You are on page 1of 85

CHƯƠNG 1

Những nét chính

Sự ra đời của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là kết quả của những cuộc đàm phán; tất cả
những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán.
1. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là gì?

Nói một cách đơn giản, WTO là nơi đề ra những qui định điều tiết hoạt động thương mại của các
quốc gia trên qui mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất
cả…

Trước tiên, WTO là một khuôn khổ để đàm phán… WTO là diễn đàn, nơi các quốc gia thành
viên thương lượng giải quyết những tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa họ.
Bước giải quyết tranh chấp đầu tiên là thảo luận. WTO ra đời từ các cuộc đàm phán và tất cả
những gì tổ chức này làm được đều thông qua con đường đàm phán. Các hoạt động mà WTO
đang xúc tiến hiện nay chủ yếu xuất phát từ những cuộc đàm phán diễn ra từ năm 1986 đến
1994, mang tên Vòng đàm phán Uruguay, và từ những cuộc đàm phán trước đó trong khuôn khổ
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Hiện nay, WTO đang tổ chức rất nhiều
cuộc đàm phán mới trong khuôn khổ “Chương trình phát triển Doha” được khởi xướng từ năm
2001.

Hệ thống thương mại “đa biên”…

… là hệ thống do WTO điều hành. Phần lớn các quốc gia trên thế giới – trong đó gồm hầu hết các
cường quốc thương mại chính của thế giới – là thành viên của hệ thống này. Tuy vậy, có một số
nước không gia nhập hệ thống nên thuật ngữ “thế giới” đã được thay thế bằng thuật ngữ “đa
biên” để nêu lên đặc điểm này.

Đối với WTO, thuật ngữ này còn bao hàm một nghĩa quan trọng khác. Tại đây, “đa biên” có nghĩa
là các hoạt động được triển khai trên qui mô thế giới hoặc gần như toàn thế giới (đặc biệt đối với
các nước thành viên WTO), thuật ngữ được sử dụng nhằm đối lập với những biện pháp sử dụng
trong phạm vi khu vực hoặc trong một số nhóm quốc gia. ("Đa biên" được sử dụng khác với "đa
phương" vẫn thường được sử dụng trong những lĩnh vực quan hệ quốc tế khác, theo đó, một cơ
chế an ninh “đa phương” có thể mang tính chất toàn khu vực.)

Đối với những nước gặp phải những rào cản trong thương mại và muốn vượt qua chúng, thì đàm
phán góp phần thúc đẩy tự do hoá thương mại. Tuy nhiên, WTO không chỉ tập trung vào mục
tiêu tự do hoá thương mại, trong một số trường hợp, WTO còn đề ra những qui định ủng hộ việc
duy trì rào cản thương mại, ví dụ như trong trường hợp bảo vệ người tiêu dùng hay ngăn chặn
sự lan tràn của một dịch bệnh nào đó.

WTO là tập hợp những qui định… Nòng cốt của tổ chức là các Hiệp định WTO được phần lớn
các cường quốc thương mại trên thế giới đàm phán và ký kết. Những văn bản này tạo thành qui
định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế. Đó chủ yếu là những hợp đồng theo đó chính phủ
các nước cam kết duy trì chính sách thương mại trong khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận.
Mặc dù do các chính phủ đàm phán và ký kết, song mục tiêu của những bản hiệp định này là
giúp đỡ các nhà sản xuất hàng hoá, dịch vụ cũng như các nhà xuất, nhập khẩu triển khai các
hoạt động của mình, đồng thời vẫn cho phép chính phủ các nước đáp ứng được những mục tiêu
xã hội và tiêu chuẩn môi trường.

Mục tiêu trọng tâm của hệ thống là góp phần tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho tự do thương mại
mà vẫn tránh được những tác hại không mong muốn. Đó là xoá bỏ những rào cản, thông báo
những qui định thương mại hiện hành trên thế giới cho các cá nhân, doanh nghiệp, và cơ quan
nhà nước, đồng thời đảm bảo với họ rằng sẽ không có thay đổi đột ngột nào trong các chính
sách đang được áp dụng. Nói cách khác, các qui định phải “minh bạch” và dễ dự đoán.

Và cuối cùng WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp… Đây chính là hoạt động quan trọng
thứ ba của WTO. Quan hệ thương mại thường làm nảy sinh những lợi ích mâu thuẫn nhau. Tất
cả các hiệp định, kể cả những hiệp định đã được các nước thành viên WTO đàm phán một cách
kỹ lưỡng đều cần phải được giải thích. Cách tốt nhất để giải quyết tranh chấp là đưa ra một thủ
tục trung gian dựa trên cơ sở pháp lí đã thoả thuận. Đây chính là mục tiêu của quá trình giải
quyết tranh chấp nêu trong các Hiệp định của WTO.

Mới ra đời vào năm 1995 nhưng WTO đã thực sự lớn mạnh

WTO được thành lập vào năm 1995 nhưng hệ thống thương mại mà tổ chức này đại diện thì gần
như đã tồn tại từ hơn nửa thế kỷ nay. Năm 1948, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
(GATT: “General Agreement on Tarrifs and Trade”) đã đề ra hàng loạt các qui định cho hệ thống
thương mại. Vào tháng 5 năm 1998, tại Hội nghị bộ trưởng WTO lần thứ hai tổ chức tại Giơnevơ,
hệ thống này đã kỷ niệm 50 năm ngày ra đời của mình.

Hiệp định chung đã nhanh chóng cho ra đời một tổ chức thương mại quốc tế không chính thức,
tồn tại trên thực tế với tên gọi không chính thức là GATT. Theo thời gian, GATT đã trưởng thành
qua nhiều vòng đàm phán.

Là vòng đàm phán cuối cùng và cũng là vòng đàm phán quan trọng nhất của GATT, vòng đàm
phán Urugoay, diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994, cuối cùng đã cho ra đời WTO. Nếu như trước
kia GATT chỉ bao quát thương mại hàng hoá thì ngày nay, WTO, cùng những Hiệp định của mình
đang tiến tới thương mại dịch vụ cũng như trao đổi sáng chế, phát minh, thiết kế và mô hình (sở
hữu trí tuệ).

2. Những nguyên tắc làm nền tảng cho tổ chức thương mại

Các Hiệp định của WTO rất dài và phức tạp vì đó là những văn bản pháp lí qui định rất nhiều lĩnh
vực hoạt động như: nông nghiệp, hàng dệt may, hoạt động ngân hàng, viễn thông, thị trường
công, tiêu chuẩn công nghiệp, tính an toàn của sản phẩm, qui định liên quan đến an toàn vệ sinh
thực phẩm, sở hữu trí tuệ, và còn rất nhiều lĩnh vực khác nữa… Tuy nhiên, có một số nguyên tắc
đơn giản và cơ bản làm kim chỉ nam của tất cả các lĩnh vực này, và trở thành nền tảng của hệ
thống thương mại đa biên.

Các nguyên tắc

Hệ thống thương mại phải

· Không phân biệt đối xử: không một nước nào được có sự phân biệt đối xử giữa các đối tác
thương mại của mình (nghĩa là phải dành cho họ một cách công bằng qui chế “đãi ngộ tối huệ
quốc” hay còn gọi là qui chế MFN) cũng như không được phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ
và người nước mình với hàng hoá, dịch vụ và người nước ngoài (nghĩa là phải giành cho họ qui
chế “đối xử quốc gia”);

· Tự do hơn: xoá bỏ rào cản thông qua con đường đàm phán.

· Dễ dự đoán: phải đảm bảo cho các công ty, các nhà đầu tư và chính phủ nước ngoài rằng sẽ
không áp dụng một cách tuỳ tiện các hàng rào cản trở thương mại (gồm hàng rào thuế quan và
phi thuế quan); phần trăm thuế nhập khẩu và các cam kết được “ràng buộc” tại WTO.

· Cạnh tranh hơn: hạn chế những biện pháp thương mại không lành mạnh như trợ cấp xuất
khẩu, bán phá giá, nghĩa là bán với giá thấp hơn giá thành sản phẩm nhằm mục đích chiếm thị
phần;

· Dành ưu đãi cho các nước kém phát triển: cho họ một thời hạn dài và linh động hơn, cùng
một số đặc quyền thương mại.

Thương mại không phân biệt đối xử

1. Qui chế tối huệ quốc (MFN): đối xử bình đẳng với các nước khác. Theo các Hiệp định của
WTO, về nguyên tắc, các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của
mình. Nếu bạn trao cho một nước nào đó một đặc quyền thương mại (ví dụ như giảm thuế nhập
khẩu đối với một trong số sản phẩm của nước này) thì bạn cũng phải đối xử tương tự như vậy
với tất cả các thành viên còn lại của WTO.

Nguyên tắc này có tên gọi Tối huệ quốc (MFN) (xem phần đóng khung). Đây là nguyên tắc quan
trọng vì nó được qui định ngay tại điều đầu tiên của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương
mại, hiệp định đóng vai trò điều tiết thương mại hàng hoá. Đây cũng là điều khoản ưu tiên của
các Hiệp định quan trọng của WTO. Mặc dù mỗi hiệp định sử dụng những thuật ngữ đôi chút
khác nhau : điều 2 của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), điều 4 của Hiệp định về
những vấn đề của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs). Ba hiệp định trên
đồng thời chi phối ba lĩnh vực mậu dịch chính mà WTO can thiệp.

Tại sao người ta lại nói tới “Quy chế tối huệ quốc”?

Điều này có vẻ như là mâu thuẫn. Nó làm cho người ta nghĩ rằng WTO áp dụng một chế độ đãi
ngộ đặc biệt. Tuy nhiên, đối với WTO, nguyên tắc này thực ra dùng để chỉ sự không phân biệt đối
xử, nghĩa là đối xử công bằng với hầu hết các nước khác.

Sau đây là cơ chế hoạt động của nguyên tắc này. Mỗi thành viên phải đối xử với các thành viên
khác trong tổ chức một cách công bằng, như những đối tác thương mại “ưu tiên nhất”. Nếu một
nước dành cho một đối tác thương mại của mình một số ưu đãi thì nước đó phải đối xử tương tự
như vậy với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia đều “được ưu tiên
nhất”.

Qui chế tối huệ quốc không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc bình đẳng trong đối xử. Các
hiệp ước song phương đầu tiên qui định về qui chế này đã cho ra đời những câu lạc bộ chỉ dành
cho các đối tác thương mại “ưu tiên nhất” của một nước. Trong khuôn khổ của GATT mà nay là
WTO, câu lạc bộ tối huệ quốc không còn bị hạn chế nữa. Theo nguyên tắc MFN, mỗi quốc gia
phải đối xử một cách bình đẳng với toàn bộ 140 thành viên khác của WTO.

Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ…


Một số trường hợp ngoại lệ miễn trừ được phép. Chẳng hạn, một số nước có thể ký kết một hiệp
định thương mại tự do chỉ được áp dụng đối với những hàng hoá trao đổi trong nội bộ một nhóm
- đây là một hình thức phân biệt đối xử đối với hàng hoá của các nước ngoài nhóm. Một ví dụ
khác: một số nước có thể tạo cơ hội đặc biệt để hàng hoá của các nước đang phát triển dễ dàng
tiếp cận thị trường nước mình. Tương tự, một nước cũng có thể tăng hàng rào đối với sản phẩm
của nước mà mình cho rằng có sử dụng những biện pháp thương mại không bình đẳng. Đối với
lĩnh vực dịch vụ, trong một số trường hợp nhất định, các nước có thể áp dụng biện pháp phân
biệt đối xử. Tuy nhiên, các hiệp định của WTO cũng qui định rằng chỉ được phép như vậy với các
điều kiện nghiêm ngặt. Nói một cách khái quát, MFN có nghĩa là khi một nước giảm bớt hàng rào
thuế quan hay mở cửa thị trường nước mình thì nước này phải dành sự đãi ngộ tương tự như
vậy với cùng loại hàng hoá và dịch vụ của tất cả các đối tác thương mại, cho dù đối tác đó giàu
hay nghèo, mạnh hay yếu.

2. Nguyên tắc đối xử quốc gia: đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và sản phẩm nội địa.
Hàng nhập khẩu và hàng nội địa phải được đối xử bình đẳng, ngay sau khi hàng nhập khẩu đã
thâm nhập vào thị trường. Nguyên tắc này cũng được áp dụng đối với lĩnh vực dịch vụ, thương
hiệu, bản quyền, bằng sáng chế nước ngoài cũng như trong nước. Nguyên tắc đối xử quốc gia
(dành cho các nước khác chế độ đãi ngộ tương tự như chế độ đãi ngộ trong nước) cũng được
thể hiện trong cả ba Hiệp định chính của WTO (điều 3 của GATT, điều 17 của GATS và điều 3
của TRIPS), mặc dù trong trường hợp này cũng vậy, các thuật ngữ sử dụng trong các hiệp định
không hoàn toàn thống nhất với nhau.

Nguyên tắc đối xử quốc gia chỉ được áp dụng khi một sản phẩm, dịch vụ hay một yếu tố sở hữu
trí tuệ đã gia nhập vào thị trường. Do vậy, việc đánh thuế nhập khẩu không vi phạm vào nguyên
tắc này ngay cả khi không có một loại thuế tương đương nào đánh vào sản phẩm nội địa.

Tự do hoá thương mại: từng bước và bằng con đường đàm phán

Một trong những biện pháp hiển nhiên nhất nhằm khuyến khích mậu dịch là giảm bớt hàng rào
cản trở thương mại, ví dụ như hàng rào thuế quan và những chiêu bài như cấm nhập khẩu hay
hạn ngạch nhập khẩu nhằm hạn chế định lượng nhập khẩu. Theo định kỳ, những vấn đề khác
như thủ tục hành chính rườm rà và các chính sách hối đoái cũng được đưa ra xem xét.

Từ khi GATT ra đời năm 1947-1948 đã diễn ra 8 vòng đàm phán thương mại. Thời kỳ đầu, các
vòng đàm phán xoay quanh vấn đề cắt giảm thuế áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu. Nhờ vậy,
vào khoảng giữa thập niên 90, tại các nước công nghiệp phát triển, thuế đánh vào hàng công
nghiệp đã được giảm xuống dưới mức 4%.

Tuy nhiên, đến thập niên 80, phạm vi đàm phán đã được mở rộng, bao trùm cả những vấn đề
liên quan tới hàng rào bảo hộ phi thuế quan cản trở thương mại hàng hoá, rồi cả những lĩnh vực
mới như thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ.

Mở cửa thị trường có thể đem lại nhiều thuận lợi nhưng nó cũng đòi hỏi phải có một số điều
chỉnh nhất định. Các Hiệp định của WTO cho phép các quốc gia thành viên từng bước thay đổi
chính sách của mình, thông qua “lộ trình tự do hoá từng bước”. Các nước đang phát triển
thường được hưởng một thời hạn dài hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ.

Dễ dự đoán: nhờ ràng buộc cam kết cùng chính sách minh bạch

Có lẽ đôi khi lời hứa không tăng thêm rào cản cũng quan trọng không kém lời hứa giảm rào cản
thương mại bởi vì điều này giúp doanh nghiệp thấy được rõ hơn khả năng phát triển của mình
trong tương lai. Chính sách ổn định và minh bạch sẽ khuyến khích đầu tư, tạo việc làm; người
tiêu dùng cũng tận dụng được nhiều lợi thế nhờ tự do cạnh tranh, nghĩa là họ có thêm nhiều cơ
hội lựa chọn và được hưởng một mức giá thấp. Hệ thống thương mại đa biên cụ thể hoá những
nỗ lực của chính phủ các quốc gia thành viên nhằm tạo một môi trường thương mại ổn định và
dễ dự đoán.

Đối với WTO, việc các quốc gia thành viên thoả thuận mở cửa thị trường hàng hoá hay dịch vụ
đồng nghĩa với việc ràng buộc các cam kết. Trong lĩnh vực hàng hoá, ràng buộc cam kết thể hiện
ở việc ấn định mức thuế suất tối đa. Có thể xảy ra trường hợp, đặc biệt đối với các nước đang
phát triển, mức thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu thấp hơn mức thuế ràng buộc. Còn đối với
các nước phát triển, mức thuế áp dụng thực tế và mức thuế ràng buộc thường tương đương
nhau.

Một nước có thể sửa đổi cam kết, nhưng chỉ sau khi đàm phán thành công với các đối tác
thương mại của mình, nghĩa là có thể nước đó phải chấp nhận một khoản bồi thường cho các
đối tác do làm mất các cơ hội thương mại của họ. Việc thực hiện cam kết của các quốc gia thành
viên WTO sau các cuộc đàm phán thương mại đa phương trong khuôn khổ Vòng đàm phán
Uruguay đã mở rộng mức thuế ràng buộc (xem bảng). Hiện nay, trong lĩnh vực nông nghiệp, tất
cả hàng nông sản đều được áp dụng mức thuế ràng buộc. Nhờ vậy, thị trường trở nên đảm bảo
hơn rất nhiều đối với các bên đàm phán cũng như với các nhà đầu tư.

WTO cũng đã rất nỗ lực trong việc sử dụng nhiều biện pháp khác nhằm tăng cường tính minh
bạch và ổn định. Ví dụ WTO có thể hạn chế việc sử dụng hạn ngạch và các biện pháp hạn chế
định lượng nhập khẩu: quản lí hạn ngạch có thể làm gia tăng nạn quan liêu và nảy sinh tình trạng
lạm dụng các biện pháp thương mại không lành mạnh. WTO cũng có thể tìm cách làm cho các
qui tắc thương mại của các quốc gia thành viên trở nên thật rõ ràng và công khai (“minh bạch”).
Rất nhiều Hiệp định của WTO yêu cầu chính phủ các quốc gia thành viên công bố trên phạm vi
toàn quốc hoặc thông báo cho WTO những giải pháp và biện pháp được thông qua. Việc thường
xuyên giám sát chính sách thương mại của từng nước thành viên thông qua Cơ chế rà soát
chính sách thương mại cũng là một biện pháp nhằm tăng cường tính minh bạch trên cả bình diện
quốc gia lẫn bình diện thế giới.

Thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng

Một số người cho rằng WTO là một thể chế thương mại tự do nhưng điều này không hoàn toàn
chính xác. Hệ thống này cho phép áp dụng thuế nhập khẩu, thậm chí trong một số trường hợp
nhất định, nó còn cho phép áp dụng một số hình thức bảo hộ khác. Như vậy sẽ là chính xác hơn
nếu nói rằng đây là một hệ thống những qui định nhằm đảm bảo cạnh tranh mở, bình đẳng và
không có sai phạm.

Những qui định liên quan đến nguyên tắc không phân biệt đối xử - Qui chế tối huệ quốc và đối xử
quốc gia – nhằm mục tiêu đảm bảo những điều kiện thương mại bình đẳng, cũng như những qui
định về việc bán phá giá (xuất khẩu với giá thấp hơn giá thành sản phẩm nhằm chiếm thị phần)
và trợ cấp. Đối với những vấn đề phức tạp như thế này, các qui định của WTO giúp xác định
trường hợp nào là bình đẳng và trường hợp nào là không bình đẳng, cũng như biện pháp trả đũa
mà chính quyền có thể sử dụng, bằng cách thu thuế nhập khẩu phụ thu để có thể bù đắp những
tổn thất do các biện pháp thương mại không lành mạnh gây ra.

WTO cũng có rất nhiều Hiệp định khác nhằm tăng cường cạnh tranh bình đẳng, ví dụ trong lĩnh
vực nông nghiệp, sở hữu trí tuệ và dịch vụ. Hiệp định về thị trường công (đây là một hiệp định đa
phương vì chỉ có một số ít quốc gia thành viên WTO ký vào hiệp định này) mở rộng các qui định
về cạnh tranh đối với những thị trường có sự tham gia của hàng nghìn thực thể có tư cách “chính
phủ” tồn tại trong nhiều quốc gia. Có thể kể ra ở đây rất nhiều ví dụ khác nữa.

Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế

Hệ thống của WTO góp phần vào quá trình phát triển của các quốc gia. Tuy nhiên, các nước
đang phát triển cần một thời hạn linh động hơn trong việc thực hiện các hiệp định của hệ thống.
Bản thân các Hiệp định của WTO ngày nay cũng đều lấy lại những điều lệ của GATT trước đây
theo đó qui định việc dành một sự trợ giúp đặc biệt cùng các chính sách thương mại thuận lợi
cho các nước đang phát triển.

Vòng đàm phán Uruguay đã làm tăng số lượng các ràng buộc

Tỷ lệ phần trăm thuế ràng buộc trước và sau các cuộc đàm phán từ năm 1986 đến năm 1994

Trước Sau
Các nước phát triển 78 99
Các nước đang phát triển 21 73

Các nước đang trong quá trình chuyển đổi 73 98

(Đây là những dòng thuế được tính toán sao cho tỷ lệ phần trăm không bị ảnh hưởng
bởi khối lượng và giá trị thương mại.)

Các nước đang phát triển và các nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế chiếm hơn 3/4 số
nước thành viên của WTO. Trong suốt bảy năm rưỡi hoạt động của Vòng đàm phán Uruguay,
hơn 60 nước này đã triển khai một cách tự chủ các chương trình tự do hoá thương mại của
WTO. Cũng tại Vòng đàm phán này, các nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế đã giữ vai trò tích cực và có trọng lượng hơn trong những vòng đàm phán
trước, và hiện nay, trong khuôn khổ Chương trình phát triển Doha, vai trò này còn được tăng
cường hơn nữa.

Kết thúc Vòng đàm phán Uruguay, các nước đang phát triển đã được động viên đảm đương
phần lớn những nghĩa vụ thuộc phận sự của các nước phát triển. Tuy nhiên, các Hiệp định cũng
đề ra một số thời hạn cho phép các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước nghèo - các nước
kém phát triển – có thể thích nghi dần dần trong thời kỳ chuyển đổi với những điều khoản không
mấy phổ biến, và thậm chí còn khó hơn cả Hiệp định về WTO. Một quyết định cấp bộ trưởng
được thông qua tại các cuộc đàm phán cũng qui định rằng các nước giàu phải đẩy nhanh tiến độ
thực hiện cam kết cho phép hàng hoá của các nước kém phát triển thâm nhập thị trường nước
mình, ngoài ra các nước kém phát triển cũng được hưởng một sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật ngày
càng tăng. Mới đây, các nước phát triển đã bắt đầu đồng ý miễn thuế nhập khẩu và không áp
dụng hạn ngạch đối với hầu hết các sản phẩm đến từ các nước kém phát triển. Về vấn đề này,
WTO và các quốc gia thành viên vẫn còn đang trong giai đoạn tập sự. Chương trình phát triển
Doha hiện nay rất quan tâm tới những vấn đề khó khăn mà các nước đang phát triển gặp phải
trong quá trình thực hiện các hiệp định được ký kết tại Vòng đàm phán Uruguay.

3. Những lý do của tự do hoá thương mại


Theo quan điểm kinh tế, luận chứng cho một hệ thống thương mại mở được dựa trên những
thoả thuận đa phương rất đơn giản và chủ yếu xuất phát từ mặt tích cực của thương mại. Không
những thế, nó còn được ủng hộ bởi sự phát triển của thương mại quốc tế và sự tăng trưởng kinh
tế từ sau thế chiến thứ hai. Mức thuế đánh vào hàng công nghiệp đã được giảm một cách rõ rệt,
trung bình ở dưới mức 5% tại các nước phát triển. Trong vòng 25 năm sau chiến tranh thế giới
thứ hai, tăng trưởng kinh tế thế giới đạt mức bình quân 5%/năm, có được mức tăng này một
phần là nhờ việc giảm bớt hàng rào cản trở thương mại. Thương mại thế giới tăng trưởng với tốc
độ chóng mặt hơn, với tỷ lệ trung bình khoảng 8% trong giai đoạn hiện nay.

Số liệu thống kê cho thấy có một mối liên hệ không thể phủ nhận giữa tự do hoá thương mại và
tăng trưởng kinh tế. Theo học thuyết kinh tế, mối liên hệ này được lý giải một cách hết sức khoa
học. Tất cả các nước, kể cả các nước nghèo đều có những nguồn lực như nhân lực, công
nghiệp, tài nguyên thiên nhiên, tài chính mà họ có thể khai thác để sản xuất hàng hoá và dịch vụ
phục vụ thị trường nội địa hoặc nước ngoài. Khoa học kinh tế dạy chúng ta rằng chúng ta có thể
tận dụng thương mại hàng hoá và dịch vụ này. Nói một cách dễ hiểu, nguyên tắc “lợi thế so
sánh” chỉ ra rằng các nước làm giàu trước tiên bằng cách tận dụng các nguồn lực sẵn có để tập
trung sức lực vào những lĩnh vực mà họ có điều kiện sản xuất tốt nhất, tiếp đến bằng cách trao
đổi những sản phẩm này lấy những sản phẩm mà những nước khác có thể sản xuất với những
điều kiện tốt nhất.

Sự phục hồi của ngành thương mại và sản xuất trên thế giới

Cả thương mại và GDP đều sụt giảm vào cuối những năm 20, sau đó lấy lại đà tăng trưởng vào
năm 1932. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cả hai lĩnh vực này đều đạt một mức phục hồi cấp số
nhân, trong đó thương mại thường tăng trưởng nhanh hơn GDP.

(1950 = 100. Thương mại và GDP: tỷ lệ logarit).

Nói cách khác, chính sách thương mại tự do hay chính sách đảm bảo cho hàng hoá và dịch vụ
tự do lưu thông là làm gia tăng cạnh tranh, khuyến khích khả năng sáng tạo và tạo ra thành
công. Chính sách thương mại tự do này giúp người ta thu được thêm nhiều lợi nhuận từ việc sản
xuất ở điều kiện tốt nhất, với kế hoạch hoàn hảo nhất và giá thành thấp nhất.
Tuy nhiên, thành công trong thương mại không phải là một hiện tượng tĩnh. Một doanh nghiệp có
khả năng cạnh tranh hoàn hảo đối với một sản phẩm nào đó có thể trở nên kém cạnh tranh hơn
một doanh nghiệp khác khi thị trường phát triển hay khi công nghệ mới cho phép tạo ra những
sản phẩm với giá rẻ hơn và chất lượng tốt hơn. Nhà sản xuất được khuyến khích thay đổi để tự
thích nghi từng bước và tránh bị tổn thất. Họ có thể tạo ra các sản phẩm mới, tìm thấy cơ hội làm
ăn mới trong lĩnh vực hoạt động sẵn có của mình hay lao vào một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ.

Kinh nghiệm cho thấy khả năng cạnh tranh cũng có thể chuyển từ nước này sang nước khác.
Một nước có nhiều điều kiện thuận lợi nhờ giá nhân công rẻ hoặc nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú có thể bị mất khả năng cạnh tranh đối với một số hàng hoá và dịch vụ với sự phát
triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, nhờ tác dụng khuyến khích của việc mở cửa nền kinh tế, nước
này có thể lại trở nên cạnh tranh đối với hàng hoá hay dịch vụ khác. Nói chung, đây là một quá
trình dần dần.

Tuy nhiên, ý định từ chối đương đầu với thách thức mà các mặt hàng nhập khẩu có khả năng
cạnh tranh đặt ra vẫn tồn tại dai dẳng. Và chính phủ các nước giàu có thể bị cám dỗ bởi các biện
pháp bảo hộ nhằm có được lợi thế về mặt chính trị ngắn hạn thông qua việc trợ cấp, đề ra những
thủ tục hành chính rắc rối, viện cớ vì các mục đích chung hợp pháp như gìn giữ môi trường hay
bảo vệ người tiêu dùng nhằm bảo hộ cho các nhà sản xuất trong nước.

Bảo hộ làm cho các nhà sản xuất trong nước trở nên cồng kềnh, không hiệu quả, cung cấp cho
người tiêu dùng những sản phẩm lỗi thời hoặc kém hấp dẫn. Và cuối cùng, mặc dù được nhà
nước bảo hộ và trợ cấp, các nhà máy vẫn phải đóng cửa và cắt giảm việc làm. Nếu chính phủ
các nước khác trên thế giới cũng áp dụng những chính sách tương tự thì thị trường sẽ bị thu hẹp
và hoạt động kinh tế thế giới sẽ trở nên trì trệ. Một trong những mục tiêu mà chính phủ các nước
theo đuổi tại các cuộc đàm phán của WTO là ngăn chặn để không bị trượt vào cái dốc bảo hộ,
vốn được xem là một biện pháp đi ngược lại với mục đích mà các quốc gia thành viên đang tìm
kiếm.

Lợi thế so sánh

Chắc chắn rằng đây là học thuyết nổi tiếng nhất của khoa học kinh tế.

Giả sử rằng nước A giỏi hơn nước B về chế tạo ô tô và nước B làm bánh mì ngon hơn nước A
(các nhà lý luận cho rằng so sánh như vậy là khập khiễng). Rõ ràng, vì lợi ích của mình, A sẽ
chuyên vào việc sản xuất ô tô còn B chuyên vào việc làm bánh mì, sau đó hai bên trao đổi sản
phẩm với nhau. Đây là ví dụ về lợi thế tuyệt đối.

Nhưng điều gì xảy ra nếu một nước không có thế mạnh trong bất cứ một lĩnh vực nào? Vậy thì
thương mại có gạt bỏ tất cả các nhà sản xuất của nước này ra khỏi thị trường không? Theo
Ricardo thì không. Điều này được lý giải bằng nguyên tắc lợi thế so sánh.

Theo nguyên tắc này, các nước A và B luôn luôn mong muốn trao đổi thương mại với nhau, ngay
cả khi A giỏi về mọi mặt. Nếu A là một nước sản xuất ô tô rất giỏi và chỉ là một nước sản xuất
bánh mì tương đối giỏi, A sẽ luôn mong muốn đầu tư vào lĩnh vực mà mình giỏi hơn cả - nghĩa là
sản xuất ô tô - và xuất khẩu ô tô sang B, nước tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực mà mình nắm rõ nhất
– nghĩa là làm bánh mì - và bán sản phẩm đó sang A, cho dù B làm bánh không giỏi bằng A. Như
vậy thương mại vẫn có lợi cho cả hai bên. Một nước không cần phải giỏi trong lĩnh vực nào mới
có thể tận dụng được thương mại. Đó là lợi thế so sánh.
Học thuyết này do nhà kinh tế học David Ricardo tìm ra. Đây là một trong những học thuyết được
nhiều nhà kinh tế chấp nhận nhất. Học thuyết này cũng gây ra nhiều nhầm lẫn nhất đối với giới
kinh tế không chuyên vì họ luôn nhầm học thuyết này với lợi thế tuyệt đối. Chẳng hạn chúng ta
thường nghe nói rằng một số nước chẳng có lợi thế so sánh nào cả. Thực tế, điều này không
bao giờ xảy ra.

Hãy suy ngẫm mà xem…

Những người đứng đầu hệ thống:

Các tổng giám đốc của GATT và WTO:

· Ngài Eric Wyndham White (Vương quốc Anh) 1948-1968

· Olivier Long (Thụy sĩ) 1968-1980

· Arthur Dunkel (Thụy sĩ) 1980-1993

· Peter Sutherland (Ai-len) GATT: 1993-1994; WTO: 1995

· Renato Ruggiero (ý) 1995-1999

· Mike More (Niu-di-lân) 1999-2002


- Supachai Panitchpakdi (Thái lan) 2002

4. Lịch sử tồn tại của GATT: từ Hiến chương La Havana đến Tuyên bố Marrakech

Sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào ngày 1/1/1995 đã đánh dấu một bước
cải cách chưa từng thấy của thương mại quốc tế kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Tổ chức
này cũng đã cụ thể hoá được mục tiêu mà Dự thảo thành lập một Tổ chức thương mại quốc tế
(ITO) đã đề ra từ năm 1948 nhưng không thực hiện được.

Lịch sử 47 năm hoạt động này chủ yếu được ghi dấu tại Giơnevơ. Tuy nhiên, nó cũng có một
hành trình trải rộng khắp các châu lục, từ những bước đi ngập ngừng đầu tiên vào năm 1948 tại
La Havana (Cuba), đến Annecy (Pháp), Torquay (Vương quốc Anh), Tokyo (Nhật bản), Punta del
Este (Uruguay), Montreal (Canada), Bruxelles (Bỉ) và cuối cùng tới Marrakech (Maroc) năm 1994.
Trong suốt quãng thời gian này, GATT - hiệp định được duy trì sau ý định thành lập ITO không
thành - đã điều tiết hoàn toàn hệ thống thương mại. GATT đã góp phần thiết lập một hệ thống
thương mại đa biên vững chắc, thịnh vượng và ngày càng tự do hơn sau mỗi vòng đàm phán
thương mại. Tuy nhiên, đến những năm 80, việc cải cách toàn diện hệ thống đã trở nên cần thiết,
mở đường cho sự ra đời Vòng đàm phán Uruguay và tiếp sau là WTO.

GATT: một hiệp định “tạm thời” tồn tại suốt gần nửa thế kỷ

Từ năm 1948 đến năm 1994, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) đã đề ra
những luật lệ điều tiết phần lớn thương mại thế giới. Đây là thời kỳ thương mại quốc tế đã đạt
được một vài kỷ lục tăng trưởng. Tưởng như được thiết lập một cách vững chắc, nhưng trong
suốt 47 năm tồn tại của mình, GATT chỉ là một hiệp định và một tổ chức tạm thời.

Ban đầu, các nước nhen nhóm ý tưởng thành lập một tổ chức thứ ba phụ trách lĩnh vực thương
mại và hợp tác kinh tế quốc tế, tồn tại độc lập với hai thể chế tài chính của Bretton Woods là
Ngân hàng thế giới và Quĩ tiền tệ quốc tế. Hơn 50 nước đã tham gia đàm phán nhằm thành lập
Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO), một thể chế chuyên trách của Liên hiệp quốc. Bản dự thảo
Hiến chương ITO rất tham vọng. Ngoài những qui định về thương mại quốc tế, bản dự thảo còn
gồm những điều khoản qui định về việc làm, hiệp định về hàng hoá, biện pháp thương mại hạn
chế, đầu tư quốc tế và dịch vụ.

Ngay trước khi kết thúc thảo luận vào năm 1946, 23 trong số 50 nước tham dự đã quyết định tiến
hành đàm phán để giảm và thực hiện ràng buộc thuế quan. Cuộc chiến thế giới thứ hai vừa kết
thúc và các nước này mong muốn thúc đẩy ngay lập tức tiến trình tự do hoá thương mại, đồng
thời bắt tay vào việc loại bỏ nhiều biện pháp bảo hộ vẫn được áp dụng từ đầu những năm 1930.

Hàng loạt cuộc đàm phán thương mại đầu tiên đã mở đường cho 45.000 nhượng bộ thuế quan
liên quan tới khoảng 1/5 thương mại thế giới, tương đương 10 tỉ đô la mỹ. 23 nước tham dự
cũng đã thoả thuận chấp nhận một số qui định thương mại qui định tại dự thảo hiến chương ITO,
nhanh chóng áp dụng những qui định này nhưng chỉ trong chừng mực “tạm thời” để bảo vệ
thành quả của cuộc đàm phán (nhượng bộ thuế quan). Toàn bộ các qui định thương mại và
nhượng bộ thuế quan đó đã tạo thành Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại, có hiệu
lực từ tháng 1 năm 1948, trong khi đó hiến chương thành lập ITO vẫn nằm trên bàn đàm phán.
23 quốc gia tham dự đàm phán đó trở thành những thành viên sáng lập ra GATT (với tên gọi
chính thức là “các bên ký kết”).

Mặc dù Hiến chương ITO cuối cùng cũng được thông qua tại Hội nghị Liên hiệp quốc về thương
mại và việc làm tổ chức tại La Havana năm 1948, song nó lại không được nghị viện một số nước
phê chuẩn. Bên phản đối mạnh mẽ nhất là Hạ viện Hoa kỳ, bất chấp nỗ lực đấu tranh ủng hộ
việc thành lập ITO của chính quyền nước này. Năm 1950, chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố rằng Hạ
viện nước này đã quyết định không phê chuẩn Hiến chương La Havana, điều này đồng nghĩa với
việc ITO không thể trở thành hiện thực. Mặc dù chỉ mang tính chất tạm thời nhưng GATT vẫn là
hiệp định đa phương duy nhất điều tiết thương mại quốc tế từ năm 1948 cho đến khi WTO ra đời
vào năm 1995.

Trong suốt gần 1/2 thế kỷ, phần lớn các văn bản pháp lí cơ bản của GATT đều là những văn bản
được qui định từ năm 1948. Có một số văn bản bổ sung dưới dạng một qui định về phát triển
được đưa vào trong những năm 60, rồi dưới dạng một số hiệp định “nhiều bên” (nghĩa là với sự
tham gia tự nguyện của các bên ký kết) trong những năm 70, ngoài ra các nước cũng theo đuổi
những nỗ lực nhằm tiếp tục cắt giảm thuế quan. Đa phần những kết quả thu được trong lĩnh vực
này đều đạt được từ hàng loạt các vòng đàm phán. Những tiến bộ quan trọng nhất của quá trình
tự do hoá thương mại quốc tế đều có được nhờ những vòng đàm phán diễn ra trong khuôn khổ
GATT.

Những vòng đàm phán thương mại đầu tiên xoay quanh việc cắt giảm thuế quan. Đến giữa
những năm 60, Vòng đàm phán Kennedy đã cho ra đời Hiệp định về chống bán phá giá của
GATT và một qui định về phát triển. Vào những năm 70, Vòng đàm phán Tokyo đã đưa ra một ý
tưởng táo bạo nhằm dỡ bỏ những hàng rào phi thuế quan cản trở thương mại và các biện pháp
cải thiện hệ thống. Vòng đàm phán Uruguay diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994 là vòng đàm
phán thứ tám, vòng đàm phán cuối cùng và cũng là vòng đàm phán tham vọng nhất trong số tất
cả các vòng đàm phán của GATT. Vòng đàm phán này đã dẫn đến việc thành lập WTO và thông
qua một loạt các hiệp định mới.

