You are on page 1of 22

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH

Mùa xuân năm 1931, từ ngày 20 đến ngày 26/3, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2, Trung
ương Đảng đã giành một phần quan trọng trong chương trình làm việc để bàn về công tác
thanh niên và đi đến những quyết định có ý nghĩa đặc biệt, như các cấp ủy Đảng từ Trung
ương đến địa phương phải cử ngay các ủy viên của Đảng phụ trách công tác Đoàn. Trước sự
phát triển lớn mạnh của Đoàn trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, ở nước ta xuất hiện nhiều tổ
chức Đoàn cơ sở với khoảng 1.500 đoàn viên và một số địa phương đã hình thành tổ chức
Đoàn từ xã, huyện đến cơ sở. Sự phát triển lớn mạnh của Đoàn đã đáp ứng kịp thời những đòi
hỏi cấp bách của phong trào thanh niên nước ta. Đó là sự vận động khách quan phù hợp với
cách mạng nước ta; đồng thời, phản ánh công lao trời biển của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vô cùng kính yêu - Người đã sáng lập và rèn luyện tổ chức Đoàn. Được Bộ Chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng và Bác Hồ cho phép, theo đề nghị của Trung ương Đoàn
thanh niên Lao động Việt Nam, Đại hội toàn quốc lần thứ 3 họp từ ngày 22 - 25/3/1961 đã quyết định lấy ngày
26/3/1931 (một ngày trong thời gian cuối của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2, dành để bàn bạc và quyết định
những vấn đề rất quan trọng đối với công tác thanh niên) làm ngày thành lập Đoàn hàng năm. Ngày 26/3 trở thành
ngày vẻ vang của tuổi trẻ Việt Nam, của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh quang vinh.

Từ ngày 26/3/1931 đến nay, để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng, Đoàn đã đổi tên
nhiều lần:

• Từ 1931 - 1936: Đoàn TNCS Việt Nam, Đoàn TNCS Đông Dương
• Từ 1937 - 1939: Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương
• Từ 11/1939 - 1941: Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương
• Từ 5/1941 - 1956: Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam
• Từ 25/10/1956 - 1970: Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
• Từ 2/1970 - 11/1976: Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh
• Từ 12/1976 đến nay: Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

Những thế hệ thanh niên kế tiếp nhau đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do của Tổ Quốc, vì chủ nghĩa xã hội
đã liên tiếp lập nên những chiến công xuất sắc và trưởng thành vượt bậc.

Cờ - Huy hiệu - Đoàn ca

Lá cờ Đoàn Huy hiệu Đoàn

Cờ Đoàn:

• Nền đỏ
• Hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba (2/3) chiều dài.
• Ở giữa có hình huy hiệu Đoàn.
• Đường kính huy hiệu bằng hai phần năm (2/5) chiều rộng cờ.

Huy hiệu Đoàn:

Ý nghĩa: Biểu thị sức mạnh, ý chí của thanh niên Việt Nam, tính xung kích của tuổi trẻ trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Bài hát Đoàn:

Năm 1953, Bác Hồ đi chiến dịch Đông Khê, Bác có đến thăm đơn vị thanh niên xung phong làm đường và Bác căn
dặn thanh niên “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí cũng làm nên”. Bài thơ
ấy đăng trên báo Cứu quốc và nhạc sĩ Hoàng Hòa – khi ấy đang công tác trong vùng địch hậu ở Thái Bình, đã đem
phổ nhạc.

Tháng 7/1954, tại Hội nghị cán bộ Đoàn toàn quốc, bài hát lần đầu tiên được giới thiệu và ngay lập tức đã trở nên
phổ biến. Bài hát đã đi theo đoàn quân tiếp quản Thủ đô và lan truyền qua nhiều thế hệ thanh niên.

Bài ca “Thanh niên làm theo lời Bác” được đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ 6 ( 15-18/10/1992) quyết định chọn là bài
ca chính thức của Đoàn.

Nhạc sĩ Hoàng Hòa từng là Bí thư tỉnh đoàn Hưng Yên, Bí thư Thành đoàn Hải Phòng, thường vụ Trung ương Đoàn
khóa III, IV, phụ trách thanh niên sinh viên. Ông đã về hưu tại Hà Nội.

Bài hát Đoàn


Tổ chức Đoàn mang tên gọi khác nhau qua các thời kỳ cách mạng

Tổ chức Đoàn mang tên gọi khác nhau qua các thời kỳ cách mạng

1.Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương

Tháng 5/1935, Mặt trận Nhân dân Pháp được thành lập và sau đó giành được đa số phiếu trong cuộc bầu cử Quốc
hội tháng 6/1936. Chính phủ phái tả lên cầm quyền ở Pháp. Căn cứ diễn biến tình hình thế giới và trong nước,
tháng 7/1936, Hội nghị T.Ư Đảng đã định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh cách mạng trong thời kỳ
mới.
Nhiệm vụ của Đảng và nhân dân ta lúc này là tập trung mũi nhọn đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và tay
sai, đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng chủ trương lập Mặt trận Nhân dân Phản đế sau
đổi thành mặt trận Thống nhất Dân chủ. Hội nghị BCH T.Ư Đảng họp tháng 7/1936 đã ra những quyết định quan
trọng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động TN. Theo đó, trong thời kỳ cách mạng từ
giữa năm 1936 đến mùa thu năm 1939, Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương mang tên Đoàn Thanh niên Dân
chủ Đông Dương phù hợp với nhiệm vụ chính trị qua các nghị quyết của Đảng như trên đã nêu. Đoàn Thanh niên
Dân chủ hoạt động công khai, có cơ quan báo chí riêng, đó là các tờ “Bạn dân”, “Thế giới”, “Mới” phát hành ở cả ba
miền đất nước. Đoàn đã xây dựng đội ngũ của mình gồm hàng vạn đoàn viên, đấu tranh kiên cường dưới ngọn cờ
của Đảng, tiếp nối truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương (1931 – 1935).
Ngoài việc phát hành báo, tổ chức Đoàn còn lập các Hội đọc sách, Hội văn nghệ, Hội thể thao, đặc biệt là hình
thành các nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Nhiều tác phẩm chính trị, văn học của C.Mác. F.Angghen, V.I.Lênin,
Goocki… như: “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, “Tư bản”, “Nhà nước là gì?”, “Người mẹ”… cũng như các cuốn sách
do các chiến sĩ cộng sản Việt Nam viết như: “Vấn đề dân cầy” của Qua Ninh và Vân Đình, “Mác xít phổ thông” của
Hải Triều và Thơ Tố Hữu được đông đảo đoàn viên, thanh niên hân hoan đón đọc.
Được sự quan tâm của các Xứ ủy Đảng, phong trào TN và tổ chức Đoàn được củng cố, phát triển sâu rộng, có hệ
thống từ cơ sở lên đến tỉnh, thành và xứ.
Tuy nhiên, đến tháng 9/1939, đại chiến thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Thực dân Pháp thẳng tay thi hành chính sách đàn
áp, khủng bố phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân và TN ta. Tổ chức Đoàn phải trở lại hoạt động bí mật.

2. Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dương

Tháng 11/1939, T.Ư Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định). NQ Hội nghị nhấn mạnh giải
phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của CMGP dân tộc, là nhiệm vụ hàng đầu của CM Đông Dương. Hội nghị chủ
trương lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các
giai cấp và dân tộc ở Đông Dương để đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Theo chủ trương của Đảng, Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương mang tên mới là Đoàn Thanh niên Phản đế
Đông Dương tiếp nối sự nghiệp vẻ vang của các tổ chức TNCS và TNDC trước đây. Đoàn đã xây dựng được cơ sở
ở nông thôn, trong nhà máy và các trường học. Trong tình hình mới, tổ chức Đoàn hoạt động bí mật và được tổ
chức chặt chẽ. Những ĐVTN Dân chủ được thử thách, lựa chọn và chuyển thành ĐVTN Phản đế, các hội viên TN
trong các tổ chức TN phổ thông được giao những công tác thích hợp để thử thách bồi dưỡng.
Tháng 9/1940, Phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Từ đây nhân dân Việt Nam một cổ hai tròng, bị hai kẻ thù là
phát xít Nhật và thực dân Pháp cùng thống trị. Nhưng nhân dân Việt Nam và thế hệ thanh niên nước ta thời kỳ này
không chịu khuất phục: Tháng 9/1940, khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra; tháng 11/1940, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ với sự
xuất hiện lần đầu tiên lá Cờ đỏ Sao Vàng; tháng 1/1941, nổ ra cuộc binh biến ở đồn Chợ Rạng và đồn Đô Lương.
Các tổ chức Đoàn TN Dân chủ sau đó là Đoàn Thanh niên Phản đế đã vận động thanh niên đi đầu trong các cuộc
đấu tranh và khởi nghĩa vũ trang từng phần, báo hiệu một thời kỳ mới: chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân.

3. Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam

Tháng 11/1940, Hội nghị TƯ Đảng lần thứ 7 họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) trong đó có phần nói về: “Vấn đề tổ chức
các đoàn thể quần chúng”. Nghị quyết hội nghị ghi: “Vì chính sách của Đảng ta hiện tại là chính sách cứu quốc cho
nên mục đích các hội quần chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu…… Việt Nam thanh niên Cứu quốc từ nay
là đoàn thể của tất thảy thanh niên từ 18 đến 22 tuổi muốn tranh đấu đánh Pháp, đuổi Nhật”.
Ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc bí mật về nước để cùng Ban chấp hành TW Đảng trực tiếp lãnh đạo phong
trào cách mạng Việt Nam. Đây là sự kiện hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta…
Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 của TƯ Đảng họp tại Pắc Bó (Cao Bằng) do Nguyễn ái Quốc, đại diện của Quốc tế
cộng sản triệu tập và chủ trì. Hội nghị đã nêu một quyết tâm sắt đá: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn
đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân
tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Để tập hợp động viên các tầng lớp nhân dân đứng lên đánh đuổi phát xít Pháp - Nhật, Hội nghị quyết định thành lập
Việt Nam Độc lập đồng minh (Gọi tắt là Việt Minh) và các Hội cứu quốc, trong đó có: Đoàn Thanh niên Cứu quốc -
Việt Nam - một tổ chức của những thanh niên yêu nước tiếp nối sự nghiệp của các tổ chức thanh niên do Đảng ta
và lãnh tụ Nguyễn ái Quốc sáng lập và lãnh đạo trước đó.
Hội nghị TƯ Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn thành việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
trong thời kỳ mới. Hội nghị đã nêu rõ vai trò, trách nhiệm của Đoàn TN Cứu quốc trong cao trào đấu tranh của giải
phóng dân tộc. Trong suốt chặng đường dài từ 1941 – 1956, Đoàn TNCQ Việt Nam đã đóng góp to lớn, kể cả hy
sinh xương máu, cùng dân tộc vùng dậy trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên Nhà nước Dân chủ, cộng hòa - Nhà
nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á. Tháng 2/1950, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam được
triệu tập tại căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Đây là Đại hội đại biểu toàn quốc đầu tiên của Đoàn, gồm trên 400 đại
biểu của ba miền đất nước. Sau đó, Đoàn đã vận động đoàn viên, TN đi tiếp chặng đường hơn 9 năm kháng chiến
đầy gian khổ, hy sinh góp phần xứng đáng làm nên một Điện Biên chấn động địa cầu, giải phóng hoàn toàn miền
Bắc (7/1954), bắt tay xây dựng hậu phương lớn XHCN ở miền Bắc, chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam.

