ĐTPT 4.024.864 4.850.644 6.910.105
_Quỹ DPTC 559.009 655.492 901.609
_Quỹ TCMVL 279.504 327.746 32.281
_ Quỹ KTPL 726.712 721.042 1.172.091
Nguồn: Bảng cân đối tài khoản và báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003

+ Nhận xét, đánh giá hình phân phối lợi nhuận của nhà máy:
Tỷ lệ trích lập các quỹ của doanh nghiệp năm 2001, 2002 phù hợp với quy
định của Thông tư 70/TCDN của Bộ Tài Chính ngày 5/11/1996. Riêng năm 2003,
về việc trích lập Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm có sự thay đổi theo thông tư
82/2003/TT-BTC ngày 18/4/2003 như sau: mức trích lập Quỹ dự phòng từ 1% -
3% (nhà máy áp dụng tỷ lệ 2%) trên quỹ tiền lương làm cơ sở đóng tiền bảo hiển
xã hội của doanh nghiệp.
Trường hợp số dư các quỹ đều đạt mức không chế thì số lợi nhuận còn lại
được chuyển vào quỹ đầu tư phát triển.
Trong năm 2002 nhà máy trích 2 tháng lương bình quân do tỷ suất lợi
nhuận trên vốn Nhà nước năm này thấp hơn năm 2001, năm 2003 tỷ suất này lớn
hơn năm 2002, nên nhà máy được trích 3 tháng lương bình quân. Cụ thế là:

Bảng 27: Tỷ suất lợi nhuận/Vốn Nhà nước ĐVT: 1000đồng


Năm Năm Năm
Chỉ tiêu
2001 2002 2003
Vốn Nhà nước 9.904.793 18.590.395 22.313.646
Lợi nhuận 7.870.350 9.412.907 12.766.851
Tỷ suất LN - Vốn Nhà nước 79,5% 50,6% 57,2%
Nguồn: Bảng cân đối tài sản và báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 2002, 2003

Như vậy, Nhà máy xi măng An Giang đã chấp hành tốt theo quy định của
Bộ Tài Chính về việc trích lập các quỹ. Đây cũng là một điiểm tích cực thúc đẩy
cán bộ công nhân viên nhà máy yên tâm công tác, nâng cao năng suất lao động
nhằm mang lại kết quả sản xuất kinh doanh ngày càng cao.
Ì Nh tình hình Doanh thu – Lợi nhuận của Nhà máy xi măng An Giang
qua 3 năm 2001, 2002, 2003 là rất khả quan. Ban Giám Đốc nhà máy và tập thể
cán bộ công nhân viên có mối đoàn kết tốt, biết phát huy sức mạnh nội lực, thể
hiện sự năng động sáng tạo, cải tiến quy trình công nghệ, tính toán hiệu quả sản
xuất kinh doanh, nổ lực phấn đấu thực hiện hoàn thành kế hoạch hàng năm, tăng
trưởng năm sau cao hơn năm trước. Việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng
theo ISO 9001:2000 giúp tăng uy tín chất lượng sản phẩm của nhà máy trên thị
trường, người tiêu dùng bắt đầu tín nhiệm cao, tiêu thụ xi măng khá.
Tuy nhiên, hiện nay nhà máy chưa phát huy hết công suất hoạt động trong
khi nhu cầu xi măng cho xây dựng khá cao. Nhà máy vẫn chưa làm thay đổi được
thói quen sử dụng những sản phẩm xi măng đã có từ lâu như xi măng Hà Tiên II,
xi măng Sao Mai (Holcim) của người tiêu dùng. Công tác tiêu thụ chưa được chú
trọng đúng mức, nhà máy vẫn chưa có bộ phận marketing riêng biệt. Việc quảng
cáo sản phẩm chưa được thực hiện rộng rãi…Bên cạnh đó những khó khăn khác
như: giá cả nguyên liệu tăng cao, cạnh tranh gay gắt trong tiêu thụ, tình hình ngập
lũ ảnh hưởng đến sản xuất, bảo quản và vận chuyển luôn là thách thức đối với nhà
máy…
Như vậy với xu hướng phát triển tích cực thể hiện qua các chỉ tiêu doanh
thu và lợi nhuận cho thấy khả năng mở rộng quy mô tái sản xuất kinh doanh của
nhà máy là rất cao. Mặt khác, trên cơ sở phân tích doanh thu và lợi nhuận giúp
nhà máy phát hiện ra một số hạn chế còn vướng mắc, từ đó tìm ra biện pháp khắc
phục những hạn chế trên, hướng tới mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

CHƯƠNG IV:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU LÀM TĂNG DOANH THU,
LỢI NHUẬN CỦA NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG

Trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường, nhà máy xi măng An Giang đã
không ngừng nỗ lực phấn đấu để duy trì và phát triển, ngày càng mở rộng sản xuất
kinh doanh. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng tập thể Cán bộ công nhân viên nhà
máy đã phấn đấu hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, nhà máy cũng thực
hiện tốt chủ trương chính sách của nhà nước, góp phần đóng góp ngân sách tỉnh
nhà, nâng cao đời sống cho Cán bộ công nhân viên.
