You are on page 1of 64

TAP DOAN TOI AC LE DUAN: MOT BAY CHO

DAI
http://toiac.blogspot.com/

Bí Ẩn Cuộc Đời Lê Duẩn

Bí Ẩn Cuộc Đời Lê Duẩn


» Tác giả : Hứa Hoành
» Dịch giả :
» Thể lọai: Lịch Sử
» Số lần đọc: 3207

1. Bí Ẩn Cuộc Đời Lê Duẩn

Lê Duẩn
Người CS nào cũng có cuộc đời ly kỳ, do họ cố tình che dấu,
ngụy trang để hoạt động. Lê Duẩn (1907-1986) từng là Bí
thư của đảng CSVN, nhưng là 1 trong những nhân vật lãnh
đạo có trình độ học thức kém nhất, chỉ ở bậc Tiểu học. Do
đó, ông ta tàn ác đối với đồng bào còn hơn kẻ thù ngoại
nhân. Ông là người có tính tình cục mịch như nông dân, tính
cọc cằn.

Sau năm 1975, 1 cán bộ cao cấp hỏi ông về chính sách đối
đãi với những sĩ quan miền Nam thì Duẩn trả lời bằng cách
ra dấu lấy tay quẹt ngang cổ (có nghĩa là giết). Chủ trương
tàn bạo, có tính thiếu nhân tính của người lãnh đạo CS, làm
cho hàng trăm ngàn sĩ quan cao cấp của QLVNCH phải chết
trong các trại cải tạo, phơi thây trong rừng thiêng nước độc,
gieo tang tóc đau thương cho gia đình họ. Cuộc đời của Lê
Duẩn có nhiều bí ẩn ít ai biết rõ. Tài liệu này được viết dựa.
theo những lời kể của người trong cuộc cũng như dựa theo 1
vài tài liệu khác, nhất là do sự giúp đỡ của Xuân Vũ và
Dương Đình Lôi, họ đã cho biết những chi tiết sống thực mà
chính họ đã chứng kiến.

Lê Duẩn, còn được biết là Lê Văn Duẩn, Lê Văn Nhuận hay


anh Ba, người thôn Bích La, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng
Trị, sinh ngày 7/4/1907 trong 1 gia đình sống bằng nghề
đóng quan tài. Chỉ được theo học hết cấp Tiểu học ở Triệu
Phong. Năm 18 tuổi, Lê Duẩn xin vào làm cho Sở Hỏa xa
Quảng Trị. Theo nhiều người biết thì ban đầu Duẩn làm
người "bẻ ghi", cầm cờ hiệu cho xe lửa mỗi khi vào sân ga.
Năm 21 tuổi, Duẩn tham gia hoạt động chính trị bí mật
chống Pháp, gia nhập "Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội",
là tiền thân của đảng CSVN.

1 năm sau, khi đảng CSVN được thành lập ở Hong Kong,
3/2/1930, Duẩn được cử làm Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Sau
cuộc khởi nghĩa thất bại "Sô Viết Nghệ Tỉnh", Duẩn bị Pháp
bắt giam ở Hỏa Lò rồi đày lên nhà tù Sơn La (1931-1936).

Năm 1936, Mặt Trận Bình Dân lên cầm quyền ở Pháp, nới
lỏng chế dộ cai trị thuộc địa. Tại Đông Dương, Pháp phóng
thích 1 số chính trị phạm. Lê Duẩn được tha trong dịp này.
Về Trung Kỳ, Duẩn lại tiếp tục hoạt động. 1 năm sau, Duẩn
được cử làm Ủy viên Xứ ủy Trung Kỳ (1937-1939). Sở dĩ
Duẩn được tiếp tục tiến cử vào chức vụ cao hơn là nhờ xuất
thân từ giai cấp nghèo khổ, ít học, trung kiên. Năm 1939,
Duẩn được vào Ban chấp hành Trung ương đảng (Ủy Viên
Thường Vụ Lâm Thời Trung ương đảng, 1939-1940), và được
phái vào Saigon hoạt động. Bấy giờ đảng viên CS ở miền
Nam chỉ có 1 nhúm người. Lúc đó ở Nam Kỳ có Nguyễn Văn
Cừ là Tổng bí thư, và Duẩn dưới quyền của Cừ.