4 - Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam

Tháng 7/1954, hòa bình đợc lập lại trên miền Bắc, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ mới, Bộ Chính trị T.Ư Đảng
trong phiên họp tháng 9/1954 đã chủ trơng đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam và xây dựng
Đoàn TNLĐ Việt Nam thành một tổ chức thực sự có tác dụng là lực lợng dự trữ và cánh tay của Đảng.
Quyết nghị có đoạn viết: “Đảng ta là Đảng Lao động Việt Nam. Việc Đoàn TNCQ Việt Nam đổi tên thành Đoàn TNLĐ
Việt Nam sẽ làm cho thanh niên thêm phấn khởi, thêm gắn bó với Đảng và do đó càng quyết tâm phấn đấu đến
cùng dới ngọn cờ của Đảng”.
Trong “Quyết nghị về đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam và kế hoạch xây dựng Đoàn TNLĐ
Việt Nam” (Ban Bí th T.Ư - ngày 19/10/1955) đã nêu rõ tính chất, nhiệm vụ, vấn đề tổ chức và kế hoạch xây dựng
Đoàn TNLĐ Việt Nam.
Về tính chất của Đoàn TNLĐ Việt Nam, Quyết nghị nêu: “Đoàn TNLĐ Việt Nam là một tổ chức quần chúng tiên tiến
của TN Việt Nam, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Đoàn TNLĐ Việt Nam là trờng học của chủ nghĩa Mác-Lênin
của thanh niên, là nơi bồi dỡng lực lợng dự trữ của Đảng, là cánh tay thực hiện mọi chính sách của Đảng”. Quyết
nghị của Đảng đã vạch rõ nhiệm vụ của Đoàn trong thời kỳ mới và đề ra kế hoạch xây dựng Đoàn là:
1. Đảm bảo tính chất tiên tiến của Đoàn… Không kết nạp ồ ạt và tập thể. Nơi nào cha có đủ điều kiện đổi tên Đoàn
thì cha đổi.
2. Làm cho ĐVTN có một nhận thức đúng đắn về Đoàn TNLĐ Việt Nam. Việc kết nạp đoàn viên hoặc đổi tên Đoàn
phải trên cơ sở tự nguyện, tự giác của TN.
3. Kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện những nhiệm vụ công tác chính trớc mắt do Đảng đề ra… Việc xây dựng
Đoàn TNLĐ Việt Nam cần làm một cách có lãnh đạo và có kế hoạch cụ thể cho từng vùng…”.
Quyết nghị nêu kết luận: “Việc đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam là một việc rất quan trọng
có ảnh hởng đến việc xây dựng một phong trào thanh niên lớn mạnh trong toàn quốc, đến việc phát triển cơ sở
Đảng trong quần chúng lao động và việc hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Các cấp ủy Đảng cần
nắm vững đờng lối vận động thanh niên của Đảng, trực tiếp lãnh đạo thực hiện nghị quyết này”.

5 - Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh

Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc,
Danh nhân văn hóa thế giới, người sáng lập rèn luyện Đoàn ta qua đời. Toàn thể cán bộ, ĐVTN và đội viên thiếu
niên, nhi đồng nước ta vĩnh biệt Người với nỗi xót thương vô hạn. Bác Hồ và Đảng đã coi sự trưởng thành của lớp
thanh niên nước ta là một trong những thành quả vĩ đại của cách mạng, có quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau.
Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, đáp ứng nguyện vọng của thế hệ trẻ và theo đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt
Nam, nhân dịp kỉ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng (3/2/1930 – 3/2/1970), BCH T.Ư Đảng đã ra Nghị quyết cho
Đoàn Thanh niên và đội thiếu niên, Đội Nhi đồng được mang tên Bác.
Nghị quyết nêu rõ: “… Thể theo nguyện vọng của thế hệ trẻ nước ta và đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt Nam”. BCH T.Ư
Đảng Lao động Việt Nam Quyết định:
- Đoàn TNLĐ Việt Nam nay là Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh
- Đội TNTP Việt Nam nay là Đội TNTP Hồ Chí Minh
- Đội Nhi đồng Việt Nam nay là Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh
Tổ chức Đoàn và tổ chức đội được mang tên Bác là vinh dự lớn lao, đồng thời là trách nhiệm nặng nề trước Tổ
quốc và nhân dân. Đoàn ta được mang tên Bác Hồ càng làm rõ mục đích và tính chất của Đoàn là đội tiên phong
chiến đấu của TN, đi đầu phấn đấu cho lý tưởng cách mạng cao cả của Đảng và Bác Hồ là độc lập, dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.

6. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

Tháng 4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Ngày 26/3/1976, Lễ kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Đoàn đã được tổ chức trọng thể tại Hà Nội. Tại Lễ kỷ niệm
này, tổ chức Đoàn trong cả nước đã thống nhất mang tên chung là Đoàn Thanh Niên Lao động Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến 20/12/1976 tại Thủ đô Hà Nội đã quyết định đổi tên đảng Lao động
Việt Nam (2-1951) thành Đảng Cộng Sản Việt Nam và thể theo nguyện vọng của cán bộ, ĐVTN cả nước, Đại hội
Đảng lần thứ IV đã quyết định đổi tên Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh (1970) thành: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh.
Đại hội Đảng chỉ rõ nhiệm vụ của Đoàn và phong trào thanh niên trong giai đoạn mới là: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
phải được xây dựng và củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là trường học CSCN của
lớp người trẻ tuổi, là cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng”.
Được mang tên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là vinh dự và tự hào lớn của toàn thể cán bộ đoàn viên nước ta.
Gần 30 năm trôi qua, kể từ ngày được mang tên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Tổ chức Đoàn và tuổi trẻ cả nước luôn
cống hiến hết mình vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đổi mới đất nước, đặc biệt là trong công cuộc đẩy
mạnh CNH, HĐH dưới sự lãnh đạo của Đảng vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.

QUÁ TRÌNH RÈN LUYỆN, CỐNG HIẾN VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ
MINH

Ngay từ khi mới ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn đã phát huy được vai trò xung
kích, với những gương đoàn viên hy sinh, chiến đấu để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của Đảng, xứng đáng là cánh
tay đắc lực và là đội dự bị của Đảng.

1.- Cao trào đấu tranh những năm 1930 - 1931 - với đỉnh cao Xô Viết - Nghệ Tĩnh - là trận thử lửa đầu tiên đối
với lớp đoàn viên, thanh niên cộng sản đầu tiên của Đoàn ta. Trong cuộc đối đầu đó, biết bao đồng chí đã tỏ rõ khí
phách anh hùng và quyết tâm một lòng theo Đảng làm cách mạng, đã mở đầu cho truyền thống cách mạng vẻ vang
của Đoàn, như: Cao Xuân Quế, Lê Cảnh Nhượng và nhiều đoàn viên ưu tú khác. Cũng trong trận thử lửa này, lịch
sử đã để lại tấm gương oanh liệt của người đoàn viên thanh niên cộng sản Lý Tự Trọng với câu nói bất hủ "Con
đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không thể có con đường nào khác" – câu nói đã trở
thành phương châm hành động của tuổi trẻ Việt Nam.

2.- Trong phong trào đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cải thiện đời sống, Đoàn
thanh niên Dân chủ tiếp nối Đoàn Thanh niên cộng sản Đông Dương trong sự nghiệp tổ chức, giáo dục động viên
tuổi trẻ đi đầu thực hiện nhiệm vụ của Đảng giao cho. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp thanh niên đã trở thành
làn sóng mạnh mẽ, đòi nhà toàn quyền Pháp ở Đông Dương phải ban hành một số quyền lợi của công nhân và lao
động làm thuê, như: giảm giờ làm, tăng tiền lương tối thiểu, cấm cúp phạt bằng tiền, có chế độ nghỉ thai sản cho phụ
nữ, ra sắc lệnh "ân xá" tù chính trị ở Đông Dương.

3.- Trong cao trào giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, dưới ngọn cờ của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn đã động viên tuổi trẻ cả nước góp phần xứng đáng vào thành công to lớn của tổng
khởi nghĩa, xứng đáng là quân đội xung kích cách mạng, là lực lượng tiên phong, là hạt nhân chính trị tập hợp đông
đảo lực lượng, nam, nữ thanh niên Việt Nam đứng lên cùng toàn dân đấu tranh kiên cường vì độc lập tự do của Tổ
quốc. Thanh niên Việt Nam đã cùng toàn quân, toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Quyết tâm đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập" [1].
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một Nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

4.- Trong cuộc đấu tranh bảo vệ củng cố chính quyền cách mạng và trong kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên hoạt động một cách công khai
dưới chế độ mới và trưởng thành nhanh chóng về tư tưởng, tổ chức. Đoàn tập hợp hàng triệu đoàn viên, thanh niên
làm nhiệm vụ xung kích bảo vệ và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến lâu dài của dân tộc. Tháng 12/1946, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân
Pháp của chủ tịch Hồ Chí Minh, với ý chí "cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh", thanh niên cả nước đã một lòng cùng
toàn dân nêu cao tấm gương sáng ngời về tinh thần xả thân vì độc lập tự do, như Lê Gia Định - người chiến sĩ cộng
sản trẻ tuổi đã hy sinh anh dũng và được truy tặng danh hiệu cao quý "Cảm tử quân số 1 của Thủ đô". Tinh thần của
anh cũng là khẩu hiệu hành động của tuổi trẻ:

"Không có việc gì khó


Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên"

Đoàn đã động viên thanh niên trên các mặt trận nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chiến đấu ngoan
cường, đồng thời phát động trong tuổi trẻ cả nước phong trào toàn quân giết giặc, đưa cuộc kháng chiến đến thắng
lợi hoàn toàn với một Điện Biên thiên anh hùng ca bất diệt. Qua 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, Đoàn thanh niên và tuổi trẻ cả nước đã hiến dâng cho Tổ quốc hàng chục vạn đoàn viên, thanh niên ưu
tú, gần 3 triệu người tham gia bộ đội chủ lực, 5 triệu lượt người tham gia dân quân du kích, công nhân hỏa tuyến …
và biết bao tấm gương chiến đấu ngoan cường, góp phần làm rạng rỡ gương mặt Tổ quốc ta và làm cho thực dân
Pháp phải chuốc lấy thất bại thảm hại.

"Lần đầu tiên trong lịch sử; một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân mạnh. Đó là thắng lợi
của dân tộc Việt Nam, đồng thời là thắng lợi của các thế lực hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới"
đưa cách mạng nước ta bước vào thời kỳ đấu tranh mới - thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoàn
thành cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam, thời kỳ chống Mỹ, cứu nước giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Với tinh thần lao động quên mình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đoàn đã động viên các tầng lớp
thanh niên tham gia vào công cuộc cải cách ruộng đất, xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Phong trào "Lao
động tình nguyện vượt mức kế hoạch nhà nước" 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) đã có 2 triệu đoàn viên, thanh
niên đăng ký tình nguyện, 6 vạn đoàn viên thanh niên thực hiện vượt mức kế hoạch, 22 ngàn thanh niên là chiến sĩ
thi đua, 37 đoàn viên thanh niên được tặng danh hiệu anh hùng lao dộng, nhiều điển hình "Người tốt, việc tốt" trên
các lĩnh vực, làm hậu thuẫn cho sự nghiệp giải phóng miền Nam.

5.- Trong công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, với ý chí "không có gì quý hơn độc lập tự do", với
tinh thần "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn đã động
viên các tầng lớp thanh niên tham gia vào 2 phong trào "3 sẵn sàng" và "5 xung phong". Có 7 triệu đoàn viên thanh
niên đã đăng ký tình nguyện; 21.000 đoàn viên thanh niên tham gia chống Mỹ, cứu nước; 1,5 triệu đoàn viên thanh
niên nhận nhiệm vụ khó mà Đảng yêu cầu. Phong trào "3 sẵn sàng" và "5 xung phong" đã đáp ứng được nhiệt huyết
của thanh niên, khao khát được cống hiến sức lực và trí tuệ cho đất nước, Đoàn đã động viên thanh niên cả nước
góp phần đánh bại "chiến tranh đặc biệt", "chiến tranh cục bộ", "Việt Nam hóa chiến tranh" và đặc biệt, với chiến
dịch thần tốc mùa xuân 1975, cuộc đối đầu lịch sử của dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ đã làm cho đế quốc Mỹ,
thất bại thảm hại trước sức mạnh và ý chí đấu tranh kiên cường của nhân dân Việt Nam dưới ngọn cờ của Đảng và
Bác Hồ vĩ đại. Đoàn Thanh niên xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, đội tiên phong chiến đấu và chiến thắng.
Đại thắng mùa xuân 1975 lại tô thắm thêm truyền thống của Đoàn.

6.- Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tuổi trẻ Việt Nam tiếp tục gánh vác sứ mệnh to lớn là
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, theo đường lối đổi mới của Đảng, Đoàn phát động thanh
niên phong trào "tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", có 1,5 triệu đoàn viên đăng ký tình nguyện xây dựng:
23.639 công trình thanh niên, 10 vạn đoàn viên thanh niên tham gia xây dựng tuyến đường sắt Bắc - Nam dài
1.720km; xây dựng 56 công trường, 35 khu kinh tế mới, 30 công trình thủy lợi, 289.639 sáng kiến.

Trong phong trào "3 xung kích làm chủ tập thể" có 2 triệu đoàn viên thanh niên tham gia đăng ký, 62.715 công
trình thanh niên, 6.000 tập thể đạt danh hiệu tập thể học sinh xã hội chủ nghĩa, 1.195 đoàn viên thanh niên được
tặng Huy chương tuổi trẻ anh hùng bảo vệ Tổ quốc.