Sau thời gian thực tập và tìm hiểu tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh
của nhà máy, qua phân tích tình hình doanh thu, lợi nhuận 3 năm 2001, 2002,
2003 đã cho thấy: với những kết quả hoạt động trong các năm qua, xu hướng phát
triển của nhà máy ngày càng có cơ sở để tiến nhanh, ổn định theo đà phát triển
chung của đất nước.
Dựa trên phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh thu và lợi
nhuận, em xin được đề ra một số giải pháp chủ yếu làm tăng doanh thu và lợi
nhuận của Nhà máy xi măng An Giang:
4.1. NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG DOANH THU:
Quá trình nhà máy xi măng An Giang có được doanh thu bán hàng là quá
trình xuất giao hàng cho người mua, vận chuyển và thanh toán tiền hàng. Nhằm
tăng doanh thu, trước hết phải đẩy mạnh khối lượng và tốc độ tiêu thụ, đồng thời
phải xúc tiến các chiến lược kinh doanh. Xuất phát từ nhu cầu thực tế, theo em
nhà máy cần chú trọng những vấn đề sau:
4.1.1. Đẩy nhanh tiến độ sản xuất, tăng sản lượng sản phẩm:
Sản xuất sản phẩm trước tiên phải nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường
với mục tiêu đạt được lợi nhuận tối đa. Qua phân tích tình hình doanh thu lợi
nhuận 3 năm 2001, 2002, 2003 sản lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của nhà
máy đạt khoảng 82,5% công suất thiết kế của hệ thống dây chuyền công nghệ
mới.
Hiện nay, với tốc độ đô thị hóa cao, các công trình xây dựng nâng cấp của
các tỉnh, thành phố đang được thực hiện, nhu cầu sửa chữa, xây dựng nhà ở cũng
tăng mạnh. Do đó, cùng với các vật liệu xây dựng khác, nhu cầu xi măng là rất
lớn. Nhà máy cần phát huy hơn nữa năng lực sản xuất để tăng sản lượng sản phẩm
sản xuất ra, từ đó phối hợp với công tác tiếp thị để tăng khối lượng sản phẩm tiêu
thụ.
Điều cơ bản nhất, sản xuất phải đảm bảo đúng kế hoạch sản xuất, đáp ứng
kịp thời đầy đủ cho nhu cầu tiêu thụ.
4.1.2. Đảm bảo chất lượng sản phẩm đúng tiêu chuẩn quy định:
Nhà máy sản xuất chủ yếu hai loại xi măng: xi măng Hoa Mai An Giang và
xi măng Sư Tử phù hợp với TCVN 6260:1997. Xi măng Pooclăng hỗn hợp theo
yêu cầu kỹ thuật Việt Nam (mác PC 30). Để đảm bảo chất lượng sản phẩm theo
những yêu cầu kỹ thuật, nhà máy cần tiến hành kiểm tra thử mẫu từ nguyên vật
liệu đến thành phẩm.
+ Nguyên vật liệu chính là Clinker, chất lượng Clinker phải đảm bảo
các chỉ tiêu chất lượng của Mỹ (ASTM) hoặc của Anh (BC-12-78).
+ Thành phẩm đảm bảo TCVN 6260 : 1997.