Các vòng đàm phán thương mại của GATT

Năm Địa điểm/Tên gọi Lĩnh vực bao trùm Số nước tham dự
1947 Geneve Thuế quan 23
1949 Annecy Thuế quan 13
1951 Torquay Thuế quan 38
1956 Geneve Thuế quan 26

1960-1961 Geneve/vòng đàm phánThuế quan 26


Dillon
1964-1967 Geneve/Vòng đàmThuế quan và biện pháp chống bán 62
phán Kennedy phá giá
1973-1979 Geneve/Vòng đàmThuế quan, biện pháp phi thuế và 102
phán Tokyo “hiệp định khung”
1986-1994 Geneve/Vòng đàmThuế quan, biện pháp phi thuế quan, 123
phán Uruguay qui định, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giải
quyết tranh chấp, dệt may, nông
nghiệp, thành lập WTO, v.v…
Vòng đàm phán Tokyo: ý tưởng đầu tiên về cải tổ hệ thống

Với sự tham gia của 102 nước, Vòng đàm phán Tokyo 1973 - 1979 tiếp tục những nỗ lực mà
GATT theo đuổi nhằm từng bước giảm bớt hàng rào thuế quan. Nhờ vậy, mức thuế quan đã
được giảm đi khoảng 1/3 tại 9 thị trường công nghiệp chính của thế giới, đưa mức thuế bình
quân áp dụng đối với hàng công nghiệp giảm xuống còn 4,7%. Việc cắt giảm thuế quan, chia
thành nhiều giai đoạn trong vòng 8 năm cũng đã tạo ra được một sự hài hoà hoá nhất định, vì
những loại thuế cao nhất đã được cắt giảm mạnh nhất.

Trong những lĩnh vực khác, vòng đàm phán Tokyo đã không thu được kết quả nào: không giải
quyết được những vấn đề cơ bản gây ảnh hưởng tới thương mại hàng nông sản, cũng không đi
tới ký kết một hiệp định sửa đổi liên quan đến các biện pháp bảo hộ (biện pháp khẩn cấp liên
quan đến vấn đề nhập khẩu). Tuy nhiên nhờ có các cuộc đàm phán này mà hàng loạt các hiệp
định về hàng rào bảo hộ phi thuế đã được thông qua. Đôi khi đó là những hiệp định giải thích
những qui định mà GATT đã đề ra trước đó, có khi lại là những hiệp định hoàn toàn mới. Thường
thì chỉ có một số ít các quốc gia thành viên, chủ yếu là các nước phát triển ký vào những bản
hiệp định và thoả thuận này. Do không được đa số thành viên của GATT thông qua nên những
văn bản này thường được gọi một cách không chính thức là “Điều lệ”.

Đó không phải là những văn bản mang tính chất đa phương mà chỉ là một bước khởi đầu cho
văn bản đa phương. Trên thực tế, nhiều điều lệ sau này cũng đã được đem ra sửa đổi tại vòng
đàm phán Uruguay và trở thành những văn bản đa phương được tất cả các thành viên WTO
thông qua. Chỉ có 4 trong số các điều lệ này vẫn còn mang tính chất nhiều bên: đó là những thoả
thuận về thị trường công, thịt bò, sản phẩm sữa và máy bay dân sự. Năm 1997, các nước thành
viên WTO đã quyết định chấm dứt các thoả thuận về thịt, sữa và chỉ tiếp tục duy trì hai thoả
thuận còn lại.

GATT có thành công không ?


Mặc dù chỉ là hiệp định mang tính chất tạm thời với một lĩnh vực can thiệp hạn chế, song không
thể phủ nhận rằng trong suốt 47 năm tồn tại, GATT đã thành công trong việc thúc đẩy và đảm
bảo tự do hoá phần lớn thương mại thế giới. Chỉ riêng việc cắt giảm liên tục thuế nhập khẩu
cũng đã góp phần duy trì mức tăng trưởng rất sôi động của mậu dịch thế giới – trung bình
khoảng 8%/năm – trong những năm 50 và 60. Hơn nữa, đà tăng trưởng mà phong trào tự do hoá
thương mại đạt được đã góp phần làm cho tốc độ tăng trưởng của thương mại luôn cao hơn tốc
độ tăng trưởng của sản xuất trong suốt quá trình GATT tồn tại, điều này chứng tỏ rằng số các
nước tham gia trao đổi thương mại với nhau và thu được lợi nhuận từ hoạt động này ngày càng
gia tăng. Sự gia nhập ồ ạt của các thành viên mới tại Vòng đàm phán Uruguay đã chứng tỏ rằng
hệ thống thương mại đa biên đã được công nhận là một trụ cột của phát triển, một công cụ cải
cách kinh tế và thương mại.

Những Điều lệ của Vòng đàm phán Tokyo

· Trợ cấp và các biện pháp bù trừ – giải thích điều 6, 16 và 23 của GATT

· Hàng rào kỹ thuật cản trở thương mại – đôi khi được gọi là Điều lệ bình thường hoá

· Thủ tục cấp phép nhập khẩu

· Thị trường công

· Định giá hải quan – giải thích điều 7

· Các biện pháp chống bán phá giá - giải thích điều 6 và thay thế Điều lệ chống bán phá giá
được soạn thảo từ Vòng đàm phán Kennedy

· Thoả thuận về thịt bò

· Thoả thuận quốc tế về lĩnh vực sữa

Thương mại máy bay dân dụng

Nhưng không phải cái gì cũng hoàn hảo cả. Cùng với thời gian, một số vấn đề mới cũng đã nảy
sinh. Vào những năm 70, Vòng đàm phán Tokyo đã có ý định giải quyết những vấn đề này nhưng
nó chỉ thu được những kết quả hạn chế, và cho thấy sẽ còn có nhiều khó khăn.

Vấn đề không chỉ dừng lại ở sự lắng xuống của bầu không khí chính trị thương mại. Vào đầu
những năm 80, cục diện thương mại thế giới đã không còn giống như những năm 40, vì thế Hiệp
định chung đã trở nên không phù hợp với thực tế thương mại thế giới nữa. Trước tiên, mậu dịch
thế giới đã trở nên phức tạp và quan trọng hơn 40 năm về trước. Quá trình toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới được đẩy nhanh, thương mại dịch vụ – vốn không thuộc diện điều tiết của GATT
– bắt đầu trở thành một mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia, đầu tư quốc tế cũng gia tăng. Sự
tăng trưởng của thương mại dịch vụ cũng có mối liên hệ mật thiết với sự tăng trưởng của thương
mại hàng hoá. Mặt khác, các điều lệ của GATT bị cho là chưa đủ. Ví dụ trong lĩnh vực nông
nghiệp, những lỗ hổng của hệ thống thương mại đa biên đã bị tận dụng một cách triệt để, nỗ lực
tự do hoá thương mại không thu được nhiều kết quả. Trong lĩnh vực dệt may, một điều khoản
ngoại lệ của GATT đã được đàm phán trong những năm 60 và đầu năm 70, dẫn tới sự ra đời của
Hiệp định đa sợi. Ngay cả cơ cấu thể chế và hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT cũng là
một mối bận tâm.

Tất cả các yếu tố này cùng một số yếu tố khác đã thúc đẩy các thành viên của WTO cần phải nỗ
lực một lần nữa để củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Nỗ lực này đã được thể
hiện ở Vòng đàm phán Uruguay, Tuyên bố Marrakech và sự ra đời của WTO.

Các vòng đàm phán thương mại: một cách tiếp cận tổng thể vì sự tiến bộ

Các vòng đàm phán thương mại thường kéo dài trong nhiều năm – vòng đàm phán Uruguay đã
kéo dài bảy năm rưỡi – nhưng như thế lại có thể phát huy được lợi ích của cách tiếp cận tổng
thể, đôi khi được xem là đảm bảo cho thành công hơn là những vòng đàm phán chỉ xoay quanh
một vấn đề cụ thể.

· Với qui mô đàm phán của mình, cách tiếp cận tổng thể thú vị hơn vì nó cho phép các bên tham
gia yêu cầu và đạt được nhiều lợi ích trong rất nhiều vấn đề.

· Nếu sử dụng cách tiếp cận tổng thể, việc ký kết một hiệp định sẽ trở nên dễ dàng hơn nhờ có
những thoả ước vì mỗi bên có thể sẽ tìm thấy ở đó những qui định phù hợp, có thể có tác động
tới phương diện chính trị và kinh tế của nước mình.

Chính phủ một nước có thể sẽ đồng ý nhượng bộ, chỉ đối với một lĩnh vực chẳng hạn, vì nước
này có thể thu được những lợi ích về mặt kinh tế. Nhưng trên phương diện chính trị, chính phủ
nước này có thể cho rằng nhượng bộ làm nước này khó mà bảo vệ được những lợi ích của
mình. Cách tiếp cận tổng thể sẽ cho phép đạt được những lợi ích hấp dẫn về mặt chính trị và
kinh tế trong những lĩnh vực khác, có thể bù lại những lợi ích bị mất đi trong một lĩnh vực nào đó.

Như vậy, việc cải cách trong những lĩnh vực nhạy cảm về mặt chính trị với thương mại thế giới
có thể được thực hiện một cách dễ dàng trong khuôn khổ đàm phán bằng cách tiếp cận tổng thể
nhiều vấn đề. Hiệp định cải cách thương mại hàng nông sản đạt được tại Vòng đàm phán
Uruguay là một minh chứng cho nhận định này.

· Các nước đang phát triển và các nước tham gia ít có ảnh hưởng khác sẽ có nhiều cơ hội gây
sức ép đối với hệ thống đa biên trong những vòng đàm phán tổng thể hơn là trong khuôn khổ
quan hệ song phương với các cường quốc thương mại lớn.

Tuy nhiên, qui mô đàm phán rộng có thể vừa tích cực lại vừa tiêu cực. Cùng với thời gian, một
câu hỏi đặt ra là: Liệu tập trung đàm phán vào duy nhất một lĩnh vực có đơn giản hơn không?
Kinh nghiệm trong những năm gần đây vẫn chưa đưa ra một kết luận nào về vấn đề này. Đã có
lúc, Vòng đàm phán Uruguay bị nhìn nhận là một cơ chế trì trệ đến nỗi tất cả các quốc gia tham
gia dường như không thể đi đến nhất trí về bất cứ một chủ đề thảo luận nào. Dù sao, vòng đàm
phán cũng kết thúc tốt đẹp vào năm 1993-1994. Tuy nhiên, trong vòng hai năm sau đó, các cuộc
đàm phán chỉ xoay quanh vấn đề vận tải đường biển lại không đi đến một hiệp định nào.

Liệu có nên tin rằng các cuộc đàm phán tổng thể là con đường duy nhất dẫn đến thành công?
Không, vào năm 1997, các cuộc đàm phán theo từng lĩnh vực về viễn thông cơ sở, trang thiệt bị
cho công nghệ thông tin và dịch vụ tài chính đã dẫn tới việc ký kết các hiệp định liên quan.
Cuộc tranh luận vẫn chưa được khép lại. Cho dù xuất phát từ đâu thì lý do cũng không hề đơn
giản. Chìa khoá của thành công có thể nằm trong việc lựa chọn phương thức tiến hành đàm
phán phù hợp với từng bối cảnh và từng thời điểm khác nhau.

5. Vòng đàm phán Uruguay

Vòng đàm phán Uruguay đã kéo dài trong 7 năm rưỡi, gần gấp đôi khoảng thời gian dự kiến. Tới
giai đoạn cuối cùng, vòng đàm phán đã quy tụ 123 nước tham gia. Các cuộc thảo luận đề cập tới
hầu hết các lĩnh vực của trao đổi quốc tế, từ bàn chải đánh răng đến tàu du lịch, từ hoạt động
ngân hàng đến lĩnh vực viễn thông, từ việc cấy ghép gen lúa đến phương pháp điều trị bệnh
sida. Đây thực sự là vòng đàm phán lớn nhất của mọi thời đại, hay nói rộng ra, là vòng đám phán
lớn nhất trong lịch sử đàm phán từ trước tới nay.

Đã có những lúc vòng đàm phán tưởng như cầm chắc thất bại song tổng kết lại, nó đã cho phép
thực hiện cuộc cải cách lớn nhất trong hệ thống thương mại toàn cầu kể từ khi ra đời hệ thống
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) sau cuộc chiến tranh thế giới thứ 2. Mặc dù
gặp nhiều khó khăn song vòng đám phán đã nhanh chóng thu được một số kết quả. Chỉ trong
vòng hai năm, các bên tham gia đàm phán đã đi đến thỏa thuận về một hệ thống miễn giảm thuế
quan đối với các sản phẩm nhiệt đới, chủ yếu do các nước đang phát triển xuất khẩu. Các bên
đàm phán đã sửa đổi các điều luật liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại và
một số trong đó đã lập tức được đưa vào áp dụng. Các nhà thương thuyết cũng đi đến quyết
định là các nước thành viên GATT phải báo cáo định kỳ về chính sách thương mại của mình.
Điều này được coi như một sáng kiến quan trọng bảo đảm tính minh bạch cho các hệ thống
thương mại trên toàn thế giới.

Chương trình nghị sự năm 1986

15 chủ đề đầu tiên được đưa vào chương trình nghị sự của vòng đàm phán Uruguay
Thuế quan
Hàng rào phi thuế
Sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên
Sản phẩm dệt may
Nông nghiệp
Sản phẩm nhiệt đới
Các điều luật của GATT
Các điều luật của Vòng đàm phán Tokyo
Các biện pháp chống bán phá giá
Trợ cấp
Sở hữu trí tuệ
Các biện pháp thúc đẩy đầu tư
Giải quyết tranh chấp
Hệ thống hiệp định chung
Dịch vụ

Vòng đàm phán Uruguay - Những mốc đáng nhớ

9/1986 Punta des Este: phát động đàm phán

12/1988 Montréal: họp hội nghị Bộ trưởng đánh giá giữa kỳ


4/1989 Giơnevơ: Kết thúc đánh giá giữa kỳ

12/1990 Bruxelles: Hội nghị Bộ trưởng rơi vào bế tắc

12/1991 Giơnevơ: soạn thảo dự thảo “Văn bản cuối cùng”

11/1992 Washington: Mỹ và Uỷ ban châu Âu ký kết hiệp định Blair House, dọn đường cho việc
giải quyết vấn đề nông nghiệp

7/1993 Tokyo: các nước nhóm bộ tứ tìm ra lối thoát cho vấn đề mở cửa thị trường nông sản

12/1993 Giơnevơ: phần lớn các cuộc đàm phán kết thúc , trừ một số vấn đề liên quan đến mở
cửa thị trường

4/1994 Marrakech: ký kết các hiệp định

1/1995 Giơnevơ: Thành lập tổ chức thương mại thế giới, các hiệp định bắt đầu có hiệu lực

Chặng đường vất vả

Ý tưởng về Vòng đàm phán Uruguay được nhen nhóm vào tháng 11 năm 1982 tại một hội nghị
cấp Bộ trưởng của các nước thành viên GATT tại Giơnevơ. Bấy giờ, các vị Bộ trưởng đã dự định
tiến hành một vòng đàm phán lớn nhưng hội nghị lúc đó đã không vượt qua được rào cản quá
lớn là vấn đề nông nghiệp và bị coi như thất bại. Song trên thực tế, một chương trình làm việc
mới đã được lên kế hoạch và đây chính là tiền đề cho chương trình vòng đàm phán Uruguay.

Tuy nhiên, phải mất bốn năm vất vả cùng nhiều nỗ lực tìm kiếm và làm sáng tỏ những vấn đề
cần bàn cũng như quyết tâm tiến tới thỏa thuận thì các vị bộ trưởng mới đi đến quyết định tiến
hành vòng đàm phán mới. Quyết định này được đưa ra vào tháng 9 năm 1986 tại Punta del Este
(Uruguay). Các vị bộ trưởng cuối cùng cũng thống nhất một chương trình đàm phán đề cập đến
hầu như toàn bộ các vấn đề về chính sách thương mại còn bỏ ngỏ cho tới thời điểm bấy giờ.
Các cuộc đàm phán có nhiệm vụ thúc đẩy việc mở rộng thương mại đến nhiều lĩnh vực mới, đặc
biệt là thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ, đồng thời cải tổ các chính sách thương mại đối với
những sản phẩm nhạy cảm như nôngosản và hàng dệt may. Tất cả các điều khoản của GATT
cũng sẽ được đưa ra xem xét lại. Đây sẽ là vòng đàm phán lớn nhất từ trước tới nay và các vị bộ
trưởng đã nhất trí dành tới 4 năm để thực hiện nó một cách tốt đẹp.

Hai năm sau, vào tháng 12 năm 1988, các vị bộ trưởng lại một lần nữa nhóm họp tại Montréal
(Canađa) để đánh giá những tiến bộ đã đạt được sau nửa chặng đường thực hiện vòng đàm
phán. Nhiệm vụ lúc bấy giờ là xây dựng kế hoạch hành động cho hai năm còn lại của lịch trình
đàm phán. Tuy nhiên các cuộc thương thảo đã đi vào ngõ cụt và mãi tới tháng 4 năm sau, các
quan chức cấp cao mới lại gặp mặt nhau tại Giơnevơ để tranh luận một cách bình tĩnh hơn.

Tại hội nghị Montréal, bất chấp một số tồn tại, các vị bộ trưởng đã cùng công nhận một loạt các
thành tựu đầu tiên, đặc biệt là sự nhượng bộ về thị trường cho sản phẩm của các quốc gia
phương Nam để giúp đỡ các nước đang phát triển cũng như hợp lý hóa hệ thống giải quyết tranh
chấp và thiết lập cơ chế kiểm tra đầu tiên mang tính chất toàn diện, hệ thống và định kỳ các
chính sách và hoạt động thương mại của các nước thành viên GATT. Các cuộc đàm phán lẽ ra
sẽ kết thúc vào thời điểm diễn ra hội nghị bộ trưởng tháng 12 năm 1990 tại Bruxelles. Nhưng các
vị bộ trưởng đã không thành công trong việc đàm phán về cải cách thương mại đối với nông
phẩm và quyết định kéo dài thời gian tranh luận. Vòng đàm phán Uruguay lúc này bước vào giai
đoạn tồi tệ nhất.

Cho dù triển vọng về mặt chính trị tỏ ra không mấy sáng sủa, các công tác chuẩn bị vẫn được
tiếp tục khẩn trương để cho ra đời bản dự thảo công cụ có hiệu lực pháp lý cuối cùng. Arthur
Dunkel, bấy giờ là tổng giám đốc GATT, nhân vật chủ trì các cuộc đàm phán cấp cao là người đã
soạn thảo dự thảo “Văn kiện cuối cùng”. Văn bản này được trình bày trước các bên tham gia
đàm phán tại Giơ ne vơ tháng 12 năm 1991. Văn bản này giống hoàn toàn với văn bản được
soạn thảo tại Punta del Este, chỉ thiếu danh sách cam kết của các quốc gia về vấn đề giảm thuế
nhập khẩu và mở cửa thị trường dịch vụ. Bản dự thảo này là cơ sở xây dựng hiệp định chính
thức.

Trong 2 năm tiếp theo, các cuộc đàm phán đã diễn ra hết sức khó khăn, thành công và thất bại
đều hết sức mong manh. Tiến trình đàm phán thường chậm hơn so với tiến độ. Cùng với nông
nghiệp, những vấn đề khác như thương mại dịch vụ, thâm nhập thị trường, luật chống bán phá
giá hay thậm chí việc thiếp lập một thể chế kinh tế mới cũng trở thành những chủ đề gây xung
đột. Sự bất đồng giữa Mỹ và liên minh châu Âu là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự thành công
rất được trông đợi của các cuộc thảo luận.

Tháng 11 năm 1992, Mỹ và Uỷ ban châu Âu đã vượt qua phần lớn những bất đồng về nông
nghiệp giữa hai bên để cùng đi đến một hiệp định chung mang tên “Hiệp định Blair House”.
Tháng 7 năm 1993, các nước trong nhóm bộ tứ (Mỹ, Uỷ ban châu Âu, Nhật, Canađa) thông báo
đã có những tiến bộ đáng kể trong đàm phán về thuế quan và những vấn đề liên quan (mở cửa
thị trường). Phải đợi đến ngày 15 tháng 1 năm 1993 thì tất cả các vấn đề mới được giải quyết và
các cuộc bàn thảo về việc mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ mới kết thúc, dù rằng đối với
những vấn đề này, nhân tố mang tính chất quyết định một tuần sau đó mới ngã ngũ. Ngày 15
tháng 4 năm 1994, các vị bộ trưởng của gần 123 quốc gia tham gia đàm phán đã ký kết các hiệp
định này trong một cuộc họp diễn ra tại Marraketch (Maroc).

Sự chậm trễ liên tiếp trong các cuộc đàm phán cũng có mặt tích cực của nó. Đối với một số vấn
đề về dịch vụ, sở hữu trí tuệ hay thậm chí việc hình thành tổ chức thương mại thế giới sẽ không
thể tiến xa đến thế nếu đàm phán được tiến hành vào năm 1990. Tuy nhiên, việc phải làm còn
quá nhiều và những nhân vật chịu trách nhiệm về các vấn đề thương mại của các quốc gia bắt
đầu mỏi gối chùn chân. Việc đi đến một hiệp định chung cho hầu hết các vấn đề thương mại tỏ ra
hết sức khó khăn khiến một số người cho rằng tổ chức một vòng đàm phán ở quy mô lớn đến
thế là điều không tưởng. Trong khi ấy, rất nhiều vấn đề đã được lên lịch trình bàn bạc trong các
hiệp định ký kết trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay.

Năm 1996, một số quốc gia đã dứt khoát yêu cầu xúc tiến một vòng đàm phán mới vào đầu thế
kỷ 21. Phản ứng trước yêu cầu này không thống nhất song rõ ràng hiệp định Marraketch đã tập
hợp những cam kết mở lại đàm phán về các vấn đề nông nghiệp và dịch vụ vào cuối thế kỷ 20.
Các cuộc đàm phán được bắt đầu vào năm 2000 và đặt trong khuôn khổ vòng đàm phán Doha vì
sự phát triển.

Điều gì đã xảy ra với GATT?


Tổ chức thương mại thế giới đã thay thế GATT với tư cách một tổ chức quốc tế song những gì
đạt được sau vòng đàm phán Uruguay cho thấy thực tế, Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại vẫn tồn tại và có hiệu lực vì nó là hiệp định khung của tổ chức thương mại thế giới
trong các vấn đề về trao đổi hàng hóa. Các luật gia thương mại để ý đến sự khác nhau giữa
GATT năm 1994 với những phần của GATT được giữ đến ngày hôm nay và GATT của năm 1947
(GATT 1947 vẫn luôn là nền tảng của GATT 1994). Đây liệu có phải là một sự thay đổi? Đối với
đa số, chỉ cần nói GATT là đủ.

Chương trình lập kế hoạch sau vòng đàm phán Uruguay

Rất nhiều hiệp định được ký kết trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay có một phần xác định
lịch trình cho những việc phải làm trong tương lai. Một số việc được tiến hành lập tức sau đó. Đối
với một số lĩnh vực, việc phải làm là tiếp tục đàm phán hoặc xúc tiến những cuộc đàm phán mới.
Một số lĩnh vực khác lại yêu cầu đánh giá tình hình triển khai hiệp định vào những thời điểm cụ
thể. Một số cuộc đàm phán kết thúc rất chóng vánh, đặc biệt là về vấn đề hạ tầng viễn thông và
dịch vụ tài chính (chính phủ các nước đã rất nhanh chóng đi đến thống nhất về việc mở cửa thị
trường thương mại sản phẩm công nghệ thông tin, vấn đề vượt ra ngoài khuôn khổ của chương
trình bộ phận này).

Sau vòng đàm phán Uruguay, đã có những sửa đổi và mở rộng nội dung đối với văn bản gốc về
chương trình kế hoạch. Một chương trình kế hoạch bao gồm hơn 30 phần. Sau đây là một số
vấn đề đáng chú ý:

1996

· Dịch vụ vận tải hàng hải: kết thúc đàm phán về mở cửa thị trường (tiến hành vào ngày
30 tháng 6 năm 1996, hoãn lại tới năm 2000, sau chuyển sang chương trình phát triển
Doha)

· Dịch vụ và môi trường: xác định thời hạn báo cáo kết quả của nhóm công tác (hội nghị
bộ trưởng tháng 12 năm 1996)

· Dịch vụ công: tiến hành đàm phán

1997

· Hạ tầng viễn thông: kết thúc đàm phán (15 tháng 2)

· Dịch vụ tài chính: kết thúc đàm phán (30 tháng 12)

· Sở hữu trí tuệ: thiết lập hệ thống đóng dấu và đăng ký mã vùng đối với các sản phẩm
rượu vang: tiến hành đàm phán, trở thành một bộ phận trong chương trình đàm phán vì
sự phát triển Doha

1998

· Hàng dệt may: một giai đoạn mới bắt đầu vào ngày 1/1

· Dịch vụ : (các biện pháp khắc phục kịp thời) : áp dụng kết quả đàm phán liên quan đến
các biện pháp khắc phục kịp thời (trước 1/1/1998, hoãn lại đến tháng 3/2004)

· Luật về xuất xứ sản phẩm : chương trình làm việc đi đến sự thống nhất tương đối giữa
luật về xuất xứ sản phẩm của các quốc gia (20/7/1998)
· Thị trường công: mở những cuộc đàm phán mới để cải thiện hệ thống luật và thủ tục
(trước năm 1998)

· Giải quyết tranh chấp: xem xét kỹ về luật và thủ tục giải quyết tranh chấp (trước năm
1998)

1999

• Sở hữu trí tuệ : bắt đầu xem xét một số ngoại lệ đối với việc cấp bằng sáng chế và bảo
vệ đa dạng thực vật

2002

· Nông nghiệp : bắt đầu tiến hành đàm phán, thuộc Chương trình phát triển Doha

· Dịch vụ : Bắt đầu một loạt các cuộc đàm phám mới, thuộc chương trình phát triển Doha

· Ràng buộc thuế quan: xem xét lại khái niệm ‘nhà cung cấp chính’ tại điều 28 trong Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại về quyền của người tham gia đàm phán đối với
việc sửa đổi ràng buộc

· Sở hữu trí tuệ : Lần đầu tiên đã có kiểm tra định kỳ (2 năm một lần) việc thực thi hiệp
định

2002

· Dệt may : bắt đầu giai đoạn đầu tiên (1/1)

2005

· Dệt may : áp dụng hoàn toàn trong khuôn khổ GATT và chấm dứt thời gian hiệu lực
của hiệp định (1/1)

CHƯƠNG 2
Các hiệp định

Tổ chức thương mại thế giới (WTO) hoạt động « dựa trên các luật lệ » và các luật lệ của WTO
chính là các hiệp định đã được đàm phán.

1. Khái quát chung : Người hoa tiêu

Các hiệp định của WTO điều chỉnh thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ.
Chúng đề ra những nguyên tắc về tự do hoá và những ngoại lệ được phép áp dụng; nêu lại cam
kết của từng nước về giảm thuế quan và các trở ngại khác đối với thương mại, về mở cửa và
tiếp tục mở cửa thị trường dịch vụ; qui định thủ tục giải quyết tranh chấp; quy định các nước
đang phát triển phải được đối xử đặc biệt; buộc các chính phủ phải đảm bảo minh bạch trong
chính sách thương mại và phải thông báo cho WTO biết những luật lệ hiện hành và các biện
pháp được áp dụng trong nước, song song với các báo cáo định kỳ của Ban thư ký về chính
sách thương mại của các nước.

Các “chi tiết bổ sung”


Các hiệp định và phụ lục này điều chỉnh những lĩnh vực hoặc những vấn đề cụ thể dưới đây:

Đối với hàng hoá (trong khuôn khổ GATT)

· Nông nghiệp

· Các quy định về vệ sinh dịch tễ đối với nông sản

· Hàng dệt may

· Các tiêu chuẩn đối với sản phẩm

· Các biện pháp liên quan đến đầu tư

· Các biện pháp chống phá giá

· Các biện pháp định giá hải quan

· Kiểm hoá trước khi xuất

· Các quy định về xuất xứ hàng hoá

· Giấy phép nhập khẩu

· Trợ cấp và các biện pháp đối kháng

· Các biện pháp tự vệ

Đối với dịch vụ (các phụ lục của GATS)

• Các quy định về di trú đối với thể nhân


• Vận tải hàng không
• Các dịch vụ tài chính
• Vận tải đường biển

• Viễn thông

Các hiệp định này thường được gọi là các luật lệ thương mại của WTO và WTO thường được
miêu tả là một hệ thống hoạt động « dựa trên các luật lệ ». Tuy nhiên cũng cần nhắc lại rằng trên
thực tế các luật lệ của WTO chính là các hiệp định đã được chính phủ các nước đàm phán.

Chương này sẽ tập trung đề cập các hiệp định của vòng đàm phán Uruguay, nền tảng của toàn
bộ hệ thống WTO hiện nay. Hiện WTO đang tiến hành một số cuộc đàm phán bổ sung trên cơ sở
những quyết định của các Hội nghị bộ trưởng, đặc biệt là của Hội nghị Bộ trưởng Đô-ha tháng
11/2001, hội nghị khởi động cho những cuộc đàm phán mới và một số công việc khác (xem chi
tiết về Chương trình Đô-ha ở các phần sau)

Cấu trúc gồm sáu phần


Mục lục của cuốn « Kết quả của các cuộc đàm phán thương mại đa biên thuộc vòng đàm phán
Uruguay – những văn kiện pháp lý » đã liệt kê khoảng 60 hiệp định, phụ lục, quyết định và bản
ghi nhớ. Thực ra, các hiệp định được xây dựng theo một cấu trúc đơn giản, gồm sáu phần : một
hiệp định khung (Hiệp định thành lập WTO); các hiệp định điều chỉnh ba lĩnh vực lớn (hàng hoá,
dịch vụ và sở hữu trí tuệ); giải quyết tranh chấp; và xem xét chính sách thương mại của chính
phủ các nước.

Mặc dù đôi khi có những khác biệt lớn về nội dung chi tiết, các hiệp định điều chỉnh hai lĩnh vực
chính – hàng hoá và dịch vụ - đều được xây dựng theo cùng một mô hình ba cấp như sau :

• Chúng đều bắt đầu bằng phần nêu các nguyên tắc cơ bản : Hiệp định chung về thương
mại và thuế quan (GATT) (đối với hàng hoá) và Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
(GATS). (Tương tự như vậy đối với lĩnh vực thứ ba, các khía cạnh của quyền sở hữu trí
tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS). Tuy nhiên, hiện nay Hiệp định TRIPS chưa có
phần bổ sung nào)

• Tiếp đến là các hiệp định bổ sung và các phụ lục bao gồm các điều khoản đặc biệt liên
quan đến những ngành hoặc những vấn đề chuyên biệt.

• Cuối cùng là danh mục dài và chi tiết nêu cam kết của mỗi nước mở cửa thị trường nội
địa của mình cho các nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ nước ngoài. Các danh mục ở
phần phụ lục của GATT bao gồm các cam kết có tính ràng buộc về thuế quan đối với
thương mại hàng hoá nói chung, về thuế quan và về hạn mức đối với thương mại một số
sản phẩm nông nghiệp. Trong các danh mục ở phần phụ lục của GATS, cam kết phải
nêu rõ mức độ mở cửa thị trường trong một số ngành cụ thể cho các nhà cung ứng dịch
vụ nước ngoài cũng như các loại dịch vụ mà nước đó sẽ không áp dụng nguyên tắc
không phân biệt đối xử, tức nguyên tắc tối huệ quốc.

Việc giải quyết tranh chấp dựa trên các hiệp định và cam kết cùng với việc xem xét một cách
công khai các chính sách thương mại chính là nền tảng của WTO.

Các cuộc đàm phán thuộc vòng Uruguay tập trung chủ yếu vào hai phần đầu tiên: các nguyên
tắc chung và các nguyên tắc được áp dụng trong một số lĩnh vực chuyên ngành. Đồng thời các
nước tham gia có thể đàm phán về mở cửa thị trường cho các sản phẩm công nghiệp. Một khi
các nguyên tắc đã được xác lập, các nước có thể tiếp tục đàm phán về cam kết đối với một số
lĩnh vực như nông nghiệp và dịch vụ.

Tóm lại

Cấu trúc cơ bản của các hiệp định WTO nhằm mục đích kết hợp hài hoà sáu lĩnh vực chính (Hiệp
định khung về WTO, hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp và đánh giá chính
sách thương mại).

Khuôn khổ

Hàng hoá Dịch vụ


Sở hữu trí tuệ

Các nguyên tắc GATT


GATS TRIPS

cơ bản

Chi tiết bổ sung Các hiệp định khác Các phụ lục

và phụ lục liên liên quan đến

quan đến hàng hoá dịch vụ

Các cam kết Danh mục cam Danh mục cam

về mở cửa kết của các nước kết của các nước

thị trường (và các lĩnh vực được miễn áp


dụng

nguyên tắc tối huệ quốc)

Giải quyết

tranh chấp

Đảm bảo sự minh bạch

Các hiệp định bổ sung

Cũng cần kể ra đây một số hiệp định quan trọng khác không được nêu trong bảng trên : đó là hai
hiệp định (liên quan đến máy bay dân sự và mua sắm chính phủ), tuy « nhiều bên » nhưng
không được tất cả các thành viên của WTO ký kết.

Một số điều chỉnh khác trong tương lai: Chương trình Đô-ha

Các hiệp định trên không phải là bất biến: đôi khi chúng được đàm phán lại và có thể được bổ
sung bằng những hiệp định mới. Hiện nay, nhiều hiệp định đang được đàm phán trong khuôn
khổ chương trình Đô-ha về phát triển (chương trình được các Bộ trưởng thương mại của các
nước thành viên WTO phát động tại Đô-ha (Qatar) vào tháng 11 năm 2001).

2. Thuế quan: thêm nhiều mức thuế trần và nhiều mức thuế gần bằng không

Kết quả quan trọng nhất của vòng đàm phán Uruguay chính là 22.500 trang danh mục cam kết
của các nước đối với một số loại hàng hoá và dịch vụ cụ thể, nhất là các cam kết giảm thuế và
“xác định mức thuế trần” đối với nhập khẩu hàng hoá. Trong một số trường hợp, thuế quan được
giảm xuống còn không. Đồng thời có thêm rất nhiều mức thuế “trần”, tức là những mức thuế đã
được cam kết tại WTO và các nước khó có thể nâng trở lại.

Giảm thuế quan

Các nước phát triển chấp thuận giảm từng bước phần lớn thuế quan trong vòng 5 năm kể từ
ngày 1/1/1995. Kết quả là thuế nhập khẩu đối với sản phẩm công nghiệp của các nước này đã
giảm 40%, từ trung bình 6,3% xuống còn 3,8%. Và giá trị các sản phẩm công nghiệp được nhập
vào các nước phát triển mà không phải chịu thuế sẽ tăng mạnh, từ mức 20% lên tới 44%.

Đồng thời số lượng sản phẩm phải chịu thuế suất cao sẽ giảm đi. Nói chung, tỉ lệ các sản phẩm
nhập khẩu vào các nước phát triển phải chịu thuế suất cao hơn 15% sẽ giảm từ 7% xuống còn
5%. Tỉ lệ hàng hoá xuất khẩu của các nước đang phát triển sang các nước công nghiệp hoá
đang phải chịu thuế suất trên 15% sẽ giảm từ 9% xuống còn 5%.

Kết quả của vòng đàm phán Uruguay đã được đẩy lên một bước. Ngày 26/3/1997, 40 nước,
chiếm hơn 92% giá trị buôn bán toàn cầu các sản phẩm công nghệ thông tin, đã thoả thuận
giảm thuế nhập khẩu và các loại thuế khác đánh vào các sản phẩm này từ nay đến năm 2000
(đến năm 2005 đối với một số ít trường hợp). Tương tự như đối với các cam kết thuế quan khác,
mỗi nước tham gia thoả thuận sẽ áp dụng đồng nhất cam kết của mình đối với hàng hoá nhập
khẩu của tất cả các nước thành viên WTO (phù hợp với điều khoản tối huệ quốc), thậm chí cả
với những nước thành viên chưa đưa ra cam kết.

Xác định mức thuế “trần”

Các danh mục mở cửa thị trường không chỉ đơn giản là những barem về thuế quan. Chúng chính
là cam kết không tăng thuế vượt quá một mức nào đó, tức mức thuế “trần”. Tại các nước phát
triển, mức thuế “trần” thường là mức thuế đang được áp dụng trên thực tế. Còn đa phần các
nước đang phát triển thì lại đặt mức thuế “trần” cao hơn một chút so với các mức đang áp dụng.

Một nước có thể phá bỏ cam kết (tức nâng thuế quan cao hơn mức thuế “trần”), nhưng không
phải là dễ. Để làm được điều này, nước đó phải đàm phán với các nước liên quan và có thể bị
buộc phải bù đắp thiệt hại về cơ hội thương mại mà các đối tác phải gánh chịu.

Công cụ này được gọi là gì?

Không có bất cứ hiệp định có tính ràng buộc pháp lý nào đặt ra các mục tiêu giảm thuế quan (tức
là tỉ lệ giảm thuế phải áp dụng sau vòng Uruguay).

Thay vào đó, mỗi nước lập danh mục các cam kết mà mình đã đưa ra. Danh mục này sau đó
được đưa vào phần phụ lục của Nghị định thư Ma-ra-két và Nghị định thư Ma-ra-két lại chính là
phụ lục của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994. Văn bản này như vậy đã trở
thành công cụ pháp lý có tính ràng buộc đối với việc giảm thuế quan. Sau đó, các nước thành
viên cũng đưa thêm một số cam kết khác trong khuôn khổ Hiệp định về công nghệ thông tin năm
1997.

Thêm nhiều mức thuế “trần”

Các nước phát triển đã gia tăng số lượng hàng hoá nhập khẩu phải chịu mức thuế « trần » (tức
mức thuế đã được cam kết và khó có thể nâng lên được nữa), từ 78% lên đến 99% các loại mặt
hàng. Các nước đang phát triển cũng tăng thêm không kém: từ 21% lên tới 73%. Mức tăng của
các nước có nền kinh tế chuyển đổi, tức các nước vừa từ bỏ kinh tế kế hoạch hoá, là từ 73% lên
98%. Như vậy là đối với các doanh nhân và nhà đầu tư, thị trường đã trở nên an toàn hơn rất
nhiều.

Và nông nghiệp...
Thuế quan đánh vào tất cả các sản phẩm nông nghiệp hiện đều ở mức “trần”. Hầu hết các biện
pháp hạn chế nhập khẩu khác như quota chẳng hạn đều được chuyển thành thuế suất. Đây còn
được gọi là quá trình “thuế hoá”, giúp nâng cao rõ rệt khả năng dự báo đối với các thị trường
nông nghiệp. Trước kia, hơn 30% các sản phẩm nông nghiệp phải chịu hạn chế định mức hoặc
các biện pháp hạn chế nhập khẩu khác. Giai đoạn đầu tiên của quá trình “thuế hoá” là nhằm thay
thế các hạn chế này bằng những mức thuế quan có giá trị bảo hộ tương đương. Tiếp đó, trong
vòng 6 năm, từ 1995 đến 2000, các mức thuế quan này được giảm dần từng bước (đối với các
nước đang phát triển, giai đoạn giảm thuế sẽ được hoàn thành vào năm 2005). Những cam kết
về mở cửa thị trường trong lĩnh vực nông nghiệp cũng dẫn đến xoá bỏ việc cấm nhập khẩu đối
với một số hàng hoá.