7.- Trong công cuộc đổi mới của Đảng, tuổi trẻ Việt Nam đã "hành quân theo bước chân những người anh hùng",
"hành quân theo chân Bác", tiếp bước cha anh đi đầu trong công cuộc đổi mới, 2 phong trào "thanh niên lập nghiệp",
"tuổi trẻ giữ nước" đã động viên hàng triệu đoàn viên thanh niên tham gia, đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình
trong lao động, chiến đấu, học tập, xây dựng cuộc sống mới.

Các phong trào "Xứng danh anh bộ đội cụ Hồ" thực hiện "6 điều Bác Hồ dạy", "Đoàn kết 3 lực lượng", "Đền ơn
đáp nghĩa", "Sản xuất, kinh doanh giỏi", "3 mục tiêu dân số, sức khỏe, môi trường", "Dạy tốt, học tốt". "Học vì ngày
mai lập nghiệp" … là biểu hiện cụ thể những cố gắng, nỗ lực vượt bậc của tuổi trẻ Việt Nam trong, thời kỳ công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Đại hội
đại biểu Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ VII (1997) lại một lần nữa khẵng định khẩu hiệu
hành động của tuổi trẻ trong thời kỳ mới "Thanh niên Việt Nam xung kích, sáng tạo vì sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước; vì tương lai tươi sáng của tuổi trẻ".

Để ghi nhận công lao to lớn của tuổi trẻ Việt Nam 75 năm qua, Đảng và Nhà nước đã tặng cho Đoàn và phong
trào thanh niên nước ta: 10 huân chương kháng chiến, 13 huân chương lao động, 1 huân chương Độc lập, 3 huân
chương Hồ Chí Minh, 1 huân chương Sao vàng và hàng trăm đoàn viên thanh niên được Nhà nước tặng danh hiệu
anh hùng, trong đó Thành Đoàn thành phố Hồ Chí Minh đã được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân và Huân chương Độc lập hạng Nhì, nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Đoàn.

Những truyền thống vẻ vang của Đoàn và tuổi trẻ VN

Suốt 75 năm cống hiến và trưởng thành dưới ngọn cờ của Đảng quang vinh và Bác Hồ kính yêu, tổ chức Đoàn và
tuổi trẻ nước ta đã xây đắp nên những truyền thống vẻ vang.

Đó là:

+ Truyền thống yêu nước nồng nàn, gắn bó thiết tha, trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân, với chế độ
XHCN.

Truyền thống quý báu này đã tạo nên động lực vô giá xuyên suốt các thời kỳ lịch sử được thể hiện trong hành động
cách mạng, nhất là ở những bước ngoặt của lịch sử.

Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, điều kiện nào, tuyệt đại bộ phận thanh niên ta luôn siết chặt hàng ngũ xung quanh
Đảng lãnh đạo, chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

+ Truyền thống của đội quân xung kích cách mạng, dám đón lấy những nhiệm vụ nặng nề, dám đi đến những nơi
khó khăn, gian khổ, dám suy nghĩ sáng tạo… để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên đi đầu”, thế hệ trẻ nước ta luôn
nêu cao tinh thần hăng hái sẵn sàng xung phong đến những nơi Tổ quốc cần, dù đó là biên cương hay hải đảo, dù
công việc đó là mới mẻ hay khó khăn.

+ Truyền thống gắn bó đoàn kết trong lớp người cùng lứa tuổi, trong các tổ chức Đoàn và Hội; đoàn kết gắn bó với
nhân dân; thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn nạn, đặc biệt là vào những thời điểm phải đối mặt với kẻ thù hay
thiên tai.

Đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế luôn hòa quyện với nhau, thông cảm và đồng tâm hợp lực vì những mục tiêu
cao cả của dân tộc và thời đại.

+ Truyền thống hiếu học, ham hiểu biết để tự mình nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, quản lý
và quân sự… say mê sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, để cống hiến cho sự nghiệp của dân tộc và của Đảng.

Học ở nhà trường, học trong cuộc sống, học để làm người có ích cho xã hội luôn được các thế hệ thanh niên ta
phấn đấu, thực hiện ngày càng tốt hơn.

Phát huy những truyền thống quý báu nêu trên, các thế hệ đoàn viên, hội viên, thanh niên, đội viên thiếu niên và nhi
đồng ở nước ta đã tiếp bước theo nhau góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của nước ta ngày càng phát triển
mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, thử thách đạt nhiều thắng lợi hết sức to lớn, những kỳ tích vẻ vang trong thế kỷ
XX làm cho Tổ quốc XHCN của chúng ta có vị thế xứng đáng trong cộng đồng quốc tế, vững bước tiến vào thế kỷ
XXI.
Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam
Hội doanh nhân Trẻ Tp. Hồ Chí Minh ( trước đây là Hội các nhà doanh nghiệp trẻ TP. Hồ Chí Minh) được thành lập từ
tháng 10/1994, là một tổ chức đầu tiên của các doanh nhân trẻ Việt Nam. Tôn chỉ của Hội là tập hợp các doanh nhân
trẻ với mục đích cùng nhau lập thân, lập nghiệp và góp phần phát triển nền kinh tế đất nước

ĐỘI THIẾU NIÊN TIỀN PHONG HỒ CHÍ MINH


Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là tổ chức của thiếu nhi Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam sáng lập, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phụ trách. Đội là tổ chức nòng cốt trong các phong trào
thiếu nhi, là lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.

Hội Liên Hiệp Thanh niên Việt nam


Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam là một tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên Việt Nam yêu nước theo tư
tưởng Hồ Chí Minh và lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hội Sinh viên Việt Nam


Hội Sinh viên Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giới sinh viên Việt Nam. Hội bao gồm những sinh viên
Việt Nam đang học tại các trường đại học, Cao đẳng ở trong và ngoài nước có mục đích phấn đấu cho nước
Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, văn minh và vì những quyền hợp pháp của sinh viên.

Cuộc thi tìm hiểu "75 năm lịch sử vẻ vang của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh"
16:52:23, 05/01/2006
Văn Tùng - Phạm Bá Khoa

Phần I: Những đoàn viên thanh niên cộng sản Việt Nam thuộc lớp đầu tiên

1- Tìm về nguồn cội

Mùa hè năm 1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Nga dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V. Những người lãnh đạo Quốc tế
thanh niên cộng sản (tổ chức này do V.I.Lênin trực tiếp sáng lập từ năm 1919) tha thiết mời Nguyễn Ái Quốc tham gia ban trù bị
Đại hội Quốc tế Thanh niên cộng sản lần thứ IV.

Giữa bộn bề công việc đang đến với mình nhưng Nguyễn không thể từ chối. Người yêu cầu lập ngay một nhóm làm việc trong
đó có các đồng chí như Đa Lin, Phó trưởng Ban quốc tế của Quốc tế Thanh niên cộng sản, Trương Thái Lôi, người anh hùng của
Công xã Quảng Châu (Trung Quốc) sau này, v.v... Điều làm cho Nguyễn Ái Quốc hết sức trăn trở nhiều năm nay là tình trạng
"Thiếu tổ chức và người tổ chức" ở các thuộc địa tuy "luồng gió mới" của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã làm dấy lên
tinh thần đấu tranh ở những nơi còn phải chìm đắm trong đêm đen nô lệ; nhưng chỉ với tinh thần thôi mà "thiếu tổ chức, thiếu
người tổ chức" thì liệu những người đang bị đọa đày ấy sẽ làm được điều gì?

Ngày 15/7/1924, Đại hội Quốc tế Thanh niên cộng sản lần thứ IV diễn ra trọng thể tại hội trường Công đoàn ở Matxcơva.

Nguyễn Ái Quốc với tư cách là ủy viên Đoàn chủ tịch lãnh đạo Đại hội mang thẻ đại biểu số 94, đại biểu duy nhất của thanh
niên Đông Dương và cũng là đại biểu duy nhất của toàn thể thanh niên các nước thuộc địa từ Á sang Phi đã phát biểu nhiều lần
tại các phiên họp chung ở hội trường. Song, giờ phút đáng nhớ và gây xúc động nhất chính là lúc Nguyễn Ái Quốc trình bày bản
dự thảo "Luận cương về thanh niên thuộc địa" do chính Người chủ trì soạn thảo (1).

Chỉ một năm sau, tác giả chính của "Luận cương về thanh niên thuộc địa" (2) nổi tiếng ấy có mặt ở Quảng Châu. Tại "Thủ đô
cách mạng của châu Á" này, Nguyễn Ái Quốc đã mở trường, cho xuất bản báo để bồi dưỡng, đào tạo các lớp thanh niên yêu
nước Việt Nam từ Tổ quốc mình dũng cảm vượt qua vòng vây của kẻ thù đi tìm chân lý cứu nước. Từ giờ phút này (giữa năm
1925) Nguyễn Ái Quốc bắt đầu quá trình chuẩn bị sáng lập một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Việt Nam cùng một tổ chức thanh niên cộng sản Việt Nam làm đội hậu bị cho Đảng, làm lực lượng nòng cốt cho phong trào
thanh niên yêu nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Chính vì vậy Bác Hồ đã dạy: "Khi nói đến lịch sử Đoàn chúng ta nên đi ngược lên đến năm 1925" (3) và cũng chính vì vậy khi
nói đến những đoàn viên đầu tiên do Bác trực tiếp bồi dưỡng, đào tạo chúng ta phải tìm về nguồn cội.

.................
(1) (2) "Nguyễn Ái Quốc là tác giả chính bản luận cương về thanh niên thuộc địa" - trích luận án phó tiến sĩ sử học mã số 50304
của Văn Tùng công bố trên Báo Nhân dân số ra ngày 8/4/1990 nhân tiến tới kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh 19/5/1990.

(3) "Lịch sử Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên Việt Nam", NXBTN-2004 - tr.5.

2 - Từ 8 thiếu niên ngày ấy

Từ những năm 1924 đến 1926, phong trào yêu nước của nhân dân ta, đặc biệt là của tuổi trẻ có sự bùng phát gây cho bọn thực
dân và phong kiến không ít hoang mang, lo sợ. Tiếng bom Sa Diện mưu sát toàn quyền Đông Dương Méc Lanh (Merlin) của
người thanh niên yêu nước Phạm Hồng Thái tuy không thành nhưng như Trần Dân Tiên nhận định: "Nó báo hiệu bắt đầu thời đại
đấu tranh dân tộc như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân".

Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra Hội cách mạng thanh niên Việt Nam (trước đây gọi là "Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội"), tổ chức tiền thân của Đảng ta. Đây là sự kiện quan trọng trong lịch sử của Đảng và dân tộc. Trường huấn
luyện chính trị do chính Người chủ trì cùng các đồng chí cộng sự Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn... ra đời thu hút
nhiều lớp thanh niên yêu nước vượt biên giới đến học rồi trở về nước hoạt động, xây dựng tổ chức.

Với cương vị là người theo dõi phong trào cách mạng các nước châu Á, Nguyễn Ái Quốc biết được lúc này ở vùng Đông Bắc
Thái Lan đang có nhiều đồng bào ta do bị thực dân Pháp khủng bố phải lánh sang nước bạn. Họ là những người yêu nước từng
tham gia hoặc ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp do các sĩ phu lãnh đạo. Họ luôn canh cánh trong lòng tinh thần phục quốc,
họ mở trường học cho con em, mời các thanh niên từng "Đông du" ở Nhật về dạy.

Mùa hè năm 1926, Nguyễn Ái Quốc, lúc này mang bí danh là Lý Thụy cử Hồ Tùng Mậu, người đồng chí thân thiết của mình trở
lại Thái Lan chọn một số thiếu niên con em các gia đình yêu nước đưa sang Quảng Châu đào tạo nhằm chuẩn bị cho việc xây
dựng Thanh niên cộng sản đoàn. Đến Thái Lan, Hồ Tùng Mậu liên lạc được với cụ Tú Đặng tức Đặng Thúc Hứa, một sĩ phu chủ
chốt trong "Quang phục Hội" truyền đạt ý kiến của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.

Việc lựa chọn được thực hiện rất thận trọng, duy có một học sinh làm mọi người băn khoăn vì còn nhỏ tuổi quá (mới 12). Song
cuối cùng, xét về cả tư chất và thân nhân, Hồ Tùng Mậu quyết định đưa vào danh sách. Đó chính là Lê Hữu Trọng.