Trong quá trình sản xuất, nhà máy cần luôn luôn áp dụng những tiến bộ của
khoa học kỹ thuật mới nhất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm thiểu chi
phí, tăng sản lượng để nhà máy có thể đứng vững và ngày càng phát triển trên thị
trường. Bên cạnh chất lượng xi măng, nhà máy cũng nên chú trọng đến chất luợng
bao bì. Bao bì phải có chất lượng tốt, bền, đẹp, mẫu mã ấn tượng. Từ đó, sẽ góp
phần vào việc tăng chất lượng sản phẩm, quảng bá thương hiệu sản phẩm.
4.1.3. Đẩy mạnh khâu tiêu thụ sản phẩm:
Công tác tiêu thụ sản phẩm được coi trọng hàng đầu vì chỉ khi tiêu thụ
được sản phẩm nhà máy mới có doanh thu và lợi nhuận. Nhưng hiện nay, công tác
này chưa được chú trọng đúng mức. Nhà máy chưa có đội ngũ Marketing riêng
biệt nên chưa nắm bắt kịp thời diễn biến thị trường.
Chức năng của bộ phận Marketing bao gồm việc phân tích, lập kế hoạch,
thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chương trình đã đề ra, duy trì các quan hệ
và trao đổi với khách hàng theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Với sự cần thiết
hiện nay và đặc biệt là trong hoàn cảnh nhà máy muốn vươn đến mục tiêu xuất
khẩu sang thị trường Campuchia, thì việc thành lập bộ phận Marketing là điều cần
phải làm. Nhà máy tuyển chọn một bộ phận Marketing cụ thể để thu thập thông
tin về thị trường chính xác, nhanh chóng, từ đó xúc tiến khâu sản xuất cũng như
đẩy mạnh khối lượng và tốc độ tiêu thụ tạo điều kiện tăng doanh thu.
Như vậy, mục tiêu của việc đẩy mạnh khâu tiêu thụ là phương thức kinh
doanh linh hoạt, mở thêm nhiều thị trường nhằm phục vụ thỏa mãn nhu cầu khách
hàng sao cho kinh doanh có hiệu quả và người tiêu dùng có lợi.

4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG LỢI NHUẬN:


Ngoài doanh thu, lợi nhuận còn chịu sự chi phối bởi nhiều nhân tố khác
như: chi phí, tình hình dự trữ, vốn sử dụng …Do đó để tăng lợi nhuận cần chú
trọng đến rất nhiều vấn đề:
4.2.1. Tăng doanh thu, đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm:
Sự thay đổi của doanh thu có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận. Trong điều
kiện các yếu tố khác không đổi thì doanh thu giảm sẽ làm lợi nhuận giảm và
ngược lại. Do vậy, để tăng lợi nhuận phải tăng doanh thu.
Để tăng doanh thu phải tăng tiêu thụ. Bởi vì qua tiêu thụ nhà máy thu hồi
được tổng số phí có liên quan đến sản xuất và tiêu thụ, đồng thời thực hiện được
lợi nhuận. Tăng tiêu thụ nghĩa là tăng số lượng hàng hóa được bán ra, tránh ứ
đọng vốn trong hàng tồn kho. Các giải pháp cụ thể để tăng tiêu thụ là:
- Tăng tiêu thụ cả về chất lượng lẫn khối luợng:
+ Mở rộng đại lý phân phối sản phẩm ở 12 tỉnh thuộc khu vực đồng
bằng sông Cửu Long. Hiện nay trong khu vực có khoảng 10 nhà máy xi măng, mà
quy mô nhất có thể kể đến là nhà máy xi măng Hà Tiên I, II, nhà máy xi măng Sao
Mai, nhà máy xi măng Sadico Cần Thơ …Mặc dù vậy nhu cầu xi măng cho xây
dựng đang tăng mà đặc biệt là trong nội tỉnh cho nên với lợi thế giá cả hợp lí, nhà
máy cần mở rộng hệ thống đại lý phân phối xi măng cho nhu cầu trong khu vực và
trong tỉnh.
+ Đối với công tác vận chuyển: làm tốt công tác vận chuyển, bốc
vác và đảm bảo hàng hóa trong quá trình vận chuyển có ý nghĩa quan trọng ảnh
hưởng lớn đến tình hình tiêu thụ. Cần phục vụ khách hàng theo phương châm “vui
lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Do đó, bên cạnh việc khoán xe tải, nhà máy
cần tăng cường kiểm tra đôn đốc vận chuyển, lập kế hoạch vận chuyển và kí hợp
đồng vận chuyển đối với vận chuyển thuê bao sao cho phù hợp kế hoạch tiêu thụ
và hợp đồng tiêu thụ đồng thời sắp xếp thời gian hợp lý.