Ngoài ra, các danh mục này cũng nêu lại cam kết của các nước giảm hỗ trợ trong nước và trợ
cấp xuất khẩu đối với các sản phẩm nông nghiệp. (Xem phần về nông nghiệp)

Thế nào là “bóp méo cạnh tranh”?

Đây là một vấn đề lớn. Nền thương mại sẽ bị bóp méo khi giá cả được duy trì ở mức cao hay
thấp hơn mức bình thường và khi khối lượng hàng hoá được sản xuất, mua và bán cũng nhiều
hay ít hơn mức bình thường (mức bình thường có nghĩa là mức được duy trì trên các thị trường
có cạnh tranh).

Chẳng hạn, những cản trở đối với nhập khẩu và các khoản trợ cấp trong nước có thể làm tăng
giá của các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường nội địa của một nước. Giá tăng thì lại kích thích
sản xuất dư thừa. Nếu muốn bán lượng hàng hoá dư thừa ra thị trường thế giới, nơi giá cả vốn
thấp hơn, thì cần phải có trợ cấp xuất khẩu. Kết quả là các nước có chính sách trợ cấp lại có thể
sản xuất và xuất khẩu được nhiều hơn mức thông thường.

Để biện minh cho chính sách hỗ trợ và bảo hộ nông dân của mình, ngay cả khi điều đó làm tổn
hại đến việc buôn bán nông sản, chính phủ các nước thường vin vào ba lí do sau :

· nhằm đảm bảo sản xuất đủ lương thực để đáp ứng nhu cầu quốc gia,

· nhằm bảo vệ người nông dân khỏi những tác động xấu của thời tiết cũng như những biến
động giá cả trên thị trường thế giới,

· nhằm bảo vệ xã hội nông thôn.

Tuy nhiên, các chính sách được áp dụng lại thường rất tốn kém, gây ra sản xuất dư thừa, dẫn
đến chiến tranh về trợ cấp xuất khẩu. Còn nước nào mà có ít khả năng trợ cấp thì phải chịu
thua thiệt. Trong các cuộc đàm phán, các nước thường thảo luận về việc liệu có khả năng đạt
được ba mục tiêu trên mà vẫn không bóp méo cạnh tranh hay không.

3. Nông nghiệp: các thị trường công bằng hơn đối với nhà nông

Khi ra đời, GATT vốn dĩ được áp dụng cho cả các sản phẩm nông nghiệp, nhưng hiệp định này
có những kẽ hở. Chẳng hạn, nó cho phép các nước được áp dụng một số biện pháp phi thuế
quan như hạn ngạch nhập khẩu và trợ cấp. Thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp do đó đã bị
bóp méo, đặc biệt là do trợ cấp xuất khẩu (về nguyên tắc trợ cấp xuất khẩu đáng lẽ ra cũng phải
bị cấm trong lĩnh vực công nghiệp). Vòng đàm phán Uruguay đã cho ra đời hiệp định đa phương
đầu tiên về lĩnh vực này. Hiệp định này đánh dấu một bước phát triển đáng kể, hướng tới lập lại
trật tự và cạnh tranh lành mạnh trong một lĩnh vực ít « lệch lạc ». Hiệp định đã được thực hiện
trong vòng 6 năm (và vẫn đang được các nước đang phát triển triển khai với thời hạn 10 năm) kể
từ năm 1995. Hiệp định còn bao gồm cam kết tiếp tục cải tổ trên cơ sở tiến hành các cuộc đàm
phán mới. Các cuộc đàm phán này đã được khởi động từ năm 2000 như Hiệp định về nông
nghiệp quy định.

Tham khảo Các cuộc đàm phán trong khuôn khổ chương trình Đô-ha

Hiệp định về nông nghiệp: các quy định và cam kết mới

Hiệp định về nông nghiệp có mục tiêu cải cách thương mại trong lĩnh vực này và củng cố vai trò
của thị trường là yếu tố định hướng cho việc thực thi chính sách. Điều này sẽ giúp nâng cao khả
năng phán đoán và mức độ an toàn cho các nước nhập khẩu cũng như cho các nước xuất khẩu.

Các cam kết và quy định mới tập trung vào các vấn đề sau:

· Tiếp cận thị trường – các hạn chế nhập khẩu

· Hỗ trợ trong nước - trợ cấp và các chương trình khác, kể cả những chương trình nhằm tăng
hoặc đảm bảo giá cả sản xuất và thu nhập cho người làm nông nghiệp.

Hiệp định này được gọi là gì?

Trong phần lớn các điều khoản thì đó là Hiệp định về nông nghiệp

Trong các cam kết về thuế quan, hạn ngạch thuế quan, hỗ trợ trong nước, và trợ cấp xuất
khẩu thì đó là các danh mục phụ lục của Nghị định thư Ma-ra-két đính kèm Hiệp định chung về
thuế quan và thương mại năm 1994.

Xem thêm : Quyết định (cấp bộ trưởng) về các biện pháp xử lý các tác động tiêu cực mà chương
trình cải cách gây ra cho các nước kém phát triển và đang phát triển phải nhập khẩu lương thực.

(Xem thêm cả « Thể thức xây dựng các cam kết có tính ràng buộc và chuyên ngành trong khuôn
khổ chương trình cải tổ », (MTN.GNG/MA/W/24.)

· Trợ cấp cho xuất khẩu và các phương pháp khác nhằm đảm bảo một cách giả tạo khả năng
cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.

Hiệp định về nông nghiệp cho phép các chính phủ được hỗ trợ khu vực nông thôn, nhưng nên
bằng những biện pháp tác động tối thiểu đến cạnh tranh. Hiệp định cũng tỏ ra mềm dẻo đối với
việc triển khai các cam kết. Các nước đang phát triển không bị buộc phải giảm trợ cấp hoặc thuế
suất bằng với mức của các nước phát triển và lại có thêm thời gian để thực hiện các cam kết của
mình. Còn các nước kém phát triển thì hoàn toàn không bị ràng buộc gì. Có một số điều khoản
đặc biệt quy định về lợi ích của các nước bị buộc phải nhập khẩu lương thực thiết yếu và đề cập
đến những quan tâm của các nước kém phát triển.

Các mục tiêu cụ thể đối với nông nghiệp


Tại vòng đàm phán Uruguay, các nước đã thoả thuận được về mức độ giảm trợ cấp và bảo hộ
đối với sản phẩm nông nghiệp như sau (Hiệp định về nông nghiệp chỉ nêu các con số cụ thể về
giảm trợ cấp xuất khẩu):

Các nước phát triển Các nước đang phát triển


6 năm (1995-2000) 10 năm (1995-2004)
Thuế quan
Mức giảm trung bình đối với -36% -24%
tất cả các sản phẩm nông
nghiệp
Mức giảm tối thiểu đối với mỗi -15% -10%
sản phẩm
Hỗ trợ trong nước
Giảm tổng mức hỗ trợ đối với -20% -13%
toàn bộ lĩnh vực (giai đoạn
được tính làm cơ sở: 1986-
1990)
Xuất khẩu
Giá trị trợ cấp -36% -24%
Khối lượng được trợ -21% -14%
cấp (giai đoạn được tính làm
cơ sở: 1986-1990)
Các nước kém phát triển không phải đưa ra cam kết nào về giảm thuế hoặc giảm trợ cấp.

Cơ sở để tính mức độ giảm thuế là thuế suất trần trước ngày 1/1/1995 hoặc, đối với những
mức thuế chưa được cam kết, thì là thuế suất được áp dụng thực tế vào tháng 9/1986, khi bắt
đầu vòng đàm phán Uruguay.

Hiệp định về nông nghiệp có một điều khoản “hoà hoãn” nhằm giảm thiểu nguy cơ tranh chấp
hoặc bất đồng về trợ cấp nông sản trong vòng chín năm, cho đến cuối năm 2003.

Mở cửa thị trường: đề nghị “chỉ áp dụng thuế quan mà thôi”

Nguyên tắc mới đối với mở cửa thị trường nông nghiệp là “chỉ áp dụng thuế quan mà thôi”.
Trước vòng đàm phán Uruguay, việc nhập khẩu một số hàng nông sản bị hạn chế bởi các hạn
ngạch và các biện pháp phi thuế quan khác. Tuy nhiên, các biện pháp này đã được thay thế
bằng thuế quan. Thuế quan cho phép đảm bảo một mức bảo hộ tương đương: nếu biện pháp
trước đây sẽ làm tăng 75% giá hàng hoá trên thị trường nội địa so với giá trên thị trường thế giới,
thì thuế suất mới áp dụng có thể lên đến 75% (cách thức chuyển hoá hạn ngạch và các biện
pháp phi quan thuế khác sang thuế quan còn được gọi là quá trình “thuế hoá”)

Nhưng đó chưa phải là tất cả. Hiệp định cũng quy định rằng những hàng hoá đã được nhập khẩu
trước khi hiệp định có hiệu lực có thể vẫn tiếp tục được nhập khẩu và, nhờ vào một hệ thống
“hạn ngạch thuế quan”, hiệp định đảm bảo sẽ không áp dụng mức thuế quá cao đối với một
lượng hàng hoá nhập khẩu bổ sung nào đó: đối với một lượng hàng hoá nhập khẩu nhất định thì
thế quan áp dụng sẽ thấp hơn, còn đối với lượng hàng hoá nhập khẩu vượt quá hạn mức thì
thuế quan áp dụng sẽ cao hơn (thậm chí đôi khi còn cao hơn rất nhiều) .
Những cam kết mới về thuế quan và hạn ngạch thuế quan được áp dụng cho tất cả các sản
phẩm nông nghiệp và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1995. Các nước tham gia vòng đàm phán
Uruguay đã thoả thuận rằng các nước phát triển sẽ giảm trung bình 36% thuế (còn đối với
trường hợp sử dụng hạn ngạch thuế quan, thì phải giảm mức thuế suất cao nhất đánh vào lượng
hàng hoá vượt quá hạn ngạch) chia đều trong 6 năm. Các nước đang phát triển sẽ giảm thuế
24% trong 10 năm. Một số nước đang phát triển cũng đã chọn phương án chào các mức thuế
trần đối với những sản phẩm mà thuế quan chưa được “ràng buộc” (tức mức thuế chưa được
cam kết theo các quy định của GATT hoặc WTO) trước vòng đàm phán Uruguay. Các nước kém
phát triển không phải cam kết giảm thuế. (Các mức giảm này không xuất hiện trong Hiệp định về
nông nghiệp. Các nước tham gia đàm phán đã sử dụng chúng làm cơ sở xây dựng danh mục
cam kết của mình. Đó là những cam kết được nêu lại trong các danh mục có tính ràng buộc về
pháp lý).

Hạn ngạch thuế quan

Dưới đây là biểu đồ của một hạn ngạch thuế quan:

Mức thuế suất Giới hạn hạn ngạch

80% Ngoài giới hạn hạn ngạch

10% Trong giới hạn hạn ngạch

Thuế suất áp dụng: 10% Thuế suất áp dụng 80%

1000 tấn Khối lượng nhập khẩu

Hàng hoá nhập khẩu trong giới hạn hạn ngạch (cho đến 1000 tấn) thì được hưởng thuế suất
10%. Lượng hàng nhập khẩu ngoài quota thì phải chịu thuế suất 80%. Theo hiệp định về nông
nghiệp, giới hạn hạn ngạch ở mức 1000 tấn được tính toán dựa trên lượng hàng nhập khẩu trong
giai đoạn cơ sở hoặc dựa trên mức độ mở cửa tối thiểu đã được thương lượng.

Đối với những sản phẩm trước kia bị hạn chế bằng quota nay bị đánh thuế quan, các nước được
phép áp dụng những biện pháp khẩn cấp đặc biệt (gọi là “tự vệ đặc biệt”) nhằm bảo vệ nông dân
trước việc giá cả sụt giảm đột ngột hay việc hàng nhập khẩu tăng mạnh. Tuy nhiên, hiệp định
cũng nêu rõ khi nào và như thế nào thì các biện pháp khẩn cấp này có thể được áp dụng (chẳng
hạn, các biện pháp này không được áp dụng đối với hàng nhập khẩu theo chế độ hạn ngạch
thuế quan).

Đến nay đã có 4 nước sử dụng tới các điều khoản về “đối xử đặc biệt” để hạn chế nhập khẩu các
sản phẩm đặc biệt nhạy cảm (chủ yếu là gạo) trong giai đoạn triển khai hiệp định (tới năm 2000
đối với các nước phát triển và 2004 đối với các nước đang phát triển), nhưng phải thoả mãn một
số điều kiện ngặt nghèo, đặc biệt là việc phải bảo đảm mức độ mở cửa tối thiếu đối với các nhà
cung ứng nước ngoài: đó là các nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Philípin (đối với nhập khẩu gạo),
và Ixraen (đối với nhập khẩu thịt cừu, sữa bột nguyên chất và một số loại phomát). Đến nay,
Nhật Bản và Ixraen đã từ bỏ đặc quyền này. Nhưng một thành viên mới của WTO là Đài Loan thì
vẫn đang được hưởng quyền ưu đãi đặc biệt này trong nhập khẩu gạo, giống như Hàn Quốc và
Philípin.

Hỗ trợ trong nước: khi nào thì được phép và khi nào thì không được phép

Các biện pháp trợ giá trong nước hoặc trợ cấp sản xuất thường bị chỉ trích là khuyến khích sản
xuất dư thừa, dẫn tới đẩy lùi các sản phẩm nhập khẩu ra khỏi thị trường nội địa, kéo theo trợ cấp
xuất khẩu và bán phá giá trên thị trường thế giới. Hiệp định về nông nghiệp phân biệt rõ các
chương trình hỗ trợ có tác dụng kích thích trực tiếp sản xuất với các chương trình bị coi là không
có tác động trực tiếp.

Các nước buộc phải giảm bớt những biện pháp có tác động trực tiếp tới sản xuất và trao đổi
hàng hoá. Các nước thành viên WTO đã ước tính mức hỗ trợ mỗi năm cho nông nghiệp dưới
dạng này (bằng việc tính toán “biện pháp hỗ trợ tổng thể”) trong giai đoạn cơ sở 1986-1988. Các
nước phát triển đã chấp nhận giảm 20% trong vòng 6 năm kể từ năm 1995. Các nước đang phát
triển thì cam kết giảm 13% trong vòng 10 năm. Các nước kém phát triển không bị bắt buộc phải
giảm. (Hình thức hỗ trợ trong nước này đôi khi còn được gọi là “hộp vàng”, liên tưởng đến hình
ảnh đèn giao thông màu vàng báo hiệu cần phải đi “chậm lại”).

Các biện pháp ít gây ảnh hưởng tới trao đổi hàng hoá có thể được tự do thông qua và được xếp
vào “hộp xanh” (giống như tín hiệu đèn xanh cho phép tiếp tục giao thông). Các biện pháp này
bao gồm những dịch vụ được nhà nước đảm bảo như nghiên cứu, y tế công cộng, cơ sở hạ tầng
và an ninh lương thực. Chúng cũng gồm những khoản bồi thường được rót trực tiếp cho nông
dân nhưng không nhằm mục đích khuyến khích sản xuất, ví dụ như một số hình thức trực tiếp hỗ
trợ thu nhập, trợ cấp cho việc tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, và những khoản chi trả trực tiếp
trong khuôn khổ chương trình bảo vệ môi trường và hỗ trợ phát triển các vùng.

Các biện pháp sau cũng được phép áp dụng: một số khoản đền bù trực tiếp cho nông dân khi họ
bị buộc phải hạn chế sản xuất (có lúc được gọi là các biện pháp “hộp xanh lam”), một số chương
trình trợ giúp của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp và nông thôn tại các nước đang phát
triển và các biện pháp hỗ trợ khác có quy mô khiêm tốn (nguyên tắc “minimis” - không đáng kể)
so với tổng giá trị của sản phẩm hoặc của các sản phẩm được trợ cấp (dưới 5% đối với các
nước phát triển và dưới 10% đối với các nước đang phát triển).

Trợ cấp xuất khẩu: hạn chế mức trợ cấp và khối lượng hàng hoá được trợ cấp

Hiệp định về nông nghiệp cấm việc trợ cấp cho xuất khẩu nông sản, trừ phi chúng được nêu rõ
trong các danh mục cam kết của các nước thành viên. Trong trường hợp đó, các nước sẽ bị
buộc phải giảm đồng thời mức trợ cấp và khối lượng hàng hoá xuất khẩu được trợ cấp. Với cơ
sở là mức trợ cấp trung bình của giai đoạn 1986-1990, các nước phát triển chấp nhận giảm 36%
giá trị các khoản trợ cấp xuất khẩu trong vòng 6 năm kể từ năm 1995 (24% trong vòng 10 năm
đối với các nước đang phát triển). Các nước phát triển cũng thoả thuận giảm 21% khối lượng
hàng hoá xuất khẩu được trợ cấp trong vòng 6 năm (14% trong vòng 10 năm đối với các nước
đang phát triển). Các nước kém phát triển không cần phải có bất cứ cam kết gì về vấn đề này.

Trong 6 năm thực hiện, các nước đang phát triển vẫn được phép sử dụng trợ cấp nhằm mục
đích giảm chi phí bán và vận chuyển các sản phẩm xuất khẩu, nhưng phải tuân thủ một số điều
kiện nhất định.

Các nước kém phát triển và các nước phải lệ thuộc vào lương thực nhập khẩu

Hiệp định về nông nghiệp quy định rằng các thành viên của WTO phải giảm dần lượng hàng hoá
xuất khẩu được trợ cấp. Tuy vậy, một số nước nhập khẩu vẫn đang bị lệ thuộc vào lương thực
nhập khẩu giá rẻ và được trợ cấp của các nước công nghiệp chủ chốt. Trong số đó có một vài
nước thuộc nhóm nghèo nhất thế giới. Tuy giá cả tăng, nhờ cắt giảm trợ cấp xuất khẩu, có thể có
tác động tốt tới ngành sản xuất nông nghiệp của họ nhưng các nước này có thể vẫn cần được
giúp đỡ tạm thời để có thể tiến hành những điều chỉnh cần thiết giúp họ thanh toán hàng hoá
nhập khẩu đắt đỏ và nếu được thì tiến tới xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của mình. Một
quyết định đặc biệt cấp bộ trưởng đã nêu ra những mục tiêu và một số biện pháp liên quan đến
việc trợ giúp lương thực và trợ giúp phát triển nông nghiệp. Quyết định này cũng nêu khả năng
Quỹ tiền tệ thế giới và Ngân hàng thế giới hỗ trợ thanh toán lương thực nhập khẩu.

4. Tiêu chuẩn và an toàn

Điều 20 Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) cho phép các nước được can thiệp
vào trao đổi hàng hoá nhằm bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống của người và động vật và bảo tồn
các loài thực vật, với điều kiện các nước không được phân biệt đối xử và không được lạm dụng
nhằm bảo hộ trá hình. Ngoài ra, hiện WTO có riêng hai hiệp định điều chỉnh mức độ an toàn của
lương thực, sức khoẻ và sự an toàn cho các loài động thực vật, cũng như tiêu chuẩn kỹ thuật đối
với một số sản phẩm.

Các tiêu chuẩn quốc tế này là gì?

Phụ lục của Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh dịch tễ nêu rõ đó là những tiêu
chuẩn đã được các cơ quan sau soạn ra:

· Codex Alimentarius, Uỷ ban hỗn hợp của Tổ chức nông lương Liên hợp quốc và Tổ chức y tế
thế giới (FAO/WHO): áp dụng cho lương thực

· Tổ chức thế giới về sức khoẻ động vật (Cơ quan quốc tế về bệnh dịch động vật): áp dụng cho
sức khoẻ động vật

· Ban thư ký Công ước quốc tế về bảo vệ các loại thực vật: áp dụng cho việc bảo tồn các loài
thực vật.

Chính phủ các nước có thể bổ sung vào danh sách này tất cả những tổ chức hay hiệp định quốc
tế khác mà tất cả các thành viên của WTO đều có thể tham gia.

Lương thực, động vật và thực vật: một sản phẩm an toàn có thực sự an toàn hay không?
Vấn đề đặt ra ở đây là phải làm gì để đảm bảo cung ứng cho người tiêu dùng trong nước các
sản phẩm lương thực hết sức an toàn, theo những tiêu chuẩn thích hợp? Đồng thời phải làm sao
để tránh việc sử dụng các quy định chặt chẽ về vệ sinh dịch tễ như một cái cớ để bảo hộ các nhà
sản xuất trong nước?

Các quy tắc nền tảng về vấn đề này đã được nêu trong một hiệp định chuyên biệt an toàn thực
phẩm và các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ đối với động thực vật (Hiệp định về các biện pháp kiểm
dịch vệ sinh dịch tễ hay gọi tắt là các biện pháp SPS)

Hiệp định cho phép các nước xây dựng cho mình những tiêu chuẩn riêng, song cũng quy định
các tiêu chuẩn này phải có căn cứ khoa học. Các quy định về vệ sinh dịch tễ chỉ có thể được áp
dụng trong chừng mực cần thiết để bảo vệ sức khoẻ của con người và các loài động thực vật.
Chúng cũng không được gây ra phân biệt đối xử tuỳ tiện hoặc vô căn cứ giữa các quốc gia có
điều kiện giống hệt nhau hoặc tương tự như nhau.

Các nước thành viên WTO được khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn, đường hướng hoặc
khuyến nghị quốc tế sẵn có. Tuy vậy, các nước vẫn có thể thông qua những biện pháp đặt tiêu
chuẩn cao hơn nếu họ có cơ sở khoa học. Họ cũng có thể xây dựng những tiêu chuẩn khắt khe
hơn dựa trên việc đánh giá hợp lý các rủi ro, với điều kiện phương pháp tiến hành phải chặt chẽ
và không tuỳ tiện. Trong một chừng mực nào đó, các nước này có thể áp dụng “nguyên tắc
phòng ngừa”, cách tiếp cận theo kiểu “an toàn là trên hết” trong trường hợp chưa có căn cứ khoa
học chắc chắn. Điều 5 khoản 7 Hiệp định SPS cho phép các nước đưa ra các biện pháp “phòng
ngừa” tạm thời.

Cũng theo hiệp định này, các nước vẫn được áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau và các phương
pháp kiểm hoá khác nhau. Làm thể nào một nước xuất khẩu có thể chắc chắn rằng những tiêu
chuẩn, phương pháp mà mình áp dụng cho các sản phẩm xuất khẩu của mình sẽ được nước
nhập khẩu chấp thuận? Nếu nước xuất khẩu chứng minh được rằng các biện pháp mà nước này
áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu có cùng mức độ bảo vệ sinh dịch tễ với nước nhập khẩu thì
nước nhập khẩu về nguyên tắc phải chấp nhận các tiêu chuẩn và phương pháp mà nước xuất
khẩu áp dụng.

Hiệp định về vệ sinh dịch tễ còn có các điều khoản về thủ tục kiểm tra, giám định và công nhận
độ an toàn. Chính phủ các nước phải thông báo trước những quy định mới hoặc được sửa đổi
về vệ sinh dịch tễ mà mình sẽ áp dụng và thiết lập một cơ sở thông tin quốc gia. Hiệp định này
bổ sung cho Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại.

Các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật

Các quy định về mặt kỹ thuật và các tiêu chuẩn công nghiệp đóng một vai trò quan trọng, nhưng
mỗi nước lại đưa ra những quy định và tiêu chuẩn khác nhau. Việc có quá nhiều tiêu chuẩn khác
nhau như vậy thường gây khó khăn cho các nhà sản xuất và xuất khẩu. Nếu các tiêu chuẩn
được quy định một cách tuỳ tiện thì chúng có thể được sử dụng như là phương tiện bảo hộ. Do
đó, các tiêu chuẩn kỹ thuật có thể trở thành những rào cản cho thương mại.

Hiệp định về những rào cản kỹ thuật đối với thương mại có mục đích làm sao để các quy
định pháp luật, tiêu chuẩn và quy trình thử nghiệm và công nhận không gây ra những trở ngại
không cần thiết.
Hiệp định thừa nhận quyền của các nước được đưa ra những chuẩn mực mà họ cho là thích
hợp, chẳng hạn để bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống của người và động vật, để bảo tồn các loài
thực vật, bảo vệ môi trường hay các quyền lợi khác của người tiêu dùng. Hơn nữa, các nước
thành viên cũng không bị cấm thông qua các biện pháp cần thiết để đảm bảo việc tuân thủ các
chuẩn mực này. Để tránh có sự chênh lệch quá lớn, hiệp định khuyến khích các nước áp dụng
những tiêu chuẩn quốc tế khi chúng tỏ ra phù hợp, nhưng hiệp định không bắt buộc họ vì thế mà
phải thay đổi mức độ bảo vệ của mình.

Hiệp định cũng bao gồm một bộ luật ứng xử qui định việc soạn thảo, thông qua và áp dụng các
chuẩn mực của các cơ quan trung ương của các nước thành viên. Trong hiệp định này còn có
các quy định về cách thức các cơ quan địa phương và các tổ chức phi chính phủ được áp dụng
các quy định riêng của mình: nói một cách tổng quát thì họ phải tuân thủ các nguyên tắc được áp
dụng cho các cơ quan trung ương.

Hiệp định quy định rằng các qui trình đánh giá liệu một sản phẩm có tuân thủ các tiêu chuẩn của
một nước hay không phải được tiến hành một cách công bằng và thoả đáng. Hiệp định quy định
không áp dụng các phương pháp thiên vị đối với các sản phẩm trong nước. Hiệp định cũng
khuyến khích các nước công nhận các quy trình thử nghiệm của nhau. Như thế thì một sản
phẩm có thể được đưa ra thử nghiệm ngay trong nước sản xuất nhằm đánh giá liệu nó có tuân
thủ các chuẩn mực của nước nhập khẩu.

Các nhà sản xuất và xuất khẩu cần phải được thông tin về các tiêu chuẩn mới được ban hành tại
những thị trường mà họ đang tìm cách xâm nhập. Để tạo dễ dàng cho việc tiếp cận các thông tin
này, các nước thành viên WTO phải thiết lập các cơ sở thông tin quốc gia.

5. Dệt may : quay trở lại cơ chế bình thường

Cũng giống như nông sản, hàng dệt may là một trong những nội dung đàm phán gay gắt nhất tại
WTO cũng như trong hệ thống GATT trước kia. Hiện nay, hàng dệt may đang ở trong giai đoạn
thay đổi căn bản, trải dài trong 10 năm theo một lịch trình đã được vạch ra tại vòng đàm phán
Uruguay. Hệ thống các hạn ngạch nhập khẩu, từng thống trị buôn bán trong lĩnh vực này từ đầu
những năm 60, nay đang dần được xoá bỏ.

Từ năm 1974 đến cuối vòng đàm phán Uruguay, thương mại hàng dệt chịu sự điều chỉnh của
Hiệp định đa sợi (MFA). Hiệp định này tạo khung pháp lý cho việc thiết lập các hạn ngạch nhập
khẩu trên cơ sở các thoả thuận song phương hoặc bằng các biện pháp đơn phương, nhằm hạn
chế nhập khẩu vào các nước mà ngành sản xuất có nguy cơ bị đình đốn do sự lan tràn của hàng
nhập khẩu.

Các hạn ngạch là phần nổi nhất của hệ thống này. Chúng đi ngược lại nguyên tắc chung của
GATT đó là khuyến khích áp dụng thuế quan hơn là các biện pháp hạn chế định lượng. Chúng
cũng tạo nên một ngoại lệ đối với nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa tất cả các đối tác thương
mại trong hệ thống của GATT, bởi chúng quy định rõ khối lượng hàng hoá mà nước nhập khẩu
có thể chấp nhận đối với từng nước xuất khẩu.

Từ năm 1995, Hiệp định dệt may của WTO (ATC) đã thay thế cho Hiệp định đa sợi. Từ nay đến
1/1/2005, ngành dệt may cần phải áp dụng hoàn toàn hệ thống các luật lệ thông thường của
GATT. Đặc biệt, các nước phải xoá bỏ hạn ngạch, và các nước nhập khẩu không được đối xử
phân biệt giữa các nước xuất khẩu. Bản thân Hiệp định dệt may cũng sẽ chấm dứt hiệu lực vào
thời điểm đó : đây là hiệp định duy nhất của WTO quy định về việc tự chấm dứt hiệu lực.
Bốn giai đoạn trong vòng 10 năm

Các nước đã xây dựng một lịch trình xoá bỏ các hạn ngạch nhập khẩu đánh vào hàng dệt may
(và đưa ngành này hoà nhập vào hệ thống các quy định của GATT), cũng như tiến trình nới rộng
những hạn ngạch hiện nay.

Các con số đưa ra trong ví dụ dưới đây được tính toán dựa trên hệ số gia tăng hàng năm
thường được áp dụng theo quy định của Hiệp định đa sợi trước kia, tức là 6%. Đối với các sản
phẩm khác nhau, các hệ số được áp dụng trên thực tế theo Hiệp định ATC cũng khác nhau.

Giai đoạn Tỉ lệ hàng hoá phải đưa vào hệ Hệ số gia tăng của các hạn
thống GATT (kể cả những ngạch còn lại, nếu hệ số áp
hàng hoá mà hạn ngạch nhập dụng năm 1994 là 6%
khẩu bị xoá bỏ)
Giai đoạn 1: 1/1/1995 – 16% 6,96%
31/12/1997
(tỉ lệ tối thiểu tính trên lượng mỗi năm
hàng nhập khẩu năm 1990)
Giai đoạn 2: 1/1/1998 – 17% 8,7%
31/12/2001
mỗi năm
Giai đoạn 3: 1/1/2002 – 48% 11,05%
31/12/2004
mỗi năm
Giai đoạn 4: 1/1/2005 49% Xoá bỏ hoàn toàn

Đưa những hạn ngạch cuối (tối đa)


cùng vào hệ thống GATT (tỉ lệ
tối đa và xoá bỏ hoàn toàn các
hạn ngạch)

Hiệp định dệt may chấm dứt


hiệu lực.

Công thức áp dụng trên thực tế đối với việc tăng hàng nhập khẩu chịu hạn ngạch là như sau: 0,1
x hệ số gia tăng trước năm 1995 đối với giai đoạn đầu; 0,25 x hệ số gia tăng giai đoạn 1, đối với
giai đoạn 2; và 0,27 x hệ số gia tăng giai đoạn 2, đối với giai đoạn 3.

Hoà nhập : từng bước quay lại các quy tắc của GATT

Hàng dệt may sẽ được đưa vào phạm vi điều chỉnh của hệ thống GATT trong vòng 10 năm. Quá
trình này được tiến hành từng bước, theo 4 giai đoạn, nhằm cho phép cả nước nhập khẩu lẫn
nước xuất khẩu có một khoảng thời gian cần thiết để thích nghi với tình hình mới. Một số sản
phẩm dệt may trước kia đã phải chịu hạn ngạch nhập khẩu. Và tất cả các hạn ngạch được áp
dung cho đến ngày 31/12/1994 đều được đưa lại vào Hiệp định mới. Đối với các sản phẩm chịu
hạn ngạch, kết quả của quá trình tái hoà nhập vào GATT là việc xoá bỏ các hạn ngạch này.

Hiệp định đưa ra tỉ lệ các sản phẩm phải được vào hệ thống GATT trong từng giai đoạn. Trong số
đó, những sản phẩm nào đang phải chịu hạn ngạch thì các hạn ngạch phải bị xoá bỏ. Các tỉ lệ
này được tính toán dựa trên khối lượng trao đổi hàng dệt may của nước nhập khẩu vào năm
1990. Hiệp định cũng quy định phải tăng hàng năm khối lượng hàng nhập khẩu phải chịu hạn
ngạch. Tốc độ tăng hạn ngạch được xác định theo công thức sử dụng hệ số gia tăng của Hiệp
định đa sợi trước kia (xem bảng).

Trong 3 giai đoạn đầu tiên, các sản phẩm được đưa vào GATT phải thuộc 4 loại sản phẩm dệt
may chính sau : sợi, vải, hàng may mặc và quần áo. Tất cả những hạn chế khác không được quy
định trong Hiệp định đa sợi và trái với các hiệp định của WTO sẽ phải được điều chỉnh cho phù
hợp với hệ thống luật lệ của WTO trước năm 1996 hoặc bị xoá bỏ từ nay đến năm 2005.

Nếu trong giai đoạn chuyển tiếp này, ngành sản xuất trong nước lại bị thiệt hại thì hiệp định cho
phép nước đó áp dụng tạm thời các hạn chế bổ sung nhưng phải tuân thủ những điều kiện khắt
khe. Các « biện pháp tự vệ trong thời kỳ chuyển tiếp » này không giống với các biện pháp tự vệ
thông thường được GATT cho phép bởi chúng có thể được áp dụng đối với một vài nước xuất
khẩu nhất định. Tuy vậy, nước nhập khẩu phải chứng minh được rằng ngành sản xuất trong
nước mình đang phải chịu hoặc có nguy cơ phải chịu thiệt hại nghiêm trọng. Nước đó cũng phải
chứng minh được rằng thiệt hại này do 2 yếu tố sau gây ra : lượng hàng nhập khẩu nói chung
gia tăng và lượng hàng nhập khẩu đến từ nước xuất khẩu có liên quan gia tăng mạnh và đột
biến. Biện pháp tự vệ có tính chất hạn chế có thể được áp dụng hoặc trên cơ sở 2 nước có tham
vấn và đạt được thoả thuận hoặc một cách đơn phương. Biện pháp này sẽ được Cơ quan giám
sát về dệt may xem xét.

Đối với hệ thống hạn ngạch nhằm vào một số nước xuất khẩu nhất định, các nước xuất khẩu đôi
khi cũng tìm cách lách hạn ngạch bằng cách xuất hàng thông qua một nước thứ ba hoặc khai
báo sai lệch về xuất xứ hàng hoá. Hiệp định có các quy định nhằm giải quyết tiêu cực này.

Hiệp định dệt may còn quy định dành đối xử đặc biệt cho một số nhóm nước, chẳng hạn những
nước mới gia nhập thị trường, các nước xuất khẩu ít và các nước kém phát triển.

Cơ quan giám sát về dệt may có nhiệm vụ giám sát việc triển khai hiệp định. Cơ quan này bao
gồm một chủ tịch và 10 thành viên làm việc với tư cách cá nhân. Cơ quan theo dõi việc áp dụng
các biện pháp được đưa ra trong khuôn khổ hiệp định nhằm đảm bảo rằng các biện pháp này
phù hợp với hiệp định và báo cáo lên Hội đồng về thương mại hàng hoá. Hội đồng này sẽ xem
xét sự vận hành của hiệp định trước khi bắt đầu một giai đoạn hoà nhập mới. Cơ quan giám sát
về dệt may cũng có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến Hiệp định dệt may. Nếu
được giải quyết, các tranh chấp được chuyển sang Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO.

6. Dịch vụ: những luật lệ vì tăng trưởng và đầu tư

Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) là tập hợp đầu tiên và duy nhất những quy định
đa biên điều chỉnh thương mại dịch vụ thế giới. Được đàm phán trong vòng Uruguay, hiệp định
được soạn thảo trong bối cảnh ngành dịch vụ đạt mức tăng trưởng nhanh chóng trong vòng 30
năm qua và đang có thêm nhiều tiềm năng phát triển nhờ cuộc cách mạng thông tin.
Dịch vụ là lĩnh vực tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế thế giới; chúng chiếm 60% sản xuất
trên toàn thế giới, tạo ra 30% việc làm và chiếm gần 20% thương mại.

Khi ý tưởng đưa các quy định về dịch vụ vào hệ thống thương mại đa biên được nêu ra vào đầu
và giữa những năm 80, một số nước đã tỏ ra nghi ngại, thậm chí còn phản đối. Họ cho rằng một
hiệp định như vậy có thể ảnh hưởng xấu tới khả năng các chính phủ theo đuổi những mục tiêu
chính sách quốc gia và hạn chế khả năng điều tiết của chính phủ. Tuy vậy, hiệp định đã được
soạn thảo một cách hết sức mềm dẻo, cả về mặt quy định chung lẫn những cam kết cụ thể về
tiếp cận thị trường.

Những nguyên tắc cơ bản

• Hiệp định GATS điều chỉnh tất cả các loại dịch vụ.
• Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được áp dụng cho tất cả các dịch vụ, trừ các trường hợp
ngoại lệ tạm thời và mang tính hạn chế.
• Đối xử quốc gia chỉ được áp dụng trong những lĩnh vực có cam kết.
• Các nước phải đảm bảo tính minh bạch về mặt luật pháp, thiết lập các điểm thông tin.
• Luật pháp quốc gia trong lĩnh vực này phải khách quan và hợp lý.
• Về nguyên tắc, thanh toán quốc tế không phải chịu hạn chế.
• Cam kết của các nước phải được đàm phán và được ràng buộc.
• Quá trình tự do hoá từng bước được tiến hành thông qua các cuộc đàm phán mới.

Giải thích hiệp định GATS

Hiệp định chung về thương mại dịch vụ bao gồm ba phần: văn bản chính của hiệp định nêu ra
những nghĩa vụ và quy định chung, phần phụ lục bao gồm các quy định được áp dụng cho các
lĩnh vực khác nhau và các cam kết cụ thể của các nước nhằm đảm bảo mở cửa thị trường nội
địa, kể cả những chỉ dẫn đối với trường hợp các nước tạm thời từ bỏ nguyên tắc không phân biệt
đối xử, nền tảng của điều khoản tối huệ quốc.

