You are on page 1of 5

Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ ở Việt Nam (5/12/2006

11:27:40 AM)

Nhận thức rõ vị trí của thị trường trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã có nhiều chủ trương và quyết sách lớn để thị trường phát triển lành mạnh, đúng
hướng. Sự thay đổi về quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên
thị trường hàng hoá, dịch vụ. Thị trường hàng hoá, dịch vụ nước ta từ sau năm 1986 đã có sự
biến đổi về chất và phát triển vượt bậc về lượng. Qua 17 năm đổi mới (1986- 2003) ta có thể khái
quát tình hình thị trường hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam như sau:

Một là, thị trường được thống nhất trong toàn quốc và bước đầu hình thành hệ thống thị
trường hàng hoá với các cấp độ khác nhau. Thực hiện tự do hoá thương mại, tự do hoá lưu
thông đã làm cho hàng hoá giao lưu giữa các vùng, các địa phương không bị ách tắc và ngăn
trở. Trên nền tảng tự do hoá đã khai thác được các tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, từng
địa phương, từng doanh nghiệp. Quá trình tích tụ và tập trung trên thị trường đã dẫn tới hình
thành các trung tâm thương mại quốc gia và vùng. Đó là cửa ngõ giao lưu hàng hoá, trung tâm
phát luồng hàng hoá và tác dụng như đòn xeo thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển

Hai là, trên thị trường đã có đủ các thành phần kinh tế, đông đảo thương nhân với các
hình thức sở hữu khác nhau. Các doanh nghiệp Nhà nước chi phối 70- 75% khâu bán buôn, tỷ
trọng bán lẻ chỉ còn 20- 21% trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ. Hệ thống hợp tác xã
còn phát huy được vai trò ở nông thôn, miền núi song chỉ còn chiếm trên dưới 1% tổng mức bán
lẻ trên thị trường. Lực lượng đông đảo nhất trên thị trường là các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và tư thương, tiểu thương. Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã
tham gia vào thị trường nội địa, chiếm tỷ trọng khoảng 3% trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá
bán lẻ (xem bảng 1)

Bảng 1: Tổng mức bán lẻ hàng hoá phân theo thành phần kinh tế (giá hiện hành)

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm Tổng số Trong đó

Quốc doanh Tập thể Tư nhân

Tổng Tỷ trọng Tổng số Tỷ trọng Tổng số Tỷ trọng


số (%) (%) (%)