- Quản lý tồn kho, đảm bảo dự trữ hợp lý.
+ Tồn kho nguyên vật liệu đảm bảo cho quá trình sản xuất liên tục.
Tồn kho thành phẩm đảm bảo tiêu thụ theo nhu cầu của khách hàng, giúp nhà máy
không vi phạm hợp đồng tạo uy tín tốt. Tuy nhiên, tồn kho quá nhiều sẽ ảnh
hưởng xấu đến lợi nhuận vì sẽ làm cho số lần quay vòng hàng tồn kho thấp, số
hàng hóa này sẽ không sinh lợi cho nhà máy cho đến khi chúng được xuất bán mà
còn làm phát sinh chi phí lưu kho cao. Thậm chí nếu tồn kho quá lâu hàng hóa bị
hỏng không sử dụng được nhà máy còn có thể bị lỗ. Do đó phải có kế hoạch tồn
kho nguyên vật liệu và thành phẩm một cách hợp lý, có sự cải tiến trong sản xuất
làm cho tỷ lệ hao hụt giảm thấp.
Về nguyên vật liệu: dự trữ trong kho với số lượng đủ cho nhu
cầu sản xuất sao cho có hiệu quả, không mua quá nhiều, đặc biệt là vào mùa mưa
lũ vì nhu cầu xây dựng sẽ giảm lại, vận chuyển và bảo quản xi măng cũng khó
khăn hơn. Đặc biệt khi nhập nguyên vật liệu vào kho cần kiểm tra, phân tích có
đúng chất lượng theo yêu cầu của nhà máy.
Về công cụ, dụng cụ: kiểm định, hiệu chuẩn các thiết bị thí
nghiệm, các thiết bị đo đếm trong sản xuất, thường xuyên kiểm tra chế độ hoạt
động của dây chuyền sản xuất, kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với các tiêu chuẩn
thử nghiệm. Mua sắm kịp thời, đúng quy cách chất lượng thiết bị, phụ tùng và
dụng cụ phục vụ cho công tác sửa chữa máy móc đảm bảo sản xuất liên tục đúng
tiến độ.
Về thành phẩm: xi măng xuất kho phải đạt hoặc vượt tiêu
chuẩn chất lượng theo quy định, do đó phải bảo quản cẩn thận khi lưu kho, phải
kiểm kê thường xuyên để kịp thời phát hiện những sản phẩm hư hỏng, không đúng
khối lượng, chất lượng, đảm bảo tồn kho đủ dùng cả về số lượng và chất lượng.
Mặt khác phải đẩy mạnh tiêu thụ tăng số vòng quay kho.
+ Về công tác lập kế hoạch hàng tồn kho: kế hoạch tồn kho phải
bám sát nhu cầu thực tế, dự toán chính xác nhằm đảm bảo đủ cho sản xuất không
bị đình trệ, đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu thụ theo hợp đồng và cả những nhu cầu
tiêu thụ bất thường của khách hàng, nhưng không được quá lớn vì không có lợi
cho nhà máy.
4.2.2. Quản lý tốt chi phí:
4.2.2.1. Tiết kiệm nguyên vật liệu tiêu hao:
Nguyên vật liệu được sử dụng chính là clinker. Nguồn clinker dược nhà
máy mua từ nhà máy xi măng Hà Tiên II, hoặc nhập khẩu từ Thái Lan, giá nguyên
vật liệu nhập khẩu rất đắt và hiện nay giá clinker đang gia tăng. Do đó, phải tiết
kiệm chi phí nguyên vật liệu giảm bớt hao phí trong sản xuất. Các biện pháp cần
thiết là xây dựng định mức tiên tiến và hiện thực nhằm hạn chế mức tiêu hao.
Để sản xuất xi măng, nguyên liệu chính gồm clinker, thạch cao, đá
puzơlan. Hỗn hợp nguyên liệu này được nghiền chung trong máy nghiền bi tạo
thành xi măng. Xi măng thành phẩm được chứa trong silô và đóng bao với trọng
lượng ± 50 Kg. Nhà máy cần cải tiến kỹ thuật sản xuất sao cho giảm bớt lượng
tiêu hao cho mỗi đơn vị sản phẩm, tận dụng phế liệu. Đồng thời chấp hành nghiêm
chỉnh các chế độ bảo quản, kiểm tra sửa chữa thường xuyên, tổ chức sản xuất phù
hợp với dây chuyền sản xuất.