Các nghĩa vụ và quy định chung

Hiệp định điều chỉnh thương mại tất cả các loại dịch vụ. GATS được áp dụng cho tất cả các
loại dịch vụ được trao đổi trên thế giới, chẳng hạn như các dịch vụ ngân hàng, viễn thông, du
lịch, các dịch vụ chuyên nghiệp ... Hiệp định cũng định nghĩa 4 phương thức trao đổi dịch vụ:

· Một nước cung ứng dịch vụ cho một nước khác (chẳng hạn các cuộc gọi quốc tế), được
gọi tên chính thức là “cung ứng dịch vụ qua biên giới” (hay “phương thức 1” theo ngôn từ
của WTO)

· Người tiêu dùng hoặc doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tại một nước khác (ví dụ như du lịch),
được gọi tên chính thức là “tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài” (“phương thức 2”)

· Doanh nghiệp nước ngoài lập chi nhánh hoặc công ty con tại một nước nhằm cung ứng
dịch vụ tại nước đó (chẳng hạn các giao dịch của ngân hàng nước ngoài tại một nước),
được gọi tên chính thức là “hiện diện thương mại” (“phương thức 3”)
· Các cá nhân rời khỏi một nước để sang cung ứng dịch vụ tại một nước khác (ví dụ như
hoạt động của người mẫu thời trang hoặc nhà tư vấn), được gọi tên chính thức là “hiện diện
của tự nhiên nhân” (“phương thức 4”)

Đối xử tối huệ quốc (MFN). Ưu đãi nào đã được dành cho một nước thì phải được dành cho tất
cả các nước khác. Nguyên tắc MFN có nghĩa là tất cả các đối tác thương mại được đối xử công
bằng, theo đúng nguyên tắc không phân biệt đối xử. Trong khuôn khổ của GATS, nếu một nước
mở cửa một lĩnh vực cho cạnh tranh nước ngoài thì nước đó sẽ phải dành cơ hội đồng đều cho
các nhà cung ứng dịch vụ của tất cả các nước thành viên WTO. (Nguyên tắc này được áp dụng
ngay cả khi một nước không đưa ra cam kết cụ thể nào về mở cửa thị trường của mình cho các
công ty nước ngoài trong khuôn khổ WTO).

Điều khoản tối huệ quốc được áp dụng cho tất cả các loại dịch vụ, nhưng các nước được phép
tạm thời miễn áp dụng điều khoản này đối với một số ngành đặc biệt. Khi GATS có hiệu lực, một
số nước đã ký trước đó với các đối tác thương mại những hiệp định ưu đãi về dịch vụ, trong
khuôn khổ song phương hoặc giữa một nhóm nước nhất định. Các thành viên của WTO cho
rằng cần duy trì các ưu đãi này trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, các nước tự dành
quyền tiếp tục đối xử ưu đãi hơn đối với một số nước nào đó trong một lĩnh vực dịch vụ nhất định
bằng cách liệt kê các “ngoại lệ đối với nghĩa vụ MFN” đồng thời với các cam kết ban đầu của
mình. Để bảo vệ nguyên tắc tối huệ quốc, các nước đã quyết định ngoại lệ chỉ được chấp nhận
một lần duy nhất và không được bổ sung thêm. Hiện nay các ngoại lệ đang được xem xét lại như
đã quy định và về nguyên tắc thời hạn của chúng là 10 năm.

Các cam kết mở cửa thị trường và đối xử quốc gia. Cam kết của các nước về mở cửa thị
trường nội địa – và mức độ mở cửa – trong các lĩnh vực cụ thể chính là kết quả của các cuộc
đàm phán. Các cam kết này được liệt kê lại trong các “danh mục” các ngành sẽ được mở cửa,
mức độ mở cửa đối với mỗi ngành (những hạn chế đối với sự tham gia của đối tác nước ngoài
được nêu rõ nếu cần) và các hạn chế có thể có đối với nguyên tắc đối xử quốc gia (tức khi một
số ưu đãi được dành cho các công ty trong nước nhưng không dành cho các công ty nước
ngoài). Ví dụ: nếu cho phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động trên thị trường nội địa, chính
phủ một nước nào đó đã đưa ra cam kết về mở cửa thị trường. Nếu chính phủ đó hạn chế số
lượng giấy phép được cấp thì đó chính là hạn chế mở cửa thị trường. Cuối cùng, nếu chính
phủ đó tuyên bố các ngân hàng nước ngoài chỉ có thể lập một chi nhánh duy nhất trong khi các
ngân hàng trong nước lại có thể lập nhiều chi nhánh thì đó được coi là một ngoại lệ của nguyên
tắc đối xử quốc gia.

Những cam kết này được qui định rõ ràng và được “ràng buộc”: cũng giống như các mức thuế
quan “trần” trong thương mại hàng hoá, các cam kết trong thương mại dịch vụ chỉ có thể được
thay đổi sau khi đã thương lượng với các nước liên quan. Do rất khó bị phá vỡ, các cam kết này
chính là sự đảm bảo đối với điều kiện hoạt động của các nhà xuất khẩu nước ngoài, các nhà
nhập khẩu trong nước cũng như các nhà đầu tư trong lĩnh vực này.

Các dịch vụ công được loại khỏi hiệp định và không có qui định nào của GATS buộc các cơ quan
công quyền phải tư nhân hoá các ngành công nghiệp dịch vụ. Trên thực tế, thuật ngữ “tư nhân
hoá” thậm chí cũng không tồn tại trong văn bản của GATS. GATS cũng không cấm độc quyền
của nhà nước và độc quyền của tư nhân.

Ngoại lệ này tạo thành một cam kết rõ ràng từ phía các chính phủ thành viên WTO cho phép
dùng quỹ công tài trợ cho các dịnh vụ trong những lĩnh vực cơ bản thuộc trách nhiệm của các
chính phủ. Trong hiệp định, các dịch vụ công được định nghĩa là các dịch vụ được cung ứng
không mang tính thương mại hay cạnh tranh với các nhà cung ứng dịch vụ khác. Các dịch vụ
này không chịu sự điều chỉnh của GATS, chúng không được đưa ra đàm phán, và các cam kết
về mở cửa thị trường và đối xử quốc gia (tức đối xử như nhau đối với các công ty trong và ngoài
nước) không được áp dụng cho các loại dịch vụ này.

Theo cách tiếp cận của GATS đối với các cam kết, các nước thành viên không bị buộc phải đưa
ra cam kết về tất cả các ngành dịch vụ. Một chính phủ có thể không muốn cam kết về mức độ
cạnh tranh nước ngoài trong một ngành nhất định, bởi họ cho rằng đó là một chức năng cơ bản
của chính phủ hoặc vì bất cứ lý do gì khác. Trong trường hợp này, các chính phủ chỉ tuân thủ
những nghĩa vụ tối thiểu như đảm bảo sự minh bạch trong cách thức điều tiết ngành dịch vụ này
và không được phân biệt đối xử giữa các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài với nhau.

Tính minh bạch. Theo GATS, các chính phủ phải công bố tất cả các luật, quy định xác đáng và
thiết lập các điểm thông tin trong các cơ quan hành chính của mình. Từ các điểm thông tin này,
các công ty và chính phủ nước ngoài có thể lấy thông tin liên quan đến các qui định điều chỉnh
ngành dịch vụ này hay ngành dịch vụ khác. Các nước thành viên cũng phải thông báo cho WTO
tất cả những thay đổi về qui định điều chỉnh các ngành dịch vụ là đối tượng của các cam kết cụ
thể.

Các qui định:

Khách quan và hợp lý: Do qui định trong nước chính là công cụ tác động và kiểm soát đối với
thương mại dịch vụ, Hiệp định quy định chính phủ các nước phải điều tiết các ngành dịch vụ một
cách hợp lý, khách quan và công bằng. Khi đưa ra một quyết định hành chính tác động đến dịch
vụ thì chính phủ cũng phải lập cơ chế công minh cho phép xem xét lại quyết định này (như thông
qua toà án chẳng hạn).

GATS không buộc các nước phải dỡ bỏ mọi quy định trong bất cứ ngành dịch vụ nào. Các cam
kết tự do hoá không làm phương hại đến quyền của các nước được ấn định những chuẩn mực
về chất lượng, độ an toàn hay giá cả cũng như quyền được đưa ra các qui định nhằm theo đuổi
bất cứ mục tiêu chung nào mà họ cho là phù hợp. Chẳng hạn một cam kết về đối xử quốc gia chỉ
có nghĩa là các quy định được áp dụng như nhau cho các nhà cung ứng trong nước và nước
ngoài. Đương nhiên là các nước vẫn có quyền đưa ra các quy định về trình độ chuyên môn của
các bác sỹ hay luật sư và ấn định các chuẩn mực nhằm đảm bảo sức khoẻ và sự an toàn cho
người tiêu dùng.

Công nhận. Khi hai (hay nhiều) chính phủ ký các hiệp định công nhận hệ thống chất lượng của
nhau (chẳng hạn trong việc cấp giấy phép hoặc chứng nhận cho các nhà cung ứng dịch vụ), thì
GATS quy định rằng họ phải tạo điều kiện cho các thành viên khác được đàm phán với họ về các
thoả thuận tương tự. Việc công nhận hệ thống chất lượng của các nước không được mang tính
phân biệt đối xử cũng như mang tính bảo hộ trá hình. Các hiệp định phải được thông báo cho
WTO.

Thanh toán và chuyển tiền quốc tế: Một khi đã cam kết mở cửa một ngành dịch vụ cho cạnh
tranh nước ngoài thì về nguyên tắc chính phủ không được hạn chế việc chuyển tiền ra nước
ngoài dưới danh nghĩa chi trả cho các dịch vụ đã tiêu dùng (“giao dịch vãng lai”) trong ngành này.
Chỉ có một trường hợp ngoại lệ duy nhất được quy định trong hiệp định đó là một nước có thể áp
dụng các hạn chế khi gặp khó khăn về cán cân thanh toán, nhưng ngay cả trong trường hợp này
thì các hạn chế chỉ có thể được áp dụng tạm thời và phải tuân thủ những hạn chế và điều kiện
khác.

Tự do hoá từng bước: Vòng đàm phán Uruguay chỉ là bước khởi đầu. GATS quy định rằng các
nước sẽ tiến hành các vòng đàm phán mới. Các vòng đàm phán này đã được khởi động từ đầu
năm 2000 và từ nay chúng nằm trong chương trình đàm phán phát triển Doha. Mục tiêu chính là
thúc đẩy hơn nữa tự do hoá bằng cách tăng mức độ cam kết ghi trong các danh mục.

Các phụ lục: Các ngành dịch vụ không giống nhau

Thương mại hàng hoá quốc tế là một khái niệm khá đơn giản: đó là một sản phẩm được vận
chuyển từ nước này sang nước khác. Thương mại dịch vụ thì đa dạng hơn. Các công ty điện
thoại, ngân hàng, các công ty hàng không và các văn phóng kế toán cung ứng dịch vụ của họ
theo các cách rất khác nhau. Các phụ lục của GATS sẽ giúp chúng ta hiểu được đôi chút sự đa
dạng này.

Các quy định về di trú đối với tự nhiên nhân: Phụ lục này liên quan đến kết quả đàm phán về
quyền của các cá nhân được tạm thời lưu lại một nước để cung ứng một dịch vụ. Phụ lục nêu rõ
hiệp định không áp dụng cho những người đang tìm kiếm một việc làm thường xuyên cũng như
không được sử dụng như một điều kiện đã được đáp ứng để xin quy chế công dân, lưu trú hoặc
một công việc thường xuyên.

Dịch vụ tài chính: Sự bất ổn của hệ thống ngân hàng có thể làm phương hại tới toàn bộ nền
kinh tế. Theo phụ lục về dịch vụ tài chính thì các chính phủ có toàn quyền áp dụng các biện pháp
phòng ngừa, chẳng hạn để bảo vệ các nhà đầu tư, người gửi tiền và người mua bảo hiểm, để
đảm bảo tính thống nhất và ổn định của hệ thống tài chính. Phụ lục cũng quy định rõ hiệp định
không áp dụng đối với các dịch vụ được cung cấp nhằm thực thi quyền lực của chính phủ đối với
hệ thống tài chính, ví dụ như các dịch vụ do các ngân hàng trung ương cung cấp.

Viễn thông: Ngành viễn thông đóng một vai trò kép, nó vừa là một ngành hoạt động kinh tế riêng
biệt vừa là một thành tố của hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động kinh tế khác
(chẳng hạn như việc chuyển tiền điện tử). Theo phụ lục này, chính phủ các nước phải đảm bảo
cho các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài được sử dụng các mạng viễn thông công cộng mà
không phải chịu bất cứ sự phân biệt đối xử nào.

Các dịch vụ vận tải hàng không: Theo như phụ lục này quy định, các quyền không lưu và các
hoạt động đi kèm với chúng không thuộc phạm vi điều chỉnh của GATS. Chúng được điều chỉnh
bởi các hiệp định song phương. Tuy nhiên phụ lục cũng nêu rõ GATS sẽ được áp dụng cho các
dịch vụ sửa chữa và bảo trì máy bay, cho việc thương mại hoá các dịch vụ vận tải hàng không và
cho các dịch vụ của hệ thống đặt vé qua mạng. Hiện nay các nước thành viên đang xem xét lại
phụ lục này.

Các cuộc đàm phán hiện nay

GATS đã xây dựng một chương trình làm việc bao gồm đầy đủ các nội dung. Đối với một số nội
dung thì các cuộc đàm phán đã được bắt đầu ngay từ năm 1995 theo quy định, sau khi GATS có
hiệu lực vào tháng 1/1995. Các cuộc đàm phán nhằm tiếp tục tiến trình tự do hoá thương mại
dịch vụ thế giới đã được bắt đầu vào năm 2000, song song với các công việc khác như nghiên
cứu và xem xét lại các quy định.
Các cuộc đàm phán (điều 19): Các cuộc đàm phán nhằm tiếp tục tục tiến trình tự do hoá
thương mại dịch vụ thế giới đã bắt đầu vào năm 2000, như GATS quy định (tại điều 19).

Giai đoạn đàm phán đầu tiên đã kết thúc thành công vào tháng 3/2001, trong đó các nước thành
viên đã thoả thuận được phương hướng chỉ đạo và các thể thức đàm phán. Đây là thành tố cơ
bản của nhiệm vụ đàm phán. Đồng thời, các nước thành viên cũng đã xác định rõ ràng và cân
bằng các mục tiêu, mức độ và cách thức đàm phán.

Các nước cũng đã nhất trí một số nguyên tắc nền tảng của GATS: quyền của các nước thành
viên được điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ và thông qua các quy định mới nhằm đáp ứng những
mục tiêu quốc gia; quyền được quy định rõ các ngành dịch vụ mà họ muốn mở cửa cho các nhà
cung ứng dịch vụ nước ngoài và với những điều kiện gì; và nguyên tắc mềm dẻo có tính sống
còn cần dành cho các nước đang và kém phát triển. Như vậy, các phương hướng chỉ đạo đã tính
đến những mối quan tâm lợi ích chung trong các ngành quan trọng như chăm sóc y tế, giáo dục
công và văn hoá. Chúng cũng nhấn mạnh tới tầm quan trọng của tự do hoá nói chung và đảm
bảo rằng các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài được thực sự tiếp cận thị trường nội địa.

Tuyên bố của Hội nghị bộ trưởng Đôha năm 2001 đã đưa các cuộc đàm phán này vào khuôn khổ
của Chương trình đàm phán phát triển Đôha . Do đó, các cuộc đàm phán này phải được hoàn
thành theo như quy định, muộn nhất là vào 1/1/1995. Từ tháng 7/2002, tiến trình đàm phán song
phương về mở cửa thị trường đã được khởi động.

Các cuộc đàm phán về quy định của GATS (các điều 10, 13 và 15): Các cuộc đàm phán bàn
về việc soạn thảo một số quy định mới chưa có trong GATS - tức những quy định về các biện
pháp tự vệ khẩn cấp, mua sắm chính phủ và trợ cấp – đã được bắt đầu vào năm 1995 và vẫn
đang được tiếp tục. Đến nay, trọng tâm là các biện pháp tự vệ. Các biện pháp này tạm thời hạn
chế mở cửa thị trường nhằm đối phó với sự rối loạn của thị trường. Do vậy, các cuộc đàm phán
nhằm mục đích xây dựng các thủ tục và khuôn khổ mà các chính phủ phải tuân theo nếu muốn
áp dụng các biện pháp này. Các cuộc đàm phán - vốn rất gay go - phải hoàn thành vào tháng
3/2004, nhưng kết quả của chúng sẽ chỉ có hiệu lực đồng thời với kết quả của các cuộc đàm
phán hiện nay về dịch vụ.

Các cuộc đàm phán về quy định trong nước (điều 6:4): Năm 1995 đã bắt đầu các cuộc đàm
phán nhằm xây dựng khuôn khổ cho việc điều tiết trong nước, tức là các quy định luật pháp mà
các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài phải tuân theo để có thể hoạt động trên một thị trường nào
đó. Các cuộc đàm phán chú trọng tới những quy định và thủ tục liên quan đến việc thẩm định
năng lực, tiêu chuẩn kỹ thuật và những quy định về giấy phép. Tháng 12/1998, các thành viên đã
thoả thuận được về các quy tắc điều tiết trong nước đối với ngành dịch vụ kế toán. Trên cơ sở
đó, các nước thành viên sẽ cố gắng soạn ra các quy định chung cho tất cả các ngành dịch vụ
chuyên nghiệp và các quy định bổ sung cho từng ngành, nếu thấy cần thiết. Tất cả các quy định
này sẽ được đưa vào GATS và trở thành những quy định có tính ràng buộc pháp lý sau khi các
cuộc đàm phán về dịch vụ kết thúc.

Ngoại lệ đối với nghĩa vụ tối huệ quốc (phụ lục của điều 2): Các cuộc đàm phán về nội dung
này đã được bắt đầu vào năm 2000. Khi GATS có hiệu lực năm 1995, các nước thành viên chỉ
được yêu cầu miễn áp dụng một lần duy nhất nguyên tắc tối huệ quốc giữa các đối tác thương
mại. Biện pháp này được nêu rõ trong danh mục các ngoại lệ của các thành viên, trong đó chỉ rõ
nguyên tắc đối xử tối huệ quốc sẽ được áp dụng cho thành viên nào và trong khoảng thời gian
nào. Về nguyên tắc, các ngoại lệ không được vượt quá 10 năm. Theo như GATS quy định, tất cả
các ngoại lệ này đang được xem xét lại để xác định liệu những điều kiện lý giải ban đầu đối với
các ngoại lệ này có còn tồn tại hay không . Và dù thế nào chăng nữa thì các ngoại lệ này cũng là
một nội dung của các cuộc đàm phán về dịch vụ.

Tự do hoá một cách “tự nguyện” (điều 19): Những nước đã tự mở cửa kể từ các cuộc đàm
phán đa biên gần đây nhất muốn rằng điều này phải được tính đến trong các cuộc đàm phán về
mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ. Những phương hướng chỉ đạo và thể thức đàm phán
trong khuôn khổ GATS đã được các nước thành viên thoả thuận vào tháng 3/2001. Các nước
cũng kêu gọi xây dựng các tiêu chí cho phép tính đến các quyết định tự do hoá “tự nguyện” hoặc
đơn phương. Các tiêu chí này cuối cùng đã được soạn thảo ngày 6/3/2003.

Đối xử đặc biệt với các nước kém phát triển (điều 19): GATS đã giao nhiệm vụ cho các nước
thành viên là xác định phương thức dành đối xử đặc biệt cho các nước kém phát triển trong các
cuộc đàm phán (các “thể thức`` liên quan tới mức độ đối xử đặc biệt và các phương pháp đối
xử). Các nước kém phát triển đã bắt đầu thảo luận từ tháng 3/2002, khi họ thông báo cho WTO
một cách không chính thức một số yếu tố chính mà họ đề nghị đưa vào các thể thức. Sau các
cuộc thảo luận tiếp đó, các nước kém phát triển đã đưa ra một dự thảo văn kiện chính thức vào
đầu tháng 5/2003. Các nước thành viên đang tiếp tục thảo luận về dự thảo này.

Đánh giá thương mại dịch vụ (điều 19): Công tác chuẩn bị cho nội dung này đã bắt đầu từ đầu
năm 1999. GATS quy định rằng các nước thành viên phải tiến hành đánh giá thương mại dịch vụ,
kể cả mục tiêu đã đề ra là tăng cường sự tham gia của các nước đang phát triển vào thương mại
dịch vụ. Các phương hướng chỉ đạo về đàm phán đã tái khẳng định điều lại này và nêu rõ các
cuộc đàm phán sẽ được điều chỉnh theo kết quả đánh giá. Nhìn chung, các nước thành viên
thừa nhận do thiếu số liệu thống kê và do các vấn đề về phương pháp luận cho nên không thể
tiến hành đánh giá dựa trên các số liệu đầy đủ. Tuy vậy, các nước vẫn tiếp tục thảo luận trên cơ
sở những tài liệu do Ban thư ký cung cấp.

Các dịch vụ vận tải hàng không: Hiện nay, một phần lớn ngành vận tải hàng không - gồm
quyền không lưu và các dịch vụ đi kèm quyền không lưu - đang nằm ngoài phạm vi điều chỉnh
của GATS. Tuy vậy, GATS cũng quy định rằng các nước thành viên phải xem xét tình hình này.
Quá trình xem xét đã được bắt đầu từ năm 2000 nhằm xác định xem liệu có nên đưa thêm một
số dịch vụ vận tải hàng không khác vào phạm vi điều chỉnh của GATS hay không. Quá trình này
có thể sẽ chuyển thành một cuộc đàm phán thực chất và dẫn tới sửa đổi GATS bởi vì phạm vi
điều chỉnh của GATS sẽ được mở rộng ra một số ngành dịch vụ mới và danh mục cam kết của
mỗi quốc gia sẽ được bổ sung thêm một số cam kết cụ thể về các ngành dịch vụ mới này.

7. Sở hữu trí tuệ: bảo hộ và tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ

Hiệp định của WTO về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
(TRIPS) được đàm phán trong Vòng Uruguay từ năm 1986 đến năm 1994. Với hiệp định, lần đầu
tiên những qui định về sở hữu trí tuệ được đưa vào hệ thống thương mại đa biên.

Các quyền sở hữu trí tuệ

Các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh


của TRIPS

• Bản quyền và quyền liên quan


• Nhãn hiệu hàng hoá và thương
hiệu
• Chỉ dẫn địa lý
• Bản vẽ và kiểu dáng công
nghiệp
• Bằng sáng chế
• Sơ đồ bố trí mạch tích hợp

• Bảo vệ thông tin bí mật

Khởi nguồn: sự cần thiết hội nhập vào hệ thống thương mại dựa trên luật lệ

Các ý tưởng và tri thức đang chiếm phần ngày càng quan trọng trong hệ thống thương mại. Giá
trị của các loại dược phẩm mới và các sản phẩm công nghệ cao khác nằm ở nỗ lực phát minh,
cải tiến, tìm tòi, chế tạo và thử nghiệm cho phép sản xuất chúng. Phim ảnh, băng đĩa nhạc, sách
báo, phần mềm tin học và các dịch vụ trên mạng được mua bán nhờ vào khối lượng thông tin và
tính sáng tạo đã được đưa vào các sản phẩm này, chứ không phải là nhờ các chất liệu nhựa,
giấy, hay kim loại được sử dụng để sản xuất ra chúng. Nhiều sản phẩm trước kia còn được xếp
vào loại hàng hoá có hàm lượng công nghệ thấp thì nay lại có giá trị cao nhờ vào những phát
minh và thiết kế: ví dụ như quần áo mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc các giống cây trồng mới.

Các nhà phát minh sáng chế có thể có quyền không cho người khác sử dụng các phát minh, bản
vẽ, mẫu mã hay bất cứ sáng tạo nào khác của mình. Họ có thể dùng quyền đó để thương lượng
khoản thù lao mà họ được hưởng trong trường hợp người thứ ba muốn sử dụng các phát minh,
sáng chế của họ. Các quyền này được gọi là “quyền sở hữu trí tuệ”. Chúng có nhiều hình thức:
bản quyền, chẳng hạn đối với các ấn phẩm sách báo, phim và tranh ảnh; bằng phát minh; nhãn
hiệu hàng hoá hoặc thương phẩm đối với tên hiệu và lôgô sản phẩm, v.v. Chính phủ và quốc hội
các nước đã trao quyền này cho các nhà phát minh sáng chế để khuyến khích họ đưa ra nhiều ý
tưởng phục vụ lợi ích của toàn xã hội.

Mức độ bảo vệ và tôn trọng các quyền này ở các nước rất khác nhau; do sở hữu trí tuệ đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong thương mại nên những khác biệt đó đang trở thành nguyên nhân
gây căng thẳng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Việc xây dựng các quy định thương mại mới trên
phạm vi toàn thế giới nhằm điều chỉnh quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành một phương tiện giúp
củng cố trật tự, khả năng dự báo, cũng như giải quyết tranh chấp một cách có hệ thống hơn.

Vòng đàm phán Uruguay đã cho phép đạt được kết quả này. Hiệp định TRIPS của WTO có mục
tiêu là giảm bớt sự khác biệt trong cách thức bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên thế giới và đưa ra
các quy định quốc tế chung điều chỉnh sự bảo vệ này. Hiệp định ấn định các mức độ bảo vệ tối
thiểu mà mỗi quốc gia thành viên phải đảm bảo cho quyền sở hữu trí tuệ của các quốc gia thành
viên khác. Trên cơ sở đó, hiệp định tạo sự cân bằng giữa lợi ích lâu dài và chi phí ngắn hạn đối
với xã hội. Do việc bảo vệ sở hữu trí tuệ sẽ khuyến khích các phát minh sáng chế cho nên xã hội
sẽ được hưởng lợi ích lâu dài, nhất là khi hết thời hạn bảo vệ, các phát minh sáng chế được
chuyển sang cho Nhà nước quản lý. Chính phủ các nước được phép giảm bớt các chi phí ngắn
hạn bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ như để đối phó với các vấn đề y tế công cộng. Hơn nữa,
hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO từ nay cũng cho phép giải quyết các tranh chấp thương
mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.

Các quyền sở hữu khác nhau

Bản quyền , các bằng phát minh sáng chế, các nhãn hiệu hàng hoá và thương hiệu, v.v., được áp
dụng cho các loại hình phát minh sáng chế khác nhau. Chúng cũng được điều chỉnh khác nhau.

Các bằng phát minh sáng chế, các bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp, các sơ đồ bố trí các mạch
tích hợp, các chỉ dẫn địa lý và các nhãn hiệu hàng hoá hay thương hiệu đều phải được đăng ký
nếu muốn được bảo hộ. Để đăng ký cần mô tả rõ điều cần bảo hộ - phát minh, bản vẽ hay mẫu
mã, nhãn hiệu, lô gô... Chi tiết mô tả cần phải được công bố.

Bản quyền và các bí mật thương mại mặc nhiên được bảo vệ với điều kiện cụ thể. Chúng không
cần phải được đăng ký, cho nên không cần phải công bố chẳng hạn như cách thức viết phần
mềm vi tính được bảo vệ bản quyền tác giả.

Các điều kiện khác của bảo vệ sở hữu trí tuệ có thể không giống nhau, chẳng hạn như đối với
thời hạn bảo vệ.

Hiệp định đề cập tới 5 nội dung chính:

· Làm thế nào để các nguyên tắc cơ bản của hệ thống thương mại và các hiệp định
quốc tế khác về sở hữu trí tuệ được áp dụng;

· Làm thế nào để bảo đảm mức độ bảo hộ thích hợp đối với quyền sở hữu trí tuệ;

· Làm thế nào để các nước đảm bảo cho các quyền này được tôn trọng một cách thoả
đáng trên lãnh thổ của mình;

· Làm thế nào để giải quyết tranh chấp về sở hữu trí tuệ giữa các nước thành viên
WTO

· Các thoả thuận đặc biệt trong thời gian chuyển tiếp được áp dụng trong giai đoạn
triển khai hệ thống mới.

Các nguyên tắc cơ bản: đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc và bảo hộ cân bằng

Cũng như trong các hiệp định GATT và GATS, Hiệp định TRIPS dựa trên một số nguyên tắc cơ
bản. Và cũng giống như trong hai hiệp định trên, TRIPS nhấn mạnh tới nguyên tắc không phân
biệt đối xử: đối xử quốc gia (bình đẳng đối xử giữa người trong nước và người nước ngoài) và
đối xử tối huệ quốc (bình đẳng đối xử giữa kiều dân của tất cả các nước thành viên khác của
WTO). Đối xử quốc gia cũng là một nguyên tắc mấu chốt đối với các hiệp định khác về sở hữu trí
tuệ được ký kết ngoài khuôn khổ WTO.

Hiệp định TRIPS còn đưa ra một nguyên tắc quan trọng khác, đó là bảo vệ sở hữu trí tuệ phải
góp phần cải tiến kỹ thuật và chuyển giao công nghệ. Bảo vệ sở hữu trí tuệ phải đem lại lợi ích
cho người sản xuất cũng như người tiêu dùng, góp phần gia tăng sự no ấm về kinh tế và xã hội.

Bảo hộ sở hữu trí tuệ như thế nào : một số nguyên tắc cơ bản chung
Phần hai của Hiệp định TRIPS đề cập tới các quyền hữu trí tuệ khác nhau và cách thức bảo vệ.
Tức là làm sao để các quy định phù hợp về bảo vệ được tất cả các nước thành viên WTO áp
dụng. Ở đây, nền tảng của hiệp định là những nghĩa vụ được nêu trong các hiệp định quốc tế ký
kết trong khuôn khổ Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, trước khi WTO ra đời:

· Công ước Paris về bảo vệ sở hữu công nghiệp (văn bằng, bản vẽ công nghiệp, v.v.)

· Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật (Bản quyền tác giả)

Một số lĩnh vực không thuộc phạm vi điều chỉnh của hai công ước này. Trong một số trường hợp,
các quy định về bảo vệ sở hữu trí tuệ bị coi là chưa đầy đủ. Hiệp định TRIPS cho phép bổ sung
thêm một số lượng lớn quy định mới, chặt chẽ hơn.

Bản quyền tác giả

Hiệp định TRIPS quy định các chương trình máy tính sẽ được bảo vệ như các tác phẩm văn học
theo đúng Công ước Berne và nêu rõ cách thức các cơ sở dữ liệu cần phải được bảo vệ như thế
nào.

Hiệp định cũng mở rộng phạm vi điều chỉnh của các quy định quốc tế về bản quyền tác giả đối
với quyền thuê lại. Tác giả của các chương trình máy tính và các nhà thu âm phải có quyền cấm
cho công chúng thuê các tác phẩm của họ. Độc quyền tương tự cũng được dành cho các tác
phẩm điện ảnh. Việc kinh doanh cho thuê đã khiến các tác phẩm điện ảnh bị sao chép rất nhiều,
khiến người nắm giữ quyền tác giả không thu được hết lợi nhuận mà mình đáng được hưởng.

Hiệp định cũng quy định rằng người phiên dịch hoặc người biểu diễn phải có quyền ngăn không
cho thu âm, sao chép và phổ biến rộng rãi các hoạt động của họ nếu không được phép ít nhất là
trong vòng 50 năm. Các nhà sản xuất băng đĩa cũng phải có quyền ngăn không cho sao lại các
sản phẩm của họ nếu không được phép trong vòng 50 năm.

Nhãn hiệu hàng hoá hoặc thương hiệu

Hiệp định chỉ ra đâu là các loại dấu hiệu cần được bảo vệ như là nhãn hiệu hàng hoá hoặc
thương hiệu và đâu là quyền tối thiểu cần phải dành cho chủ sở hữu. Hiệp định quy định rằng
các nhãn hiệu dịch vụ phải được bảo vệ như nhãn hiệu hàng hoá. Các nhãn hiệu nổi tiếng ở
nước này hay nước khác cần được bảo vệ thêm.

Chỉ dẫn địa lý

Tên một địa danh đôi khi được sử dụng để nhận dạng một sản phẩm. “Chỉ dẫn địa lý” này không
những chỉ ra nơi sản phẩm được sản xuất mà đặc biệt nó còn chỉ ra các đặc tính của sản phẩm
có được từ nguồn gốc của nó.

Các tên “Sâm-panh”, “scốt”, “te-ki-la” và “rốc-cơ-fo” là những ví dụ mà ai cũng biết. Những nhà
sản xuất rượu vang và rượu mạnh đặc biệt coi trọng việc sử dụng tên địa danh để nhận dạng
các sản phẩm này. Tên địa danh được một số điều khoản đặc biệt của hiệp định TRIPS điều
chỉnh. Tuy vậy đây cũng là một vấn đề quan trọng đối với các loại hàng hoá khác.

Việc sử dụng tên một địa danh khi sản phẩm được sản xuất ở nơi khác hoặc không có được
những tính năng vốn có của sản phẩm sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và dẫn tới cạnh
tranh không lành mạnh. Hiệp định TRIPS quy định rằng các nước thành viên phải ngăn cấm việc
sử dụng bừa bãi các tên địa danh.
Đối với rượu vang và rượu mạnh, Hiệp định quy định mức độ bảo vệ cao hơn, tức là ngay cả khi
không có nguy cơ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.

Hiệp định cho phép một số ngoại lệ, đặc biệt khi tên địa danh đã được bảo hộ dưới dạng nhãn
hiệu sản phẩm hoặc thương hiệu hoặc khi nó đã trở thành tên chung. Ví dụ từ “cheddar” ngày
nay được dùng để chỉ một loại pho-mát đặc biệt không nhất thiết phải được sản xuất ở vùng
Cheddar thuộc nước Anh. Tuy nhiên, nước nào muốn nêu ngoại lệ vì những lý do này đều phải
tiến hành đàm phán với những nước cũng muốn bảo hộ chỉ dẫn địa lý đó.

Hiệp định quy định sẽ có các cuộc đàm phán mới tại WTO nhằm tạo lập một hệ thống đa phương
về thông báo và đăng ký các chỉ dẫn địa lý đối với rượu vang. Các cuộc đàm phán này là một
phần của chương trình Đôha về phát triển và bao gồm cả rượu mạnh. Hiện WTO cũng đang thảo
luận xem liệu có nên đàm phán mở rộng mức độ bảo hộ cao này sang các sản phẩm khác hay
không.

Bản vẽ và mãu mã công nghiệp

Theo Hiệp định TRIPS, các bản vẽ và mẫu mã công nghiệp phải được bảo hộ ít nhất là trong
vòng 10 năm. Chủ sở hữu các bản vẽ được bảo hộ phải có quyền ngăn cấm việc xản xuất, bán
hoặc nhập khẩu các sản phẩm có mang hoặc có chứa hình vẽ giống với hình vẽ đã được bảo
hộ.

Bằng phát minh sáng chế

Hiệp định quy định các phát minh có thể được bảo vệ thông qua bằng phát minh trong vòng ít
nhất 20 năm. Cả sản phẩm lẫn phương thức sản xuất đều được bảo vệ trong hầu hết các lĩnh
vực công nghệ. Chính phủ các nước có thể từ chối cấp bằng phát minh nếu việc khai thác kinh
doanh chúng bị cấm vì vi phạm trật tự công cộng hoặc đạo đức. Họ cũng có thể không cấp bằng
cho các phương pháp chẩn đoán, điều trị và phẫu thuật, các loại thực vật và động vật (không
phải là các vi sinh vật), và các phương pháp sinh học sản xuất giống cây trồng và vật nuôi
(không phải là các phương pháp vi sinh).

Tuy nhiên, các giống cây phải được bảo vệ bằng các bằng phát minh hoặc bằng một hệ thống
đặc biệt (như hệ thống bảo vệ các quyền của người được cấp phép được quy định trong các
công ước của Liên minh quốc tế bảo vệ các phát minh về giống cây trồng).

Hiệp định đề ra các quyền tối thiểu dành cho người sở hữu bằng phát minh. Tuy nhiên hiệp định
cũng qui định một số ngoại lệ. Có thể xảy ra trường hợp người sở hữu bằng phát minh lạm dụng
các quyền của mình, như không cung ứng sản phẩm cho thị trường. Trong trường hợp đó, theo
Hiệp định, chính phủ các nước có thể cấp “giấy phép bắt buộc” cho phép một đối thủ cạnh tranh
được sản xuất sản phẩm này hoặc được phép sử dụng quy trình sản xuất đã được bảo vệ. Tuy
nhiên, chính phủ các nước cũng đồng thời phải đáp ứng một số điều kiện; qui định này nhằm
mục đích bảo vệ lợi ích chính đáng của người giữ bằng sáng chế.

Nếu đó là bằng sáng chế về quy trình sản xuất thì các sản phẩm được sản xuất trực tiếp bằng
qui trình này cũng được bảo vệ. Trong một số trường hợp, người vi phạm có thể bị buộc phải
chứng minh trước toà rằng họ không sử dụng quy trình đã được cấp bằng sáng chế.

Từ bấy lâu nay, đối với việc bảo vệ các dược phẩm đã được cấp bằng sáng chế, chúng ta vẫn tự
hỏi làm thể nào để vừa không cản trở các nước nghèo tiếp cận với các loại thuốc chữa bệnh,
vừa duy trì được vai trò của các bằng sáng chế là khuyến khích hoạt động nghiên cứu - phát
triển trong ngành dược phẩm. Một số quy định mềm dẻo, như khả năng nhượng lại « giấy phép
bắt buộc », đã được đưa vào hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, một số chính phủ đang đặt ra câu hỏi
cần phải diễn giải các quy định này như thế nào, và làm thế nào để bảo đảm quyền sử dụng các
quy định này.

Vấn đề này đã được giải quyết phần lớn khi các Bộ trưởng các nước thành viên WTO thông qua
một tuyên bố đặc biệt tại Hội nghị Đôha vào tháng 11/2001. Các Bộ trưởng nhất trí rằng Hiệp
định TRIPS sẽ không ngăn cản và không được ngăn cản các nước thành viên áp dụng các biện
pháp bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Họ nhấn mạnh các nước có thể sử dụng các quy định mềm
dẻo trong Hiệp định TRIPS và nhất trí tiếp tục miễn cho các nước kém phát triển phải bảo vệ các
dược phẩm đã được cấp bằng sáng chế cho tới năm 2016. Đối với vấn đề còn tồn đọng, các Bộ
trưởng cũng giao cho Hội đồng TRIPS làm sao để các qui định trở nên mềm dẻo hơn nữa nhằm
giúp các nước không có khả năng tự sản xuất dược phẩm có thể nhập khẩu thuốc được sản
xuất theo « giấy phép bắt buộc ».

Sơ đồ bố trí mạch tích hợp

Hiệp định TRIPS quy định việc bảo vệ sơ đồ bố trí mạch tích hợp trên cơ sở hiệp định
Washington về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp (Hiệp định được thông qua trong
khuôn khổ Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới). Tuy đã được thông qua vào năm 1989 nhưng hiệp
định này vẫn chưa có hiệu lực. Hiệp định TRIPS bổ sung thêm một số điều khoản, chẳng hạn
như mạch tích hợp phải được bảo vệ ít nhất là 10 năm.