Tháng 8/1939, Đảng CS Liên xô ký hiệp ước thân thiện với


kẻ thù Đức Quốc Xã, và coi Pháp không còn là đồng minh
nữa. Phản ứng lại, ở Đông Dương, Toàn quyền George de
Catroux ra lịnh thanh trừng tất cả đảng viên CS. Ngày
17/1/1940, mật thám bắt được tại trận Nguyễn Văn Cừ
(Tổng bí thư đảng đương thời), Võ Đình Hiệu, Vũ Thiên Tân
và Duẩn đang hội họp tại con hẻm số 19 đường Nguyễn Tấn
Nghiệm, nay là Trần Đình Xu. 2 hôm sau, Lê Hồng Phong và
Hà Huy Tập (Uy viên Trung ương đảng) cũng bị tóm ở Phan
Thiết. Tuy nhiên, trong dịp này, số người hoạt động chính trị
bị bắt, không chỉ CS mà thôi mà còn gồm đủ mọi thành
phần, đủ khuynh hướng chính trị và số lượng bị bắt ngày
càng đông. Thống đốc Nam Kỳ Veber có lập trại giam mới ở
Tà Lài, nằm sâu trong rừng gần Định Quán, khoảng cây số
123 để chứa thêm, sau khi các nhà tù khác đã "quá tải". Đây
là chiến dịch "tổng ruồng, vét sạch" của thực dân, đề phòng
cuộc khởi nghĩa của người dân bản xứ.

Lúc ấy, Nguyễn Thị Minh Khai (tức Nguyễn Thị Vịnh) cũng bị
sa lưới mật thám Pháp (30/7/1940) tại Hóc Môn. Lúc này,
Thường vụ Trung ương đảng đang đóng ở miền Nam với
Phan Đăng Lưu, Tạ Uyên,...chưa bị bắt. 30/9/1940, họ đồng
thanh quyết nghị khởi nghĩa chứ không chịu ngồi yên chờ
chết. Kế hoạch nổi dậy nhiều tỉnh cùng 1 lúc gọi là Nam Kỳ
Khởi Nghĩa vào cuối năm 1940 (22/11/1940). Phan Đăng
Lưu được cử ra Bắc xin chỉ thị, tuy nhiên cuộc họp lần thứ 7
của Trung ương đảng ở Bắc Ninh (có Hoàng văn Thụ, Trần
Đăng Ninh, Hạ Bá Cang tức Hoàng Quốc Việt...) đã không
tán thành.

Theo lịch sử công khai của Đảng thì như thế. Tuy nhiên, có
người trong cuộc, biết cái bí ẩn của Nam Kỳ Khởi Nghĩa
(22/11/1940). Không phải bỗng nhiên nhóm Thường vụ
Trung ương đảng lẫn trốn ở Hóc Môn, Bà Điểm mà Pháp biết
được và bắt trọn ổ. Đó chính là miền Bắc "chỉ điểm cho
Pháp", vì muốn "đảo chính" Trung ương đảng miền
Nam để đem Trung ương đảng ra Bắc Kỳ cho người Bắc
lãnh đạo. Họ mượn tay người Pháp để diệt nguội Nam
Kỳ. Chính vì lẽ đó, Phan Đăng Lưu bị bắt. Lần lượt, các nhân
vật lãnh đạo ở Nam Kỳ bị đưa ra tòa kêu án tử hình. Nguyễn
Thị Minh Khai bị bắt trước, cũng bị hành quyết chung
(28/8/1941) với Nguyễn Văn Cừ (Tổng bí thư năm 1938), Võ
Văn Tần (người Đức Hòa, Tân An, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ), Hà
Huy Tập (Ủy viên Trung ương đảng).
Từ đó, ở Bắc, vào đầu tháng 11/1940, tại Hội nghị thứ 7 Ban
chấp hành Trung ương đảng CS Đông Dương, Trường Chinh
lên làm "Tổng Bí thư Lâm Thời" (thay cho Nguyễn Văn Cừ đã
bị bắt cùng Lê Duẩn, Võ Đình Hiệu và Vũ Thiên Tân ngày
17/1/1940 tại Saigon), và đầu não CS dĩ nhiên nằm tại Bắc
Kỳ. Các đảng viên Bắc và Trung Kỳ chia nhau nắm giữ các
chức vụ then chốt trong kháng chiến cũng như sau khi hòa
bình. Đó là chủ trương thầm kín của Hồ Chí Minh. Sau khi
Nhật đầu hàng, ở Nam Kỳ, các phần tử trí thức Nam Bộ như
Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Dương Bạch Mai, Nguyễn
Văn Tạo, Huỳnh Văn Tiểng, Ngô Tấn Nhơn, Phạm Ngọc
Thạch,...mặc tình thao túng. Họ lập ra Ủy Ban Hành Chánh
Kháng Chiến Nam Bộ, có đầu óc địa phương, manh nha
muốn tách ra khỏi sự khống chế của nhóm đảng viên Trung
và Bắc Kỳ để thành lập 1 quốc gia CS Nam Kỳ. Không ngờ
HCM biết thâm ý này nên sai Cao Hồng Lĩnh (tham gia Cách
Mạng Thanh Niên Hội từ năm 1926), Hoàng Quốc Việt vào
Nam bắt cóc Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai đem về giam
lỏng ở Hà Nội.