- Một vấn đề quan trọng hơn cả là xây dựng ý thức của người lao động,
thường xuyên nhắc nhở, tổ chức thực hiện tiết kiệm trong sản xuất, tránh lãng phí
của công. Qua đó, nhà máy sẽ giảm được những khoản tiêu hao bất hợp lý.
4.2.2.2. Hạ thấp chi phí quản lý và chi phí bán hàng:
Hạ thấp chi phí quản lý và chi phí bán hàng là nhiệm vụ mà nhà máy phải
luôn hết sức cố gắng thực hiện, chỉ nên chi cho những khoản thật cần thiết, tiết
kiệm tối đa nhưng hợp lý những khoản chi phí văn phòng, tiếp khách, giao dịch…
Đối với chi phí bán hàng chẳng hạn như chi phí hoa hồng, khuyến mãi, tiếp
thị… khi phát sinh sẽ làm giảm lợi nhuận nhưng xét về khía cạnh khác sẽ làm tăng
doanh thu, tăng thị phần cho nhà máy. Những khoản chi này cần thực hiện theo kế
hoạch đề ra phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Qua kế hoạch cụ thể, các nhà
lãnh đạo có thể quản lý, đánh giá các khoản phát sinh này có đem lại được lợi
nhuận nhiều hơn hay không?
Để đạt mức chi phí kế hoạch đề ra, cần có ý thức tự giác, không lãng phí tài
sản chung, đòi hỏi sự phấn đấu hoàn thành kế hoạch với năng lực và quyết tâm
của mỗi cá nhân đặc biệt là sự động viên, gương mẫu của cấp lãnh đạo.
4.2.6. Hoàn thiện chế độ phân phối lợi nhuận:
- Về phía nhà nước và các cơ quan quản lý cấp trên, cần nghiên cứu và bổ
sung, hoàn thiện chế độ phân phối kết quả thu nhập của doanh nghiệp, nhằm giải
quyết mối quan hệ giữa các lợi ích: người lao động, nhà máy và Nhà nước.
- Trong thực tế hiện nay, việc kích thích vật chất thông qua quan hệ phân
chia cho nguời lao động còn chưa thỏa đáng, chưa gắn được thu nhập của họ vào
hiệu quả kinh doanh. Điều này dễ dẫn đến cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế,
công nhân sản xuất có tay nghề cao chạy sang những đơn vị khác có điều kiện
kích thích vật chất tốt hơn.
4.3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH:
4.3.1. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
Việc đảm bảo đầy đủ, kịp thời và sử dụng có hiệu quả vốn sẽ là nhân tố
quan trọng tác động đến hiệu quả kinh doanh của nhà máy. Trước hết, phải xác
định một cơ cấu vốn hợp lý, thích ứng với yêu cầu, nhiệm vụ và quy mô kinh
doanh. Cơ cấu vốn được coi là tối ưu khi đáp ứng đầy đủ vốn cho kinh doanh bao
gồm vốn cố định và vốn lưu động. Sau đó phải xác định được các điểm hòa vốn
ngắn hạn, điểm hòa vốn dài hạn trong toàn bộ quá trình kinh doanh cũng như
trong từng giai đoạn kinh doanh. Có như vậy mới xác định được chính xác sản
lượng và doanh thu cho lãi, thời gian cho lãi, mức lãi và các nhân tố khách quan,
chủ quan ảnh hưởng đến lãi.
4.3.2. Tận dụng công suất máy móc thiết bị:
Hiện nay, nhà máy chưa sử dụng hết công suất thiết kế của dây chuyền
công nghệ là 400.000 tấn/năm. Nhà máy đang hoạt động ở mức 82,5% công suất
thiết kế. Nhà máy cần mở rộng thêm hoạt động gia công xi măng cho các nhà máy
xi măng khác như nhà máy xi măng Hà Tiên II, nhà máy xi măng Sidaco Cần
Thơ… để tận dụng hết công suất thiết kế.
Bên cạnh tăng gia công xi măng, nhà máy cần liên hệ, tạo thêm nhiều hợp
đồng sản xuất xi măng mới, hướng tới xuất khẩu sang thị trường Campuchia.