Thông tin mật và bí quyết thương mại

Bí quyết thương mại và các loại “thông tin mật” khác có giá trị thương mại phải được bảo vệ
nhằm ngăn chặn việc lạm dụng lòng tin và các hành vi khác trái với nguyên tắc làm ăn trung
thực. Tuy vậy cũng cần phải đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ bí mật của các thông tin
này. Nếu được cung cấp các kết quả thử nghiệm trong quá trình cấp phép dược phẩm hoặc sản
phẩm hoá học phục vụ nông nghiệp thì chính phủ phải bảo vệ các kết quả này nhằm ngăn ngừa
việc khai thác thương mại bất hợp pháp.

Cuộc chiến chống hành vi phản cạnh tranh trong hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu trí
tuệ

Chủ sở hữu quyền tác giả, văn bằng hoặc bất cứ quyền sở hữu trí tuệ nào khác đều có thể cho
phép một người khác sản xuất hay sao chép nhãn hiệu hàng hoá hoặc thương hiệu, tác phẩm,
phát minh, bản vẽ hoặc các mẫu mã được bảo hộ. Hiệp định công nhận rằng trong số các điều
kiện của hợp đồng chuyển giao, người chủ sở hữu có thể hạn chế cạnh tranh hoặc cản trở việc
chuyển giao công nghệ. Hiệp định quy định chính phủ các nước, trong một số điều kiện nhất
định, có quyền áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa hành vi phản cạnh tranh và lạm dụng
quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực nhượng bản quyền. Hiệp định cũng quy định chính phủ các
nước phải sẵn sàng tham khảo nhau nhằm chống lại các hành vi này.

Phương thức đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ: những quy định chặt chẽ nhưng công bằng

Có được các luật về sở hữu trí tuệ là chưa đủ, các nước còn phải làm sao để luật lệ được tuân
thủ chặt chẽ. Vấn đề này đã được đề cập tới trong phần ba của hiệp định TRIPS, trong đó quy
định rằng chính phủ các nước phải làm sao để luật pháp nước mình bảo vệ được quyền sở hữu
trí tuệ và các trường hợp vi phạm phải được trừng trị thích đáng. Các thủ tục áp dụng phải hợp
pháp, công bằng và không được tỏ ra phức tạp và tốn kém một cách không cần thiết. Các thủ tục
này không được đề ra thời hạn hoặc gây chậm trễ một cách vô lý. Những người có liên quan
phải được phép yêu cầu toà án xem xét lại một quyết định hành chính hoặc khiếu nại một bản án
của toà cấp dưới.

Hiệp định mô tả chi tiết các công cụ đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là các quy định liên
quan tới việc thu thập chứng cứ, các biện pháp tạm thời, mệnh lệnh của toà án, các khoản bồi
thường thiệt hại và các biện pháp xử phạt khác. Hiệp định quy định trong một số điều kiện nhất
định, toà án phải có quyền ra lệnh đưa ra khỏi hệ thống phân phối hoặc tiêu huỷ các loại hàng
giả, hàng nhái. Các hành vi cố ý làm giả, nhái nhãn mác hoặc thương hiệu trong kinh doanh, gây
phương hại tới quyền tác giả, phải bị coi là hành vi phạm tội mang tính hình sự. Chính phủ các
nước phải làm sao để người nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ được các cơ quan hải quan hỗ trợ
nhằm ngăn không cho hàng giả hoặc hàng nhái được nhập khẩu vào lãnh thổ quốc gia.

Chuyển giao công nghệ

Các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, cho rằng chuyển giao công nghệ là một phần
của thị trường, trong đó họ thoả thuận bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ. Hiệp định TRIPS có một
số điều khoản quy định về vấn đề này. Chẳng hạn, hiệp định yêu cầu chính phủ các nước phát
triển khuyến khích các doanh nghiệp nước mình chuyển giao công nghệ cho các nước kém phát
triển.

Các điều khoản chuyển tiếp: thời hạn 1 năm, 5 năm, 11 năm hoặc hơn thế

Khi các hiệp định của WTO bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1/1/1995, các nước phát triển có thời
hạn một năm để điều chỉnh hệ thống luật pháp và thực tiễn của mình cho phù hợp với Hiệp định
TRIPS. Các nước đang phát triển và các nước đang chuyển đổi (với một số điều kiện) có 5 năm
để thực hiện việc điều chỉnh này, tức là tới năm 2000. Còn đối với các nước kém phát triển, thời
hạn này là 11 năm, tức là tới năm 2006; riêng các văn bằng bảo hộ dược phẩm, thời hạn này
được kéo dài tới năm 2016.

Khi hiệp định TRIPS bắt đầu có hiệu lực (1/1/1995), những nước đang phát triển nào chưa có
quy định bảo vệ bằng phát minh sáng chế trong một lĩnh vực công nghệ nào đó thì có thời hạn
10 năm để thông qua các quy định như vậy. Tuy nhiên, đối với dược phẩm và hoá chất dùng
trong nông nghiệp, các nước này phải chấp nhận các đơn xin cấp bằng sáng chế ngay từ khi bắt
đầu giai đoạn chuyển tiếp dù rằng văn bằng sẽ chỉ được cấp vào cuối giai đoạn này. Nếu chính
phủ một nước đã cho phép một dược phẩm hoặc hoá chất dùng trong nông nghiệp được lưu
thông trên thị trường trong giai đoạn chuyển tiếp thì nước đó, với một số điều kiện nhất định,
phải cấp giấy phép độc quyền khai thác sản phẩm đó trong thời gian 5 năm hoặc cho đến khi sản
phẩm đó được cấp bằng sáng chế (nếu bằng sáng chế được cấp trong khoảng thời gian này).

Trừ một vài ngoại lệ, nguyên tắc chung là các nghĩa vụ có trong hiệp định phải được áp dụng
cho tất cả các quyền sở hữu trí tuệ, cũ cũng như mới.

8. Các biện pháp chống phá giá, trợ cấp, tự vệ: đối phó với tình huống không lường trước
được

Xác định mức thuế quan « trần » và áp dụng chúng một cách bình đẳng giữa tất cả các đối tác
thương mại (đối xử tối huệ quốc) giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động của thương mại hàng hoá.
Các hiệp định của WTO khẳng định những nguyên tắc này nhưng chúng cũng đồng thời cho
phép có một số ngoại lệ trong hoàn cảnh nhất định; đặc biệt là trong ba trường hợp sau:
· Các biện pháp chống bán phá giá (bán hạ giá một cách không lành mạnh)

· Trợ cấp và thuế “đối kháng” đặc biệt nhằm vô hiệu hoá tác dụng của trợ cấp

Các biện pháp khẩn cấp tạm thời hạn chế nhập khẩu nhằm “cứu vãn” các ngành sản xuất trong
nước.

Các biện pháp chống bán phá giá

Nếu một doanh nghiệp xuất khẩu một sản phẩm với mức giá thấp hơn mức giá mà doanh nghiệp
đó áp dụng trên thị trường nội địa thì người ta gọi đó là phương thức bán “phá giá”. Liệu đó có
phải là một kiểu cạnh tranh không lành mạnh hay không? Quan điểm của các nước rất khác
nhau về vấn đề này, nhưng chính phủ nhiều nước đang đưa ra những biện pháp chống bán phá
giá nhằm bảo vệ các ngành sản xuất trong nước của mình. Hiệp định của WTO về chống phá giá
không nêu quan điểm về vấn đề này. Hiệp định chủ yếu nhằm xác định khi nào thì các nước có
thể và không thể có biện pháp trả đũa hành vi phá giá; hiệp định đề ra các quy định điều chỉnh
các biện pháp chống phá giá; hiệp định thường được gọi là “Hiệp định chống phá giá”. (Cách tiếp
cận này chỉ quan tâm tới biện pháp trả đũa của các nước đối với hành vi phá giá và như vậy,
khác hẳn với cách tiếp cận của Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng).

Hiệp định này được gọi là gì?

Hiệp định về việc triển khai điều VI


(6) của Hiệp định chung về thương
mại và thuế quan năm 1994

Định nghĩa pháp lý được nêu rất cụ thể trong hiệp định, nhưng vắn tắt, chúng ta có thể nói rằng
Hiệp định của WTO về chống phá giá cho phép chính phủ các nước có biện pháp chống bán phá
giá khi ngành sản xuất trong nước thực sự bị thiệt hại (thiệt hại “nhiều”) do việc bán phá giá.
Muốn vậy, chính phủ nước có liên quan phải chứng minh được là có hành vi bán phá giá, tính
được quy mô bán phá giá (giá xuất khẩu thấp hơn giá lưu hành trên thị trường nội địa của nước
xuất khẩu như thế nào) và chứng minh được rằng việc bán phá giá đang gây ra hoặc đe doạ gây
ra thiệt hại.

GATT (điều 6) cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp chống phá giá. Hiệp định về
chống phá giá nêu một cách rõ ràng và cụ thể về điều khoản này cũng như về hai hiệp định được
áp dụng đồng thời. Hai hiệp định này đều cho phép các nước có những biện pháp mà bình
thường bị coi là đi ngược lại các nguyên tắc của GATT, tức áp dụng mức thuế quan « trần » và
không phân biệt đối xử giữa các đối tác thương mại. Biện pháp chống phá giá thường là đánh
thuế quan bổ sung lên sản phẩm bị coi là bán phá giá nhằm đẩy giá của sản phẩm đó ngang
bằng với “giá trị thông thường” hoặc nhằm chấm dứt thiệt hại mà ngành sản xuất của nước nhập
khẩu phải chịu.

Các nước có thể áp dụng nhiều phương pháp tính toán khác nhau để biết liệu một sản phẩm bị
phá giá nhiều hay ít. Hiệp định chỉ cho phép có 3 phương pháp tính toán “giá trị thông thường”
của một sản phẩm, phương pháp chính dựa trên mức giá được áp dung trên thị trường của
nước xuất khẩu. Nếu phương pháp này không áp dụng được thì có thể sử dụng 2 cách sau:
hoặc dựa trên mức giá mà nhà xuất khẩu áp dụng tại một nước khác; hoặc tính mức giá theo chi
phí sản xuất, các chi phí khác và mức lợi nhuận thông thường của nhà xuất khẩu. Hiệp định
cũng quy định rõ làm thế nào để so sánh một cách công bằng mức giá của nhà xuất khẩu với
mức giá có thể được coi là bình thường.

Nếu chỉ tính mức bán phá giá của một sản phẩm thôi thì chưa đủ. Một biện pháp chống phá giá
chỉ được áp dụng nếu việc phá giá gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất của
nước nhập khẩu. Do đó, trước khi áp dụng biện pháp chống phá giá, nước nhập khẩu phải tiến
hành điều tra kỹ càng, phù hợp với những quy định cụ thể. Cuộc điều tra phải cho phép đánh giá
được tất cả các yếu tố kinh tế cần thiết có ảnh hưởng tới tình hình của ngành sản xuất bị thiệt
hại. Nếu điều tra cho thấy có hiện tượng bán phá giá và ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại
thì doanh nghiệp xuất khẩu có thể cam kết nâng giá bán của mình lên mức thoả thuận để tránh
phải chịu thuế chống phá giá khi đưa hàng vào nước nhập khẩu.

Hiệp định quy định chi tiết các thủ tục liên quan tới việc khởi kiện việc bán phá giá, cách thức tiến
hành điều tra và những điều kiện phải tuân thủ nhằm đảm bảo cho tất cả các bên liên quan
quyền được đưa bằng chứng có lợi cho mình. Các biện pháp chống phá giá phải chấm dứt sau 5
năm kể từ ngày đưa vào áp dụng, trừ phi có một cuộc điều tra khác chứng minh rằng việc bãi bỏ
biện pháp này có thể gây ra thiệt hại.

Các cuộc điều tra chống phá giá phải chấm dứt ngay lập tức nếu cơ quan có thẩm quyền xác
định được rằng mức bán phá giá là quá nhỏ (tức dưới 2% giá xuất). Các điều kiện khác cũng
được nêu ra trong Hiệp định. Ví dụ, cơ quan có thẩm quyền cũng phải chấm dứt điều tra nếu
hàng hoá nhập khẩu được bán phá giá với số lượng không đáng kể (tức nếu lượng hàng xuất
khẩu bán phá giá của một nước thấp hơn 3% tổng giá trị nhập khẩu của sản phẩm đó; tuy nhiên
các cuộc điều tra có thể được tiếp tục nếu tổng lượng hàng xuất khẩu bán phá giá của những
nước thuộc diện này chiếm ít nhất 7% tổng giá trị nhập khẩu).

« Thuế chống bán phá giá - Thuế đối kháng »?

Chúng ta thường gộp 2 khái niệm thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng làm một, nhưng giữa
hai khái niệm này có những khác biệt cơ bản.

Hành vi bán phá giá và trợ cấp – cũng như các biện pháp chống phá giá và đối kháng – có một số
điểm chung. Tại nhiều nước, hai vấn đề này có khi do cùng một văn bản luật điều chỉnh, với
những thủ tục giống hệt nhau và do cùng một cơ quan điều tra. Đôi khi, hai uỷ ban của WTO về
các vấn đề này cũng tiến hành họp chung.

Những biện pháp chống bán phá giá và trợ cấp thường là đánh thuế đặc biệt vào hàng nhập khẩu
để bù đắp (thuế đối kháng trong trường hợp trợ cấp). Thuế này được đánh vào hàng hoá đến từ
một số nước nhất định và như vậy là trái với các nguyên tắc của GATT (xác định mức thuế
« trần » và đối xử công bằng giữa tất cả các đối tác thương mại). Cả hai hiệp định cùng quy định
chỉ có một trường hợp duy nhất không phải chịu các biện pháp chống bán phá giá. Cả hai cũng
quy định rằng trước khi đánh thuế, nước nhập khẩu phải tiến hành điều tra chi tiết để chứng minh
một cách hợp lý rằng ngành sản xuất trong nước phải chịu thiệt hại do các hành vi phá giá hoặc
trợ cấp.

Tuy vậy cũng có những khác biệt căn bản giữa hai hiệp định này.

Phá giá là hành vi của một doanh nghiệp. Trong khi đó trợ cấp là hành vi của chính phủ hoặc của
một cơ quan của chính phủ trực tiếp rót trợ cấp hay buộc các doanh nghiệp phải trợ cấp cho một
số khách hàng.

Vậy mà, WTO lại là một tổ chức có thành viên là các quốc gia và chính phủ. Đối tượng của WTO
không phải là các doanh nghiệp và WTO không thể điều chỉnh hoạt động của họ, về bán phá giá
chẳng hạn. Hiệp định chống phá giá do đó chỉ nhằm vào các biện pháp mà chính phủ các nước
thành viên áp dụng để chống phá giá. Trong trường hợp trợ cấp, chính phủ các nước can thiệp từ
cả hai phía : họ trợ cấp và họ chống trợ cấp của các chính phủ khác. Hiệp định về trợ cấp do đó
điều chỉnh cả hành vi trợ cấp và các biện pháp chống trợ cấp.

Hiệp định quy định rằng các nước thành viên phải báo cáo nhanh chóng và chi tiết tất cả các
biện pháp phá giá tạm thời hoặc lâu dài lên Uỷ ban về các hành vi bán phá giá. Các nước cũng
phải gửi báo cáo mỗi năm hai lần về tất cả các cuộc điều tra chống phá giá. Trong trường hợp có
tranh chấp, các nước thành viên được khuyến khích tiến hành tham vấn lẫn nhau. Họ cũng có
thể sử dụng qui trình giải quyết tranh chấp của WTO.

Trợ cấp và các biện pháp đối kháng

Hiệp định này có chức năng kép : thiết lập kỷ cương đối với trợ cấp của các quốc gia, và quy
định các biện pháp mà các nước có thể áp dụng nhằm bù đắp các hậu quả của trợ cấp. Hiệp
định quy định rằng một nước có thể sử dụng thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO để đòi nước
khác phải chấm dứt trợ cấp hoặc loại bỏ những hệ quả bất lợi của trợ cấp. Nước này cũng có thể
tự mở điều tra và trên cơ sở đó, có thể áp đặt một mức thuế bổ sung (được gọi là « thuế đối
kháng ») đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp mà nước nhập khẩu cho rằng đã gây thiệt hại cho
ngành sản xuất nước mình.

Hiệp định đưa ra định nghĩa về trợ cấp. Hiệp định cũng định nghĩa khái niệm trợ cấp « chuyên
biệt », tức là trợ cấp dành cho một doanh nghiệp, một ngành sản xuất, một nhóm các doanh
nghiệp hay một nhóm các ngành sản xuất của nước trợ cấp. Các biện pháp chế tài của hiệp định
này chỉ áp dụng cho các loại trợ cấp chuyên biệt, có thể là trợ cấp trong nước hoặc cho xuất
khẩu.

Hiệp định này được gọi là gì?

Hiệp định về trợ cấp và các biện


pháp đối kháng

Hiệp định xác định hai loại trợ cấp: trợ cấp bị cấm và những trợ cấp có thể bị kiện. Ban đầu, còn
có loại thứ ba : đó là các trợ cấp không bị kiện. Loại trợ cấp thứ ba đã tồn tại trong vòng 5 năm,
tới ngày 31/12/1999, và không được gia hạn. Hiệp định được áp dụng cho cả sản phẩm nông
nghiệp lẫn công nghiệp, trừ những trường hợp mà trợ cấp được phép chiểu theo “điều khoản
hoà hoãn” của Hiệp định về nông nghiệp (điều khoản này sẽ hết hiệu lực vào năm 2003).

• Các trợ cấp bị cấm: Đó là các khoản trợ cấp có kèm điều kiện buộc người hưởng trợ
cấp phải đạt được một số mục tiêu về xuất khẩu hoặc ưu tiên sử dụng hàng sản xuất
trong nước hơn là hàng nhập khẩu. Trợ cấp loại này bị cấm vì chúng rõ ràng được sử
dụng để bóp méo cạnh tranh trong thương mại quốc tế và do đó có nguy cơ gây hại cho
thương mại của các nước khác. Chúng có thể bị kiện trong khuôn khổ thủ tục giải quyết
tranh chấp nhanh của WTO. Nếu cơ quan giải quyết tranh chấp đi đến kết luận rằng đây
là một loại trợ cấp bị cấm thì nước áp dụng phải ngừng ngay trợ cấp nếu không sẽ phải
chịu các biện pháp trả đũa của bên nguyên. Nếu nhà sản xuất trong nước bị thiệt hại do
hàng nhập khẩu được trợ cấp, thì nước nhập khẩu có thể áp dụng thuế đối kháng.

• Các trợ cấp có thể bị kiện: Ở đây, nước đệ đơn kiện phải chúng minh được rằng loại
trợ cấp này có hậu quả xấu đối với lợi ích của mình. Nếu không loại trợ cấp này vẫn
được cho phép. Hiệp định nêu ra ba loại thiệt hại có thể có. Các khoản trợ cấp của một
nước có thể gây ảnh hưởng tới ngành sản xuất trong nước của một nước khác. Chúng
có thể gây thiệt hại cho các nhà xuất khẩu của một nước khác nếu hai nước đang cạnh
tranh trên thị trường một nước thứ ba. Cuối cùng, trợ cấp của một nước có thể gây thiệt
hại cho nhà xuất khẩu đang cạnh tranh trên thị trường nội địa của nước đó. Nếu cơ quan
giải quyết tranh chấp xác định được rằng khoản trợ cấp thực sự gây ra hậu quả xấu, thì
nước trợ cấp phải chấm dứt trợ cấp hoặc khắc phục những hậu quả xấu này. Ngay cả
trong cả trường hợp này, nếu nhà sản xuất trong nước phải chịu thiệt hại do hàng nhập
khẩu được trợ cấp thì nước nhập khẩu có thể áp dụng thuế đối kháng.

Hiệp định qui định một số biện pháp chế tài giống với Hiệp định chống phá giá. Nếu nước nhập
khẩu đã tiến hành một cuộc điều tra chi tiết tương tự như điều tra đối với các biện pháp chống
phá giá, thì nước đó có thể được áp dụng thuế đối kháng. Hiệp định có các quy định chi tiết giúp
xác định liệu có tồn tại hoạt động trợ cấp hay không (mà việc tính toán chẳng phải lúc nào cũng
dễ dàng), các tiêu chí được áp dụng nhằm xác định liệu việc nhập khẩu hàng được trợ cấp có
gây hại (“gây thiệt hại”) cho ngành sản xuất trong nước, các thủ tục cần tuân thủ nhằm mở và
tiến hành các cuộc điều tra cũng như việc áp dụng và thời gian áp dụng (thường tối đa là 5 năm)
các biện pháp đối kháng. Nhà xuẩt khẩu được trợ cấp cũng có thể thoả thuận tăng giá xuất khẩu
để tránh bị đánh thuế đối kháng.

Trợ cấp có thể đóng vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển, trong quá trình chuyển
đổi cácnền kinh tế từ kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường. Những nước kém phát triển và đang
phát triển mà tổng thu nhập quốc dân (GNP) trên đầu người thấp hơn 1000 đô la một năm thì
không phải chịu chế tài khi áp dụng các biện pháp trợ cấp xuất khẩu bị cấm. Các nước đang phát
triển khác có thời hạn tới năm 2003 để chấm dứt trợ cấp cho xuất khẩu. Cho tới năm 2003, các
nước kém phát triển sẽ phải chấm dứt các khoản trợ cấp nhằm thay thế hàng nhập khẩu (tức trợ
cấp dành để giúp ngành sản xuất trong nước và để tránh phải nhập khẩu); các nước đang phát
triển khác phải làm việc này muộn nhất là năm 2000. Các nước đang phát triển vẫn được hưởng
đối xử ưu đãi khi hàng xuất khẩu của họ đang bị điều tra để áp dụng thuế đối kháng. Các nước
đang chuyển đổi phải chấm dứt các loại trợ cấp bị cấm vào năm 2002.

Tự vệ: Bảo hộ chống lại hàng nhập khẩu trong trường hợp khẩn cấp

Một nước thành viên của WTO có thể tạm thời hạn chế nhập khẩu một sản phẩm (áp dụng các
biện pháp « tự vệ ») nếu việc gia tăng nhập khẩu sản phẩm này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt
hại cho ngành sản xuất trong nước. Thiệt hại ở đây phải là thiệt hại nghiêm trọng. Các biện pháp
tự vệ trước kia vẫn được GATT cho phép (điều 19). Những các biện pháp này rất hiếm khi được
áp dụng, một số chính phủ thích bảo vệ ngành sản xuất nước họ bằng các biện pháp thuộc
« vùng xám » hơn. Trong các cuộc thương lượng song phương ngoài GATT, họ khuyến khích
các nước xuất khẩu « tự nguyện » hạn chế xuất khẩu hoặc chấp nhận các phương pháp phân
chia thị trường khác. Các hiệp định loại này đã được ký kết đối với một số lượng lớn các mặt
hàng như ô tô, thép và chất bán dẫn chẳng hạn.
Hiệp định này được gọi là
gì?
Hiệp định về các biện pháp
tự vệ

Hiệp định về tự vệ của WTO đã có bước cải tiến bằng việc cấm các biện pháp thuộc « vùng
xám » và hạn chế thời gian áp dụng các biện pháp tự vệ (« điều khoản hết hạn »). Hiệp định quy
định rằng các nước thành viên sẽ không tìm cách áp dụng, sẽ không áp dụng và cũng không duy
trì các biện pháp tự hạn chế xuất khẩu, các thoả thuận thương mại hoá được sắp đặt hay tất cả
các biện pháp tương tự khác đánh vào xuất nhập khẩu. Các biện pháp song phương không
được điều chỉnh để phù hợp với Hiệp định đã bị xoá sổ vào cuối năm 1998. Các nước thành viên
được phép duy trì một trong số các biện pháp nói trên thêm một năm (tới năm 1999), nhưng chỉ
Liên minh Châu Âu viện dẫn điều khoản này để duy trì các hạn chế đối với nhập khẩu ô tô của
Nhật Bản.

Để có thể lý giải cho việc áp dụng biện pháp tự vệ, hàng nhập khẩu phải tăng mạnh thực sự
(tăng tuyệt đối), hoặc đơn thuần là tăng thị phần trên một thị trường đang giảm sút, ngay cả khi
khối lượng nhập khẩu không tăng (tăng tương đối).

Các ngành sản xuất hoặc các doanh nghiệp có thể yêu cầu chính phủ nước mình áp dụng biện
pháp tự vệ. Hiệp định tự vệ đề ra các quy định liên quan tới quá trình cơ quan có thẩm quyền
tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ. Hiệp định nhấn mạnh tới tính minh bạch và sự
tuân thủ luật lệ và các thực tiễn sẵn có, cũng như sự cần thiết phải tránh các phương pháp tuỳ
tiện. Cơ quan điều tra phải thông báo công khai sẽ tổ chức các cuộc điều trần vào thời điểm nào
và tạo cho các bên liên quan những điều kiện cần thiết cho phép họ đưa ra bằng chứng, nhất là
các lập luận cho thấy việc áp dụng các biện pháp tự vệ có phù hợp với lợi ích chung hay không.

Hiệp định đề ra các tiêu chí phải tuân theo khi xác định có tồn tại hay không « thiệt hại nghiêm
trọng » hoặc nguy cơ thiệt hại nghiêm trọng và chỉ rõ những yếu tố cần tính đến khi đánh giá tác
động của nhập khẩu đối với sản xuất trong nước. Một biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng trong
phạm vi cần thiết để ngăn ngừa, giải quyết thiệt hại nghiêm trọng và tạo điều kiện cho ngành sản
xuất trong nước điều chỉnh cơ cấu. Khi các hạn chế định lượng (hạn ngạch) được áp dụng thì về
nguyên tắc chúng không được kéo lượng hàng nhập khẩu xuống dưới mức trung bình của 3
năm tiêu biểu gần nhất (và cũng là 3 năm có đầy đủ số liệu thống kê), trừ phi nước nhập khẩu
chứng minh được rõ ràng rằng điều đó là cần thiết để ngăn ngừa hoặc khắc phục thiệt hại
nghiêm trọng.

Về nguyên tắc, các biện pháp tự vệ không được đánh vào hàng xuất khẩu của một nước cụ thể.
Tuy nhiên, Hiệp định chỉ rõ phương thức phân chia hạn ngạch giữa các nước xuất khẩu, kể cả
trong trường hợp đặc biệt, khi hàng hoá nhập khẩu từ một số nước tăng với tốc độ quá nhanh.
Một biện pháp tự vệ không được áp dụng quá 4 năm. Tuy nhiên, thời hạn này có thể được kéo
dài tới 8 năm, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định rằng biện pháp này vẫn cần thiết
và họ có bằng chứng cho thấy ngành sản xuất trong nước đang tiến hành điều chỉnh cơ cấu. Các
biện pháp tự vệ dài hơn 1 năm phải được nới lỏng dần dần.

Khi hạn chế nhập khẩu để cứu vớt ngành sản xuất trong nước thì một nước, về nguyên tắc, phải
đánh đổi một điều gì đó. Hiệp định quy định rằng nước hoặc các nước xuất khẩu có thể yêu cầu
được bồi thường thông qua con đường tham vấn. Nếu các bên không đi đến thoả thuận thì nước
xuất khẩu có thể áp dụng các biện pháp trả đũa tương đương. Chẳng hạn nước này có thể tăng
thuế đánh vào hàng xuất khẩu của nước áp dụng biện pháp tự vệ. Trong một số trường hợp, khi
biện pháp tự vệ được áp dụng phù hợp với qui định của Hiệp định sau khi hàng xuất khẩu của
một nước gia tăng trên một thị trường nào đó, thì nước xuất khẩu phải đợi 3 năm, kể từ khi biện
pháp tự vệ được áp dụng đối với hàng hoá của mình, mới được trả đũa.

Xuất khẩu của các nước đang phát triển được hưởng một sự bảo vệ nhất định khỏi các biện
pháp tự vệ. Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá của nước
đang phát triển nào chiếm hơn 3% thị trường nhập khẩu mặt hàng đó của nước đó hoặc của các
nước đang phát triển nào là thành viên của WTO chiếm tổng cộng hơn 9% thị trường nhập khẩu
hàng hoá đó cho dù bản thân mỗi nước chỉ chiếm chưa đầy 3%.

Uỷ ban về tự vệ của WTO giám sát việc triển khai hiệp định cũng như sự tôn trọng cam kết của
các nước thành viên. Các nước thành viên phải thông báo để Uỷ ban xem xét tất cả các giai
đoạn điều tra cũng như các quyết định về việc áp dụng biện pháp tự vệ.

9. Các trở ngại phi quan thuế: các thủ tục hành chính rườm rà,...

Có nhiều hiệp định điều chỉnh những vấn đề kỹ thuật, hành chính hoặc pháp lý gây trở ngại cho
thương mại:

• cơ chế giấy phép nhập khẩu

• các quy định về định giá hải quan đối với hàng hoá

• kiểm hoá trước khi xuất: một phương thức kiểm soát nhập khẩu

• các quy định về xuất xứ: được sản xuất tại...

• các biện pháp liên quan tới đầu tư

Giấy phép nhập khẩu: các thủ tục rõ ràng

Mặc dù hiện nay chúng ít được sử dụng hơn so với trước đây, nhưng các cơ chế giấy phép nhập
khẩu vẫn được luật lệ của WTO điều chỉnh. Hiệp định về các thủ tục cấp phép nhập khẩu quy
định rằng các cơ chế này phải hết sức đơn giản, rõ ràng và minh bạch. Ví dụ, hiệp định quy định
rằng chính phủ các nước phải công bố thông tin đầy đủ để người kinh doanh có thể biết vì sao
cần xin giấy phép và xin như thế nào. Hiệp định cũng quy định rõ cách thức mà theo đó các
nước phải thông báo cho WTO biết việc xây dựng các cơ chế cấp phép cũng như những sửa đối
đối với các cơ chế hiện hành. Hiệp định cũng chỉ dẫn cách chính phủ các nước xử lý các đơn xin
cấp phép nhập khẩu.

Một số giấy phép phải mặc nhiên được cấp ngay khi đơn xin phép đã đáp ứng đầy đủ các điều
kiện. Hiệp định nêu ra các tiêu chí áp dụng trong trường hợp này sao cho các thủ tục được áp
dụng không gây hạn chế đối với thương mại.

Một số loại giấy phép khác không phải mặc nhiên là được cấp. Hiệp định nhằm mục tiêu giảm
thiểu gánh nặng mà các thủ tục xin cấp phép gây ra đối với nhà nhập khẩu, làm sao để việc quản
lý cơ chế cấp phép không tự nó góp phần hạn chế hoặc gây sai lệch cho hoạt động nhập khẩu.
Các cơ quan hữu quan không được xem xét một đơn xin cấp phép quá 30 ngày hoặc 60 ngày
nếu tất cả các đơn được xét cùng một lúc.

Các quy định về định giá hải quan đối với hàng hoá
Đối với nhà nhập khẩu, qui trình xác định giá hải quan đối với một sản phẩm có thể gây nhiều rắc
rối tương tự như qui trình thu thuế. Hiệp định WTO về định giá hải quan nhằm mục đích xây
dựng một hệ thống xác định giá trị hải quan của hàng hoá một cách công bằng, thống nhất và
khách quan, phù hợp với các thực tiễn thương mại và ngăn cấm việc sử dụng những mức giá
tuỳ tiện hay giả định. Hiệp định đưa ra một loạt các quy định về định giá, đồng thời mở rộng và
làm rõ những điều khoản tương đương có trong hiệp định GATT ban đầu.

Theo một quyết định cấp Bộ trưởng được thông qua tại vòng đàm phán Uruguay về vấn đề này,
cơ quan hải quan có quyền yêu cầu cung cấp thêm thông tin nếu họ có lý do để nghi ngờ về tính
chính xác của giá trị hàng hoá nhập khẩu được khai báo. Sau khi nhận được hoá đơn chứng từ
bổ sung, nếu có lý do để nghi ngờ, thì cơ quan hải quan có thể cho rằng giá trị của hàng hoá
nhập khẩu không thể được xác định trên cơ sở giá trị khai báo.

Hiệp định này được gọi là gì?

« Hiệp định về việc thực hiện điều VII của Hiệp định
chung về thương mại và thuế quan năm 1994 » và
các quyết định cấp Bộ trưởng kèm theo; ‘Quyết định
về các trường hợp cơ quan hải quan có lý để nghi
ngờ tính xác thực hoặc chính xác của giá khai báo »
và « Quyết định về các văn bản qui định giá trị tối
thiệu và hàng hoá nhập của các đại lý, cơ sở phân
phối và nhà thầu độc quyền ».

Kiểm hoá trước khi xuất: một phương thức kiểm soát nhập khẩu

Kiểm hoá trước khi xuất là một thực tiễn thương mại, trong đó nước nhập khẩu yêu cầu các công
ty chuyên môn tư nhân (hay còn gọi là các “cơ quan độc lập”) kiểm định hàng hoá được nước
ngoài đặt hàng, chủ yếu là về giá cả, chất lượng và số lượng, trước khi xuất. Hệ thống này
thường được chính phủ các nước đang phát triển sử dụng. Nó nhằm mục đích bảo vệ lợi ích tài
chính quốc gia (nhằm ngăn chặn chảy vốn ra nước ngoài, gian lận thương mại và trốn thuế,
chẳng hạn) và bù đắp cho những lỗ hổng trong cơ cấu hành chính.

Hiệp định về kiểm hoá trước khi xuất thừa nhận rằng các nguyên tắc và nghĩa vụ của GATT
được áp dụng cả cho hoạt động của các cơ quan kiểm hoá được các chính phủ uỷ quyền. Các
chính phủ (được gọi là « người sử dụng » dịch vụ kiểm hoá ») phải làm sao để các cơ quan này
tiến hành kiểm hoá một cách không phân biệt đối xử và minh bạch, bảo vệ được thông tin mật về
thương mại, tránh những chậm trễ không đáng có, tuân thủ những chỉ thị cụ thể về kiểm tra giá
cả và tránh xung đột lợi ích. Đặc biệt, các nước xuất khẩu là thành viên của WTO phải có nghĩa
vụ không được áp dụng một cách phân biệt đối xử luật và quy định trong nước đối với những
« người sử dụng », công bố không chậm trễ các luật và quy định này và hỗ trợ về mặt kỹ thuật
khi được yêu cầu.

Hiệp định đặt ra một cơ chế xem xét độc lập các tranh chấp. Cơ chế này do Liên đoàn các công
ty kiểm hoá quốc tế (IFIA), đại diện cho các công ty kiểm hoá, và Phòng thương mại quốc tế
(ICC), đại diện cho các nhà xuất khẩu, phối hợp điều hành. Cơ chế có mục đích giải quyết tranh
chấp giữa nhà xuất khẩu và công ty kiểm định.

Các quy định về xuất xứ: sản xuất tại...


Các “quy định về xuất xứ” là các tiêu chí được áp dụng để xác định nơi mà sản phẩm được sản
xuất. Chúng là một yếu tố cơ bản đối với các luật lệ thương mại bởi vì có một số biện pháp dẫn
đến sự phân biệt đối xử giữa các nước xuất khẩu: hạn ngạch, thuế quan ưu đãi, biện pháp
chống bán phá giá, thuế đối kháng (được thu để bù đắp những thiệt hại do trợ cấp xuất khẩu gây
ra),... Các quy định về xuất xứ cũng được dùng để thống kê thương mại và tạo các nhãn mác
(Sản xuất tại...) dán trên sản phẩm. Quá trình toàn cầu hoá đang làm cho mọi thứ trở nên phức
tạp hơn. Nó cũng làm phức tạp cách thức mà một sản phẩm được chế biến cùng lúc tại nhiều
khác nhau trước khi được đưa ra thị trường.

Hiệp định về các quy định xuất xứ buộc các nước thành viên WTO phải làm sao để các quy
định về xuất xứ của họ đảm bảo được tính minh bạch; để các quy định này không hạn chế, làm
méo mó hoặc làm rối loạn hoạt động thương mại quốc tế; để chúng được triển khai một cách
đồng bộ, thống nhất, công bằng và thoả đáng; và để chúng được xây dựng trên nền tảng là một
tiêu chí tích cực (nói một cách khác, các quy định này nhằm xác định khi nào thì xuất xứ của một
sản phẩm được công nhận chứ không phải để xác định khi nào thì nó không được công nhận).

Về lâu về dài, hiệp định nhằm xây dựng những quy định chung về xuất xứ (“hài hoà hoá các quy
định”), được áp dụng cho tất cả các thành viên của WTO, trừ một số trao đổi ưu đãi; chẳng hạn,
các nước thuộc khu vực thương mại tự do được phép áp dụng những quy định về xuất xứ khác
nhau đối với hàng hoá được trao đổi trong khối. Hiệp định xây dựng một chương trình làm việc
để hài hoà hoá các quy định. Việc hài hoà hoá được tiến hành trên cơ sở tổng thể các nguyên
tắc, đặc biệt là sự cần thiết phải làm sao để các quy định về xuất xứ có tính khách quan, dễ hiểu
và rõ ràng. Chương trình làm việc đáng lẽ phải được hoàn thành vào tháng 7/1998, nhưng các
nước đã không hoàn thành một số thời hạn. Hiện nay Uỷ ban về các quy định xuất xứ của WTO
và một Uỷ ban về kỹ thuật đang triển khai các công việc dưới sự bảo trợ của Liên minh hải quan
thế giới ở Brúcxen. Chắc chắn kết quả sẽ là tạo ra được những quy định xuất xứ chung, được áp
dụng trong mọi hoàn cảnh và trong bối cảnh không phải nước thành viên nào cũng dành các điều
kiện thương mại ưu đãi cho các nước khác.

Hiệp định có một phụ lục ghi nhận “tuyên bố chung” về các quy định xuất xứ được áp dụng để
xác định khi nào thì hàng hoá được hưởng đối xử ưu đãi.