Trong khi đó, vào tháng 9/1945, sau khi Nhật đầu hàng, thì
Duẩn rời khỏi Côn Đảo (bị giam từ 1940-1945). Kế đó ít
tháng, Duẩn được HCM gọi ra Hà Nội nhận chỉ thị. Khi cuộc
chiến tranh Việt - Pháp lan rộng ở Nam Kỳ, Hồ cử Lê Duẩn
với chức vụ Bí Thư Xứ Bộ Nam Kỳ (1946) đi vào Nam. Đi
theo Duẩn có Lê Đức Thọ. Hồ muốn Duẩn vào Nam để lãnh
đạo cuộc kháng chiến. Những người Trung và Bắc từ trước
đến nay sống ở miền Nam như Trần Văn Trà, Võ Quang Anh,
Phan Trọng Tuệ, Nguyễn Kim Cương...được Hồ cất nhắc lên
cấp chỉ huy. 5 năm sau, 1951, khi Trung Ương Cục Miền
Nam (bao gồm Nam Bộ và Cao Miên) được thành lập, Duẩn
được cân nhắc lên làm Bí Thư Trung Ương Cục Miền Nam. Từ
đó, Duẩn vào Nam ra Bắc như con thoi : nào là "rèn quân,
chỉnh cán", nào kiểm thảo,...

Năm 1954, sau khi Hà Nội và Pháp ký Hiệp định Geneva, thì
Duẩn được cài ở lại miền Nam, nằm vùng tại 1 căn nhà
đường Phan Đình Phùng thuộc khu Bàn Cờ. Duẩn có cấp tốc
ra Bắc để nhận chỉ thị lo việc tập kết, ém người và cán bộ ở
lại miền Nam, để phát động cuộc chiến tranh mới. Duẩn sử
dụng thông hành của 1 thương gia Tàu, do người vợ tên là
LKD giới thiệu. Bà này là vợ hờ, theo kiểu già nhân ngải non
vợ chồng. Duẩn lợi dụng bà này vì bà là vợ 1 thương gia giàu
có, vừa làm cán bộ kinh tài cho CS, mà lại được cảnh "cơm
no bò cỡi". Với thông hành hợp pháp, Duẩn đi đường bộ qua
Phnom Penh, rồi đáp máy bay của Hàng không Pháp đi Côn
Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Tới đây, Duẩn đổi
máy bay về Hà Nộị Lãnh chỉ thị xong, Duẩn lại đội lốt 1 sĩ
quan liên lạc của Bắc Việt, tháp tùng máy bay của Ủy Hội
Kiểm Soát Đình Chiến, trở về Saigon. Sau đó, Duẩn lén về
Phụng Hiệp, rồi bí mật trốn ra mật khu ở Cà Mau. Tại nhà
thờ Huyện Sử, Duẩn chủ trì 1 phiên họp cán bộ cao cấp của
Trung Ương Cục Miền Nam và ra lịnh : - Phân tán, chôn vũ
khí, máy móc.