Nhóm thiếu niên học sinh đầu tiên người Việt từ Đông Bắc Thái Lan đến Quảng Châu rất sung sướng, vui mừng được gặp ngay
đồng chí Lý Thụy. Đúng hơn, đây có thể coi là một cuộc "đoàn tụ" giữa những người thân trong gia đình. Để đảm bảo tính hợp
pháp và nguyên tắc bí mật, cả nhóm có bí danh và đều mang họ Lý. Đó là: Lê Hữu Trọng mang bí danh Lý Tự Trọng; Đinh
Chương Long mang bí danh Lý Văn Minh; Vương Thúc Thoại mang bí danh Lý Thúc Chất; Hoàng Tự mang bí danh Lý Anh Tự
(có lúc đọc lệch là Tợ); Ngô Trí Thông mang bí danh Lý Trí Thông; Ngô Hậu Đức mang bí danh Lý Phương Đức (nữ); Nguyễn
Thị Tích mang bí danh Lý Phương Thuận (nữ); Nguyễn Sinh Thản mang bí danh Lý Nam Thanh.

3 - Kế hoạch đào tạo lâu dài

Tại tầng hai ngôi nhà 13A phố Văn Minh (Quảng Châu, Trung Quốc), đồng chí Lý Thụy yêu cầu Tổng bộ Hội Cách mạng thanh
niên mà cụ thể là đồng chí Lê Hồng Sơn tổ chức một lớp học chính trị ngắn ngày riêng cho các thiếu niên với nội dung dễ hiểu.
Sau đó hầu như tuần nào đồng chí Lý Thụy cũng đến thăm lớp. Người thường kể về các tấm gương anh hùng của dân tộc như:
Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung và cả Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám cho học sinh nghe.
Người còn yêu cầu tổ chức cho học sinh tham quan cảnh đẹp, thăm mộ Phạm Hồng Thái... và sinh hoạt văn nghệ.

Những tháng hè và thời gian học chính trị qua nhanh. Thực hiện chủ trương đào tạo có hệ thống của đồng chí Lý Thụy, các đồng
chí trong Tổng bộ đã liên hệ đưa 8 học sinh vào học tại Trường Trung học Trung Sơn (Quảng Châu) trong lúc chờ đợi việc tiếp
tục học tập tại Liên Xô.

Ngày 22/7/1926, đồng chí Lý Thụy gửi một bức thư cho Ủy ban Trung ương Đội Thiếu niên tiền phong thuộc Trung ương Đoàn
TNCS Lênin: "Chúng tôi có tại đây (Quảng Châu, Trung Quốc) một nhóm thiếu niên Việt Nam... các em còn nhỏ nhưng đã đau
khổ nhiều, các em đã để cha mẹ ở nhà hàng ngàn cây số để bí mật đến Trung Quốc...". Thư đề nghị bạn nhận đào tạo những
"Thiếu niên cộng sản đầu tiên của Việt Nam" này thành những "chiến sĩ Lêninnít trẻ tuổi" và đề xuất kế hoạch tiếp nhận rất cụ
thể, chi tiết. Dưới thư ký tên: Nguyễn Ái Quốc và ghi địa chỉ của Người: "Nilốpxki - Hãng thông tấn Rôxta Quảng Châu, Trung
Quốc".

Cùng ngày, đồng chí Lý Thụy còn gửi cho đồng chí đại diện Đoàn TNCS Pháp tại Quốc tế Thanh niên Cộng sản về việc Người
đã gửi thư cho Ủy ban Trung ương Đội Thiếu niên thuộc Trung ương Đoàn TNCS Lênin đề nghị tiếp nhận một số thiếu niên Việt
Nam để đào tạo cùng lời yêu cầu đại diện Đoàn TNCS Pháp liên hệ với Trung ương Đoàn TNCS Lênin ủng hộ chủ trương của
Người. Dưới thư ký tên: Nguyễn Ái Quốc, nhưng ghi địa chỉ với tên là Lưu (không phải là Nilốpxki) cùng cơ quan là thông tấn
xã Rôxta - Quảng Châu, Trung Quốc.

Qua hai bức thư này chúng ta càng thấy rõ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã quan tâm và kiên trì chủ trương đào tạo, bồi dưỡng, lớp
thiếu niên học sinh Việt Nam đầu tiên nhằm chuẩn bị tiến tới xây dựng tổ chức TNCS ở nước ta đến mức nào. Lời đề nghị của
Người đã được Trung ương Đoàn TNCS Lênin đáp ứng thuận lợi. Tuy nhiên, khi kế hoạch đưa các học sinh Việt Nam sang Liên
Xô đang được chuẩn bị triển khai thì ngày 15/4/1927, sau khi Tôn Trung Sơn mất, phái hữu (phản động) trong Quốc dân đảng
Trung Quốc phá vỡ sự hợp tác Quốc - Cộng, làm đảo chính ở Quảng Châu.

4 - Vượt qua thử thách trở thành đoàn viên

Không chịu khuất phục trước sự phản bội hèn hạ của bọn phản động quốc dân đảng, ngày 11/12/1927, một cuộc khởi nghĩa làm
chấn động thế giới đã nổ ra ở Quảng Châu. Theo lời kêu gọi của Ban chấp hành tỉnh ủy Đảng cộng sản Trung Quốc tỉnh Quảng
Đông và chủ trương của Tổng bộ Hội Cách mạng thanh niên, 8 học sinh Việt Nam tại Trường Trung Sơn cùng với hầu hết học
viên Việt Nam Trường võ bị Hoàng Phố đã sát cánh với các chiến sĩ cộng sản Trung Quốc cùng đội ngũ công nhân và quần
chúng cách mạng chiến đấu quyết liệt với quân đội của bọn phản động.

8 học sinh Việt Nam Trường Trung Sơn chia thành từng nhóm gia nhập các đội tuyên truyền, liên lạc, tiếp vận... phục vụ quân
khởi nghĩa. Đây là cuộc thử thách quyết liệt đầu tiên đối với họ. Lúc đầu Lý Phương Đức và Lý Tự Trọng tham gia vào đội liên
lạc, nhưng sau đó Trọng xin cấp vũ khí và tham gia đội tự vệ công nhân trực tiếp chiến đấu trên các chiến lũy dựng lên khắp các
đường phố.

Song khởi nghĩa Quảng Châu sớm bị dìm trong bể máu do lực lượng và trang bị chênh lệch. Quân khởi nghĩa rút ra khỏi thành
phố. Rất nhiều chiến sĩ cách mạng Trung Quốc và Việt Nam có mặt ở Quảng Châu, trong đó có các học sinh Việt Nam Trường
Trung Sơn bị bọn phản động bắt giam, tra tấn... Lý Tự Trọng, Lý Phương Đức và các anh chị khác đều khảng khái hỏi lại chúng:
"Chúng tôi chỉ là học sinh, các ông bắt chúng tôi về tội gì?". Không một ai hé ra nửa lời, kiên cường chịu đựng đòn roi. Các cán
bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc chưa bị lộ đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống khủng bố đòi trả tự do cho
những người bị bắt. Với tinh thần quốc tế, các đồng chí đã tìm các luật sư có tiếng lúc ấy bảo vệ cho các đồng chí Trung Quốc
và Việt Nam.

Không có bằng chứng nên cuối cùng bọn phản động phải trả tự do cho các đồng chí ta trong đó có hầu hết học viên Trường võ bị
Hoàng Phố và học sinh Việt Nam Trường Trung Sơn do trong hồ sơ đều ghi rõ là quê ở Quảng Đông. Một bộ phận các đồng chí
cách mạng Việt Nam đã học ở Hoàng Phố chuyển về căn cứ địa Đông Giang tham gia xây dựng Hồng quân công nông Trung
Quốc như Phùng Chí Kiên, Nguyễn Sơn... Bộ phận khác phân tán đi vào quần chúng làm công tác vận động cách mạng. 8 học
sinh Trường Trung Sơn buộc phải thôi học và cũng thực hiện việc phân tán theo các chiến sĩ cách mạng Việt Nam.

Qua thử thách trong đấu tranh thực tiễn, 8 học sinh Việt Nam đều lần lượt được kết nạp vào Đoàn. Lý Tự Trọng là người đoàn
viên thứ tám do đến năm 1929, Trọng mới đủ 15 tuổi. Trước yêu cầu mới, Trọng rời Quảng Châu sang Hương Cảng làm công
nhân ở bến tàu giúp các đồng chí ta nối đường dây liên lạc về trong nước và đi các nước. Một số đoàn viên khác trong lớp 8
đồng chí đầu tiên về sau tìm được cách sang Liên Xô tiếp tục học tập theo chủ trương của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trước đây.

5 - Họ đã sống và chiến đấu như thế

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở lại Hương Cảng để chuẩn bị chủ trì hội nghị hợp nhất thành lập Đảng. Lý Tự Trọng được đồng chí
Ung Văn Khiêm đưa về Sài Gòn hoạt động. Số đoàn viên còn lại (trong 8 đồng chí nêu trên) tiếp tục công tác ở Quảng Châu và
tại tỉnh Quảng Đông cùng các đồng chí cách mạng Việt Nam trong số đó có nữ đoàn viên Lý Phương Thuận lúc này lấy tên là Lý
Tam hay còn gọi là cô Ba.

Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng thành công tốt đẹp, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, rèn
luyện với chính cương, sách lược, điều lệ... mở ra thời kỳ mới cho cách mạng nước ta. Do một sơ suất từ bên ngoài, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc lúc này lấy tên là Tống Văn Sơ bị mật thám Anh bắt giữ và đứng trước nguy cơ bị chúng trao cho mật thám
Pháp theo sự dàn xếp, đeo bám của thực dân Pháp. Cùng bị bắt với Tống Văn Sơ có đoàn viên Lý Phương Thuận (Lý Tam). Mặc
dù bị tra hỏi và đe dọa gắt gao, kể cả đòn roi, Lý Phương Thuận nhất mực không khai báo nửa lời, giữ tròn khí tiết của người
đoàn viên thanh niên cộng sản. Luật sư Lô-dơ-bai nổi tiếng đã vượt qua nhiều khó khăn cứu thoát Tống Văn Sơ ra khỏi nhà tù
với lòng cảm phục nhà lãnh đạo cách mạng lớn của Việt Nam. Ông bà Lô-dơ-bai đã hết lòng giúp Nguyễn Ái Quốc - Tống Văn
Sơ trở lại Liên Xô... Lý Tam vô tội trở lại với đội ngũ chiến đấu của mình và sau Cách mạng Tháng 8/1945 về nước công tác.

Ngày 17/4/1931, Lý Tự Trọng bị thực dân Pháp kết án tử hình do trước đó (ngày 8/2/1931), anh đã bắn chết tên mật thám Pháp
cáo già khét tiếng tàn bạo Lơ-gơ-răng trên đường phố Sài Gòn nơi có sân bóng đá La-ray-nie. Trước bọn quan tòa thực dân, Lý
Tự Trọng ngẩng cao đầu dõng dạc tuyên bố: "Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không có con đường nào
khác". Các thế hệ trẻ Việt Nam tiếp bước theo anh và các đồng chí của anh coi đó là bản Tuyên ngôn bất diệt trên con đường đấu
tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

10 năm sau, kể từ ngày 17/4/1931, quân đội của phát xít Đức tiến sát thủ đô Mátxcơva trong đại chiến thế giới lần thứ 2.

Lý Nam Thanh, Lý Thúc Chất, Lý Anh Tự (tức Tợ), ba trong số 8 đoàn viên đầu tiên cùng các đồng chí Việt Nam khác đang học
tập và làm việc tại Liên Xô tình nguyện tham gia sư đoàn quốc tế bảo vệ Liên Xô. Cả ba đồng chí đã hy sinh anh dũng tại mặt
trận phía Nam Mátxcơva và đều được Nhà nước Liên Xô tặng thưởng Huân chương Vệ quốc cao quý.

Trong các cuốn biên niên sử của Đoàn ta, Đội ta, 8 đoàn viên ấy - "tám cháu hiếm hoi từ bước đầu" do Bác Hồ kính yêu bồi
dưỡng, đào tạo mãi mãi là 8 đóa hoa ngát hương trong rừng hoa rực rỡ của triệu, triệu chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi nguyện hiến
dâng tuổi thanh xuân vì lý tưởng của Đảng, của Bác. Hãy nhận lấy và nhân lên niềm tự hào và sự vinh quang không dễ gì có
được này.

6- Đoàn ta ra đời

Tại hội nghị hợp nhất thành lập Đảng tháng 2/1930 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, Người và các đại biểu đặc biệt quan tâm đến
công tác vận động thanh niên. Cùng với việc thông qua Chính cương, sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng, hội nghị đã thông qua
Điều lệ Thanh niên cộng sản Đoàn.

Trong Điều lệ của Đảng ghi một điều quan trọng: "Người dưới 21 tuổi phải vào Thanh niên cộng sản Đoàn". Hội nghị còn nêu rõ
trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương đối với công tác xây dựng Đoàn.