Các biện pháp đầu tư: giảm bớt những méo mó trong thương mại

Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs) chỉ được áp dụng cho
các biện pháp gây ảnh hưởng đến trao đổi hàng hoá. Hiệp định thừa nhận một số biện pháp có
thể gây hạn chế hoặc làm méo mó thương mại. Hiệp định quy định rằng không một thành viên
nào được phép áp dụng những biện pháp phân biệt đối xử đối với người hoặc hàng hoá nước
ngoài (tức là vi phạm nguyên tắc “đối xử quốc gia” của GATT). Hiệp định cũng cấm áp dụng các
biện pháp đầu tư làm hạn chế khối lượng trao đổi (trái với một nguyên tắc khác của GATT). Hiệp
định lập danh mục các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại bị coi là trái với các điều khoản
của GATT. Danh mục này bao gồm các biện pháp yêu cầu một doanh nghiệp phải mua một tỷ lệ
sản phẩm sản xuất trong nước nào đó (“các yêu cầu về hàm lượng hàng nội địa”). Hiệp định
cũng không khuyến khích các nước áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu đối với một doanh
nghiệp hoặc đặt ra cho doanh nghiệp những mục tiêu xuất khẩu (các yêu cầu về cân bằng trong
trao đổi”).

Theo hiệp định, các nước thành viên phải thông báo cho các nước khác, thông qua WTO, tất cả
những biện pháp đầu tư nào không phù hợp với hiệp định. Các biện pháp này cần bị xoá bỏ
trong thời hạn 2 năm đối với các nước phát triển (tức tới cuối năm 1996), 5 năm đối với các
nước đang phát triển (tới cuối năm 1999) và 7 năm đối với các nước kém phát triển. Tháng
7/2001, Hội đồng về thương mại hàng hoá đã nhất trí kéo dài giai đoạn chuyển tiếp này đối với
một số nước đang phát triển có yêu cầu.

Hiệp định lập ra một Uỷ ban về các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại TRIMs. Uỷ ban có
trách nhiệm giám sát việc triển khai các cam kết. Hiệp định cũng quy định rằng các thành viên
của WTO sẽ xem xét, muộn nhất là vào 1/1/2000, liệu có nên bổ sung vào hiệp định một số điều
khoản về chính sách đầu tư và cạnh tranh hay không. Quá trình xem xét này từ nay cũng nằm
trong khuôn khổ Chương trình Đôha về phát triển.

10. Các hiệp định nhiều bên : dành cho một nhóm nhỏ các nước

Về cơ bản, tất cả các nước thành viên của WTO đều phải tuân thủ các hiệp định của WTO. Tuy
nhiên, sau khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, vẫn còn 4 hiệp định, được đàm phán từ vòng
Tokyo, chỉ được áp dụng cho một nhóm nhỏ các nước ký kết và được biết đến dưới cái tên « các
hiệp định nhiều bên ». Tất cả các hiệp định khác của vòng Tokyo đều trở thành các công cụ pháp
lý đa phương có tính ràng buộc (tức ràng buộc tất cả các thành viên của WTO) khi Tổ chức
thương mại thế giới được thành lập vào năm 1995. 4 hiệp định nhiều bên đề cấp tới các vấn đề
sau :

• mua bán máy bay dân sự

• mua sắm chính phủ

• sản phẩm sữa

• thịt bò

Hai hiệp định cuối cùng đã bị huỷ bỏ vào năm 1997

Sự lành mạnh trong hoạt động mua bán máy bay dân sự

Hiệp định về mua bán máy bay dân sự có hiệu lực từ ngày 1/1/1980. Hiện nay có 30 nước ký
kết. Hiệp định quy định xoá bỏ thuế nhập khẩu đánh vào tất cả các loại máy bay không phải là
máy bay quân sự cũng như vào các sản phẩm có liên quan khác : động cơ máy bay dân sự, linh
kiện và phụ tùng của động cơ, tất cả các linh kiện và bộ phận của máy bay dân sự cũng như các
thiết bị dạy bay, bộ phận, phụ tùng và linh kiện của thiết bị. Hiệp định đề ra các quy định liên
quan đến việc mua sắm máy bay dân sự của các cơ quan công quyền, đến các ưu đãi mua cũng
như đến hỗ trợ tài chính mà các chính phủ dành cho ngành sản xuất máy bay dân sự.

Mua sắm chính phủ: mở cửa cho cạnh tranh

Tại phần lớn các nước, Nhà nước và cơ quan Nhà nước chính là những khách hàng lớn đối với
tất cả các chủng loại hàng hoá, từ nguyên liệu tới vật liệu công nghệ cao. Đồng thời, có thể có
những sức ép chính trị lớn buộc các chính phủ phải dành ưu tiên cho nhà cung ứng trong nước
hơn là các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.

Một Hiệp định về mua sắm chính phủ ban đầu được đàm phán tại vòng Tokyo và có hiệu lực
vào ngày 1/1/1981. Hiệp định có mục tiêu mở cửa thị trường mua sắm chính phủ nhiều nhất có
thể được cho cạnh tranh quốc tế. Hiệp định nhằm mục đích làm sao để các luật, quy định, thủ tục
và thực tiễn trong mua sắm chính phủ trở nên minh bạch hơn, không bảo hộ các sản phẩm hoặc
nhà cung ứng trong nước hoặc dẫn tới sự phân biệt đối xử đối với các sản phẩm và nhà cung
ứng nước ngoài.

28 thành viên WTO đã ký hiệp định. Hiệp định một mặt chứa đựng những quy định và nghĩa vụ
chung, mặt khác bao gồm danh sách các thực thể nhà nước của tất cả các nước thành viên chịu
trách nhiệm mua sắm chính phủ trong những lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của hiệp định.
Một phần lớn các quy định và nghĩa vụ chung có liên quan tới các thủ tục gọi thầu.

Hiệp định hiện nay và các cam kết liên quan đã được đàm phán tại vòng Uruguay. Sau các cuộc
đàm phán, phạm vi điều chỉnh của Hiệp định đã tăng lên gấp bội với việc mở cửa thị trường mua
sắm của trung ương và địa phương cho cạnh tranh quốc tế. Mỗi năm tổng giá trị của thị trường
này lên đến hàng trăm tỉ đô la. Hiệp định mới cũng mở rộng sang lĩnh vực dịch vụ (kể cả các dịch
vụ xây dựng), các khoản mua sắm của các chính quyền dưới cấp trung ương (ví dụ các Bang,
các tỉnh) và các khoản mua sắm phục vụ cho các dịch vụ công ích. Hiệp định mới đã có hiệu lực
từ ngày 1/1/1996.

Ngoài ra, hiệp định còn tăng cường các quy định đảm bảo không phân biệt đối xử và cạnh tranh
quốc tế lành mạnh. Ví dụ các chính phủ thành viên phải xây dựng các thủ tục trong nước cho
phép những nhà bỏ thầu tư nhân nào cho rằng mình bị thiệt thòi được đâm đơn kiện các quyết
định giao thầu và được bồi thường nếu như các quyết định này trái với các quy định của hiệp
định.

Hiệp định được áp dụng cho các thị trường có giá trị vượt quá một số ngưỡng nào đó. Đối với
các khoản mua sắm hàng hoá và dịch vụ của các chính quyền trung ương, ngưỡng này là
130.000 DTS (quyền rút vốn đặc biệt, tức là khoảng 185.000 đô la vào tháng 6/2003). Đối với
mua sắm hàng hoá và dịch vụ của các cơ quan thuộc chính quyền dưới cấp trung ương, thì có
nhiều ngưỡng khác nhau, nhưng nhìn chung là vào khoảng 200.000 DTS. Đối với các dịch vụ
công ích, ngưỡng này nằm ở khoảng trên dưới 400.000 DTS và, đối với các thị trường xây dựng,
thì là ở khoảng trên dưới 500.000 DTS.

Ngành sản xuất sữa và thịt bò : chấm dứt các hiệp định vào năm 1997

Hiệp định quốc tế về ngành sản xuất sữa và Hiệp định quốc tế về thịt bò đã chấm dứt hiệu
lực vào cuối năm 1997. Các nước ký kết quyết định rằng các ngành này sẽ được điều chỉnh tốt
hơn trong khuôn khổ các hiệp định về nông nghiệp và các biện pháp vệ sinh dịch tễ. Một số khía
cạnh của chương trình đàm phán đã không được triển khai do số lượng các nước ký kết quá ít.
Ví dụ, một số nước xuất khẩu sản phẩm sữa lớn trên thế giới đã không ký Hiệp định về ngành
sản xuất sữa, do đó không thể có sự hợp tác về vấn đề giá tối thiểu và việc áp dụng giá tổi thiểu
đã bị đình chỉ vào năm 1995.

11. Kiểm điểm chính sách thương mại : đảm bảo tính minh bạch

Các thể nhân và các công ty tham gia vào hoạt động thương mại phải được thông tin càng nhiều
càng tốt về các điều kiện kinh doanh. Do đó, đảm bảo tính minh bạch cho các quy định và chính
sách là điều quan trọng tối cần thiết. Tại WTO, sự minh bạch này được đảm bảo bằng 2 cách:
các chính phủ phải thông báo cho WTO và các thành viên khác các chính sách hoặc đạo luật cụ
thể thông qua thủ tục “báo cáo” định kỳ và WTO sẽ tiến hành nghiên cứu định kỳ chính sách
thương mại của các nước khác nhau – trong khuôn khổ thủ tục kiểm điểm các chính sách
thương mại. Quá trình kiểm điểm được quy định trong hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay
nhưng đã được bắt đầu triển khai từ trước khi vòng đàm phán kết thúc (Quá trình kiểm điểm
cũng là một trong những kết quả đàm phán đầu tiên của Vòng Uruguay). Các nước tham gia
đàm phán đã quyết định thiết lập một cơ chế kiểm điểm tại cuộc họp cấp bộ trưởng vào tháng
12/1988, cuộc họp đánh giá kết quả giữa kỳ của Vòng đàm phán Uruguay. Lần kiểm điểm đầu
tiên đã diễn ra vào năm sau đó. Ban đầu, quá trình được triển khai trong khuôn khổ của GATT, và
cũng như GATT, nó tập trung chủ yếu vào trao đổi hàng hoá. Cùng với sự ra đời của WTO năm
1995, phạm vi kiểm điểm đã được mở rộng ra dịch vụ và sở hữu trí tuệ.

Tầm quan trọng mà các nước dành cho việc kiểm điểm chính sách thương mại được thể hiện ở
vị trí của Cơ quan phụ trách kiểm điểm chính sách thương mại trong cơ cấu của WTO. Thực
chất, đây chính là Đại hội đồng của WTO họp với danh nghĩa là Cơ quan phụ trách kiểm điểm
chính sách thương mại .

Các mục tiêu đặt ra bao gồm:

• nâng cao tính minh bạch và sự hiểu biết về các chính sách và thực tiễn thương mại nhờ
theo dõi thường xuyên;

• nâng cao chất lượng của các cuộc thảo luận trong công luận và giữa các chính phủ về
các vấn được đặt ra;

• cho phép đánh giá một cách đa phương hệ quả của các chính sách đối với hệ thống
thương mại toàn cầu.

Các đợt kiểm điểm chủ yếu nhằm vào các chính sách và thực tiễn thương mại của các nước
thành viên. Nhưng chúng cũng tính đến nhu cầu chung của các nước trong lĩnh vực kinh tế và
phát triển, các chính sách và mục tiêu của họ cũng như môi trường kinh tế bên ngoài mà họ
phải đối mặt. Việc kiểm tra chéo này, tức là các nước thành viên kiểm điểm lẫn nhau, khuyến
khích các chính phủ tôn trọng nhiều hơn các quy định và phép tắc của WTO và thực hiện các
cam kết của mình. Cụ thể các nước được 2 cái lợi cơ bản: giúp các nước thành viên khác hiểu
được chính sách và tình hình của một nước và cung cấp cho nước bị kiểm điểm những thông tin
phản hồi về mức độ hiệu quả của họ trong hệ thống WTO.

Tất cả các thành viên của WTO đều phải được định kỳ đưa ra kiểm điểm. Chu kỳ kiểm điểm phụ
thuộc vào tầm cỡ của từng nước:

• Đối với 4 cường quốc hàng đầu về thương mại – Liên minh châu Âu, Mỹ, Nhật và
Canađa (“nhóm 4 bên”) - việc kiểm điểm được tiến hành khoảng 2 năm một lần.

• Đối với 16 nước xếp sau (theo tỷ lệ của mỗi nước trong thương mại thế giới), việc kiểm
điểm được tiến hành 4 năm một lần.

• Đối với các nước khác, việc kiểm điểm được tiến hành 6 năm một lần, các nước kém
phát triển có thể có chu kỳ kiểm điểm dài hơn.

Đối với mỗi đợt kiểm điểm, hai văn bản sau được đưa ra xem xét: tuyên bố về chính sách chung
do chính phủ nước liên quan soạn thảo và báo cáo chi tiết do Ban thư ký của WTO soạn thảo
một cách độc lập. Sau đó, hai báo cáo này cùng với biên bản các cuộc thảo luận của Cơ quan
phụ trách kiểm điểm chính sách thương mại sẽ được công bố công khai..

CHƯƠNG 3
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
Ưu tiên giải quyết tranh chấp chứ không đưa ra phán quyết

Thoả thuận đó tên là gì ?

Bản ghi nhớ về các nguyên tắc


và thủ tục điều chỉnh việc giải
quyết tranh chấp

1. Một “đóng góp chưa từng có”

Việc giải quyết tranh chấp là cơ sở của hệ thống thương mại đa phương và là sự đóng góp chưa
từng có của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho sự ổn định của nền kinh tế thế giới. Nếu
không có các phương tiện giải quyết tranh chấp, hệ thống thương mại dựa trên các qui tắc có lẽ
sẽ không còn có ích vì các quy tắc đó không thể được áp dụng. Thủ tục giải quyết tranh chấp của
WTO nhằm bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật và làm cho hệ thống thương mại vững chắc hơn
và có thể dự báo được. Hệ thống dựa trên các quy tắc đã được xác định rõ ràng, kèm theo một
lịch trình cụ thể để xem xét một vụ kiện. Các quyết định ban đầu được một Nhóm chuyên gia đưa
ra và sau đó được phê chuẩn (hoặc bác bỏ) bởi toàn bộ các thành viên của WTO. Cũng có thể
yêu cầu kháng cáo đối với một số điểm liên quan đến pháp luật.

Tuy nhiên, đây không phải là việc đưa ra phán quyết mà giành ưu tiên giải quyết tranh chấp nếu
có thể bằng cách tham khảo ý kiến. Tính đến tháng 5/2003, chỉ có khoảng 1/3 trong số các vụ
kiện đi đến giai đoạn được nhóm chuyên gia thụ lý. Phần lớn trong số các vụ kiện còn lại đều
được thông báo là đã được giải quyết thông qua thương lượng hoặc vẫn ở giai đoạn tham vấn
kéo dài, có vụ từ năm 1995.

Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp: công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và giải pháp
được các bên chấp nhận

Các tranh chấp được WTO giải quyết liên quan chủ yếu tới việc không giữ lời hứa. Các thành
viên của WTO thoả thuận sẽ sử dụng cơ chế đa phương để giải quyết tranh chấp thay vì thực thi
các biện pháp đơn phương nếu họ cho rằng các thành viên khác vi phạm các quy tắc thương
mại. Nói cách khác, họ sẽ áp dụng các thủ tục đã được thoả thuận và tôn trọng các phán quyết
được đưa ra.

Một tranh chấp nảy sinh khi một nước thành viên WTO áp dụng một biện pháp thuộc chính sách
thương mại hoặc một lĩnh vực khác bị vị một hoặc một số thành viên khác là đã vi phạm các hiệp
định của WTO hoặc không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình. Một nhóm nước thứ ba có
thể tuyên bố có lợi ích trong vụ kiện và đòi được hưởng một số quyền lợi

Nhóm chuyên gia

Một Nhóm chuyên gia giống như một toà án. Nhưng khác với các thẩm phán của toà án, các
thành viên của ban này thường được chọn bằng cách tham khảo ý kiến các nước liên quan tới
vụ tranh chấp. Chỉ khi nào các bên liên quan không thể nhất trí thì họ mới được Tổng Giám đốc
WTO chỉ định.

Nhóm chuyên gia gồm ba thành viên (có thể là 5 người) đến từ các nước khác nhau có nhiệm vụ
kiểm tra các bằng chứng và quyết định xem nước nào sai và nước nào đúng. Báo cáo của họ
được trình bày tại Cơ quan giải quyết tranh chấp và chỉ bị Cơ quan này bác bỏ khi có sự đồng
thuận.
Các thành viên của một Nhóm chuyên gia chịu trách nhiệm về một vụ kiện đặc biệt được chọn ra
trong số các chuyên gia có năng lực chuyên môn

Việc giải quyết một tranh chấp được tiến hành như thế nào?

Cơ quan giải quyết tranh chấp (Đại hội đồng nhóm họp với chức năng giải quyết tranh chấp),
gồm tất cả các thành viên của WTO, chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp. Đây là cơ quan
duy nhất có thẩm quyền lập ra các “Nhóm chuyên gia” (gồm các chuyên gia chịu trách nhiệm
xem xét vụ kiện), để thông qua hay bác bỏ các kết luận điều tra của các Nhóm chuyên gia và kết
quả các quá trình xét xử phúc thẩm. Cơ quan này giám sát việc thực hiện các quyết định và
khuyến nghị và có quyền cho phép thông qua các biện pháp trả đũa nếu một nước không tuân
thủ quyết định do Cơ quan này đưa ra.

· Giai đoạn 1: Giai đoạn tham vấn (kéo dài trong khoảng 60 ngày). Trước khi áp dụng
các biện pháp khác, các bên liên quan đến vụ tranh chấp phải thảo luận với nhau để biết
được liệu họ có thể hoà giải hay không. Nếu các cuộc tham vấn này không có kết quả,
họ có thể yêu cầu Tổng Giám đốc WTO can thiệp với tư cách là nhà hoà giải hoặc bằng
các cách thức khác.

· Giai đoạn 2: Nhóm chuyên gia (thời hạn dự kiến để lập ra một Nhóm chuyên gia là 45
ngày và họ có 6 tháng để hoàn thành công việc của mình). Nếu các tham vấn không có
kết quả, nước đi kiện có thể yêu cầu lập ra một nhóm chuyên gia. Và nước bị kiện có thể
ngăn cản việc thành lập ban này lần thứ nhất nhưng tới cuộc họp thứ hai của Cơ quan
giải quyết tranh chấp, nước bị kiện không thể làm việc đó (trừ khi có một sự đồng thuận
chống lại việc thành lập nhóm chuyên gia).

Cần bao nhiêu thời gian để giải quyết một vụ kiện?


Các thời hạn nêu dưới đây phù hợp với thời gian dự kiến cho mỗi giai đoạn của quá trình giải
quyết tranh chấp. Bản ghi nhớ tỏ ra mềm dẻo về vấn đề này. Ngoài ra, các nước có thể tự mình
giải quyết tranh chấp ở bất cứ thời điểm nào. Tất cả các mốc tổng thời gian dự kiến cũng chỉ là
tương đối
60 ngày Tham vấn, hoà giải, v.v…
45 ngày Thành lập nhóm chuyên gia và chỉ định các thành viên của ban
6 tháng Trình bày báo cáo cuối cùng của ban hội thẩm cho các bên liên quan
3 tuần Trình bày báo cáo cuối cùng của nhóm chuyên gia cho các thành viên WTO
60 ngày Cơ quan giải quyết tranh chấp thông qua báo cáo (nếu không có xét xử phúc
thẩm)
Tổng số thời gian: 1 năm (nếu bản báo cáo không bị kháng cáo)
60-90 ngày Trình bày báo cáo phúc thẩm
30 ngày Cơ quan giải quyết tranh chấp thông qua báo cáo phúc thẩm
Tổng số thời gian: 1 năm 3 tháng (nếu bản báo cáo bị kháng cáo)

Nhóm chuyên gia chính thức có nhiệm vụ giúp đỡ Cơ quan giải quyết tranh chấp đưa ra những
quyết định hoặc khuyến nghị nhưng vì bản báo cáo của Nhóm chuyên gia chỉ có thể bị bác bỏ
bằng hình thức nhất trí nên rất khó bác bỏ các kết luận điều tra của ban này. Các nhận xét của
Nhóm chuyên gia phải dựa trên các hiệp định được viện dẫn.

Bản báo cáo cuối cùng của Nhóm chuyên gia về nguyên tắc phải được thông báo tới các bên
liên quan đến tranh chấp trong thời gian 6 tháng. Trong trường hợp khẩn cấp, nhất là khi liên
quan đến các vật phẩm dễ hỏng, thời hạn này giảm xuống còn ba tháng.
Bản ghi nhớ nêu một cách chi tiết lịch trình công tác của nhóm chuyên gia. Các giai đoạn chính
trong công việc của Nhóm chuyên gia như sau:

· Trước cuộc họp đầu tiên: mỗi bên liên quan tới tranh chấp trình bày các lý lẽ của mình
bằng văn bản cho nhóm chuyên gia.

· Cuộc họp đầu tiên: các lập luận của bên khiếu kiện và bên bị kiện: một hay nhiều nước
khiếu kiện, nước bị kiện và những nước tuyên bố có lợi ích trong vụ tranh chấp, trình bày
lý lẽ của mình tại cuộc họp đầu tiên của nhóm chuyên gia.

· Phản bác: các nước liên quan trình bày những phản bác bằng văn bản và các lập luận
miệng tại cuộc họp thứ hai của nhóm chuyên gia.

· Các chuyên gia: nếu một bên có những câu hỏi liên quan đến khía cạnh khoa học hoặc
kỹ thuật, Nhóm chuyên gia có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia hoặc chỉ định
một nhóm chuyên gia chịu trách nhiệm soạn thảo báo cáo tham khảo.

· Dự thảo báo cáo: Nhóm chuyên gia trao cho hai bên liên quan phần mô tả dự thảo báo
cáo (thực trạng và lập luận) và cho các bên thời hạn là hai tuần để trình bày nhận xét
của mình. Bản dự thảo báo cáo này không có phần nhận xét và kết luận.

· Báo cáo giữa kỳ: Tiếp theo, Nhóm chuyên gia sẽ gửi bản báo cáo giữa kỳ bao gồm
phần nhận xét và kết luận cho hai bên liên quan và họ có thời hạn một tuần để đề nghị
xem xét lại bản báo cáo.

· Xem xét lại bản báo cáo: Giai đoạn xem xét lại bản báo cáo không được vượt quá thời
hạn hai tuần. Trong giai đoạn này, Nhóm chuyên gia có thể tổ chức các cuộc họp khác
với các bên liên quan đến vụ kiện.

· Báo cáo cuối cùng: Bản báo cáo cuối cùng được chuyển tới hai bên liên quan và ba
tuần sau được phát cho tất cả các thành viên của WTO. Nếu Nhóm chuyên gia kết luận
rằng biện pháp thương mại bị kiện trên thực tế vi phạm một Hiệp định của WTO hoặc vi
phạm một nghĩa vụ trong khuôn khổ WTO, ban này khuyến nghị rằng biện pháp đó phải
được điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO. Nhóm chuyên gia có thể đề
xuất các biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu đó.

· Bản báo cáo trở thành một quyết định: 60 ngày sau, bản báo cáo trở thành một quyết
định hoặc một khuyến nghị của Cơ quan giải quyết tranh chấp, trừ trường hợp có sự
nhất trí bác bỏ bản báo cáo này. Hai bên tranh chấp có thể yêu cầu kháng cáo đối với
bản báo cáo (yêu cầu này có thể do bên khởi kiện hoặc bên bị kiện đưa ra).

Xét xử phúc thẩm

Mỗi bên tranh chấp có thể yêu cầu phúc thẩm lại quyết định của nhóm chuyên gia. Trên thực tế
có thể do bên khởi kiện hoặc bên bị kiện đưa ra yêu cầu. Yêu cầu phúc thẩm phải dựa trên
những khía cạnh pháp luật như cách giải thích pháp luật; và không nhằm xem xét lại các bằng
chứng sẵn có hoặc các vấn đề mới.

Mỗi yêu cầu phúc thẩm do ba trong số bảy thành viên của Cơ quan phúc thẩm thường trực giải
quyết. Cơ quan này được Cơ quan giải quyết tranh chấp lập ra và phản ánh tính đại diện trong
thành phần của WTO. Các thành viên của Cơ quan phúc thẩm được bổ nhiệm trong thời gian
bốn năm. Đó phải là những chuyên gia được thừa nhận giỏi về luật và thương mại quốc tế và
không có bất kì mối liên hệ với các quốc gia thành viên.

Xét xử phúc thẩm có thể đi tới việc tái khẳng định, thay đổi hoặc bác bỏ các nhận xét và kết luận
pháp lý của nhóm chuyên gia. Về nguyên tắc, thời hạn của thủ tục giải quyết không được vượt
quá 60 ngày và không trường hợp nào được vượt quá 90 ngày.

Cơ quan giải quyết tranh chấp phải chấp nhận hoặc bác bỏ bản báo cáo của Cơ quan phúc thẩm
trong thời hạn 30 ngày, việc bác bỏ chỉ có thể thực hiện nếu tất cả các thành viên đều nhất trí.

Khi vụ kiện đã được giải quyết: điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?

Vào tù. Đi thẳng vào trại giam, Không được rời khỏi nơi giam giữ. Không được nhận… Không,
trên thực tế thì sẽ không hẳn như vậy nhưng về mặt nguyên tắc thì giống nhau. Nếu một nước bị
buộc tội, nước đó phải sửa chữa sai phạm ngay lập tức. Và trong trường hợp tiếp tục vi phạm
hiệp định, nước đó phải chịu bồi thường hoặc phải chịu một hình phạt tương đối nghiêm khắc.

Ngay cả khi vụ kiện đã được giải quyết, người ta vẫn có thể hành động trước khi các biện pháp
trừng phạt thương mại (hình thức truyền thống của các biện pháp trừng phạt) được áp dụng.
Vào giai đoạn này, mục tiêu ưu tiên là làm sao để bên bị kiện thua phải điều chỉnh biện pháp của
mình phù hợp với quyết định hay các khuyến nghị. Bản ghi nhớ xác định rằng “để các tranh chấp
được giải quyết một cách có hiệu quả, bảo vệ được lợi ích của tất cả các thành viên, cần phải
chấp hành các quyết định hay khuyến nghị của Cơ quan giải quyết tranh chấp trong thời hạn
ngắn nhất”.

Nếu nước bị kiện thua, nước này phải thực hiện các khuyến nghị trong bản báo cáo của Nhóm
chuyên gia hoặc báo cáo của Cơ quan phúc thẩm. Nước này phải tuyên bố ý định thực hiện các
quyết định của bản báo cáo tại một cuộc họp của Cơ quan giải quyết tranh chấp diễn ra 30 ngày
sau khi bản báo cáo được thông qua. Nếu như nước này không thể thực hiện được ngay lập tức
các khuyến nghị, nước đó sẽ có thể được dành cho một “thời hạn hợp lý” để thực thi các khuyến
nghị. Nếu nước đó không thực hiện đúng trong thời hạn đã nêu thì nước đó sẽ phải đàm phán
với một hay nhiều nước khiếu kiện để tìm ra cách đền bù làm thoả mãn các bên, chẳng hạn như
việc giảm thuế quan trong các lĩnh vực mà bên khiếu kiện có lợi ích đặc biệt.

Sau thời hạn 20 ngày, nếu không có một khoản đền bù nào được thoả thuận, bên thưa kiện có
thể yêu cầu Cơ quan giải quyết tranh chấp cho phép áp đặt các biện pháp trừng phạt thương mại
có giới hạn (“hoãn thực hiện các nhượng bộ và các nghĩa vụ khác”) đối với bên kia. Cơ quan giải
quyết tranh chấp phải cho phép tiến hành các biện pháp trả đũa trong thời hạn 30 ngày sau khi
“thời hạn hợp lý” đã hết, trừ khi có một sự nhất trí để bác bỏ yêu cầu đó.

Về nguyên tắc, các hình thức trừng phạt sẽ phải được áp dụng trong lĩnh vực xảy ra tranh chấp.
Nếu điều đó là không thể hoặc không có hiệu quả, chúng có thể được áp dụng trong một lĩnh vực
khác của cùng một hiệp định. Nếu việc đó cũng lại không thể thực hiện hoặc không có hiệu quả
và nếu các tình tiết tương đối nghiêm trọng, việc thực hiện trừng phạt có thể tiến hành ở một
hiệp định khác. Mục tiêu là hạn chế tối đa khả năng biện pháp áp dụng tác động tới những lĩnh
vực khác, tuy nhiên vẫn đảm bảo tính hiệu quả của biện pháp này.

Trong mọi trường hợp, Cơ quan giải quyết tranh chấp giám sát việc thực hiện các các quyết định
được ban bố. Tất cả các vụ kiện chưa đước giải quyết xong vẫn phải nằm trong chương trình
nghị sự của cơ quan này cho đến khi vấn đề được giải quyết.
2. Thủ tục xét xử của Nhóm chuyên gia

Tại WTO, việc giải quyết tranh chấp trải qua nhiều giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn, WTO khuyến
khích các bên liên quan tổ chức tham vấn lẫn nhau nhằm đi đến một giải pháp ổn thoả. Ở mỗi
giai đoạn Tổng giám đốc WTO có thể đóng vai trò trung gian hoà giải hoặc giúp đỡ các bên liên
quan đi đến sự hoà giải

Chú ý : Một số thời hạn cụ thể được nêu ở đây là những thời hạn tối đa hoặc tối thiểu, một số
thời hạn là bắt buộc phải tôn trọng, một số thời hạn khác thì không có tính bắt buộc.

graphic

3. Biên niên sử một vụ kiện điển hình:

Ngày 23/1/1995, Vênêzuêla đã đệ đơn kiện lên Cơ quan giải quyết tranh chấp liên quan đến việc
Mỹ áp dụng các quy định phân biệt đối xử với xăng dầu nhập khẩu và Vênêzuêla đã chính thức
yêu cầu mở các cuộc tham khảo ý kiến với Mỹ. Khoảng hơn một năm sau (ngày 29/1/1996),
Nhóm chuyên gia chịu trách nhiệm giải quyết vụ kiện đã hoàn thành việc soạn thảo báo cáo cuối
cùng của mình. (Trong thời gian đó, Braxin đã trở thành một bên liên quan đến vụ kiện sau khi đệ
đơn kiện vào tháng 4/1996. Và cũng Nhóm chuyên gia đó đã thụ lý cả hai đơn kiện). Mỹ đòi xét
xử phúc thẩm. Cơ quan phúc thẩm đã soạn thảo báo cáo và được Cơ quan giải quyết tranh chấp
thông qua ngày 20/5/1996, tức là một năm 4 tháng sau khi nước đầu tiên đệ đơn kiện.

Sau đó, Mỹ và Vênêzuêla phải cần tới sáu tháng rưỡi để thoả thuận về các biện pháp mà Mỹ sẽ
phải thực hiện. Thời hạn thoả thuận cho việc thực hiện giải pháp là 15 tháng tính từ khi kết thúc
phiên xử phúc thẩm (tức là từ ngày 20/5/1996 cho đến 20/8/1997).

Vụ tranh chấp nảy sinh khi Mỹ áp dụng đối với xăng nhập khẩu các quy định về thành phần hoá
lý ngặt nghèo hơn so với xăng được tinh chế tại Mỹ. Theo quan điểm của Vênêzuêla (và sau đó
là của Braxin), điều đó là không công bằng vì xăng của Mỹ không bị lệ thuộc vào các chuẩn mực
đó; biện pháp này là đi ngược lại nguyên tắc “đối xử quốc gia” và không thể chứng minh là
trường hợp ngoại lệ theo các quy định thông thường của WTO liên quan tới các biện pháp y tế
và các biện pháp bảo vệ môi trường. Nhóm chuyên gia chịu trách nhiệm giải quyết vụ tranh chấp
đã kết luận là Vênêzuêla và Braxin đã có lý. Trong bản báo cáo của mình, Cơ quan phúc thẩm
khẳng định các kết luận của Nhóm chuyên gia (chỉ thay đổi một vài điểm tham chiếu pháp luật do
Nhóm chuyên gia đưa ra). Mỹ đã thoả thuận với Vênêzuêla sẽ sửa đổi quy định của mình sau
thời gian 15 tháng; và ngày 26/8/1997 họ đã thông báo với Cơ quan giải quyết tranh chấp việc ký
kết một quy định mới vào ngày 19/8/1997.

Thời gian Thời hạn dự kiến Ngày Diễn biến vụ kiện


(0 = thời điểm trong Bản ghi nhớ/
bắt đầu xét xử) thời hạn thực tế
- 5 năm 1990 Luật chống ô nhiễm khí quyển
của Mỹ được sửa đổi
- 4 tháng 9/1994 Mỹ hạn chế nhập khẩu xăng theo
Luật chống ô nhiễm khí quyển.
0 23/1/1995 Vênêzuêla đệ đơn kiện lên Cơ
60 ngày quan giải quyết tranh chấp và
yêu cầu tham khảo ý kiến với Mỹ.
+ 1 tháng 24/2/1995 Các cuộc tham vấn đã diễn ra
nhưng thất bại.
+2 tháng 25/3/1995 Vênêzuêla yêu cầu Cơ quan giải
quyết tranh chấp thành lập nhóm
chuyên gia.
+2 tháng rưỡi 10/4/1995 Cơ quan giải quyết tranh chấp
30 ngày chấp nhận thành lập nhóm
chuyên gia. Mỹ không phản đối.
(Braxin cũng đệ đơn kiện và yêu
cầu có các cuộc tham khảo ý
kiến với Mỹ).
+3 tháng 28/4/1995 Nhóm chuyên gia được thành lập
(vào ngày 31/5, và cũng chịu
trách nhiệm xem xét cả đơn kiện
của Braxin)
+ 6 tháng 9 tháng 10-12/7 và Nhóm chuyên gia họp
(Thời hạn dự kiến: 6 13-15/7/1995
tháng + thời gian kéo
dài)
+ 11 tháng 11/12/1995 Nhóm chuyên gia trao báo cáo
giữa kỳ cho Mỹ, Vênêzuêla và
Braxin để xem xét.
+1 năm 29/1/1996 Nhóm chuyên gia trao báo cáo
cuối cùng cho Cơ quan giải quyết
tranh chấp
+ 1 năm 1 tháng 21/2/1996 Mỹ yêu cầu xét xử phúc thẩm
+1 năm 3 tháng 60 ngày 29/4/1996 Cơ quan phúc thẩm công bố báo
cáo của mình
+ 1 năm 4 tháng 30 ngày 20/5/1996 Cơ quan giải quyết tranh chấp
thông qua báo cáo của Cơ quan
phúc thẩm.
+ 1 năm 10 tháng 3/12/1996 Mỹ và Vênêzuêla thoả thuận về
rưỡi việc Mỹ sẽ phải làm (thời hạn
thực hiện là 15 tháng kể từ ngày
20/5)
+ 1 năm 11 tháng 9/1/1997 Mỹ công bố cho Cơ quan giải
rưỡi quyết tranh chấp bản báo cáo
đầu tiên về tình hình thực hiện
các thoả thuận.
+2 năm 7 tháng 19-20/8/1997 Mỹ ký một quy định mới (ngày
19/8). Kết thúc thời hạn thoả
thuận thực hiện (ngày 20).

CHƯƠNG 4
Những vấn đề mới và liên ngành

Đây là những vấn đề được nêu trong các hiệp định và những điểm ngày càng được đề cập đến
thường xuyên hơn trong chương trình nghị sự thời gian gần đây.
Công việc của WTO không chỉ giới hạn trong những hiệp định đặc thù gắn với những nghĩa vụ
riêng biệt. Chính phủ các nước thành viên cũng thảo luận nhiều vấn đề khác, thông thường trong
khuôn khổ các tiểu ban hay tổ công tác. Một vài vấn đề đã trở nên cũ, nhưng cũng có một số vấn
đề mới đối với hệ thông của GATT và WTO. Một số vấn đề mang tính chất đặc thù, một số khác
liên quan đến nhiều lĩnh vực thuộc phạm vi xử lý của WTO. Có những vấn đề cần thiết phải
thông qua đàm phán.

Đặc biệt là những vấn đề sau đây :

- Các tập hợp kinh tế khu vực

- Thương mại và môi trường

- Thương mại và đầu tư

- Chính sách cạnh tranh

- Minh bạch hóa mua sắm công

- Thuận lợi hóa thương mại (đơn giản hóa các thủ tục thương mại, tạo điều kiện thuận
lợi cho các luồng trao đổi thương mại thông qua những biện pháp triệt để hơn
việc dỡ bỏ các trở ngại quan thuế và phi quan thuế).

- Thương mại điện tử.

Một chủ đề khác vào những thời điểm khác nhau cũng là đối thượng tranh cãi sôi nổi tại WTO.
Đó là :

- Thương mại và quyền của người lao động.

Chủ đề này không được ghi trong chương trình nghị sự của WTO, nhưng do nhận được nhiều
quan tâm và sẽ được phân tích ở đây để làm rõ thêm thực trạng hiện nay.

1. Chủ nghĩa khu vực : đối tác hay đối thủ ?

Liên minh Châu Âu, Hiệp định tự do mậu dịch Bắc Mỹ, Hệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Hiệp
hội hợp tác khu vực Nam Á, Thị trường chung Bắc Mỹ (MERCOSUR), Hiệp định thương mại xích
lại gần nhau về kinh tế giữa Úc và New Zeland v.v…

Tháng 7 năm 2003, chỉ ba thành viên sau của WTO là Macao, Trung Quốc, Mông cổ và Đài Loan
không tham gia một hiệp định thương mại khu vực nào. Từ đầu những năm 90, số lượng các
hiệp định như trên tiếp tục tăng. Tính đến tháng 5 năm 2003, đã có tới trên 265 hiệp định đã
được WTO (hay tổ chức tiền thân là GATT) thống kê. Trong số này, 138 hiệp định đã được ghi
nhận sau khi WTO được thành lập vào tháng 1/1995. Hiện nay, trên 190 hiệp định vẫn còn hiệu
lực. Người ta đánh giá rằng 60 hiệp định khác cũng đang được thực hiện mặc dù chúng vẫn còn
chưa được ghi nhận. Nếu tính cả số lượng các hiệp định có thể được ký kết hoặc đã từng là đối
tượng để đàm phán, tổng số hiệp định thương mại khu vực đang có hiệu lực có thể lên tới xấp xỉ
con số 300 từ nay đến năm 2005.

Một trong những vấn đề được nêu lên thường xuyên nhất đó là liệu những tập khu vực nói trên
góp phần củng cố hay gây trở ngại cho hệ thống thương mại đa biên của WTO. Hiện nay một uỷ
ban đang theo dõi diễn biến tình hình.