1 19031,2 5788,7 30,4 519,2 2,7 519,2 66,9


990

1 33403,6 9000,8 26,9 662,4 2,0 662,4 71,1


991

1 51214,5 12370,6 24,2 563,7 1,1 563,7 74,7


992

1 67273,3 14650,0 21,8 612,0 0,9 612,0 77,3


993

1 93940,0 22921 24,4 751,5 0,8 751,5 74,8


994

1 121160,0 27367,0 23,6 1060,0 0,9 1060,0 75,5


995

1 145874,0 31123,0 23,3 1358,0 0,9 1358,0 75,8


996

1 161899,7 32369,2 22,0 1244,6 0,8 1244,6 77,2


997

1 185598,7 36093,8 19,4 1212,6 0,7 1212,6 79,9


998

1 200923,7 37500,0 18,6 1400,0 0,7 1400,0 80,7


999

2 220400 39231,2 17,8 1763,2 0,8 1763,2 81,4


000

2 245300 40965,1 16,7 2453,0 1,0 2453,0 82,3


001

2 277000 45428 16,4 3601 1,3 3601 82,3


002

2 310500 50301 16,2 4036,5 1,3 4036,5 82,5


003

Nguồn: Niên giám Thống kê 2001 và kinh tế Việt Nam & thế giới 2003- 2004

Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 1980- 2003

Năm ĐVT Tổng Kim ngạch xuất Kim ngạch nhập


KNXK khẩu khẩu

1980 Triệu R- 1.652,8 3386 13142


USD
1985 25559 6985 18574

1990 51564 24040 27524

1991 44252 20871 23381

1992 51214 25807 25407

1993 69092 29852 39240

1994 98801 36000 50000

1995 Triệu USD 136043 54489 81554

1996 183995 72559 111436

1997 207773 91850 115920

1998 208560 93610 114950

1999 231590 115230 116360

2000 301192 144827 156365

2001 31189 15027 16162

2002 35830 16530 19300

2003 44875 19880 24995

Ba là, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường đã thay đổi một cách cơ bản từ chỗ thiếu hụt
hàng hoá sang trạng thái đủ và dư thừa.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường- Quy luật cung cầu trong điều
kiện tự do hoá.
Nhiều mặt hàng trước đây phải nhập khẩu thì đến nay sản xuất nội địa đã bảo đảm yêu cầu trong
nước và có thể xuất khẩu như gạo, đường, xi măng… Quá trình thương mại hoá các yếu tố kinh
tế đem lại sự cởi trói các nhu cầu. Nhu cầu đa dạng, phát triển và thu nhập tăng lên đã làm cho
cầu thị trường phong phú và biến đổi khôn lường. Những nhà kinh doanh thành đạt đều phải
xuất phát từ đòi hỏi của khách hàng, bảo đảm chất lượng hàng hoá, giá cả phù hợp và có dịch
vụ tối ưu. Cuộc cạnh tranh về chất lượng và giá cả từng bước nhường chỗ cho cuộc cạnh tranh
bằng dịch vụ. Từ chỗ dịch vụ chỉ là hoạt động yểm trợ bán hàng đã phát triển thành địa hạt của
các nhà đầu tư kinh doanh. Ngành kinh doanh dịch vụ ra đời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt
của nền sản xuất xã hội
Bốn là, thị trường trong nước bước đầu đã có sự thông thương với thị trường quốc tế. Dù ở mức
độ còn hạn chế nhưng sự tác động của tăng trưởng hay suy thoái trên thị trường quốc tế đã bắt
đầu ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Điều này không chỉ diễn ra đối với những hàng hoá
xuất nhập khẩu mà cả hàng hoá nội địa. Đó là tín hiệu tốt lành với nền kinh tế vì nó tạo cơ hội
cho các nhà kinh doanh Việt Nam, đồng thời nó cũng tạo ra áp lực và nguy cơ lớn cho sản xuất
và kinh doanh trong nước. Điều này cũng cho thấy rằng sự hội nhập của thị trường trong với thị
trường khu vực và quốc tế là tất yếu. Vấn đề là chủ động đón nhận và có phương thức ứng xử
thích hợp để chuyển từ ngoại lực thành nôị lực. Trong điều kiện hiện tại của nước ta vấn đề
chiếm lĩnh thị trường nội địa, chính sách thay thế hàng nhập khẩu có vị trí đặc biệt quan trọng.
Do chính sách của nền kinh tế, hàng hoá ngoại nhập tràn ngập thị trường nội địa. Hàng ngoại
đang có ưu thế so với hàng sản xuất trong nước. Thêm vào đó là sự yếu kém về chất lượng, giá
cả, quy cách, chủng loại của hàng nội địa và tâm lý sùng bái hàng ngoại đã làm cho hàng nội yếu
thế. Đây là nguy cơ làm cho hàng loạt chủ thể kinh doanh trong nước bị phá sản và nhiều mặt
hàng sản xuất trong nước mất thị phần ngay trên đất nước minih khi nước ta thực hiện
AFTA/CEPT vào năm 2006, tham gia APEC và WTO
Năm là, thị trường quốc tế của VIệt Nam đã có bước phát triển cả về lượng và chất