Quán triệt tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và của Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng, tháng 10/1930, hội nghị toàn thể Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất đã thảo luận và thông qua một văn kiện mang ý nghĩa lịch sử mở ra thời kỳ mới trong
quá trình xây dựng tổ chức Đoàn. Đó là "án nghị quyết về cộng sản thanh niên vận động". "án nghị quyết" đã chỉ rõ nhiệm vụ
cần kíp của tất cả các đảng viên cộng sản bằng một câu khẳng định như sau: "... Phải làm cho hết thảy đảng viên hiểu rằng công
việc Thanh niên cộng sản Đoàn là một việc cần kíp, quan trọng như việc Đảng vậy...".

Ngày 20/4/1931, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta nhận được một bức thư quan trọng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang hoạt
động ở nước ngoài gửi về trong đó Người nhắc nhở Trung ương về việc phải khẩn trương xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn. Đặc
biệt, trong thư Người đã thông báo cho Trung ương biết số lượng đoàn viên trong cả nước đến lúc ấy là 942 đồng chí (trừ hai
tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đang bị địch khủng bố ác liệt sau khi bùng nổ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh - chú thích của người viết).
Cuối thư Người chỉ thị: "Tôi đề nghị cần kíp nhất là thống nhất Thanh niên cộng sản Đoàn... làm cho họ có sinh hoạt độc lập". Ý
kiến chỉ đạo của lãnh tụ rất phù hợp và thống nhất với chủ trương của Trung ương về quá trình xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn,
làm tăng thêm tầm quan trọng, tính khẩn trương của vấn đề.

Vào mùa xuân năm 1931, ở thời điểm từ ngày 20 đến ngày 26/3/1931, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta tiến hành hội nghị
lần thứ 2. Tại hội nghị này Trung ương đã dành nhiều thời gian trong những ngày cuối để thảo luận và tiếp tục có những quyết
định quan trọng về công tác thanh vận như chính thức chỉ định một đồng chí trong Ban Thường vụ trực tiếp phụ trách công tác
vận động thanh niên.

Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ hai vạch rõ: "...lập tức các Đảng bộ địa phương phải mau mau tổ chức ra Đoàn, đốc xuất
chi bộ tổ chức cơ quan báo chương về việc vận động của Đoàn...".

Trước đây, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ nhất (2/1950) quyết định lấy ngày 20/4 hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đoàn.
Đó là ngày ra đời của Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam.

Tuy nhiên, trong quá trình chuẩn bị tiến tới Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ ba (1961), Ban Bí thư Trung ương Đoàn (khóa II)
quyết định thành lập Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đoàn trực thuộc Trung ương Đoàn nhằm từng bước làm sáng rõ những
vấn đề quan trọng trong lịch sử Đoàn và phong trào thanh niên nước ta trong đó có việc xác định một cách khách quan, khoa học
thời điểm ra đời của Đoàn phù hợp với thực tiễn lịch sử.

Được Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Bác Hồ cho phép, theo đề nghị của Ban Thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Lao
động Việt Nam, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ ba họp từ ngày 22 đến 25/3/1961 đã thảo luận và biểu quyết lấy ngày 26/3/1931,
một ngày trong thời gian cuối của hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai làm ngày kỷ niệm thành lập Đoàn hằng
năm đúng với thực tiễn lịch sử đã diễn ra.
Văn Tùng (Nhà sử học)

Phần II: Tổ chức Đoàn mang tên gọi khác nhau qua các thời kỳ cách mạng

1. Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương

Tháng 5/1935, Mặt trận Nhân dân Pháp được thành lập và sau đó giành được đa số phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng
6/1936. Chính phủ phái tả lên cầm quyền ở Pháp. Căn cứ diễn biến tình hình thế giới và trong nước, tháng 7/1936, Hội nghị T.Ư
Đảng đã định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh cách mạng trong thời kỳ mới.

Nhiệm vụ của Đảng và nhân dân ta lúc này là tập trung mũi nhọn đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi các
quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đảng chủ trương lập Mặt trận Nhân dân Phản đế sau đổi thành mặt trận Thống
nhất Dân chủ. Hội nghị BCH T.Ư Đảng họp tháng 7/1936 đã ra những quyết định quan trọng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác vận động TN. Theo đó, trong thời kỳ cách mạng từ giữa năm 1936 đến mùa thu năm 1939, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Đông Dương mang tên Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương phù hợp với nhiệm vụ chính trị qua các nghị
quyết của Đảng như trên đã nêu. Đoàn Thanh niên Dân chủ hoạt động công khai, có cơ quan báo chí riêng, đó là các tờ "Bạn
dân", "Thế giới", "Mới" phát hành ở cả ba miền đất nước. Đoàn đã xây dựng đội ngũ của mình gồm hàng vạn đoàn viên, đấu
tranh kiên cường dưới ngọn cờ của Đảng, tiếp nối truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương (1931 -
1935).

Ngoài việc phát hành báo, tổ chức Đoàn còn lập các Hội đọc sách, Hội văn nghệ, Hội thể thao, đặc biệt là hình thành các nhóm
nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Nhiều tác phẩm chính trị, văn học của C.Mác. F.Angghen, V.I.Lênin, Goocki... như: "Tuyên ngôn
Đảng cộng sản", "Tư bản", "Nhà nước là gì?", "Người mẹ"... cũng như các cuốn sách do các chiến sĩ cộng sản Việt Nam viết
như: "Vấn đề dân cầy" của Qua Ninh và Vân Đình, "Mác xít phổ thông" của Hải Triều và Thơ Tố Hữu được đông đảo đoàn viên,
thanh niên hân hoan đón đọc.

Được sự quan tâm của các Xứ ủy Đảng, phong trào TN và tổ chức Đoàn được củng cố, phát triển sâu rộng, có hệ thống từ cơ sở
lên đến tỉnh, thành và xứ.

Tuy nhiên, đến tháng 9/1939, đại chiến thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Thực dân Pháp thẳng tay thi hành chính sách đàn áp, khủng
bố phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân và TN ta. Tổ chức Đoàn phải trở lại hoạt động bí mật.

2. Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dương

Tháng 11/1939, T.Ư Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định). NQ Hội nghị nhấn mạnh giải phóng dân
tộc là nhiệm vụ hàng đầu của CMGP dân tộc, là nhiệm vụ hàng đầu của CM Đông Dương. Hội nghị chủ trương lập Mặt trận
Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các giai cấp và dân tộc ở Đông Dương
để đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai của chúng.

Theo chủ trương của Đảng, Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương mang tên mới là Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dương
tiếp nối sự nghiệp vẻ vang của các tổ chức TNCS và TNDC trước đây. Đoàn đã xây dựng được cơ sở ở nông thôn, trong nhà
máy và các trường học. Trong tình hình mới, tổ chức Đoàn hoạt động bí mật và được tổ chức chặt chẽ. Những ĐVTN Dân chủ
được thử thách, lựa chọn và chuyển thành ĐVTN Phản đế, các hội viên TN trong các tổ chức TN phổ thông được giao những
công tác thích hợp để thử thách bồi dưỡng.

Tháng 9/1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Từ đây nhân dân Việt Nam một cổ hai tròng, bị hai kẻ thù là phát xít Nhật
và thực dân Pháp cùng thống trị. Nhưng nhân dân Việt Nam và thế hệ thanh niên nước ta thời kỳ này không chịu khuất phục:
Tháng 9/1940, khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra; tháng 11/1940, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ với sự xuất hiện lần đầu tiên lá Cờ đỏ Sao
vàng; tháng 1/1941, nổ ra cuộc binh biến ở đồn Chợ Rạng và đồn Đô Lương.

Các tổ chức Đoàn TN Dân chủ sau đó là Đoàn Thanh niên Phản đế đã vận động thanh niên đi đầu trong các cuộc đấu tranh và
khởi nghĩa vũ trang từng phần, báo hiệu một thời kỳ mới: chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

3. Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam

Tháng 11/1940, Hội nghị T.Ư Đảng lần thứ 7 họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) trong đó có phần nói về: "Vấn đề tổ chức các đoàn
thể quần chúng". Nghị quyết hội nghị ghi: "Vì chính sách của Đảng ta hiện tại là chính sách cứu quốc cho nên mục đích các hội
quần chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu... Việt Nam thanh niên Cứu quốc từ nay là đoàn thể của tất thảy thanh niên từ
18 đến 22 tuổi muốn tranh đấu đánh Pháp, đuổi Nhật".

Ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bí mật về nước để cùng Ban chấp hành T.Ư Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào cách
mạng Việt Nam. Đây là sự kiện hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta...

Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 của T.Ư Đảng họp tại Pắc Bó (Cao Bằng) do Nguyễn Ái Quốc, đại diện của Quốc tế cộng sản
triệu tập và chủ trì. Hội nghị đã nêu một quyết tâm sắt đá: "Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà
quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được".

Để tập hợp động viên các tầng lớp nhân dân đứng lên đánh đuổi phát xít Pháp - Nhật, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam
Độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) và các Hội cứu quốc, trong đó có: Đoàn Thanh niên Cứu quốc - Việt Nam - một tổ
chức của những thanh niên yêu nước tiếp nối sự nghiệp của các tổ chức thanh niên do Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng
lập và lãnh đạo trước đó.

Hội nghị T.Ư Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn thành việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong thời
kỳ mới. Hội nghị đã nêu rõ vai trò, trách nhiệm của Đoàn TN Cứu quốc trong cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong suốt
chặng đường dài từ 1941 - 1956, Đoàn TNCQ Việt Nam đã đóng góp to lớn, kể cả hy sinh xương máu, cùng dân tộc vùng dậy
trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên Nhà nước Dân chủ, cộng hòa - Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tháng 2/1950, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam được triệu tập tại căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Đây là Đại hội
đại biểu toàn quốc đầu tiên của Đoàn, gồm trên 400 đại biểu của ba miền đất nước. Sau đó, Đoàn đã vận động đoàn viên, TN đi
tiếp chặng đường hơn 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh góp phần xứng đáng làm nên một Điện Biên chấn động địa cầu,
giải phóng hoàn toàn miền Bắc (7/1954), bắt tay xây dựng hậu phương lớn XHCN ở miền Bắc, chi viện cho cách mạng giải
phóng miền Nam.

4 - Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam

Tháng 7/1954, hòa bình được lập lại trên miền Bắc, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ mới, Bộ Chính trị T.Ư Đảng trong phiên
họp tháng 9/1954 đã chủ trương đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam và xây dựng Đoàn TNLĐ Việt Nam
thành một tổ chức thực sự có tác dụng là lực lượng dự trữ và cánh tay của Đảng.
Quyết nghị có đoạn viết: "Đảng ta là Đảng Lao động Việt Nam. Việc Đoàn TNCQ Việt Nam đổi tên thành Đoàn TNLĐ Việt
Nam sẽ làm cho thanh niên thêm phấn khởi, thêm gắn bó với Đảng và do đó càng quyết tâm phấn đấu đến cùng dưới ngọn cờ
của Đảng".

Trong "Quyết nghị về đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam và kế hoạch xây dựng Đoàn TNLĐ Việt
Nam" (Ban Bí thư T.Ư - ngày 19/10/1955) đã nêu rõ tính chất, nhiệm vụ, vấn đề tổ chức và kế hoạch xây dựng Đoàn TNLĐ Việt
Nam.

Về tính chất của Đoàn TNLĐ Việt Nam, Quyết nghị nêu: "Đoàn TNLĐ Việt Nam là một tổ chức quần chúng tiên tiến của TN
Việt Nam, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Đoàn TNLĐ Việt Nam là trường học của chủ nghĩa Mác-Lênin của thanh niên, là
nơi bồi dưỡng lực lượng dự trữ của Đảng, là cánh tay thực hiện mọi chính sách của Đảng". Quyết nghị của Đảng đã vạch rõ
nhiệm vụ của Đoàn trong thời kỳ mới và đề ra kế hoạch xây dựng Đoàn là:

"1. Đảm bảo tính chất tiên tiến của Đoàn... Không kết nạp ồ ạt và tập thể. Nơi nào chưa có đủ điều kiện đổi tên Đoàn thì chưa
đổi.
2. Làm cho ĐVTN có một nhận thức đúng đắn về Đoàn TNLĐ Việt Nam. Việc kết nạp đoàn viên hoặc đổi tên Đoàn phải trên cơ
sở tự nguyện, tự giác của TN.
3. Kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện những nhiệm vụ công tác chính trước mắt do Đảng đề ra... Việc xây dựng Đoàn TNLĐ
Việt Nam cần làm một cách có lãnh đạo và có kế hoạch cụ thể cho từng vùng...".