Thực hiện tốt khâu mở rộng mạng lưới phân phối, tăng thêm thị trường tiêu thụ
mới, tạo đầu ra hấp dẫn, từ đó không chỉ hoạt động hết công suất thiết kế mà còn
có khả năng mở rộng quy mô hơn nữa.
4.3.3. Tăng cường chất lượng quản lý: duy trì thực hiện ISO 9001 :
2000.
Hiện nay, cạnh tranh về giá trên thị trường đã chuyển sang cạnh tranh về
chất lượng. Chất lượng sản phẩm sẽ quyết định hành động tiêu dùng của khách
hàng, đảm bảo cho uy tín của doanh nghiệp và do đó chất lượng là “vũ khí lợi hại”
trong cạnh tranh. Người tiêu dùng luôn quan tâm đến những tiêu chuẩn, những
chuẩn mực qui định về chất lượng và xem đó là thước đo hữu hiệu nhất. Vì vậy,
việc nhà máy xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
9001: 2000 do hai cơ quan QUACERT và QMS chứng nhận là một thắng lợi lớn,
giúp sản phẩm của nhà máy tạo được uy tín trên thị trường. Trong những năm tiếp
theo, nhà máy cần duy trì và đảm bảo thực hiện theo hệ thống chất lượng này.
4.3.4. Quản lý các khoản phải thu: thu hồi tiền hàng kịp thời.
Nhà máy có mạng lưới kinh doanh rộng lớn khắp đồng bằng sông Cửu
Long và có nhiều đại lý nên chủ yếu là bán gối đầu. Do đó nhà máy phải đôn đốc
khách hàng thanh toán đúng qui định tránh nợ nần dây dưa, chồng chất làm ảnh
huởng đến tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị. Để khuyến khích khách
hàng thanh toán tiền hàng đúng hạn nhằm đẩy mạnh tốc độ luân chuyển hàng hóa,
nhà máy nên qui định những điều khoản:
+ Chiết khấu thanh toán để phản ánh toàn bộ số tiền giảm trừ vào giá trị
hàng hóa cho người mua hàng do việc người mua hàng đã thanh toán số tiền mua
hàng trước thời hạn thanh toán đã thỏa thuận (đã ghi trên hợp đồng kinh tế mua
bán) hoặc vì một lý do ưu đãi nào khác.
+ Nếu thanh toán quá thời hạn sẽ bị phạt (tỷ lệ phạt tùy theo hợp đồng qui
định).
Ngoài ra, hiện nay nhà máy còn bán xi măng cho các công trình trong tỉnh,
nên nhà máy cần tổ chức tiến hành thu hồi nợ đối với các đơn vị thi công công
trình còn nợ.
- Nhà máy cần quan tâm đến tình hình tài chính của khách hàng, để tránh
tình trạng khách hàng không có khả năng thanh toán.
- Để quản lý tốt các khoản phải thu, nhà máy phải nắm bắt những thông tin
liên quan đến khách hàng để có những chính sách thu hồi nợ hợp lý. Đối với
khách hàng luôn thanh toán nhanh, đúng hay trước thời hạn, bên cạnh các khoản
giảm giá, chiết khấu thanh toán… cần khuyến khích thêm chẳng hạn bằng hình
thức tặng quà, nên dứt khoát không giao hàng cho những khách hàng chậm thanh
toán, nợ kéo dài.
4.4. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC:
4.4.1. Tổ chức lao động khoa học gắn với thi đua khen thưởng hợp lý:
* Đây là nhân tố chi phối rất lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh của nhà
máy.
- Bố trí sử dụng lao động hợp lý là những quyết định quan trọng ảnh hưởng
đến sản xuất và chất lượng sản xuất. Bên cạnh nâng cao công suất máy móc thiết
bị cần thiết phải nâng cao năng suất lao động.
- Xây dựng một tập thể đoàn kết nhất trí từ lãnh đạo Đảng, Ban Giám Đốc
đến các đoàn thể Cán bộ công nhân viên có quyết tâm cao, phấn đấu hoàn thành
kế hoạch đề ra. Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý, xây dựng mối
quan hệ tốt giữa người quản lý và người lao động
- Chất lượng lao động ngày càng được nâng cao, thường xuyên tổ chức
thực hiện công tác đào tạo và đào tạo lại cho tất cả Cán bộ công nhân viên về
chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ, tay nghề, trình độ quản lý, lý luận chính trị…
đặc biệt là những cán bộ trẻ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nhà máy trước
mắt và kế thừa. Lựa chọn đúng người, bố trí đúng chỗ, sẽ đảm bảo quá trình sản
xuất được tiến hành thuận lợi, đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động một cách
có hiệu quả nhất.