Những thoả thuận thương mại khu vực


Các hiệp định thương mại khu vực dường như tỏ ra đối lập với hệ thống thương mại đa biên của
WTO, nhưng trên thực tế, chúng hoàn toàn có thể mang tính chất hỗ trợ. Hiệp định khu vực cho
phép các nhóm quốc gia có thể thương thảo với nhau về những quy định và cam kết nhiều khi
còn đi xa hơn những gì mà họ có thể thoả thuận được trong khuôn khổ đa biên. Hơn nữa, chính
một số quy định trên lại mở đường dẫn đến một hiệp định của WTO. Các lĩnh vực như dịch vụ,
sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn môi trường cũng như chính sách đầu tư và cạnh tranh đã từng là vấn
đề được xới lên trong đàm phán thương mại khu vực và sau đó đã đưa đến các hiệp định được
ký kết hay các chủ đề thảo luận của WTO.

Liên kết khu vực quan trọng đối với WTO là những nhóm nước thực hiện xoá bỏ hoặc giảm trở
ngại đối với thương mại giữa các nước thành viên. Các hiệp định của WTO công nhận rằng việc
ký kết các thoả thuận khu vực và thúc đẩy liên kết khu vực có thể đem lại lợi ích cho các nước.
Đồng thời, WTO cũng thừa nhận rằng trong một số hoàn cảnh nhất định, thoả thuận thương mại
khu vực có thể gây phương hại đến lợi ích thương mại của một số quốc gia khác. Thông thường,
việc thiết lập một liên minh thuế quan hay một khu vực thương mại tự do bị coi là vi phạm
nguyên tắc của WTO là tất cả các đối tác thương mại phải được đối xử công bằng (« đối xử tối
huệ quốc »). Tuy nhiên, theo điều 24 của hiệp định GATT, việc ký kết hiệp định thương mại khu
vực là một ngoại lệ riêng biệt đối với nguyên tắc trên và điều đó được phép tiến hành với điều
kiện phải tuân thủ một số tiêu chí chặt chẽ.

Đặc biệt, các hiệp định này phải phục vụ cho tự do hóa các luồng trao đổi giữa các quốc gia
thành viên và không gây trở ngại cho trao đổi với các quốc gia ngoài khối. Nói một cách khác,
liên kết khu vực cần bổ sung và không được gây phương hại cho hệ thống thương mại đa biên.

Điều 24 quy định rằng khi thiết lập một khu vực mật dịch tự do hay một liên minh thuế quan, thuế
nhập khẩu và các loại trở ngại khác đối với thương mại phải được hạ thấp hay xóa bỏ đối với
một phần chủ yếu của trao đổi trong tất cả các lĩnh vực của thương mại giữa các quốc gia thành
viên. Cần phải đảm bảo không để các nước không phải là thành viên thấy rằng chế độ áp dụng
trong trao đổi với các nước này lại chặt chẽ hơn lên so với thời kỳ trước khi tổ chức khu vực đó
được thành lập.

Cũng vậy, điều 5 của Hiệp định chung về trao đổi dịch vụ cũng cho phép ký kết các liên kết kinh
tế trong lĩnh vực dịch vụ. Một số điều khoản khác trong các hiệp định của WTO cũng cho phép
các nước đang phát triển tham gia vào các hiệp định với quy mô khu vực và toàn cầu với chủ
trương hạ thấp hay xóa bỏ hàng rào quan thuế hay các trở ngại phi quan thuế trong trao đổi giữa
các nước.

Ngày 6/2/1996, Đại hội đồng của WTO đã thành lập Ủy ban về các hiệp định thương mại khu
vực với nhiệm vụ kiểm tra các tập hợp khu vực để xác định xem chúng có phù hợp với quy định
của WTO hay không. Ủy ban này cũng có chức năng xem xét tác động của những thỏa thuận
khu vực đó đối với hệ thống thương mại đa biên và mối liên hệ có thể có giữa các hiệp định khu
vực và hiệp định đa biên.

2. Môi trường : một lĩnh vực mới

Trong khuôn khổ của WTO không có một hiệp định nào riêng về môi trường, nhưng trong nhiều
hiệp định của WTO chứa đựng các điều khoản liên quan đến những mối quan tâm về môi
trường. Phát triển bền vững và bảo vệ môi trường là mục tiêu được ghi trong lời nói đầu của
Hiệp định sáng lập WTO.
Các chính sách môi trường ngày càng được ưu tiên trở thành một hiện tượng tương đối mới.
Vào năm 1994, tức là cuối Vòng đàm phán Uruguay, bộ trưởng thương mại các nước thành viên
đã quyết định thực hiện trong khuôn khổ WTO một chương trình làm việc đồ sộ về thương mại
và môi trường và lập ra Ủy ban thương mại và môi trường. Như thế, những vấn đề liên quan
đến môi trường và phát triển bền vững đã trở thành cấu thành trong các hoạt động chính của tổ
chức này.

Những điều khoản "sinh thái"

Ví dụ về một số điều khoản trong các Hiệp định của WTO liên quan đến môi trường.

- Điều 20 trong hiệp định GATT: những biện pháp có ảnh hưởng đến thương mại hàng hoá, cần
thiết nhằm bảo vệ sức khỏe và cuộc sống con người, động vật hay bảo tồn thực vật, được miễn
trừ trừng phạt thông thường của GATT trong một số hoàn cảnh nhất định.

- Trở ngại kỹ thuật đối với thương mại (tiêu chuẩn hàng hóa và tiêu chuẩn ngành nghề) và các
biện pháp vệ sinh an toàn thực vật (vệ sinh và sức khỏe động, thực vật): công khai công nhận các
mục tiêu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

- Nông nghiệp: Các chương trình bảo vệ môi trường được loại trừ ra khỏi cam kết về cắt giảm trợ
cấp.

- Trợ cấp và các biện pháp bồi thường: cho phép áp dụng trợ cấp đến mức 20% chi phí doanh
nghiệp cho các hoạt động nhằm khuyến khích áp dụng các điều khoản mới về môi trường theo
luật trong nước.

- Sở hữu trí tuệ: chính quyền các nước có thể từ chối cấp giấy chứng nhận cho những phát minh
có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe hay đời sống con người, động vật hay thực vật hoặc có nguy
cơ gây phương hại nghiêm trọng đến môi trường (điều 27 trong Hiệp định ADPIC).

- Điều 14 của Hiệp định AGCS: những biện pháp có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ nhưng
cần thiết đối với bảo vệ sức khỏe và cuộc sống của con người, động vật hay bảo tồn thực vật
được miễn trừ trừng phạt thông thường của AGCS trong một số hoàn cảnh nhất định.

Ủy ban : một cơ quan của WTO với sứ mệnh lớn lao

Ủy ban được trao cho một sứ mệnh lớn lao, bao gồm tất cả các khía cạnh của hệ thống thương
mại đa biên – hàng hóa, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ. Ủy ban có nhiệm vụ xem xét mối liên hệ
giữa thương mại và môi trường và đưa ra những khuyến nghị về những điều chỉnh thích hợp cần
được bổ sung vào các hiệp định thương mại.

Công việc của Ủy ban dựa trên hai nguyên tắc cơ bản như sau :

Thẩm quyền của WTO giới hạn trong lĩnh vực thương mại. Nói cách khác, về vấn đề môi trường,
WTO chỉ có chức năng xem xét những vấn đề được đặt ra khi chính sách môi trường các nước
gây ra những tác động đáng kể đến thương mại. WTO không phải là một tổ chức quốc tế bảo vệ
môi trường ; các thành viên WTO không muốn tổ chức này can thiệp vào việc hoạch định chính
sách môi trường quốc gia hay quốc tế, cũng như hình thành các tiêu chuẩn về môi trường. Các
tổ chức chuyên môn khác về môi trường có thẩm quyền cao hơn trong lĩnh vực này.

Khi Ủy ban phát hiện thấy có vấn đề nào đó thì các giải pháp mà nó quyết định cần phải góp
phần vào việc duy trì những quy định của hệ thống thương mại của WTO.
Trình bày một cách khái quát hơn, các thành viên của WTO tin tưởng rằng một hệ thống thương
mại đa biên rộng mở, công bằng và không phân biệt đối xử có thể là một đóng góp quan trọng
đối với nỗ lực bảo vệ và bảo tồn tài nguyên môi trường và khuyến khích phát triển bền vững. Đó
là những điều đã được công nhận thông qua kết quả cảu Hội nghị LHQ về môi trường và phát
triển họp tại Rio vào năm 1992 (còn gọi là Hội nghị thượng đỉnh Trái đất), và của Hội nghị tiếp
theo là Hội nghị thượng đỉnh về phát triển bền vững năm 2002 tại Johannesburg.

Chương trình làm việc của Ủy ban được chia thành 10 điểm được sắp xếp theo thứ tự những đề
xuất của các nước thành viên về những vấn đề mà họ cho là quan trọng. Sau đây là khái quát về
một số vấn đề và những kết luận mà Ủy ban đã đạt được cho đến thời điểm hiện nay.

Những vấn đề chính

Nếu một quốc gia cho rằng thương mại trong một nước khác gây ảnh hưởng đến môi trường,
nước đó có thể làm gì? Quốc gia đó có thể hay không có thể hạn chế thương mại với quốc gia
kia? Nếu có thể thì trong những điều kiện ra sao? Hiện nay không tồn tại những lời giải thích
chính thức về mặt pháp lý trong lĩnh vực này, chủ yếu xuất phát từ thực tế là các vấn đề đó chưa
từng được xem xét trong khuôn khổ một tranh chấp nào được đưa ra WTO hay một định chế nào
khác. Tuy nhiên, khi đọc các Hiệp định thương mại của WTO và các hiệp định về môi trường
được ký kết bên ngoài khuôn khổ WTO, ta có thể rút ra một số kết luận như sau:

1. Trước tiên cần phải hợp tác: các nước có liên quan cần nỗ lực hợp tác để đảm bảo không có
bất cứ tổn hại nào đến môi trường;

2. Quốc gia nguyên đơn có thể áp dụng những biện pháp (ví dụ về nhập khẩu) nhằm bảo vệ môi
trường trên lãnh thổ quốc gia mình, nhưng không được phân biệt đối xử. Căn cứ vào hiệp định
của WTO, các tiêu chuẩn, thuế và những biện pháp khác áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ một
nước phải được áp dụng một cách công bằng như đối với sản phẩm của nước nguyên đơn ("đối
xử quốc gia") và như đối với hàng nhập khẩu của tất cả các nước khác ("tối hệ quốc").

3. Trong trường hợp nước kia cũng tham gia một điều ước về môi trường, những biện pháp được
nước nguyên đơn áp dụng dù thế nào cũng không thuộc thẩm quyền của WTO.

4. Cần làm gì nếu như nước kia không tham gia một điều ước về môi trường? Tình huống này
không rõ ràng và trở thành một đề tài thảo luận. Một số điều ước về môi trường quy định rằng
chúng chỉ được áp dụng bởi các quốc gia tham gia cho hàng hoá và dịch vụ đến từ các quốc gia
không tham gia điều ước. Người ta không còn chưa xem xét việc những điều khoản này có trái
với các hiệp định của WTO hay không bởi vì WTO cho đến nay vẫn chưa được yêu cầu giải quyết
bất cứ một tranh chấp nào về vấn đề này. Để làm rõ tình huống đó, một số nước đề xuất soạn
thảo lại các quy định này theo hướng cho phép khẳng định rõ ràng rằng các nước, trong một số
tình huống nào đó, có thể viện dẫn một điều ước về môi trường khi họ tiến hành một biện pháp có
ảnh hưởng đến thương mại trong một nước không tham gia điều ước đó. Những nước phản đối
đề xuất này tuyên bố rằng đề xuất cho phép một số nước áp đặt những tiêu chuẩn môi trường
của họ sang các nước khác.

5. Trong trường hợp vấn đề nêu ra không là đối tượng điều chỉnh của một điều ước quốc tế về
môi trường, quy định của WTO sẽ được áp dụng. Các hiệp định của WTO nổi tiếng bởi hai
nguyên tác cơ bản: Thứ nhất, không một hạn chế nào có thể được đưa ra đối với thương mại của
một sản phẩm nào đó chỉ vì lý do duy nhất là phương thức được sử dụng để sản xuất sản phẩm
đó. Thứ hai là một quốc gia không thể vượt qua khuôn khổ biên giới quốc gia để áp đặt các tiêu
chuẩn của mình cho các quốc gia khác.
Những hiệp định WTO và hiệp định về môi trường có mối liên hệ với nhau như thế nào ?

Hệ thống thương mại của WTO và các biện pháp thuêong mại « bảo vệ môi sinh » có mối liên hệ
như thế nào ? Các hiệp định của WTO có quan hệ như thế nào với các công ước quốc tế về vấn
đề môi trường ?

Khoảng 200 hiệp định quốc tế (ngoài khuôn khổ WTO) liên quan đến nhiều vấn đề môi trường
khác nhau hiện đang có hiệu lực. Đó là các Hiệp định đa phương về môi trường (AEM).

Trên dưới 20 trong số các hiệp định này chứa đựng điều khoản có thể ảnh hưởng tới trao đổi
thương mại, ví dụ thông qua việc cấm buôn bán một số loại sản phẩm nào đó hay cho phép các
nước hạn chế trao đổi trong một số tình huống nhất định. Trước hết, có thể nêu ra ở đây Nghị
định thư Montréal về những chất làm suy giảm tầng ô zôn, Công ước Bâle về kiểm soát việc vận
chuyển qua biên giới và tiêu huỷ các chất thải độc hại hay Công ước quốc tế về buôn bán các
loài động thực vật hoang dã đang có nguy cơ tuyệt chủng (CITES).

Nói tóm lại, Uỷ ban của WTO cho rằng không tồn tại mâu thuẫn giữa những nguyên tắc cơ bản
của WTO về không phân biệt đối xử và minh bạch với các biện pháp thương mại nhằm bảo vệ
môi trường. Uỷ ban cũng ghi nhận rằng một số điều khoản trong các hiệp định về hàng hoá, dịch
vụ và quyền sở hữu trí tuệ cho phép chính phủ các nước đặt ưu tiên vào chính sách quốc gia về
bảo vệ môi trường.

Theo Uỷ ban của WTO, các hiệp định môi trường là công cụ hữu hiệu nhất để đối phó với những
vấn đề môi trường quốc tế. Cách tiếp cận trên cũng phù hợp với hoạt động hiện nay của WTO
nhằm giải quyết những vấn đề thương mại thông qua giải pháp đạt được ở quy mô quốc tế. Nói
cách khác, viện dẫn đến những điều khoản quốc tế về môi trường sẽ có lợi hơn là cố gắng tìm
kiếm một cách đơn lẻ từng quốc gia phương thức thay đổi chính sách môi trường của các nước
khác. (xem thêm phầm nghiên cứu tình huống liên quan đến vụ kiện tôm và rùa cũng như vụ kiện
cá heo và cá thu).

Uỷ ban ghi nhận rằng những biện pháp nhằm bảo vệ môi trường có ảnh hưởng đến thương mại
có thể đóng một vai trò quan trọng trong một số hiệp định về môi trường, nhất là khi thương mại
trực tiếp là nguyên nhân dẫn đến những vấn đề môi trường. Tuy nhiên, Uỷ ban cũng nhận xét
rằng hạn chế thương mại không phải là những biện pháp duy nhất có thể được tiến hành và
chúng không nhất thiết là hiệu quả nhất. Tồn tại những biện pháp khác như: giúp các quốc gia
trang bị cho mình một công nghệ tôn trọng và bảo vệ môi trường, cung cấp hỗ trợ tài chính, giúp
về đào tạo v.v...

Tuy nhiên, cũng không nên vì thế mà thổi phồng lên tầm vóc của vấn đề đó. Cho đến nay, không
biện pháp nào có ảnh hưởng đến thương mại được áp dụng trong một hiệp định quốc tế về môi
trường lại bị chỉ trích trong khuôn khổ GATT hay WTO. Điều được thừa nhận rộng rãi là những
biện pháp được quyết định trong khuôn khổ một hiệp định quốc tế về môi trường cần hoàn toàn
không là vấn đề đối với WTO nếu như các quốc gia liên quan đã cùng nhau ký kết hiệp định môi
trường đó, thậm chí ngay cả khi vấn đề đó chưa được giải quyết hoàn toàn. Uỷ ban về thương
mại và môi trường quan tâm nhiều hơn đến những gì có thể xảy ra nêu một quốc gia nào đó viện
dẫn một hiệp định môi trường để có biện pháp đi ngược lại lợi ích của một quốc gia khác không
tham gia hiệp định đó.

> Tham khảo Đàm phán thương mại trong khuôn khổ chương trình Doha

Tranh chấp : vấn đề được giải quyết ở đâu?


Giả thử một tranh cháp thương mại xảy ra bởi vì một quốc gia đã thực hiện một biện pháp có
ảnh hưởng tới thương mại (áp dụng một luật thuế hay hạn chế nhập khẩu chẳng hạn) theo tinh
thần của một hiệp định môi trường bên ngoài hệ thống luật WTO, và một quốc gia khác phản đối
điều đó. Tranh chấp này cần phải được xem xét tại WTO hay trong khuôn khổ của hiệp định kia?
Theo Uỷ ban thương mại và môi trường, khi xuất hiện tranh chấp liên quan đến một biện pháp
thương mại được thực hiện trong khuôn khổ một hiệp định môi trường và nếu như hai bên tranh
chấp cùng ký hiệp định đó, các bên cần căn cứ vào điều khoản của chính hiệp định đó để giải
quyết tranh chấp. Nhưng, nếu một trong các bên tranh chấp không tham gia hiệp định môi
trường, định chế duy nhất ghi nhận sự tồn tại của tranh chấp chính là WTO. Điều đó không có
nghĩa rằng những vấn đề môi trường sẽ không được tính đến: các hiệp định WTO cho phép hình
thành các tổ công tác đặc trách có nhiệm vụ xem xét tranh chấp và tham khảo ý kiến của chuyên
gia về các vấn đề môi trường.

"... chúng tôi không phán quyết rằng


các quốc gia có chủ quyền và là
thành viên của WTO lại không thể
thực hiện những biện pháp hiệu quả
nhằm b vệ các loài động vật đang bị
đe dọa như loài rùa biển. Điều hiển
nhiên là các quốc gia có thể và phải
làm được điều đó...".

CHƯƠNG 5
Chương trình Đô-ha

Chương trình làm việc gồm 21 chủ đề

Tất cả các cuộc đàm phán phải kết thúc chậm nhất vào ngày 1 tháng 1 năm 2005.

Tại Hội nghị bộ trưởng lần thứ 4 tổ chức tại Đô-ha (Qatar) vào tháng 11 năm 2001, các chính phủ
thành viên WTO đã nhất trí tiến hành các cuộc đàm phán mới. Họ cũng thống nhất sẽ thảo luận
nhiều vấn đề khác, đặc biệt là việc thực thi các hiệp định hiện nay. Tất cả các hoạt động này nằm
trong một chương trình chung được gọi là Chương trình phát triển Đô-ha (DDA).

Các cuộc đàm phán diễn ra trong khuôn khổ của Uỷ ban đàm phán thương mại và các cơ quan
hỗ trợ cho uỷ ban này. Đó thường là những hội đồng hay uỷ ban được triệu tập trong các “phiên
họp bất thường”, hay những nhóm đàm phán được lập ra để chuyên trách về một nội dung
đàm phán. Các hoạt động khác của chương trình sẽ do các hội đồng hay uỷ ban khác của WTO
tiến hành.

Tuyên bố Đô-ha nêu ra 19 chủ đề, hay 21, tuỳ theo quan niệm cho rằng vấn đề “quy tắc” cấu
thành 1 hay 3 chủ đề. Phần lớn các nội dung này đòi hỏi phải tiến hành đàm phán; số còn lại thì
đòi hỏi các biện pháp “thực thi”, phân tích và theo dõi đánh giá. Dưới đây là một sự giải thích
không mang tính chính thức về những gì được nêu trong Tuyên bố Đô-ha (kèm theo số thứ tự
của đoạn văn bản tương ứng):

Những vấn đề và lo ngại liên quan đến việc thực thi (đoạn 12)

Thuật ngữ “thực thi” là cách nói ngắn gọn để chỉ những vấn đề mà các nước đang phát triển gặp
phải trong quá trình thực thi các Hiệp định hiện nay của WTO, tức là các hiệp định đã được ký
kết trong khuôn khổ vòng đàm phán Urugoay.
Tất cả các lĩnh vực mang tính thời sự của WTO đều thu hút sự chú ý quan tâm đồng thời cũng
gây nhiều tranh cãi gay gắt trong ba năm trước khi diễn ra Hội nghị Đô-ha. Trong thời gian này,
đã có khoảng 100 vấn đề được nêu ra. Tình hình này dẫn tới một kết quả kép:

- có hơn 40 vấn đề, được xếp vào 12 nhóm chủ đề, đã được giải quyết tại Hội nghị
Đô-ha hoặc trước đó, và sẽ được thực thi ngay lập tức;

- phần lớn các vấn đề còn lại ngay lập tức đều trở thành các chủ đề đàm phán.

Kết quả này được trình bày riêng trong một quyết định cấp bộ trưởng về vấn đề thực thi, có liên
quan đến đoạn 12 của Tuyên bố Đô-ha.

Quyết định về vấn đề thực thi đề cập đến những điểm sau (có thể tham khảo những thông tin
chi tiết trên trang Web của WTO):

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT)

- Ngoại lệ trong cán cân thanh toán: làm rõ những điều kiện giảm nhẹ được nêu trong GATT có
thể áp dụng đối với trường hợp các nước đang phát triển nếu các nước này hạn chế nhập khẩu
để bảo đảm sự cân bằng trong cán cân thanh toán.

- Cam kết liên quan đến vấn đề tiếp cận thị trường: làm rõ những điều kiện cần phải đáp ứng để
có thể tiến hành đàm phán hoặc đưa ra tham khảo ý kiến chuẩn bị cho việc phân bổ hạn ngạch.

Nông nghiệp

- Phát triển nông thôn và an ninh lương thực đối với những nước đang phát triển

- Các nước chậm phát triển nhất và các nước thực sự phải nhập khẩu sản phẩm lương thực

- Tín dụng cho xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu hay các chương trình bảo hiểm

- Hạn mức thuế quan

Các biện pháp kiểm dịch dộng thực vật (SPS)

- Kéo dài thời hạn chuẩn bị cho các nước đang phát triển để các nước này có thể thích ứng với
những biện pháp SPS mới của các nước khác

- Xác định “thời hạn hợp lý” giữa thời điểm công bố một biện pháp SPS mới của một nước và
thời điểm triển khai biện pháp đó trong thực tế

- Nguyên tắc tương đương: áp dụng nguyên tắc theo đó các chính phủ phải chấp nhận rằng các
biện pháp khác mà các chính phủ khác áp dụng có thể tương đương với những biện pháp riêng
của họ và phải đảm bảo được mức độ vệ sinh kiểm dịch tương đương đối với các sản phẩm
thực phẩm và động thực vật

- Xem xét Hiệp định về kiểm dịch động thực vật SPS

- Các nước đang phát triển tham gia vào quá trình xây dựng các quy chuẩn SPS quốc tế

- Hỗ trợ tài chính và kỹ thuật

Dệt may:
- Áp dụng một cách "thực sự" các điều khoản của Hiệp định Dệt may liên quan đến việc sớm đưa
các sản phẩm dệt may vào trong khuôn khổ những quy tắc thông thường của GATT, cũng như
các điều khoản liên quan đến việc xoá bỏ các hạn ngạch

- Điều chỉnh hợp lý việc sử dụng các biện pháp chống bán phá giá

- Có thể xem xét những quy định mới về xuất xứ do các chính phủ quốc gia thông qua

- Yêu cầu các chính phủ thành viên xây dựng chế độ hạn ngạch có lợi cho các nhà sản xuất nhỏ
và các nước chậm phát triển nhất , và nhìn chung, phải tăng hạn ngạch.

Các rào cản kỹ thuật đối với thương mại

- Trợ giúp kỹ thuật cho những nước kém phát triển và xem xét công tác trợ giúp kỹ thuật nói
chung

- Nếu có thể dành “thời hạn hợp lý” là 6 tháng để các nước đang phát triển thích ứng với các
biện pháp mới

- Khuyến khích Tổng giám đốc WTO tiếp tục những nỗ lực trong việc giúp đỡ các nước đang
phát triển tham gia vào quá trình xây dựng các quy chuẩn quốc tế

Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)

- Hội đồng Thương mại hàng hoá phải “xem xét một cách tích cực” yêu cầu của các nước kém
phát triển về việc kéo dài giai đoạn chuyển tiếp 7 năm để loại bỏ những biện pháp không phù
hợp với Hiệp định.

Chống bán phá giá (điều 6 của GATT)

- Không tiến hành hai cuộc điều tra chống bán phá giá trong cùng một năm, trừ phi có những
thay đổi về hoàn cảnh

- Xác định phương thức áp dụng điều khoản đặc biệt liên quan tới các nước đang phát triển (điều
15 - Hiệp định chống bán phá giá). Phương thức này thừa nhận rằng các nước phát triển cần
phải “đặc biệt lưu tâm đến” tình hình của các nước đang phát triển khi họ định áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá

- Xác định cụ thể thời hạn cần thiết để làm rõ khối lượng hàng nhập khẩu phá giá có thể bỏ qua
được hay không; nếu được thì không cần áp dụng một biện pháp chống bán phá giá

- Nâng cao chất lượng của công tác kiểm tra thường niên đối với việc thực thi Hiệp định.

Định giá hải quan (điều 7 của GATT)

- Kéo dài thời hạn chuẩn bị cho các nước đang phát triển trước khi thực thi Hiệp định.

- Chống gian lận thương mại: phương thức hợp tác nhằm trao đổi thông tin, trong đó có cả
thông tin về giá trị xuất khẩu

Quy tắc xuất xứ

- Hoàn thành quá trình thống nhất các quy tắc xuất xứ của các chính phủ thành viên

- Kiểm tra các thoả thuận tạm thời áp dụng trong thời gian chuyển đổi trước khi các quy tắc xuất
xứ mới được thống nhất và có hiệu lực.
Trợ cấp và các biện pháp đối kháng

- Xây dựng một phương pháp xác định những nước đang phát triển thoả mãn điều kiện GNP tính
theo đầu người dưới 1000 đôla Mỹ để có thể cho phép các nước này trợ cấp xuất khẩu

- Đề xuất các quy tắc mới cho phép các nước đang phát triển trợ cấp trong khuôn khổ những
chương trình hướng tới “những mục tiêu phát triển chính đáng” không để việc trợ cấp này bị
trừng phạt bằng các loại thuế đối kháng

- Kiểm tra những điều khoản liên quan tới việc điều tra về thuế đối kháng

- Tái khẳng định rằng những nước kém phát triển nhất được miễn trừ nghĩa vụ cấm trợ cấp xuất
khẩu

- Hướng dẫn cho Uỷ ban trợ cấp kéo dài giai đoạn chuyển đổi đối với một số nước đang phát
triển

Các khía cạnh về quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới thương mại (TRIPS)

- Những khiếu nại “trong trường hợp không vi phạm”: đây là một vấn đề cho đến nay vẫn chưa
được giải quyết; vấn đề này liên quan tới việc giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra xung quanh
việc huỷ bỏ một lợi thế mà không có sự vi phạm đối với Hiệp định TRIPS

- Chuyển giao kỹ nghệ cho các nước kém phát triển nhất.

Các vấn đề đa ngành, tổng hợp

∙ Những điều khoản nào liên quan tới quy chế đối xử đặc biệt và ưu đãi có tính chất bắt
buộc? Đâu là những hậu quả của việc chuyển các điều khoản không có tính bắt buộc thành
các điều khoản mang tính bắt buộc?

∙ Làm thế nào để các biện pháp liên quan tới quy chế đối xử đặc biệt và ưu đãi trở nên thực
tế hơn?

∙ Làm thế nào để quy chế đối xử đặc biệt và ưu đãi được đưa ra thảo luận trong các cuộc
đàm phán mới?

∙ Những ưu đãi của các nước phát triển cần phải được nhân rộng và không được mang tính
phân biệt đối xử, nói cách khác là phải được dành cho tất cả các nước đang phát triển, chứ
không phải chỉ một số nước.

Các vấn đề thực thi còn bỏ ngỏ

∙ Cần phải được giải quyết phù hợp với qui định tại đoạn 12 của Tuyên bố Đô-ha

Các điều khoản cuối cùng

∙ Tổng giám đốc WTO phải làm sao để công tác hỗ trợ kỹ thuật tập trung trước hết cho các
nước đang phát triển để các nước này có thể thực thi những nghĩa vụ bắt buộc hiện đang
được áp dụng trong khuôn khổ WTO, đồng thời để các nước này có thể nâng cao khả năng,
tham gia một cách hữu hiệu vào những cuộc đàm phán tương lai

∙ Ban thư ký WTO phải hợp tác chặt chẽ hơn nữa với các tổ chức quốc tế khác để công tác
hỗ trợ kỹ thuật trở nên thực tế và hiệu quả hơn
Quyết định về vấn đề thực thi có liên quan đến Tuyên bố Đô-ha. Trong tuyên bố này, các bộ
trưởng đã thống nhất về một chương trình hành động trong tương lai nhằm giải quyết các vấn đề
"thực thi" hiện đang bị bỏ ngỏ. Các bộ trưởng đã tuyên bố rằng “các cuộc đàm phán xung quanh
những vấn đề thực thi hiện đang bị bỏ ngỏ sẽ là một trong những nội dung của Chương trình làm
việc” trong những năm tới

Trong Tuyên bố, các bộ trưởng đã xác định hai hướng tiếp cận. Đối với các vấn đề mà phạm vi
quyền đàm phán đã được xác định trong Tuyên bố, mọi việc sẽ được giải quyết theo đúng qui
định.

Những vấn đề khác liên quan đến chủ đề này sẽ được “ưu tiên” giải quyết tại các hội đồng hay
uỷ ban có thẩm quyền của WTO. Các cơ quan này phải báo cáo lên Ủy ban đàm phán thương
mại trước cuối năm 2002 nhằm đưa ra được một “hành động thích hợp”.

Nông nghiệp

(đoạn 13 và 14)

Các cuộc đàm phán về nông nghiệp đã bắt đầu từ đầu năm 2001 theo qui định của điều 20 Hiệp
định thành lập WTO. Tháng 11 năm 2001, vào thời gian diễn ra Hội nghị Bộ trưởng Đô-ha, 121
chính phủ đã nêu ra một số đề xuất cho đàm phán.

Các cuộc đàm phán vẫn tiếp tục nhưng hiện nay chỉ giới hạn trong phạm vi quyền đàm phán đã
nêu trong Tuyên bố Đô-ha với nhiều mốc thời gian được ấn định. Tuyên bố Đô-ha dựa trên kết
quả các công việc đã thực hiên, khẳng định và nêu rõ những mục tiêu phải đạt được và xây
dựng một lịch trình: Từ nay, nông nghiệp sẽ là một phần trong cam kết duy nhất, và cũng như tất
cả các cuộc đàm phán trong khuôn khổ cam kết này, đàm phán về nông nghiệp sẽ phải kết thúc
muộn nhất vào ngày 1 tháng 1 năm 2005.

Tuyên bố cũng tái khẳng định mục tiêu lâu dài đã được Hiệp định thành lập WTO nêu lên : đó là
xây dựng một hệ thống thương mại công bằng và hướng tới thị trường thông qua một chương
trình cải cách cơ bản, bao gồm tăng cường các qui tắc và đưa ra cam kết cụ thể về việc nhà
nước hỗ trợ và trợ cấp cho nông nghiệp. Mục đích là để khắc phục và phòng ngừa những hạn
chế và sai lệch gây ảnh hưởng đến thị trường nông nghiệp thế giới.

Các chính phủ thành viên không có đánh giá trước về kết quả có thể đạt được nhưng đều cam
kết thực hiện các cuộc đàm phán chung với các mục tiêu đặt ra như sau:

∙ Tiếp cận thị trường: cải thiện đáng kể tình hình

∙ Trợ cấp xuất khẩu: giảm tất cả các hình thức trợ cấp xuất khẩu, tiến tới xóa bỏ dần dần hình
thức trợ cấp này

∙ Hỗ trợ trong nước: Giảm đáng kể các biện pháp hỗ trợ có thể làm sai lệch môi trường
thương mại.

Tuyên bố Đô-ha qui định: quy chế đối xử đặt biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển
sẽ là một trong những nội dung của các cuộc đàm phán và sẽ được đưa vào các cam kết mới
cũng như các qui tắc và luật lệ mới hay các qui tắc và luật lệ được hiệu chỉnh để có thể áp dụng
được trên thực tế và để các nước đang phát triển có thể đáp ứng được các nhu cầu của mình
đặc biệt trong lĩnh vực an ninh lương thực và phát triển nông thôn.
Các bộ trưởng đã ghi nhận nhiều vấn đề khác ngoài lĩnh vực thương mại (như bảo vệ môi
trường, an ninh lương thực, phát triển nông thôn, …) được nêu ra trong các đề nghị đàm phán
của các nước thành viên. Họ khẳng định rằng các vấn đề này sẽ được xem xét trong các cuộc
đàm phán như đã dự định trong Hiệp định về nông nghiệp.

Các cuộc đàm phán này diễn ra trong khuôn khổ « các phiên họp bất thường » của Ủy ban
nông nghiệp.

Nông nghiệp: Những mốc quan trọng


Bắt đầu đàm phán: đầu năm 2000
Soạn thảo nội dung và các « phương thức » khác liên quan đến cam kết của các nước : chậm
nhất 31 tháng 3 năm 2003
Dự thảo các cam kết chung của các nước thành viên : chậm nhất Hội nghị bộ trưởng lần thứ 5
năm 2003 (tại Mêhicô)
Báo cáo tổng kết các cuộc đàm phán: Hội nghị bộ trưởng 2003 (tại Mêhicô)

Hạn cuối cùng : 1 tháng 1 năm 2005 trong khuôn khổ một cam kết duy nhất.

Dich vụ :

Các cuộc đàm phán về dịch vụ đã kéo dài 2 năm tính đến thời điểm chúng được đưa vào
chương trình Đô-ha mới.

Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) yêu cầu các chính phủ thành viên thực hiện một
loạt các cuộc đàm phán kế tiếp nhau về các vấn đề đặc thù để dần tiến tới tự do hóa thương mại
dịch vụ. Vòng đàm phán lần thứ nhất phải bắt đầu muộn nhất sau 5 năm tính từ năm 1995.

Vì vậy, các cuộc đàm phán về dịch vụ đã chính thức bắt đầu từ năm 2000 trong khuôn khổ của
Hội đồng Thương mại dịch vụ. Tháng 3 năm 2001, với việc thiết lập được những định hướng chủ
đạo và trình tự đàm phán, Hội đồng này đã hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng trong số các nội
dung đàm phán được giao phó.

Tuyên bố Đô-ha công nhận những tiến bộ đã đạt được, khẳng định lại những định hướng chủ
đạo và trình tự đàm phán và thiết lập một số yếu tố chính trong lịch trình đàm phán, đặc biệt là
thời hạn cuối cùng để kết thúc các cuộc đàm phán trong khuôn khổ một cam kết duy nhất.

Các cuộc đàm phán này diễn ra trong khuôn khổ « các phiên họp bất thường » của Hội đồng
Thương mại và dịch vụ và các phiên họp thường kỳ của các ủy ban hay nhóm công tác hỗ
trợ cho Hội đồng này.

Dich vụ : Những mốc quan trọng

Bắt đầu đàm phán : đầu năm 2000

Xác định các định hướng chủ đạo và trình tự đàm phán : tháng 3 năm 2001

Yêu cầu đầu tiên về vấn đề tiếp cận thị trường : chậm nhất 30 tháng 6 năm 2002
Đ ề xuất đầu tiên về mở cửa thị trường : chậm nhất 31 tháng 3 năm 2003

Báo cáo tổng kết các cuộc đàm phán: Hội nghị bộ trưởng 2003 (tại Mêhicô)

Hạn cuối cùng : 1 tháng 1 năm 2005 trong khuôn khổ một cam kết duy nhất.

Vấn đề tiếp cận thị trường của các sản phẩm phi nông nghiệp

Các bộ trưởng đã nhất trí mở các cuộc đàm phán nhằm giảm thuế quan đối với các sản phẩm
phi nông nghiệp. Mục đích là để "giảm hoặc nếu thích hợp sẽ dỡ bỏ các loại thuế quan, bao gồm
các loại thuế đỉnh - mức thuế suất rất cao, thuế luỹ tiến, cũng như các hàng rào phi thuế quan,
đặc biệt là đối với các sản phẩm xuất khẩu quan trọng của các nước đang phát triển ". Các cuộc
đàm phán sẽ tính đến tất cả các nhu cầu và lợi ích đặc biệt của các nước đang phát triển và các
nước chậm phát triển, đồng thời thừa nhận rằng nguyên tắc có đi có lại trong các cam kết giảm
thuế quan không nhất thiết phải thực hiện một cách tuyệt đối giữa các nước này và các thành
viên khác.

Các thành viên tham gia đàm phán trước hết phải đạt được một sự thống nhất về cách thức
(phương thức) giảm thuế quan (trong khuôn khổ vòng đàm phán Tokyo, các bên đàm phán đã sử
dụng một công thức toán học phù hợp để thực hiện cắt giảm thuế quan cho tất cả các loại sản
phẩm; trong khuôn khổ vòng đàm phán Urugoay, họ đã tiến hành đàm phán việc giảm thuế quan
đối với từng sản phẩm). Các trình tự đã thống nhất bao gồm thực hiện các nghiên cứu và các
biện pháp tăng cường năng lực để hỗ trợ cho các nước chậm phát triển để họ có thể tham gia
đàm phán hiệu quả. Khi trở lại Giơ ne vơ, các thành viên tham gia đàm phán đã quyết định rằng
các phương thức phải được thống nhất trước ngày 31 tháng 5 năm 2003.

Sau 8 vòng đàm phán trong khuôn khổ GATT, các mức thuế suất trung bình hiện nay đã giảm
xuống đến mức thấp nhất, nhưng một số loại thuế vẫn tiếp tục cản trở thương mại, đặc biệt là
xuất khẩu của các nước đang phát triển - ví dụ "các loại thuế đỉnh" là loại thuế quan tương đối
cao, thường áp dụng cho các hàng hoá "nhạy cảm" trong bối cảnh mặt bằng thuế chung không
cao. Đối với các nước phát triển, các loại thuế quan ở mức 15% và cao hơn nhìn chung đều
được coi là "các loại thuế đỉnh".