Quyết nghị nêu kết luận: "Việc đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam là một việc rất quan trọng có ảnh
hưởng đến việc xây dựng một phong trào thanh niên lớn mạnh trong toàn quốc, đến việc phát triển cơ sở Đảng trong quần chúng
lao động và việc hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Các cấp ủy Đảng cần nắm vững đường lối vận động thanh
niên của Đảng, trực tiếp lãnh đạo thực hiện nghị quyết này".

5 - Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh

Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân
văn hóa thế giới, người sáng lập rèn luyện Đoàn ta qua đời. Toàn thể cán bộ, ĐVTN và đội viên thiếu niên, nhi đồng nước ta
vĩnh biệt Người với nỗi xót thương vô hạn. Bác Hồ và Đảng đã coi sự trưởng thành của lớp thanh niên nước ta là một trong
những thành quả vĩ đại của cách mạng, có quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau.

Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, đáp ứng nguyện vọng của thế hệ trẻ và theo đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt Nam, nhân
dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng (3/2/1930 - 3/2/1970), BCH T.Ư Đảng đã ra Nghị quyết cho Đoàn Thanh niên và
đội thiếu niên, Đội Nhi đồìng được mang tên Bác.

Nghị quyết nêu rõ: "... Thể theo nguyện vọng của thế hệ trẻ nước ta và đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt Nam", BCH T.Ư Đảng Lao
động Việt Nam quyết định:

- Đoàn TNLĐ Việt Nam nay là Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh


- Đội TNTP Việt Nam nay là Đội TNTP Hồ Chí Minh
- Đội Nhi đồng Việt Nam nay là Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh

Tổ chức Đoàn và tổ chức Đội được mang tên Bác là vinh dự lớn lao, đồng thời là trách nhiệm nặng nề trước Tổ quốc và nhân
dân. Đoàn ta được mang tên Bác Hồ càng làm rõ mục đích và tính chất của Đoàn là đội tiên phong chiến đấu của TN, đi đầu
phấn đấu cho lý tưởng cách mạng cao cả của Đảng và Bác Hồ là độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

6. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

Tháng 4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Ngày 26/3/1976, Lễ kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Đoàn đã được tổ chức trọng thể tại Hà Nội. Tại Lễ kỷ niệm này, tổ chức
Đoàn trong cả nước đã thống nhất mang tên chung là Đoàn Thanh Niên Lao động Hồ Chí Minh.

Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến 20/12/1976 tại Thủ đô Hà Nội đã quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam
(2/1951) thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thể theo nguyện vọng của cán bộ, ĐVTN cả nước, Đại hội Đảng lần thứ IV đã quyết
định đổi tên Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh (1970) thành: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

Đại hội Đảng chỉ rõ nhiệm vụ của Đoàn và phong trào thanh niên trong giai đoạn mới là: "Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phải được
xây dựng và củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là trường học CSCN của lớp người trẻ tuổi, là cánh
tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng".

Được mang tên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là vinh dự và tự hào lớn của toàn thể cán bộ đoàn viên nước ta.

Gần 30 năm trôi qua, kể từ ngày được mang tên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Tổ chức Đoàn và tuổi trẻ cả nước luôn cống hiến hết
mình vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất nước, đặc biệt là trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH dưới sự
lãnh đạo của Đảng vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Thạc sĩ Phạm Bá Khoa

Phần III: Những truyền thống vẻ vang của Đoàn và tuổi trẻ Việt Nam (1)

Suốt 75 năm cống hiến và trưởng thành dưới ngọn cờ của Đảng quang vinh và Bác Hồ kính yêu, tổ chức Đoàn và tuổi trẻ nước
ta đã xây đắp nên những truyền thống vẻ vang, đó là:

+ Truyền thống yêu nước nồng nàn, gắn bó thiết tha, trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân, với chế độ XHCN.

Truyền thống quý báu này đã tạo nên động lực vô giá xuyên suốt các thời kỳ lịch sử được thể hiện trong hành động cách mạng,
nhất là ở những bước ngoặt của lịch sử. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, điều kiện nào, tuyệt đại bộ phận TN ta luôn siết chặt hàng
ngũ chung quanh Đảng lãnh đạo, chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

+ Truyền thống của đội quân xung kích cách mạng, dám đón lấy những nhiệm vụ nặng nề, dám đi đến những nơi khó khăn, gian
khổ, dám suy nghĩ sáng tạo... để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ: "Đâu cần thanh niên có, việc gì
khó thanh niên đi đầu", thế hệ trẻ nước ta luôn nêu cao tinh thần hăng hái sẵn sàng xung phong đến những nơi Tổ quốc cần, dù
đó là biên cương hay hải đảo, dù công việc đó là mới mẻ hay khó khăn.

+ Truyền thống gắn bó đoàn kết trong lớp người cùng lứa tuổi, trong các tổ chức Đoàn và Hội; đoàn kết gắn bó với nhân dân;
thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn nạn, đặc biệt là vào những thời điểm phải đối mặt với kẻ thù hay thiên tai. Đoàn kết dân
tộc và đoàn kết quốc tế luôn hòa quyện với nhau, thông cảm và đồng tâm hợp lực vì những mục tiêu cao cả của dân tộc và thời
đại.

+ Truyền thống hiếu học, ham hiểu biết để tự mình nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, quản lý và quân sự...
say mê sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, để cống hiến cho sự nghiệp của dân tộc và của Đảng. Học ở nhà trường, học trong
cuộc sống, học để làm người có ích cho xã hội luôn được các thế hệ thanh niên ta phấn đấu, thực hiện ngày càng tốt hơn.

Phát huy những truyền thống quý báu nêu trên, các thế hệ đoàn viên, hội viên, thanh niên, đội viên thiếu niên và nhi đồng ở nước
ta đã tiếp bước theo nhau góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn,
thử thách đạt nhiều thắng lợi hết sức to lớn, những kỳ tích vẻ vang trong thế kỷ XX làm cho Tổ quốc XHCN của chúng ta có vị
thế xứng đáng trong cộng đồng quốc tế, vững bước tiến vào thế kỷ XXI.

(1) Theo Lịch sử Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên Việt Nam, NXBTN - Hà Nội - 2001.

Thạc sĩ Phạm Bá Khoa

ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH


BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG Hà Nội, ngày 19 tháng 02 năm 2008
***

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN


Kỷ niệm 77 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
(26/3/1931 - 26/3/2008) và Tháng Thanh niên năm 2008
----------

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), Đảng đã thấy rõ tầm quan trọng của việc xây dựng tổ
chức Đoàn. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai họp từ ngày 20 đến ngày 26/3/1931,
Trung ương Đảng đã dành một ngày trong thời gian Hội nghị để bàn và quyết định những vấn đề quan trọng
về công tác vận động thanh niên của Đảng. Xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt ấy, được sự đồng ý của Bộ Chính
trị và Bác Hồ, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III (họp từ ngày 22 đến 25/3/1961 tại Hà Nội) đã quyết định lấy
ngày 26/3/1931 là ngày thành lập Đoàn.