Thị trường quốc tế của Việt Nam phát triển với tốc độ cao trong những năm gần đây. Chính sách
mở cửa nền kinh tế, phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá của Việt Nam đã gặt hái được
nhiều thành công. Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với 221 nước và vùng lãnh thổ của cả 5
châu lục, trong đó xuất khẩu tới 219 nước, nhập khẩu từ 151 nước; có 151 nước Việt Nam xuất
siêu, 70 nước Việt Nam nhập siêu. Quy mô xuất khẩu liên tục tăng và năm 2003 đạt mức cao
nhất từ trước tới nay. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu ở mức cao. Năm 2000 tăng 25,5% so với
năm 1999, năm 2001 tăng 3,8%, năm 2002 tăng 11,2%; năm 2003 tăng 19%. Kim ngạch xuất
khẩu bình quân đầu người tăng liên tục: năm 2000 đạt 186,6 USD/người; năm 2001 là 191
USD/người; năm 2002 là 209,5 USD/người; năm 2003 là 246,4 USD/người. Mặt hàng xuất khẩu
được mở rộng về danh mục chủng loại, tăng quy mô về lượng và thay đổi cơ cấu tích cực, chất
lượng hàng xuất khẩu được nâng cao
Điểm nổi bất trong xuất khẩu của Việt Nam những năm qua là đã xuất khẩu đến được thị trường
đích và nhập khẩu được từ thị trường nguồn. Nhiều mặt hàng chủ lực của Việt Nam đã có tiếng
trên thị trường quốc tế
Sáu là, sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường và thương mại đã có nhiều
đổi mới. Đổi mới trước hết là cơ chế quản lý thị trường. Từ cơ chế trực tiếp can thiệp, kiểm tra
kiểm soát thị trường là chủ yếu chuyển sang cơ chế tác động gián tiếp và tạo lập môi trường
chính sách cho kinh doanh trên thị trường. Các chính sách quản lý và công cụ quản lý của Nhà
nước đối với thị trường được nghiên cứu kỹ và thông thoáng hơn. Nhà nước đã tạo lập được
môi trường pháp lý cho các hạot động trên thị trường. Sự tự do, bình đẳng giữa các chủ thể hoạt
động trên thị trường được đảm bảo bằng pháp luật. Bộ máy quản lý Nhà nước về thị trường,
thương mại đã được sắp xếp lại theo hướng tinh giản, hiệu quả. Các thủ tục hành chính cản trở,
gây phiền hà cho sản xuất kinh doanh liên tục được sửa đổi và bãi bỏ. Dù những đổi mới trên
đây còn chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu nhưng những tác động tích cực cuả những thay
đổi đó với thị trường đã thấy rõ và đặt ra sự đòi hỏi cấp thiết hơn
Bảy là, trên thị trường đang tồn tại những ách tắc và mâu thuẫn lớn. Nói chung thị trường
hàng hoá, dịch vụ ở Việt Nam mới bước đầu hình thành và trình độ còn thấp. Về cơ bản thị
trường vẫn là manh mún, phân tán và nhỏ bé. Sức mua còn thấp. Hàng hoá bị ứ đọng khó tiêu
thụ đang là bài toán khó đối với Nhà nước, với doanh nghiệp. Tình trạng buôn lậu, gian lận
thương mại, hàng giả, hàng kém phẩm chất lưu thông tràn lan trên thị trường đang là vấn đề báo
động đỏ. Thị trường các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa chậm phát triển và không
đáp ứng được yêu cầu của nhân dân.
Thị trường xuất khẩu phát triển nhưng không ổn định, thiếu bền vững, khả năng cạnh tranh
sản phẩm, cạnh tranh của doanh nghiệp còn ở mức thấp. Sự tập trung quá mức vào một vài thị
trường nên khi có bất ổn ở đây thì lúng túng và khó khăn trong xuất khẩu. Tình trạng nhập siêu
lớn và tốc độ gia tăng cao. Tỷ trọng hàng tinh chế còn thấp và tăng chậm, hàng xuất khẩu ở dạng
sơ chế còn chiếm tỷ trọng cao, nhiều hàng hoá xuất khẩu chủ lực chủ yếu theo phương thức gia
công. Do đó giá xuất khẩu thấp và heieụ quả xuất khẩu thấp.
Sự chậm trễ và thiếu đồng bộ trong ban hành các chính sách kinh tế đã làm trầm trọng thêm
những khuyết tật của thị trường. Sự kết hợp điều tiết của Nhà nước và điều tiết của thị trường
chưa thật linh hoạt, nhạy bén đã gây ra những cơn sốt trên thị trường. Thị trường hàng hoá, dịch
vụ ở nước ta vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tự phát và bất ổn. Những vấn đề trên đòi hỏi phải có