- Mặt khác điều kiện lao động phải luôn được chú trọng, đảm bảo an toàn
lao động, môi trường lao động phải thông thoáng, thoải mái tạo hiệu quả tâm lý
khi làm việc.
- Thực hiện chính sách khen thưởng – kỷ luật hợp lý, tổ chức những
chương trình sinh hoạt đoàn thể nhân những ngày lễ, những dịp kỉ niệm để cán bộ
công nhân viên nhà máy được vui chơi, nghỉ ngơi và thát chặt thêm tình đoàn kết
nội bộ.
- Đề ra những chỉ tiêu thi đua phù hợp nhằm khuyến khích phong trào thi
đua làm việc trong toàn nhà máy sôi động hơn, hiệu quả hơn.
- Sử dụng lao động hợp lý, có chính sách nhân sự thỏa đáng sẽ giúp nhà
máy có điều kiện khai thác triệt để nguồn nội lực, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Có thể nói với nguồn nhân lực dồi dào, kỹ năng làm việc cao, năng lực tốt,
đoàn kết thống nhất thì không chỉ tăng doanh thu, nâng cao lợi nhuận nhà máy còn
có thể đạt được những thành tựu cao hơn nữa trong tương lai.
4.4.2. Marketing hướng về khách hàng.
Trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, khách hàng là
yếu tố đặc biệt quan trọng. Quan niệm hướng về khách hàng là hết sức đúng đắn
trong tình hình cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
Muốn kinh doanh có hiệu quả cao, nhà máy xi măng An Giang phải tìm
phương thức hiệu quả nhất để thu hút nhiều khách hàng hơn nữa.
Quảng cáo có ảnh hưởng rất tốt cho nhà máy, giúp sản phẩm của nhà máy
có nhiều người biết đến. xi măng An Giang so với các loại xi măng được biết đến
từ lâu như xi măng Hà Tiên, xi măng Sao Mai (Holcim)…là tương đối còn mới
mẻ, chưa được người tiêu dùng biết nhiều. Để có thể chen chân cùng các sản
phẩm có truyền thống khác, nhà máy phải phá vỡ được thói quen tiêu dùng cũ của
khách hàng, tạo một ấn tượng tốt về sản phẩm của mình. Điều này chỉ có thể thực
hiện được bằng công tác tiếp thị, quảng cáo. Sau đây là một số chiến lược tiếp thị
cụ thể:
- Quan tâm và giữ chân khách hàng quen thuộc bằng chính sách ưu đãi và
uy tín sản phẩm. Thường xuyên thăm dò khách hàng thông qua việc hàng quý gửi
khách hàng phiếu góp ý, sẵn sàng tiếp nhận, giải đáp và giải quyết những khiếu
nại hay những yêu cầu hợp lý của khách hàng. Theo dõi để kịp thời phát hiện và
sửa chữa sai sót trong giao, vận chuyển sản phẩm đến tay khách hàng. Bên cạnh
đó, không thể bỏ qua chất lượng sản phẩm vì đây là yếu tố quyết định uy tín của
nhà máy.
- Mở rộng thị trường tiêu thụ, chủ yếu tập trung vào các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long vì theo quy hoạch phát triển đô thị các tỉnh này trong tương lai thì
nhu cầu xi măng sẽ còn tăng cao.