Ngay sau khi thành lập, Đoàn thanh niên cộng sản Đông dương đã phát triển được nhiều đoàn viên trong cao trào
cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô - viết Nghệ Tĩnh. Từ phong trào cách mạng giai đoạn này đã xuất hiện
nhiều gương thanh niên đấu tranh oanh liệt, tiêu biểu là người đoàn viên thanh niên cộng sản Lý Tự Trọng với câu
nói nổi tiếng trước tòa án kẻ thù: "Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có con đường
nào khác".
Tháng 7/1936, Hội nghị Trung ương Đảng đã định ra đường lối chuyển hướng nhiệm vụ từ đấu tranh bí mật, bất
hợp pháp sang đấu tranh công khai hợp pháp và nửa hợp pháp. Đoàn thanh niên Dân chủ Đông dương tiếp nối
truyền thống của Đoàn TNCS Đông Dương, tích cực vận động thanh niên đấu tranh chống thực dân, đế quốc, phản
động tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, trong tình
hình mới, tổ chức Đoàn phải chuyển vào hoạt động bí mật và xây dựng tổ chức chặt chẽ với tên mới là Đoàn thanh
niên phản đế Đông dương.
Mùa xuân năm 1941, Bác Hồ trở về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng
5 năm 1941, Người đã chủ trì Hội nghị Trung ương VIII tại Pắc Bó (Cao Bằng). Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị
Trung ương VIII, Đoàn thanh niên Cứu quốc Việt Nam ra đời tiếp nối sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của
các tổ chức thanh niên trước đó do Đảng, Bác Hồ tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Dưới ngọn cờ của Đảng và Bác
Hồ vĩ đại, Đoàn thanh niên Cứu quốc và tuổi trẻ cả nước đã xung kích cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vùng
lên tiến hành thành công Cách mạng tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập tự do cho dân tộc, thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ cách mạng, đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) là lực
lượng hăng hái đi đầu trong phong trào chống "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm". Thời gian độc lập không được
bao lâu, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, cả dân tộc lại bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ
đầy gian khổ, hy sinh. Tiêu biểu cho những ngày đầu kháng chiến là tuổi trẻ Sài Gòn - Chợ Lớn đã thành lập các đội
Thanh niên xung phong cảm tử, thanh niên tự vệ kiên quyết đánh trả kẻ thù. Tại Thủ đô Hà Nội suốt 60 ngày đêm,
nhiều chiến sỹ với tuổi đời còn rất trẻ đã ôm bom ba càng chặn xe tăng giặc ngay trên đường phố...
Sau gần 20 năm hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ I được tổ chức tại Đại Từ
- Thái Nguyên từ ngày 7 đến ngày 14/2/1950 với chủ đề "Chiến đấu và xây dựng tương lai". Phát huy thành công
của Đại hội, hàng vạn nam nữ thanh niên hăng hái xung phong tham gia phục vụ các chiến dịch, phong trào "Tòng
quân giết giặc lập công" phát triển khắp mọi nơi. Sau chín năm trường kỳ kháng chiến, tháng 5/1954, quân và dân ta
đã làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến ấy đã xuất hiện nhiều tấm
gương tuổi trẻ kiên cường, dũng cảm như: Trần Văn Ơn, Võ Thị Sáu, La Văn Cầu, Cù Chính Lan, Nguyễn Thị
Chiên, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện... Họ thật xứng đáng đại diện cho một lớp trẻ "Quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh".
Ngày 19/10/1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết đổi tên Đoàn thanh niên Cứu quốc Việt Nam
thành Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam. Tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ II từ ngày 25/10 đến ngày 4/11/1956
Bác Hồ đã ân cần căn dặn: "Đảng và Chính phủ ta có thể tự hào đã tạo nên một thế hệ thanh niên dũng cảm như
các cháu, và mong các cháu tiếp tục phấn đấu hăng hái cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nước nhà." Từ
sau Đại hội, tuổi trẻ miền Bắc đã dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất để khôi phục kinh tế, cải tạo và xây
dựng xã hội mới. Hàng vạn thanh niên tham gia xây dựng các công trình thủy lợi, khai hoang phục hóa đất đai; hàng
triệu thanh niên hăng hái theo học các lớp bổ túc văn hóa...Ở miền Nam, phong trào đấu tranh chính trị của thanh
niên, học sinh- sinh viên tuy bị đế quốc Mỹ và tay sai đàn áp dã man song không hề nao núng. Trong những ngày
đồng khởi, các đội "Trung kiên", "Xung phong" do thanh niên đảm nhận đã được thành lập ở khắp mọi nơi, tiến hành
vây đồn, lấy bốt, trừ gian, phá ấp chiến lược... Tiêu biểu cho tinh thần ấy là chị Trần Thị Lý, người con gái anh hùng
đất Quảng nhiều lần bị địch bắt, mang trong mình nhiều vết thương, nhưng người con gái ấy không hề nhụt chí
trước quân thù.
Từ ngày 23 đến ngày 25/3/1961, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III được triệu tập tại Hà Nội, Đại hội đã phát
động phong trào "Xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất". Tháng 8/1964, đế quốc Mỹ leo
thang gây chiến tranh phá hoại bằng không quân đối với miền Bắc, tuổi trẻ Thủ đô đã phát động phong trào "Ba sẵn
sàng". Được sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đoàn, phong trào đã phát triển sâu rộng trong cả nước. Ở miền
Bắc, hàng triệu ĐVTN đăng ký tham gia phong trào "Ba sẵn sàng" nêu cao quyết tâm chi viện cho chiến trường miền
Nam với tinh thần "Chưa thắng giặc Mỹ, chưa về quê hương".
Tháng 2/1965, Đại hội Đoàn thanh niên toàn miền Nam đã phát động phong trào "Năm xung phong", sau một thời
gian ngắn, có hàng vạn ĐVTN tham gia phong trào này. Từ phong trào "Ba sẵn sàng" và "Năm xung phong" đã xuất
hiện nhiều tập thể và cá nhân với những chiến công xuất sắc như: Bảy dũng sỹ Điện Ngọc (Quảng Nam) anh dũng
đánh trả một tiểu đoàn địch; Tạ Thị Kiều tay không đoạt bốt giặc; Lê Thị Hồng Gấm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng
không chịu đầu hàng giặc; Dũng sỹ diệt Mỹ - Anh hùng Lê Mã Lương với lẽ sống "Cuộc đời đẹp nhất là ở trên trận
tuyến chống quân thù"; câu nói bất hủ của người thợ điện trẻ tuổi Nguyễn Văn Trỗi "Còn giặc Mỹ thì không có hạnh
phúc" đã gây xúc động cho tuổi trẻ và nhân dân tiến bộ khắp 5 châu; lời hô của Anh hùng liệt sỹ Nguyễn Viết Xuân
"Nhằm thẳng quân thù mà bắn!" đã trở thành hiệu lệnh thúc giục quân và dân ta xông lên tiêu diệt quân thù.
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Đảng, thể theo nguyện vọng của cán bộ, ĐVTN cả nước, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã ra quyết định: Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam được mang tên Đoàn thanh niên Lao
động Hồ Chí Minh. Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã làm nên một đại thắng mùa xuân năm 1975, cả
nước thống nhất và đi lên xây dựng CNXH. Trong chiến thắng vĩ đại ấy, có sự đóng góp to lớn của ĐVTN trên khắp
các mặt trận. Đảng ta, nhân dân ta, Đoàn ta đã giáo dục, rèn luyện một thế hệ thanh niên Việt Nam vô cùng dũng
cảm, thông minh, không sợ gian khổ, hy sinh, quyết chiến - quyết thắng. Sau ngày thống nhất nước nhà, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976) đã ra quyết định Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh mang tên Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Từ ngày 20 đến ngày 22/11/1980, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IV đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội, Đại hội
đã quyết định đẩy mạnh hơn nữa phong trào “Ba xung kích” thành cao trào thi đua hành động cách mạng của tuổi
trẻ thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Vào thời điểm này, hàng triệu lượt
ĐVTN tham gia phong trào "Ba xung kích làm chủ tập thể"; gần 9 triệu ĐVTN tham gia phong trào "Thanh niên xung
kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"; hàng chục vạn thanh niên gia nhập lực lượng vũ trang, góp phần tích cực bảo vệ
vững chắc biên cương Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Tiếp đó là các phong trào "Hành quân theo bước chân
những người anh hùng" đã thu hút gần 6 triệu đoàn viên, thanh thiếu nhi tham gia và "Hành quân theo chân Bác" đã
có 10 triệu thiếu niên nhi đồng tham gia.
Từ ngày 27 đến ngày 30/11/1987, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ V đã phát động phong trào "Tuổi trẻ xung kích,
sáng tạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VI diễn ra từ ngày 15 đến 18/10/1992; Hội
nghị lần thứ 2, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khoá VI (tháng 2 năm 1993) đã quyết định triển khai 2 phong trào
lớn là: "Thanh niên lập nghiệp" và "Tuổi trẻ giữ nước". Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VII từ ngày 26 đến ngày
29/11/1997 đã quyết định tiếp tục phát triển và nâng hai phong trào trên lên một tầm cao mới. Năm 2000, Bộ Chính
trị và Chính phủ quyết định là "Năm thanh niên Việt Nam". Từ thời điểm này phong trào “Thanh niên tình nguyện" có
bước phát triển mới, đi vào thực tiễn, được đông đảo các cấp bộ Đoàn và ĐVTN tham gia, tạo nên ấn tượng tốt đẹp
về lớp thanh niên Việt Nam của thời kỳ mới. Tổ chức Đoàn các cấp đã chủ động đề xuất và đảm nhận hàng ngàn
chương trình, dự án kinh tế - xã hội quan trọng, tiêu biểu như Dự án xóa cầu khỉ, xây cầu mới vùng đồng bằng Nam
bộ; xây dựng Đảo thanh niên; làm đường Hồ Chí Minh; xây dựng Làng Thanh niên lập nghiệp... Phong trào thi đua
học tập, lao động sáng tạo để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức, khoa học công nghệ mới; sinh hoạt chính trị "Tuổi trẻ Việt
Nam tiến bước dưới cờ Đảng", "Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí Minh"... đã lôi cuốn hàng triệu thanh thiếu niên tham
gia. Từ trong phong trào của tuổi trẻ đã xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân tiêu biểu trên các lĩnh vực công tác.
Với tinh thần "Đoàn kết, sáng tạo, xung kích, tình nguyện", Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII từ ngày 8 đến
ngày 11/12/2002 đã mở ra một trang mới trong lịch sử phát triển của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Đại hội đã phát động
phong trào lớn " Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" và kêu gọi tuổi trẻ Việt Nam cùng xiết chặt tay
dưới lá cờ vinh quang của Đoàn, nguyện đi theo con đường cách mạng của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn, nắm chắc thời cơ, vượt qua thách thức, góp phần to lớn vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Phong trào mới với
sức sống mới, hàng triệu thanh niên thi đua học tập, tiến quân vào khoa học - công nghệ; thi đua lao động sáng tạo
để lập thân lập nghiệp; xung phong tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng; góp phần giữ vững an ninh chính trị, đảm
bảo trật tự an toàn xã hội. Các cuộc vận động, phong trào mới được triển khai như: "Sáng tạo trẻ", "Bốn mới" (kỹ
thuật mới, ngành nghề mới, thị trường mới, mô hình mới), " Cán bộ công chức trẻ với cải cách hành chính", "Học
tập tốt, rèn luyện tốt", “Trí thức trẻ tình nguyện”... đã góp phần khơi sức thanh niên trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, tạo ra nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo từ thực tiễn.
Đặc biệt sinh hoạt chính trị "Tuổi trẻ với tư tưởng Hồ Chí Minh", "Tiếp lửa truyền thống - Mãi mãi tuổi hai mươi",
diễn đàn "Tuổi trẻ sống đẹp, sống có ích", cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” đã được
các cấp bộ Đoàn, ĐVTN triển khai thực hiện nghiêm túc, có sức lôi cuốn và lan toả mạnh mẽ, tạo hiệu ứng xã hội
sâu rộng góp phần quan trọng nâng cao nhận thức, bồi đắp lý tưởng cách mạng và niềm tin cho thế hệ trẻ. Năm
2007, hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động,
Đoàn thanh niên các cấp chủ động, sáng tạo triển khai thực cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo
lời Bác”, sau một năm triển khai, cuộc vận động bước đầu đã đạt được kết quả tốt đẹp.
Trong nhiệm kỳ VIII, công tác phát triển đoàn viên và Đoàn tham gia xây dựng Đảng tiếp tục được quan tâm, chỉ
đạo. Cả nhiệm kỳ, các cấp bộ Đoàn đã kết nạp mới trên 4,5 triệu đoàn viên, nâng tổng số đoàn viên cả nước hiện
nay lên 6,1 triệu. Vai trò tiền phong gương mẫu của người đoàn viên trong các phong trào thanh niên và ở cộng
đồng dân cư, trong công tác chăm sóc, giáo dục thiếu nhi ở một số địa bàn, lĩnh vực được khẳng định. Vai trò nòng
cốt của Đoàn trong xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội LHTN Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam được thể hiện
rõ nét. Đoàn tăng cường đầu tư về cán bộ, định hướng hoạt động và đảm bảo các điều kiện hoạt động cho các Hội,
góp phần xây dựng tổ chức Hội, mở rộng mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh niên, qua đó củng cố và phát triển tổ
chức Đoàn. Các cấp bộ Đoàn đã giới thiệu cho Đảng trên 900 nghìn đoàn viên ưu tú, trong đó có 347.872 đồng chí
được kết nạp Đảng.
Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX diễn ra tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 17 đến 21/ 12/ 2007. Đại hội đã khẳng định:
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tiếp tục đổi mới toàn diện, phấn đấu thực sự trở thành người bạn thân thiết của thanh
niên, định hướng cho thanh niên đến với lý tưởng cách mạng và những giá trị cao đẹp, đồng hành với thanh niên
lập thân, lập nghiệp, xung kích trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào, các cuộc vận
động và các hoạt động của Đoàn đều phải hướng tới mục tiêu tập hợp, đoàn kết, giáo dục thanh niên, tạo môi
trường lành mạnh, an toàn cho thanh niên rèn luyện và tự khẳng định, vì sự tiến bộ của thanh niên và sự phát triển
của đất nước. Mục tiêu chung của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi nhiệm kỳ 2007 - 2012 là: Tăng
cường bồi dưỡng lòng yêu nước và ý thức công dân, lý tưởng và đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị và văn hoá
cho thanh thiếu nhi; xây dựng Đoàn vững mạnh; tích cực chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thanh thiếu
nhi; phát huy tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ Việt Nam xung kích “Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển“, phấn đấu cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trong 5 năm tới, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tập trung triển khai hai phong trào lớn là: “5 xung kích phát triển kinh tế -
xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và "4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp".
“5 xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”:
1. Xung kích lao động sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội;
2. Xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng;
3. Xung kích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội;
4. Xung kích thực hiện cải cách hành chính;
5. Xung kích trong hội nhập kinh tế quốc tế.
"4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp":
1. Đồng hành với thanh niên trong học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ;
2. Đồng hành với thanh niên trong nghề nghiệp và việc làm;
3. Đồng hành với thanh niên trong nâng cao sức khỏe thể chất và đời sống văn hoá tinh thần;
4. Đồng hành với thanh niên trong phát triển kỹ năng xã hội.

Hai phong trào trên nhằm mục đích vừa phát huy mạnh mẽ tiềm năng của thanh niên, vừa tạo môi trường giáo dục,
rèn luyện cho thanh niên, vì sự phát triển của thanh niên, của cộng đồng và đất nước; đồng thời góp phần bảo vệ,
chăm lo lợi ích chính đáng của thanh niên, khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng của thanh niên và huy động các nguồn lực
xã hội góp phần định hướng, hướng dẫn, hỗ trợ thanh niên.

Năm 2008 là năm thứ 6 Đoàn TNCS Hồ Chí Minh triển khai thực hiện Tháng Thanh niên. Với phương châm Tuổi
trẻ hành động vì cộng đồng - Xã hội chăm lo bồi dưỡng thanh niên, Tháng Thanh niên thực sự là tháng cao điểm
dấy lên phong trào hành động của tuổi trẻ, phát huy tính sáng tạo, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương và đất nước.

Tháng Thanh niên năm 2008 diễn ra trong không khí các cấp bộ Đoàn thi đua lập thành tích chào mừng thành
công Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX; triển khai giai đoạn 2 thực hiện Cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập
và làm theo lời Bác”; quán triệt Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX đến từng ĐVTN; tổ chức các hoạt động
thiết thực kỷ niệm 77 năm thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Với chủ đề công tác Đoàn và phong trào TTN năm
2008 là "Nâng cao chất lượng Đoàn cơ sở và đoàn viên", tuổi trẻ cả nước phấn khởi, tự hào bước vào thực hiện
Tháng Thanh niên năm 2008 với nội dung của 4 tuần hoạt động là:
Tuầnthứ nhất: “Nghĩa tình biên giới, hải đảo”;
Tuần thứ hai: “Đồng hành với thanh niên trong nghề nghiệp và việc làm”;
Tuần thứ ba: “Tuổi trẻ chung sức vì cộng đồng”;
Tuần thứ tư: “Đồng hành với thanh niên trong nâng cao sức khỏe thể chất và đời sống tinh thần”.

Tháng Thanh niên - Tuổi trẻ hành động vì cộng đồng, là tháng thanh thiếu nhi cả nước thống nhất hành động, thi
đua, tình nguyện tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng- an ninh với các hoạt động: "Nghĩa tình
biên giới- hải đảo"; ra quân bảo vệ môi trường; tuyên truyền và giữ gìn trật tự an toàn giao thông; vận động thanh
thiếu nhi bình chọn cho Vịnh Hạ Long là 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên của thế giới. Tháng Thanh niên cũng là tháng
tuổi trẻ xung kích tham gia giải quyết các việc mới, việc khó, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở
địa phương cơ sở. Thông qua các phong trào hành động nhằm tăng cường giáo dục ĐVTN; xây dựng, củng cố tổ
chức cơ sở; bồi dưỡng phát triển "Lớp đoàn viên Tháng Thanh niên", giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét,
kết nạp.