các giải pháp quyết liệt và đồng bộ để cho thị trường hàng hoá, dịch vụ phát triển ổn định, bền
vững. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ nước ta
những năm tới
1. Đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá: Đây là biện pháp rất cơ bản để thúc đẩy phát triển
thị trường. Phải đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hoá theo hướng tập trung chuyên
môn hoá cao vào các ngành có lợi thế so sánh. Nghiên cứu lựa chọn sản phẩm có lợi thế so
sánh của quốc gia, của từng địa phương và từng ngành để xây dựng chiến lược phát triển. Bố trí
nghiên cứu các thông tin về thị trường đầu ra, khả năng cạnh tranh. Tránh tình trạng làm phong
trào, tràn lan như thời gian qua.
2. Tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng vật chất, pháp lý và tri thức khoa học công nghệ cho
thương mại, dịch vụ. Đây là nền tảng để phát triển thị trường cả trong nước và quốc tế. Ưu tiên
đầu tư hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc và xây dựng chợ, trung tâm thương mại.
Bảo đảm cơ sở hạ tầng tốt cho lưu thông hàng hoá thông suốt, thuận lợi và nhanh chóng. Chính
điều này sẽ góp phần chuyển biến cơ cấu sản xuất hàng hoá theo hướng năng động, hiệu quả.
Để phát triển kết cấu hạ tầng phải có chính sách hợp lý để thu hút đầu tư cả trong nước và ngoài
nước.
3. Nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo thị trường và các hoạt động xúc tiến
thương mại. Cần xác định rõ phạm vi trách nhiệm và phối hợp giữa Nhà nước với các doanh
nghiệp, nhà kinh doanh trong công tác thị trường (cả thị trường trong nước và thị trường quốc
tế). ở tầm vĩ mô Nhà nước cần đầu tư nâng cao chất lượng dự báo thị trường và phát triển
thương mại của Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Thương mại và một số Bộ, địa phương trọng điểm.
Đặc biệt là vấn đề dự báo dài hạn và hàng năm để giúp các doanh nghiệp định hướng kinh
doanh và cảnh bảo thị trường.
4. Hoàn chỉnh cơ sở pháp lý cho tự do hoá kinh doanh, tự do hoá thương mại. Triệt để tuân
thủ nguyên tắc thương nhân được kinh doanh những thứ mà luật pháp cho phép và luật pháp
không cấm. Thường xuyên rà soát hệ thống luật pháp hiện hành để bảo đảm tính hệ thống tính
pháp lý và môi trường thông thoáng cho các chủ thể kinh doanh. Đồng thời phải nghiêm trị các
hành vi vi phạm luật thương mại nhất là buôn lậu, hàng rởm và hàng giả.
5. Tổ chức hệ thống kinh doanh thương mại hợp lý trên cơ sở đa thành phần kinh tế và tạo
môi trường cạnh tranh bình đẳng. Phối hợp chặt chẽ giữa sản xuất với lưu thông. Chủ động điều
tiết khối lượng cung cho phù hợp với cầu thị trường. Hướng tới sản xuất và bán hàng theo yêu
cầu thị trường.
6. Chủ động và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế, thương mại khu vực và quốc tế. Tiếp
tục chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế. Thực hiện đầy đủ các
cam kết quốc té của Việt Nam. Tích cực đàm phán để ký kết các hiệp định thương mại đa
phương và song phương với các nước và tổ chức kinh tế quốc tế. Tạo lập môi trường và điều
kiện để sớm gia nhập tổ chức thương mại quốc tế.
7. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hệ thống quản lý Nhà nước đối với thị trường và thương
mại. Đẩy mạnh cải cách hành chính quốc gia. Coi trọng khâu đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài trong kinh doanh và quản lý thị trường, thương mại. Nâng hiệu lực và hiệu quả quản lý
nhà nước đối với thương mại, dịch vụ.
8. Việt Nam là nước có tốc độ phát triển kinh tế cao trong những năm qua. Phát triển nhanh và
bền vững kinh tế xã hội là mục tiêu chiến lược. Sự phát triển mạnh mẽ và ổn định của thị trường
hàng hoá, dịch vụ là yếu tố quan trọng để thực hiện được mục tiêu nói trên
(Nguồn: Nguồn: T/c Kinh tế và phát triển, số 84,6/2004)
http://www.quochoi.vn/htx/Vietnamese/C1461/default.asp?Newid=1255

You might also like