- Thâm nhập thị trường mới thu hút thêm khách hàng bằng cách tăng cường
quảng cáo trên báo đài. Thực hiện quảng cáo, xây dựng thương hiệu trên mạng
internet – một phương tiện thông tin đang được rất nhiều người sử dụng. Đối với
thị trường Campuchia đây là thị trường tiềm năng lại là nước láng giềng gần tỉnh
nhà, khâu vận chuyển tương đối thuận lợi. Bước đầu có thể thực hiện thâm nhập
từ từ thông qua các đại lý bán lẻ, khi có thị phần tiến hành xuất trực tiếp, sau đó có
thể mở chi nhánh hoặc xây dựng thêm nhà máy thứ hai tuỳ theo nhu cầu thị
trường
- Chào hàng giới thiệu sản phẩm đến các đại lý. Đại lý là mạng lưới phân
phối chủ yếu của nhà máy mang lại hiệu quả cao. Thông qua bán hàng đại lý nhà
máy có cơ hội quảng bá sản phẩm đến người tiêu dùng một cách nhanh chóng. Do
đó phát triển thêm nhiều đại lý, nhằm thiết lập một hệ thống đại lý rộng rãi là mục
tiêu cần đạt được hiện nay
- Áp dụng phương thức kinh doanh tạo thuận lợi cho khách hàng như: vận
chuyển sản phẩm đến tận nơi tiêu thụ, bán hàng trả chậm hợp lý, khuyến khích
mua với số lượng lớn được giảm giá …
- Tăng cường quảng bá thương hiệu qua thiết kế catalogue để giới thiệu sản
phẩm, tham gia các chương trình thương mại: Hội chợ hàng Việt Nam chất lượng
cao, hội chợ Vietbuild, hội chợ thương mại Việt – Cam, Việt – Thái …Kết hợp
công ty chủ quản cùng các xí nghiệp chi nhánh khác thực hiện các hội chợ xây
dựng, tư vấn cho khách hàng về những vấn đề liên quan đến xây dựng nhà ở, xí
nghiệp, cơ quan hay các công trình công cộng…nhằm tạo điều kiện cho sản phẩm
tiếp cận khách hàng.
- Cần phải nghiên cứu nắm vững tình hình tiêu thụ, thị trường tiêu thụ, sắp
xếp lại mạng lưới kinh doanh trên địa bàn hoạt động, tích cực khai thác thêm
nhiều thị trường mới, phấn đấu không ngừng để nâng cao uy tín.

PHẦN KẾT LUẬN


1. KẾT LUẬN:
Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, luận văn đã
hoàn thành những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Trình bày những lý luận chung nhất về doanh thu, lợi nhuận và các nhân
tố ảnh hưởng. Đây chính là cơ sở lý luận cho những phân tích ở chương 3 và các
giải pháp ở chương 4.
- Giới thiệu sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy xi
măng An Giang, trình bày khái quát cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý, tình hình
nhân sự, những thuận lợi, khó khăn và một số thành quả của nhà máy.
- Đi sâu vào phân tích doanh thu, lợi nhuận, đánh giá những nhân tố ảnh
hưởng đến doanh thu, lợi nhuận của nhà máy
- Trên cơ sở đánh giá tích cực, mặt tồn tại của nhà máy, đề ra một số giải
pháp nhằm tăng doanh thu, lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh
Quá trình thực tập và thực hiện đề tài đã giúp em hệ thống, liên kết những
kiến thức đã học ở trường với thực tiễn, tạo cho em cách nhìn toàn diện hơn về
phân tích kinh tế và vấn đề tài chính của một đơn vị hoạt động sản xuất kinh
doanh.
2. KIẾN NGHỊ:
Để những giải pháp nêu ở chương 4 thành công trên thực tế, đòi hỏi sự điều
hành của Ban lãnh đạo, sự nỗ lực phấn đấu và đoàn kết nhất trí của tập thể cán bộ
công nhân viên của nhà máy. Do đó, em xin kiến nghị một số vấn đề sau:
- Nhà nước cần giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu để giảm chi phí đầu vào.
- Nhà máy phải đảm bảo yếu tố chất lượng sản phẩm, quan tâm không chỉ
chất lượng xi măng mà cả bao bì, nhãn hiệu.
- Đề cao uy tín nhà máy với khách hàng lẫn nhà cung ứng, đây là một yếu
tố quan trọng trong cạnh tranh trên thị trường.
- Thực hiện chế độ phân phối lợi nhuận hoàn thiện trên cơ sở vừa đảm bảo
quy định của Bộ Tài chính vừa giải quyết được mối quan hệ giữa người lao động,
nhà máy và Nhà nước. Tiến hành phân phối thỏa đáng, gắn thu nhập của người lao
động với hiệu quả kinh doanh của nhà máy.
- Thiết lập đội ngũ Marketing chuyên biệt, nhằm phục vụ có hiệu quả trong
việc xúc tiến mở rộng thị trường tiêu thụ.

You might also like