Tháng Thanh niên - Xã hội chăm lo bồi dưỡng thanh niên, là tháng tổ chức Đoàn các cấp tích cực, chủ động tham
mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền, phối hợp với các ngành, các lực lượng xã hội triển khai Chiến lược phát triển
thanh niên Việt Nam, thực hiện Luật Thanh niên, vận động toàn xã hội chăm lo, bồi dưỡng và phát huy lực lượng
thanh niên - tương lai của dân tộc, nguồn nhân lực trẻ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
77 năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
và các thế hệ thanh niên Việt Nam đã nối tiếp nhau viết nên những truyền thống vẻ vang của các thế hệ đi trước, đó
là truyền thống yêu nước nồng nàn, trung thành tuyệt đối với Đảng, gắn bó chặt chẽ với lợi ích dân tộc, với nhân
dân và chế độ XHCN; truyền thống xung kích cách mạng, xung phong tình nguyện, sẵn sàng đón nhận và hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; truyền thống hiếu học, cần cù, sáng tạo; truyền thống đoàn kết, yêu
thương, giúp đỡ lẫn nhau. Nối tiếp truyền thống, tuổi trẻ Việt Nam hôm nay vững bước dưới ngọn cờ vinh quang
của Đảng, với hoài bão cách mạng đang ngày đêm phấn đấu, đem sức trẻ, nhiệt tình ra sức cống hiến cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

"Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội", lời dạy của Bác Hồ muôn vàn kính yêu cũng chính là tâm niệm của mỗi thanh
niên, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm tin tưởng đặc biệt đối với thế hệ trẻ, đó chính là niềm cổ vũ lớn lao,
là động lực mạnh mẽ để tuổi trẻ tự tin vững bước. Kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc,
phát huy truyền thống vẻ vang của Đoàn và các thế hệ thanh niên Việt Nam, tuổi trẻ hôm nay hãy ra sức học tập,
rèn luyện và làm theo lời Bác, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị
quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX; thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” - Vì tương lai tươi sáng của tuổi
trẻ.

Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh

Chu Văn An
Tranh Chu Văn An trong miếu thờ tại Hà Nội

Chu Văn An (tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là
Linh Triệt; 1292–1370) là một đại quan nhà Trần, Việt Nam,
được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu
Văn An. Quê ông ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh
Đàm (nay là huyện Thanh Trì – Hà Nội).

Là người chính trực, đã từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm
quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Công, bên kia sông Tô,
ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức
Khổng giáo vào Việt Nam. Vua Trần Minh Tông (1314–1329) vời
ông ra làm tư nghiệp Quốc Tử Giám. Đến đời Dụ Tông, ông thấy
quyền thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng Thất trảm sớ xin
chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ
quan về ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh, Hải Dương) dạy học, viết
sách cho tới khi mất. Cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của ông là tấm gương sáng của thời phong kiến. Ông
là một trong số rất ít bậc hiền nho được thờ ở Văn Miếu. Sự nghiệp của ông được ghi lại trong văn bia ở
Văn Miếu-Quốc Tử Giám.

Câu đối thờ Chu An: Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc

Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong

Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh rong chơi há chẳng phải là cái
thú vui của bậc hiền giả?
Núi Phượng vẫn còn dấu vết ở ẩn, đỉnh non vẫn mãi mãi ngưỡng mộ
phong thái của kẻ triết nhân

Tác phẩm Thất trảm sớ ,Tiều ẩn thi tập ,Tiều ẩn quốc ngữ thi tập Tứ thư thuyết ước Giang đình tác
Linh sơn tạp hứng Miết trì Nguyệt tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính Thứ vận tặng Thủy Vân đạo nhân
Xuân đán

Chu Văn An (1292 - 1370)

Trần vãn thử hà thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc Phượng sơn tồn ẩn xứ, trĩ lưu trường
ngưỡng triết nhân phong.

(Cuối Trần đó là thời nào, ngâm vịnh rong chơi đâu phải thú vui hiền giả.

Non phượng còn dấu nơi ẩn, núi sông mãi mãi ngắm nhìn phong cách triết nhân).

Đó là đôi câu đối mà người đời mãi mãi còn truyền tụng để tỏ lòng mến phục đối với
Chu Văn An - nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối thời Trần.

Chu Văn An tên hiệu là Tiều ẩn, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang
Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì - Hà Nội). Theo thần tích đình làng
Thanh Liệt, nơi thờ ông làm thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất
năm Canh Tuất (1370).

Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong
sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Khi thi đỗ Thái học sinh,
ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà. Học trò nhiều nơi tìm
đến theo học rất đông. Trong số môn đệ ông có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm
quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy
nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn
quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và
học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông
như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.

Một huyền thoại vẫn được lưu truyền nói về ngôi trường và nhân cách, đạo đức của ông
như sau: "Tương truyền khi Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có nhiều học
trò tìm đến theo học. Trong số này có một người sáng nào cũng đến thật sớm nghe
giảng. Thầy dạy khen là chăm chỉ nhưng không rõ tông tích ở đâu. ông bèn cho người
dò xem thì cứ đến khu đầm Đại (khu đầm lớn hình vành khuyên, nằm giữa các làng Đại
Từ , Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất. Ông biết là thần nước. Gặp lúc đại hạn kéo dài,
giảng bài xong ông tụ tập các trò lại hỏi xem ai có tài thì làm mưa giúp dân, giúp thầy.
Người học trò kỳ lạ trước có vẻ ngần ngại, sau đứng ra xin nhận và nói với thầy: "Con
vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có
chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho". Sau đó người này ra giữa sân lấy
nghiên mài mực, ngửa mặt lên trời khấn và lấy bút thấm mực vẩy ra khắp nơi. Vẩy gần
hết mực, lại tung cả nghiên lẫn bút lên trời. Lập tức mây đen kéo đến, trời đổ mưa một
trận rất lớn. Đêm hôm ấy có tiếng sét và đến sáng thấy có thây thuồng luồng nổi lên ở
đầm. Chu Văn An được tin khóc thương luyến tiếc rồi sai học trò làm lễ an táng, nhân
dân các làng lân cận cũng đến giúp sức và sau nhớ công ơn bèn lập đền thờ. Nay vẫn
còn dấu vết mộ thần. Theo truyền thuyết, chỗ nghiên mực bị ném rơi xuống đã biến
thành đầm nước lúc nào cũng đen, nên thành tên là Đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng
Tả Thanh Oai biến làng này thành một làng văn học quê hương của Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì
Nhậm, v.v... Trong đền thờ thần còn đôi câu đối khá tiêu biểu ghi lại sự tích này.

Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên tự thuận.

Chu đình lưu hóa vũ, thiên trù vọng thiếp địa phồn khô.

( Mây lành từ nghiên mực bay lên, một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải.

Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh đồng đội nước, đất nẻ trổ mùa hoa).

(Chu đình có hai nghĩa: sân son và sân họ Chu, chỉ Chu Văn An).

Câu chuyện trên đây chỉ là một giai thoại về Chu Văn An để nói rằng tài đức của họ
Chu có sức mạnh cảm hóa được cả quỷ thần. Tuy nhiên, qua đó cũng thấy được đức độ
của Chu Văn An lúc đương thời là rất lớn.

Đến đời vua Trần Minh Tông, ông được mời vào làm Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám để dạy
Thái tử học. Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham
gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng,
suy thoái. Đến đời Dụ Tông, chính sự càng thối nát, bọn gian thần nổi lên khắp nơi.
Chu Văn An nhiều lần can ngăn Dụ Tông không được, bèn dâng sớ xin chém bảy kẻ
nịnh thần, đều là người quyền thế được vua yêu. Đó là Thất trảm sớ nổi tiếng trong lịch
sử. Nhà vua không nghe, ông bèn "treo mũ ở cửa Huyền Vũ" rồi bỏ quan về ở ẩn tại
núi Phương Sơn thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh (Hải Hưng) lấy hiệu là Tiều ẩn
(người đi ẩn hái củi). Sau ông mất tại đó.

Theo thư tịch cũ thì Chu Văn An viết nhiều sách, ông đã để lại cho đời sau những tác
phẩm: hai tập thơ Quốc ngữ thi tập bằng chữ Nôm và Tiều ẩn thi tập bằng chữ Hán.
Ông còn viết một cuốn sách biện luận giản ước về Tứ thư nhan đề Tứ thư thuyết ước.
Theo một tài liệu nghiên cứu gần đây thì Chu Văn An còn là một nhà đông y đã biên
soạn quyển Y học yếu giải tập chu di biên gồm những lý luận cơ bản về chữa trị bệnh
bằng Đông y. Khi ông mất, vua Trần đã dành cho ông một vinh dự lớn bậc nhất đối với
một trí thức là được thờ ở Văn Miếu. Vua còn ban tặng tên thụy cho ông là Văn Trinh.
Ngô Thế Vinh, nhà văn học nổi tiếng thế kỷ 19 trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã
thích nghĩa hai chữ "Văn Trinh" như sau: (Văn, đức chi biểu dã; Trinh, đức chỉ chính cổ
dã. Văn là sự bên ngoài (thuần nhất )của đức; Trinh là tính chính trực, kiên địch của
đức). Tên thụy như vậy nhằm biểu dương một người đã kết hợp được hai mặt của đạo
đức: bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực, kiên định. Trong lịch sử
giáo dục nước nhà, ông cũng đã giành được địa vị cao quí bậc nhất, xứng đáng đứng
đầu các nhà giáo từ xưa tới nay. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa: làm thầy giáo giỏi của
một đời để đạt tới làm thầy giáo giỏi của muôn đời như Phan Huy Chú đã ngợi ca ông:
"học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt trước sau chỉ có mình
ông, các ông khác không thể so sánh được".

Thất trảm sớ là tờ sớ do Chu Văn An soạn và dâng lên vua Trần Dụ Tông để đề nghị chém 7 người mà
ông cho là gian thần.

Ban đầu, Dụ Tông còn ít tuổi, có thượng hoàng Trần Minh Tông lo việc triều chính. Sau khi thượng hoàng
Minh Tông mất (1357), Dụ Tông tự mình cầm quyền chính. Nhưng Dụ Tông không có tài trị nước.

Trong thời gian Trần Dụ Tông trị vì, tình cảnh xã hội rất nhiễu nhương. Dụ Tông là người ăn chơi thích tửu
sắc hát xướng. Cận thần nhiều người bất tài, o bế vua để lộng hành. Dân tình đói khổ. Nhiều trung thần
nghĩa sĩ bị làm hại. Các quan ngự sử vốn chuyên lo việc can ngăn vua nhưng cũng không làm theo.

Chu Văn An vốn là người thẳng thắn ngạch trực, có uy tín cao trong triều. Ông đã dũng cảm dâng sớ xin
chém bảy gian thần. Sớ thất trảm ấy bị thất truyền, không rõ nội dung như thế nào; ngay đương thời cũng ít
người được biết ông đã xin chém những ai. Nhưng tờ sớ đă gây chấn động dư luận. Do Thất trảm sớ không
được thực hiện, Chu Văn An đã lui về ở ẩn tại tại núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương.

You might also like

  • HDSD TKB
    HDSD TKB
    Document73 pages
    HDSD TKB
    api-3836910
    No ratings yet
  • Hinh 8
    Hinh 8
    Document96 pages
    Hinh 8
    api-3836910
    No ratings yet
  • Hinh 7
    Hinh 7
    Document38 pages
    Hinh 7
    api-3836910
    No ratings yet
  • Dai 8
    Dai 8
    Document104 pages
    Dai 8
    api-3836910
    No ratings yet
  • Dai 7
    Dai 7
    Document42 pages
    Dai 7
    api-3836910
    No ratings yet
  • Hinh 6
    Hinh 6
    Document57 pages
    Hinh 6
    api-3836910
    No ratings yet
  • Dai 9
    Dai 9
    Document116 pages
    Dai 9
    api-3836910
    No ratings yet
  • Hinh 7 Tu 60
    Hinh 7 Tu 60
    Document17 pages
    Hinh 7 Tu 60
    api-3836910
    No ratings yet
  • Dai 6
    Dai 6
    Document227 pages
    Dai 6
    api-3836910
    No ratings yet
  • Dai 8
    Dai 8
    Document17 pages
    Dai 8
    api-3836910
    No ratings yet
  • Dai 7 Tu 60
    Dai 7 Tu 60
    Document20 pages
    Dai 7 Tu 60
    api-3836910
    No ratings yet