Về hình thức "thuế luỹ tiến", có thể lấy ví dụ sau: thuế nhập khẩu đánh vào hàng hoá bán thành
phẩm cao hơn so với thuế nhập khẩu nguyên liệu nhưng thấp hơn so với thuế nhập khẩu thành
phẩm. Đây là biện pháp nhằm bảo hộ các ngành công nghiệp chế biến trong nước và không
khuyến khích phát triển hoạt động chế biến ở các nước có nguyên liệu.

Vấn đề tiếp cận thị trường : Những mốc quan trọng

Bắt đầu đàm phán: : tháng 1 năm 2002

Báo cáo tổng kết các cuộc đàm phán: : Hội nghị bộ trưởng lần thứ 5 năm 2003 (tại Mêhicô)

Thời hạn cuối cùng: ngày 1 tháng 1 năm 2005, trong khuôn khổ một cam kết duy nhất.
Quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới thương mại (TRIPS)

TRIPS và y tế công cộng. Trong Tuyên bố Đô-ha, các Bộ trưởng đã nhấn mạnh cần phải triển
khai và giải thích Hiệp định TRIPS theo hướng có lợi cho y tế công cộng. Cụ thể là tạo điều kiện
để mọi người đều được tiếp cận với các loại thuốc hiện có và khuyến khích việc sáng chế ra các
loại thuốc mới. Các bộ trưởng nhắc tới một tuyên bố riêng về chủ đề này.

Tuyên bố riêng về TRIPS và y tế công cộng là để nhằm thoả mãn cho những mối quan tâm lo
lắng về những tác động tiêu cực mà Hiệp định TRIPS có thể gây ra cho khả năng tiếp cận các
loại thuốc.

Tuyên bố nhấn mạnh rằng Hiệp định TRIPS không cản trở và không được cản trở các chính phủ
thành viên trong các hoạt động bảo vệ y tế công cộng. Tuyên bố còn tái khẳng định quyền được
sử dụng các qui định có tính mềm dẻo trong Hiệp định của các chính phủ để họ không còn phải
ngần ngại.

Tuyên bố riêng cũng nêu rõ một số qui định mềm dẻo, đặc biệt là việc cấp các giấy phép bắt
buộc và khả năng nhập khẩu song song (Xem giải thích về những vấn đề này tại trang web của
WTO, phần liên quan đến TRIPS).

Hướng tới những mục tiêu của chương trình Đô-ha, Tuyên bố xác định hai nhiệm vụ đặc thù. Hội
đồng TRIPS phải tìm ra một giải pháp cho những vấn đề có thể đặt ra cho các nước có ít hoặc
không có khả năng sản xuất thuốc khi các nước này cần có giấy phép bắt buộc, và phải trình một
báo cáo về vấn đề này lên Đại hội đồng muộn nhất vào cuối năm 2002. Tuyên bố cũng hoãn thời
hạn thực thi các điều khoản liên quan tới bằng sáng chế dược phẩm đối với những nước chậm
phát triển tới ngày 1 tháng 1 năm 2016.

Chỉ dẫn địa lý – hệ thống đăng ký. Các chỉ dẫn địa lý là tên các địa danh (và đối với một số
nước, là những thuật ngữ gắn với một địa điểm) được sử dụng để nhận dạng các sản phẩm có
một số đặc trưng riêng vì có nguồn gốc xuất xứ từ một số địa điểm nhất định. Hội đồng TRIPS
của WTO đã có những cuộc thảo luận về một hệ thống đăng ký đa phương những chỉ dẫn địa lý
đối với mặt hàng rượu vang và rượu nặng. Tuyên bố Đô-ha quy định thời hạn cho việc hoàn
thành các cuộc đàm phán là Hội nghị bộ trưởng năm 2003.

Các cuộc đàm phán được tiến hành trong khuôn khổ những “phiên họp bất thường” của Hội
đồng TRIPS.

Chỉ dẫn địa lý – "nâng cao hơn nữa mức độ bảo vệ" đối với những sản phẩm khác. Hiệp
định TRIPS qui định một mức độ bảo vệ cao hơn đối với các chỉ dẫn địa lý của mặt hàng rượu
vang và rượu nặng. Điều này có nghĩa là, các chỉ dẫn cần phải được bảo vệ ngay cả khi không
có nguy cơ lừa gạt người tiêu dùng hay cạnh tranh phi pháp. Một số nước muốn đàm phán để
nâng cao hơn nữa mức độ bảo vệ đối với đối với một số sản phẩm khác. Một số khác thì lại phản
đối đề xuất này. Ngoài ra, cuộc tranh luận tại Hội đồng TRIPS còn đề cập tới vấn đề: liệu những
điều khoản xác đáng của Hiệp định TRIPS có thể cho phép WTO mở rộng sự bảo vệ đối với các
sản phẩm khác ngoài rượu hay không.

Tuyên bố Đô-ha giao cho Hội đồng TRIPS trách nhiệm xem xét vấn đề này theo quy định tại
đoạn 12 (phần văn bản đề cập đến các vấn đề thực thi). Theo qui định tại đoạn này, có thể có hai
khả năng: “a) Đối với những trường hợp mà chúng ta xác định được cụ thể phạm vi thẩm quyền
đàm phán trong Tuyên bố này, các vấn đề thực thi đáng quan tâm sẽ phải được đàm phán trong
khuôn khổ thẩm quyền đã xác định; b) các vấn đề thực thi khác còn đang để ngỏ sẽ được ưu tiên
giải quyết tại các cơ quan có thẩm quyền của WTO. Các cơ quan này từ nay đến cuối năm 2002
sẽ phải có báo cáo cho Uỷ ban đàm phán thương mại, được lập ra theo quy định tại đoạn 46
dưới đây, nhằm đưa ra một hành động phù hợp”.

Trong những tài liệu được phân phát tại Hội nghị bộ trưởng, các chính phủ thành viên đã có
những cách hiểu khác nhau về vấn đề quyền đàm phán này.

Áchentina tuyên bố rằng “không có một sự thoả thuận về việc đàm phán “các vấn đề thực thi
khác còn đang để ngỏ” như điểm b) nêu ra và […] từ nay đến cuối năm 2002, cần phải có một sự
đồng thuận để có thể tiến hành đàm phán về những vấn đề này”.

Bungari, Hungari, Ấn độ, Kênya, Liechtenstein, Maurice, Nigeria, Pakistan, Slovakia, Séc,
Slovenia, Sri Lanka, Thuỵ sĩ, Thái lan, Thổ nhĩ kỳ và EU thì lại cho rằng thẩm quyền đàm phán ở
đây đã được uỷ thác và xác định rõ ràng và có thể bắt tay tiến hành đàm phán ngay.

Xem xét lại những điều khoản của Hiệp định TRIPS
Hội đồng TRIPS đã hai lần tiến hành xem xét lại các điều khoản của TRIPS như Hiệp định qui
định : lần thứ nhất xem xét lại điều 27:3 b) có nội dung liên quan đến khả năng được cấp và
không được cấp bằng sáng chế đối với những phát minh liên quan đến thực vật và động vật, đến
việc bảo vệ các giống thực vật; và lần thứ hai xem xét lại tổng thể Hiệp định (như qui định tại
điều 71:1).

Theo Tuyên bố Đô-ha, các cuộc thảo luận tại Hội đồng TRIPS về việc xem xét lại Hiệp định hoặc
về một vấn đề thực thi khác đều phải chú ý đến các khía cạnh sau: quan hệ giữa Hiệp định
TRIPS với Hiệp ước đa dạng sinh học của Liên hiệp quốc; bảo vệ các tri thức truyền thống và tri
thức dân gian; và những vấn đề mới đáng quan tâm được các chính phủ thành viên nêu ra trong
khi xem xét lại các điều khỏan của Hiệp định. Tuyên bố còn cho biết thêm rằng trong các cuộc
thảo luận này, Hội đồng TRIPS sẽ được định hướng theo các mục tiêu (được nêu ở điều 7) và
các nguyên tắc (điều 8) của Hiệp định TRIPS và phải luôn luôn lưu tâm vấn đề phát triển.

Sở hữu trí tuệ : Những mốc quan trọng

Báo cáo lên Đại Hội đồng về giải pháp liên quan đến các giấy phép bắt buộc và sự thiếu khả năng
sản xuất thuốc : cuối năm 2002

Báo cáo lên Ủy ban đàm phán Thương mại về hoạt động liên quan đến các vấn đề thực thi còn
bỏ ngỏ theo qui định tại đoạn 12 : cuối năm 2002

Thời hạn đàm phán về hệ thống đăng ký các chỉ dẫn địa lý (đối với rượu vang và rượu nặng) :
Hội nghị bộ trưởng lần thứ 5 năm 2003 (tại Mêhicô)

Thời hạn đàm phán theo yêu cầu cụ thể của Tuyên bố Đô-ha : ngày 1 tháng 1 năm 2005 sau Hội
nghị bộ trưởng 2003 (tại Mêhicô) trên cơ sở một « sự đồng thuận rõ ràng » về các phương thức

Thời hạn áp dụng các điều khỏan về bằng phát minh sáng chế dược phẩm đối với các nước
chậm phát triển : 2016

Liên hệ giữa thương mại và đầu tư


Vấn đề này được gọi tên là “vấn đề Singapour” vì nhóm công tác xem xét nghiên cứu vấn đề này
do Hội nghị bộ trưởng tại Singapour năm 1996 thiết lập.
Theo Tuyên bố Đô-ha, cho tới Hội nghị bộ trưởng năm 2003, các công việc của nhóm công tác
phải tập trung làm rõ những điểm sau đây : phạm vi và nội dung của các vấn đề; tính minh bạch;
quy tắc không phân biệt đối xử; cách thức chuẩn bị các cam kết đưa ra đàm phán; các điều
khoản liên quan đến phát triển; những ngoại lệ và các biện pháp tự vệ liên quan đến cán cân
thanh toán; tham khảo ý kiến và giải quyết các tranh chấp. Các cam kết đưa ra đàm phản sẽ theo
như mô hình các cam kết được thông qua trong lĩnh vực dịch vụ, hay nói cách khác các lĩnh vực
có cam kết được đưa ra là các lĩnh vực được xác định cụ thể – “danh sách tích cực” – thay vì
đưa ra những cam kết chung và liệt kê các ngoại lệ.

Tuyên bố còn nêu ra một số các nguyên tắc, ví dụ như sự cần thiết phải xem xét một cách cân
đối nhiều khía cạnh: lợi ích của các nước đầu tư ra nước ngoài cũng như của các nước tiếp
nhận đầu tư nước ngoài; quyền của các quốc gia trong xây dựng quy chế đầu tư, vấn đề phát
triển, lợi ích chung và những hoàn cảnh riêng của mỗi nước. Tuyên bố cũng nhấn mạnh đến sự
ủng hộ và hỗ trợ kỹ thuật đối với những nước đang phát triển và chậm phát triển cũng như mối
quan hệ hợp tác giữa WTO và các tổ chức quốc tế khác như UNCTAD.

Thương mại và đầu tư : Những mốc quan trọng

Tiếp tục thảo luận trong nhóm công tác như lịch trình đã định : đến Hội nghị bộ trưởng lần thứ 5
năm 2003 (tại Mêhicô)

Đàm phán : sau Hội nghị bộ trưởng 2003 (tại Mêhicô) trên cơ sở một « sự đồng thuận rõ ràng »
về các phương thức

Hạn cuối cùng : 1 tháng 1 năm 2005 trong khuôn khổ một cam kết duy nhất.

Mối quan hệ qua lại giữa thương mại và chính sách cạnh tranh

(các đoạn từ 23 đến 25)

Đây là một "vấn đề Singapore" khác. Một nhóm công tác đã được thành lập năm 1996 để nghiên
cứu giải quyết vấn đề này.

Đến Hội nghị bộ trưởng năm 2003, các cuộc thảo luận của nhóm công tác phải tập trung làm
sàng tỏ các vấn đề sau theo tinh thần của Tuyên bố:

- nguyên tắc cơ bản, bao gổm cả sự minh bạch, không phân biệt đối xử và công bằng về thủ
tục, và các điều khoản liên quan đến các thoả thuận không có lý do chính đáng (những thoả
thuận được chính thức đưa ra)

- các phương thức hợp tác tự nguyện trong lĩnh vực chính sách cạnh tranh giữa các chính
phủ thành viên của WTO

- hỗ trợ cho việc củng cố các thể chế chịu trách nhiệm về vấn đề cạnh tranh trong các nước
đang phát triển thông qua các biện pháp củng cố năng lực.

Tuyên bố chỉ ra rằng các cuộc thảo luận này sẽ phải tính đến tất cả các nhu cầu của phát triển và
dự kiến một sự hợp tác kỹ thuật và tăng cường năng lực trong các lĩnh vực như phân tích và
soạn thảo các chính sách để các nước đang phát triển có thể đánh giá một cách chính xác hơn
lợi ích của việc tham gia hợp tác đa phương chặt chẽ hơn vì những mục tiêu phát triển. Một sự
hợp tác với các tổ chức khác như UNCTAD cũng được nêu ra trong Tuyên bố.
Thương mại và chính sách cạnh tranh : Những mốc quan trọng

Tiếp tục thảo luận trong nhóm công tác như lịch trình đã định : đến Hội nghị bộ trưởng lần thứ 5
năm 2003 (tại Mêhicô)

Đàm phán : sau Hội nghị bộ trưởng 2003 (tại Mêhicô) trên cơ sở một « sự đồng thuận rõ ràng »
về các phương thức

Hạn cuối cùng : 1 tháng 1 năm 2005 trong khuôn khổ một cam kết duy nhất.

Minh bạch trong mua sắm chính phủ

(đoạn 26)

Đây là “vấn đề Singapore" thứ 3. Vấn đề này do một nhóm công tác được thành lập tại Hội nghị
Bộ trưởng Singapore năm 1996 chịu trách nhiệm giải quyết.

Tuyên bố Đô-ha nêu rõ “các cuộc đàm phán chỉ giới hạn ở các khía cạnh liên quan đến vấn đề
minh bạch và vì vậy sẽ không hạn chế khả năng các nước ưu tiên hàng hóa và các nhà cung cấp
trong nước.” – đây là một điều khoản độc lập không liên quan gì đến Hiệp định đa phương về
mua sắm chính phủ.

Tuyên bố Đô-ha cũng nhấn mạnh đến những lo lắng về vấn đề phát triển, đến sự hỗ trợ kỹ thuật
và tăng cường năng lực.

Minh bạch trong mua sắm chính phủ : Những mốc quan trọng

Tiếp tục thảo luận trong nhóm công tác như lịch trình đã định đến Hội nghị bộ trưởng lần thứ 5
năm 2003 tại Mêhicô

Đàm phán : sau Hội nghị bộ trưởng 2003 (tại Mêhicô) trên cơ sở một « sự đồng thuận rõ ràng »
về các phương thức

Hạn cuối cùng : 1 tháng 1 năm 2005 trong khuôn khổ một cam kết duy nhất.

Tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi thương mại

(đoạn 27)

Đây là “vấn đề Singapore “thứ 4 được nêu ra tại Hội nghị Bộ trưởng năm 1996.

Tuyên bố Đô-ha thừa nhận những lý lẽ khuyến khích việc “thúc đẩy lưu thông, giải phóng và
miễn thủ tục hải quan cho hàng hóa trao đổi, kể cả hàng quá cảnh, và sự cần thiết hỗ trợ kỹ thuật
và tăng cường năng lực trong lĩnh vực này.”

Đến Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5 năm 2003, Hội đồng về Thương mại hàng hóa chịu trách
nhiệm về vấn đề này từ năm 1997 sẽ xem xét và nếu thấy thích hợp sẽ làm sáng tỏ và cải thiện
những khía cạnh then chốt của điều 5 (“tự do quá cảnh”), điều 8 (“phí và thủ tục xuất nhập khẩu”)
và điều 10 (“công bố và thi hành các qui định về thương mại”) cùa Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại (GATT 1994), và xác định các nhu cầu và ưu tiên của các nước thành viên, đặc
biệt là các nước đang phát triển và các nước kém phát triển nhất trong lĩnh vực tạo điều kiện
thuận lợi cho trao đổi thương mại”.

Tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi thương mại :Những mốc quan trọng

Tiếp tục thảo luận tại Hội đồng về Thương mại hàng hóa như lịch trình đã định đến Hội nghị bộ
trưởng lần thứ 5 năm 2003 tại Mêhicô

Đàm phán : sau Hội nghị bộ trưởng 2003 (tại Mêhicô) trên cơ sở một « sự đồng thuận rõ ràng »
về các phương thức

Hạn cuối cùng : 1 tháng 1 năm 2005 trong khuôn khổ một cam kết duy nhất.

Qui tắc của WTO : chống phá giá và trợ cấp

(đoạn 27)

Các Bộ trưởng đều nhất trí đàm phán về Hiệp định chống phá giá (điều 6 của GATT) và Hiệp
định về trợ cấp. Mục đích là để làm sáng tỏ và cải thiện qui tắc luật lệ, mà không phải thay đổi
các khái niệm và nguyên tắc cơ bản của các hiệp định này, và đồng thời lại có thể tính đến nhu
cầu của các nước thành viên đang phát triển và kém phát triển nhất.

Trong giai đoạn đầu của đàm phán, các bên tham gia sẽ phải chỉ ra những điều khoản cần phải
làm sáng tỏ và cải thiện trong giai đoạn hai. Các bộ trưởng đặc biệt chú trọng tới vấn đề trợ cấp
cho các cơ sở đánh cá, coi đây là là một lĩnh vực quan trọng đối với các nước đang phát triển. Vì
vậy, các bên đàm phán cần phải làm sáng tỏ và cải thiện các qui tắc luật lệ của WTO.

Chống phá giá và trợ cấp: Những mốc quan trọng


Bắt đầu đàm phán: tháng 1 năm 2002

Báo cáo tổng kết các cuộc đàm phán: : Hội nghị bộ trưởng lần thứ 5 năm 2003 tại Mêhicô

Hạn cuối cùng : 1 tháng 1 năm 2005 trong khuôn khổ một cam kết duy nhất.

Qui tắc của WTO : các hiệp định thương mại khu vực

(đoạn 29)

Theo các qui tắc của WTO, các hiệp định thương mại khu vực phải thỏa mãn một số điều kiện.
Nhưng cách hiểu nội dung của các qui tắc này đã từng là một vấn đề gây tranh cãi và là trung
tâm của các cuộc thảo luận trong Ủy ban về các hiệp định thương mại khu vực. Do vậy, từ năm
1995, ủy ban này đã không thể đánh giá một cách chính xác các hiệp định thương mại có phù
hợp với các qui định của WTO hay không.

Hiện nay, đây là một nhiệm vụ tế nhị và quan trọng, nhất là khi tất cả các chính phủ thành viên
đều tham gia các hiệp định khu vực, hoặc đang đàm phán, hoặc dự định sẽ đàm phán. Trong
tuyên bố Đô-ha, các nước thành viên đã nhất trí đàm phán một giải pháp có tính đến vai trò của
các hiệp định này trong phát triển.
Tuyên bố chủ trương thực hiện các cuộc đàm phán nhằm « làm sáng tỏ và cải thiện các luật lệ
và thủ tục được qui định trong các điều khỏan hiện hành của WTO về các hiệp định thương mại
khu vực. Các cuộc đàm phán sẽ tính đến các khía cạnh liên quan đến phát triển của các hiệp
định thương mại khu vực ».

Các cuộc đàm phán này nằm trong lịch trình chung áp dụng cho hầu hết các cuộc đàm phán theo
Tuyên bố Đô-ha và sẽ phải hoàn thành vào ngày 1 tháng 1 năm 2005. Hội nghị bộ trưởng lần thứ
5 năm 2003 tại Mêhicô phải tổng kết những tiến bộ đã đạt được và nếu cần phải đưa ra những
định hướng chính trị và các quyết định cần thiết.

Các cuộc đàm phán diễn ra trong khuôn khổ Nhóm đàm phán về qui tắc.

Các hiệp định thương mại khu vực: Những mốc quan trọng
Bắt đầu đàm phán: tháng 1 năm 2002

Báo cáo tổng kết các cuộc đàm phán: : Hội nghị bộ trưởng lần thứ 5 năm 2003 tại Mêhicô

Hạn cuối cùng : 1 tháng 1 năm 2005 trong khuôn khổ một cam kết duy nhất.

Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp

(đoạn 30)

Hội nghị Bộ trường Marrakesh năm 1994 đã yêu cầu các chính phủ thành viên WTO thực hiện
việc rà xoát lại Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp (hiệp định về giải quyết tranh chấp của
WTO) trong 4 năm kể từ khi Hiệp định WTO có hiệu lực (cụ thể chậm nhất là ngày 1 tháng 1 năm
1999).

Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) đã bắt đầu xem xét lại văn bản này từ cuối năm 1997, và
đã tổ chức nhiều cuộc họp không chính thức trên cơ sở các đề xuất và các câu hỏi nêu ra của
các nước thành viên. Nhiều nước trong số này, nếu không muốn nói là tất cả đều nghĩ rằng cần
phải hoàn thiện hơn Bản ghi nhớ này. Tuy nhiên, Cơ quan giải quyết tranh chấp đã không đạt
được một sự đồng thuận về kết quả của công tác rà xoát lại.

Tuyên bố Đô-ha chủ trương thực hiện các cuộc đàm phán nhằm mục đích đạt được một sự
thống nhất muộn nhất vào tháng 5 năm 2003. Các cuộc đàm phán này phải dựa trên cơ sở kết
quả các công việc đã hoàn thành trước đó và các đề xuất bổ sung của các thành viên. Tuyên bố
(đoạn 47) nêu rõ rằng các cuộc đàm phán về Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp sẽ không nằm
trong cam kết duy nhất, điều này có nghĩa chúng sẽ không liên quan đến sự thành công hay thất
bại của các cuộc đàm phán khác được Tuyên bố nêu ra.

Các cuộc đàm phán này diễn ra trong khuôn khổ « các phiên họp bất thường » của Cơ quan
giải quyết tranh chấp.

Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp : Những mốc quan trọng

Bắt đầu đàm phán: tháng 1 năm 2002


Hạn cuối cùng : tháng 5 năm 2003, không nằm trong khuôn khổ một cam kết duy nhất

Thương mại và môi trường

(các đoạn từ 31 đến 33)

Các cuộc đàm phán mới

Các hiệp định đa phương về môi trường (MEA). Các Bộ trưởng thoả thuận sẽ tiến hành
thương lượng về tương quan giữa các qui định hiện hành của WTO và các nghĩa vụ thương mại
đặc được thù qui định trong các hiệp định đa phương về môi trường. Nội dung cụ thể của các
cuộc thương lượng sẽ là việc áp dụng các qui định của WTO đối với các nước thành viên WTO
có tham gia các hiệp định về môi trường, đặc biệt là tương quan giữa các qui định này với các
biện pháp thương mại được đưa ra trong khuôn khổ các hiệp định về môi trường.

Cho đến nay, chưa từng có biện pháp thương mại nào được đưa ra trong khuôn khổ một hiệp
định về môi trường lại bị phản đối tại GATT/WTO.

Trao đổi thông tin. Các Bộ trưởng thoả thuận sẽ thương lượng về qui trình trao đổi thông tin
thường xuyên giữa các ban thư ký của các hiệp định môi trường và WTO. Uỷ ban về thương mại
và môi trường tổ chức hàng năm một hoặc hai cuộc họp với các ban thư ký của MEA khác nhau
nhằm xem xét những qui định về thương mại cũng như các cơ chế giải quyết tranh chấp có trong
các hiệp định này. Qui trình mới về trao đổi thông tin có thể giúp mở rộng qui mô hợp tác giữa
WTO và MEA.

Qui chế quan sát viên. Hiện nay, việc trao qui chế quan sát viên tại WTO cho các tổ chức quốc
tế cấp chính phủ đang bị phong toả vì những lý do chính trị. Các cuộc đàm phán sẽ phải giúp xác
định được các tiêu chí đối với việc này..

Môi trường: những mốc quan trọng

Báo cáo của Uỷ ban đệ trình các Bộ trưởng: Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5, 2003 (Mê-hi-cô)

Báo cáo tổng kết các cuộc đàm phán: Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5, 2003 (Mê-hi-cô)

Hạn cuối cùng: 1/1/2005, các nước đều phải chấp nhận toàn bộ kết quả của các cuộc đàm phán

Những trở ngại đối với thương mại hàng hoá và dịch vụ môi trường. Các Bộ trưởng cũng
thoả thuận đàm phán về việc giảm bớt hoặc loại bỏ các trở ngại quan thuế và phi quan thuế đối
với thương mại hàng hoá và dịch vụ môi trường, chẳng hạn như đối với các bộ đổi điện xúc tác,
các bộ lọc khí hoặc các dịch vụ tư vấn về quản lý nước thải.

Trợ cấp cho ngành đánh cá. Các Bộ trưởng thoả thuận sẽ làm rõ và cải tiến các qui định của
WTO về trợ cấp cho ngành đánh cá. Uỷ ban về thương mại và môi trường đã xem xét vấn đề
này từ nhiều năm nay. Các công trình nghiên cứu đều cho thấy các khoản trợ cấp dạng này có
thể gây tác hại đến môi trường nếu như chúng làm tăng quá mức số lượng những người đánh
cá tham gia khai thác các nguồn lợi thuỷ sản có hạn hiện nay.
Các cuộc đàm phán về những vấn đề trên, kể cả việc định nghĩa thế nào mới là hàng hoá và dịch
vụ môi trường, được tiến hành trong khuôn khổ “các phiên họp bất thường” của Uỷ ban về
thương mại và môi trường. Còn các cuộc đàm phán về khả năng tiếp cận thị trường của các
hàng hoá và dịch vụ môi trường thì được tiến hành trong khuôn khổ Nhóm đàm phán về tiếp
cận thị trường và “các phiên họp bất thường” của Hội đồng về thương mại dịch vụ.

Các công việc của Uỷ ban

Các Bộ trưởng đã chỉ thị cho Uỷ ban về thương mại và môi trường, trong khuôn khổ các cuộc
đàm phán hiện nay, phải quan tâm đặc biệt đến các lĩnh vực sau:

• Tác động của các biện pháp về môi trường đối với khả năng tiếp cận thị trường, đặc biệt là
của các nước đang phát triển.

• Đảm bảo lợi ích trên cả ba phương diện: khi nào thì việc loại bỏ hoặc giảm bớt các hạn chế
và rào cản đối với trao đổi sẽ đồng thời có lợi cho thương mại, môi trường và phát triển.

• Quyền sở hữu trí tuệ. Đoạn 19 trong Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng trao trách nhiệm cho
Hội đồng TRIPS phải tiếp tục làm rõ quan hệ giữa Hiệp định về TRIPS và Công ước đa dạng
sinh học. Các Bộ trưởng cũng yêu cầu Uỷ ban về thương mại và môi trường phải tiếp tục
xem xét những điều khoản xác đáng của Hiệp định về TRIPS.

• Những qui định về dán mác sinh thái. Uỷ ban về thương mại và môi trường chịu trách nhiệm
nghiên cứu tác động của việc dán mác sinh thái đối với thương mại và xem xét liệu các qui
định hiện nay của WTO có gây trở ngại cho chính sách dán mác sinh thái hay không. Các
cuộc thảo luận về vấn đề này cùng lúc cũng được tiến hành tại Uỷ ban về các rào cản kỹ
thuật trong thương mại (OTC).

• Đối với tất cả những vấn đề trên (tiếp cận thị trường, phương thức đảm bảo lợi ích trên cả
ba phương diện, sở hữu trí tuệ và dán mác sinh thái): Uỷ ban về thương mại và môi trường
phải vừa xem xét, vừa xác định liệu những qui định nào của WTO cần được làm sáng tỏ.

Những vấn đề chung. Các Bộ trưởng thừa nhận tầm quan trọng của các chương trình trợ giúp kỹ
thuật và tăng cường năng lực cho các nước đang phát triển trong lĩnh vực thương mại và môi
trường. Các Bộ trưởng khuyến khích các nước thành viên chia xẻ những hiểu biết chuyên môn
và kinh nghiệm của mình trong việc xem xét giải quyết các vấn đề môi trưởng ở cấp quốc gia.

Thương mại điện tử

(đoạn 34)

Thương mại điện tử: những mốc quan trọng

Báo cáo về những tiến bộ mới trong đàm phán: Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5, 2003 (Mê-hi-cô)

Tuyên bố Đô-ha xác nhận những công việc đã được tiến hành trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Tuyên bố cũng chỉ thị cho Đại hội đồng nghiên cứu các phương thức dàn xếp thể chế phù hợp
nhất sao cho đảm bảo được chương trình làm việc Đô-ha, sau đó báo cáo những tiến bộ mới
trong đàm phán cho Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5.
Được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 2 (Giơ-ne-vơ, 1998), Tuyên bố về thương mại
điện tử đã nêu rõ các nước thành viên của WTO sẽ vẫn duy trì cách làm của mình, đó là không
đánh thuế trên các giao dịch điện tử. Tuyên bố Đô-ha cũng đề cập đến việc các nước thành viên
sẽ duy trì biện pháp này cho đến Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5.

Các nền kinh tế nhỏ

(đoạn 36)

Các nền kinh tế nhỏ: những mốc quan trọng sắp tới

Các khuyến nghị: Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5, 2003 (Mê-hi-cô)

Sự tham gia của các nền kinh tế nhỏ vào nền thương mại thế giới đang vấp phải những rào cản
rất lớn, chẳng hạn như các nền kinh tế này không có các nguồn tiết kiệm qui mô, thiếu các nguồn
tài nguyên.

Tuyên bố Đô-ha giao trách nhiệm cho Đại hội đồng xem xét các vấn đề này và, tại Hội nghị Bộ
trưởng sắp tới, kiến nghị những biện pháp thương mại giúp tăng cường khả năng hội nhập của
các nền kinh tế nhỏ.

Thương mại, nợ và tài chính

(đoạn 37)

Nợ và tài chính: những mốc quan trọng

Báo cáo của Đại hội đồng: Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5, 2003 (Mê-hi-cô)

Nhiều nước đang phát triển hoặc đang phải đương đầu với vấn đề nợ nước ngoài trầm trọng
hoặc đã từng lâm vào khủng hoảng tài chính. Tại Đô-ha, các Bộ trưởng đã quyết định thành lập
một Nhóm công tác về mối quan hệ giữa thương mại, nợ và tài chính nhằm xem xét phương
thức giải quyết lâu dài vấn đề này bằng các biện pháp thương mại. Nhóm công tác sẽ phải báo
cáo Đại hội đồng trước khi Đại hội đồng báo cáo Hội nghị Bộ trưởng lần tới.

Thương mại và chuyển giao công nghệ

(trang 37)

Chuyển giao cộng nghệ: những mốc quan trọng

Báo cáo của Đại hội đồng: Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5, 2003 (Mê-hi-cô)

Trong các Hiệp định của WTO có nhiều qui định nêu sự cần thiết phải có chuyển giao công nghệ
giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển.
Tuy nhiên cũng cần phải biết chính xác trên thực tế công nghệ sẽ được chuyển giao như thế nào
và liệu trong khuôn khổ WTO có cần phải có những biện pháp đặc biệt khuyến khích chuyển giao
công nghệ này theo hướng này hay không.

Tại Đô-ha, các Bộ trưởng đã quyết định thành lập một nhóm công tác về vấn đề này. Nhóm
công tác sẽ phải báo cáo Đại hội đồng trước khi Đại hội đồng báo cáo Hội nghị Bộ trưởng lần tới.

Hợp tác kỹ thuật và tăng cường năng lực

(các đoạn từ 38 đến 41)

Tại nhiều đoạn của Tuyên bố Đô-ha, các Chính phủ thành viên của WTO đã đưa ra các cam kết
mới về hợp tác kỹ thuật và tăng cường năng lực.

Chẳng hạn, tại phần về mối liên hệ giữa thương mại và đầu tư, các Chính phủ thành viên đã yêu
cầu (đoạn 21) phải dành nhiều nỗ lực hơn nữa cho hỗ trợ kỹ thuật và tăng cường năng lực.

Dưới đề mục “hợp tác kỹ thuật và tăng cường năng lực”, đoạn 41 đã liệt kê tất cả những đoạn
trong Tuyên bố Đô-ha có nêu cam kết về hợp tác kỹ thuật: đoạn 16 (khả năng tiếp cận thị trường
của các hàng hoá phi nông nghiệp), đoạn 21 (thương mại và đầu tư), đoạn 24 (thương mại và
chính sách cạnh tranh), đoạn 26 (tính minh bạch trong mua sắm của chính phủ), đoạn 27 (tạo
thuận lợi cho trao đổi), đoạn 33 (môi trường), các đoạn từ 38 đến 40 (hợp tác kỹ thuật và tăng
cường năng lực), các đoạn 42 và 43 (các nước kém phát triển nhất). (Đoạn 2 của Lời mào đầu
cũng được liệt kê).

Dưới đề mục này (các đoạn từ 38 đến 41), các Chính phủ thành viên của WTO đã khẳng định lại
tất cả các cam kết về hợp tác kỹ thuật và tăng cường năng lực của Tuyên bố Đô-ha, đồng thời bổ
sung thêm một số cam kết chung:

• Cùng với các cơ quan chức năng khác, Ban thư ký phải khuyến khích các nước thành viên
đang phát triển của WTO coi thương mại là một nhân tố quan trọng trong cuộc chiến giảm
đói nghèo và đưa các biện pháp thương mại vào trong chiến lược phát triển của mình.

• Tuyên bố Đô-ha đã thiết lập một chương trình làm việc, trong đó ưu tiên được dành cho các
nền kinh tế nhỏ dễ bị tổn thương, các nền kinh tế đang chuyển đổi cũng như cho các nước
thành viên hoặc quan sát viên không có cơ quan đại diện thường trực tại Giơ-ne-vơ.

WTO và các tổ chức quốc tế liên quan khác phải cung cấp hỗ trợ kỹ thuật trong khuôn khổ một
chính sách tổng thể phù hợp.

Hợp tác kỹ thuật: những mốc quan trọng

Tăng 80% mức tài trợ cho hỗ trợ kỹ thuật; thành lập Quỹ phân bổ đặc biệt dành cho chương trình
Đô-ha vì sự phát triển: tháng 12/2001

Báo cáo của Tổng Giám đốc trước Đại hội đồng: tháng 12/2002

Báo cáo của Tổng Giám đốc trước các Bộ trưởng: Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5, 2003 (Mê-hi-
cô)
Tổng Giám đốc sẽ có báo cáo trước Đại hội đồng vào tháng 12/2002, sau đó là tại Hội nghị
Bộ trưởng lần thứ 5 về việc thực hiện và thống nhất các cam kết mới này.

Sau khi Tuyên bố Đô-ha ra chỉ thị về việc soạn thảo kế hoạch đảm bảo tài chính lâu dài cho hỗ
trợ kỹ thuật của WTO, Đại hội đồng đã thông qua một ngân sách mới, vào ngày 20/12/2001 (1
tháng sau Hội nghị Đô-ha), theo đó mức tài trợ cho hỗ trợ kỹ thuật được tăng 80%. Đại hội đồng
cũng thành lập một quỹ phân bổ đặc biệt dành cho chương trình Đô-ha vì sự phát triển với tổng
ngân sách là 15 triệu Phờ-răng Thuỵ Sĩ.

Các nước kém phát triển nhất

(các đoạn 42 và 43)

Các nước kém phát triển nhất: những mốc


quan trọng

Báo cáo Đại hội đồng: tháng 7/2002

Nhiều nước phát triển đã giảm đáng kể hoặc huỷ bỏ hoàn toàn thuế quan đánh vào hàng hoá
nhập khẩu từ những nước kém phát triển nhất (LDC).

Trong Tuyên bố Đô-ha, các Chính phủ thành viên của WTO đã cam kết vì mục tiêu không đánh
thuế, không áp đặt hạn ngạch đối với hàng hoá có xuất xứ từ những nước LDC. Các Chính phủ
thành viên cũng cam kết xem xét bổ sung những biện pháp giúp nâng cao khả năng tiếp cận thị
trường cho xuất khẩu của các nước này.

Ngoài ra, các nước thành viên thoả thuận sẽ giúp các nước kém phát triển nhất đàm phán nhanh
hơn và dễ dàng hơn việc gia nhập WTO.

Một phần của hỗ trợ kỹ thuật sẽ được đặc biệt dành cho các nước kém phát triển nhất. Tuyên bố
Đô-ha khẩn thiết đề nghị các nước thành viên tài trợ của WTO tăng đáng kể đóng góp của
mình.

Ngoài ra, Tiểu ban về LDC (cơ quan trực thuộc Uỷ ban về thương mại và phát triển của WTO)
đã được giao nhiệm vụ soạn thảo một chương trình làm việc trên cơ sở các yếu tố thương mại
đã được nêu trong tuyên bố của Hội nghị Liên Hợp Quốc về các nước kém phát triển nhất. Tiểu
ban phải báo cáo Đại hội đồng về chương trình làm việc này tại phiên họp đầu tiên của Đại hội
đồng trong năm 2002.

Đối xử đặc biệt và ưu đãi

(đoạn 44)

Đối xử đặc biệt và đối xử ưu đãi : những mốc quan trọng sắp tới

Các khuyến nghị với Đại hội đồng: tháng 7/2002

Trong các Hiệp định của WTO có những qui định dành riêng cho các nước đang phát triển một
số quyền ưu đãi đặc biệt. Chẳng hạn như các điều khoản qui định các nước đang phát triển
được quyền thực hiện các hiệp định và cam kết trong khoảng thời gian lâu hơn hay các biện
pháp giúp các nước này tăng cường khả năng thương mại của mình.

Trong Tuyên bố Đô-ha, các Chính phủ thành viên nhất trí xem xét lại theo hướng củng cố hoặc
làm rõ hơn tất cả các qui định về đối xử đặc biệt và đối xử ưu đãi.

Cụ thể, Tuyên bố (cùng với Quyết định về các vấn đề cần quan tâm khi thực hiện Tuyên bố) giao
trách nhiệm cho Uỷ ban về thương mại và phát triển xác định xem đâu là những qui định bắt
buộc về đối xử đặc biệt và đối xử ưu đãi, đồng thời nghiên cứu hệ quả của việc chuyển những
qui định không mang tính ràng buộc thành những qui định bắt buộc.

Thể theo Quyết định về các vấn đề cần quan tâm khi thực hiện Tuyên bố, Uỷ ban sẽ phải đệ trình
Đại hội đồng một số khuyến nghị trước tháng 7/2002.

You might also like