- Moi móc những súng đạn phế thải của các công binh xưởng
phát ra cho các cán binh CS tập kết cầm theo "làm cảnh", để
chứng tỏ cho mọi người và Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình
Chiến rằng họ nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Geneva.

Chuyến tàu cuối cùng chậm chạp rời cửa sông Ông Đốc. 2
bên bờ, dân chúng tụ tập để tiễn chân thân nhân tập kết.
Mọi người nhìn thấy rõ ràng Bí Thư Lê Duẩn đứng trên
bong tàu Bilixki, đưa tay vẫy đồng bào... Khuya hôm
đó, khi tàu Bilixki vừa ra khơi, Lê Duẩn xuống 1 chiếc
ca nô trở lại bờ. Người tổ chức bí mật việc này là Võ
Văn Kiệt, lúc đó làm Bí Thư Tỉnh Ủy Bạc Liêu. Duẩn
được cài vào 1 gia đình ở Cà Mau để chờ đợi. Mấy tháng sau,
Duẩn lại lén lút về Saigon ăn ở với người vợ hờ vừa kể trên.
Đây là 1 người đàn bà lẳng lơ, vóc cao lớn, thân hình hấp
dẫn, là đàn em của Mã Thị Chu (dược sĩ, có nhà thuốc Tây ở
Cần Thơ), là 1 đại gian thương Chợ Lớn. Bà này có với Lê
Duẩn 1 đứa con. Khi Lê Duẩn có lịnh ra Bắc (đầu năm 1957,
sau khi Trường Chinh bị thất sủng, và chính phủ VNCH từ
chối tổng tuyển cử), chính bà này lái xe đưa Duẩn qua
Phnom Penh, để đáp phi cơ ra Hà Nội. Nhưng thực ra, từ đây
Duẩn đi thẳng qua Hong Kong, Quảng Châu, rồi đổi máy bay
khác về Hà Nội.

Nói thêm về tuyến đường này. Kể từ năm 1960, cán bộ cao


cấp CS từ Nam VN muốn ra Bắc, họ sử dụng đường bay
Phnom Penh - Quảng Châu do hãng Hàng không Air Azur
của Pháp khai thác. Trước khi ra mắt Chính Phủ Cách Mạng
Lâm Thời ở miền Nam, đại diện CS là Trần Bửu Kiếm cũng
qua Phnom Penh rồi đáp máy bay đi Algeria, Cuba, báo tin
trước. Khi VC vừa công bố làm lễ ra mắt Chính Phủ trên thì
trên đài phát thanh của Algeria, Cuba, người ta nghe tiếng 2
chính phủ này "nhìn nhận" tân chính phủ ấy tức thì. Chuyến
về, Trần Bửu Kiếm về thẳng Quảng Châu, qua Hà Nội để
đánh lạc hướng tình báo Mỹ. Lần đó, Kiếm về Cục R (Trung
Ương Cục Miền Nam) báo cáo diễn tiến Hoà đàm Paris. Khi
cuộc chiến miền Nam trở nên ác liệt, Trịnh Đình Thảo, Lâm
Văn Tết (Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ và Hoà
Bình) từ Cục R được đưa ra Bắc lánh nạn, cũng sử dụng
đường bay nói trên. Sau đó họ được đưa về Đồ Sơn "nghỉ
dưỡng".

Trở lại năm 1948. Duẩn và Thọ tới chủ trì 1 phiên họp của
đại biểu Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ, họp tại mật khu ở Cà
Mau. Duẩn gặp 1 cô gái xinh đẹp, có học thức, đang giữ
chức Chủ tịch Ban chấp hành Phụ nữ tỉnh Cần Thơ, thì Duẩn
mê ngay. Cần nhắc lại, lúc đó Duẩn đã 42 tuổi và có mấy đời
vợ ở ngoài Bắc. Người vợ thứ nhứt được Duẩn cưới hồi 20
tuổi, ở quê nhà Quảng Trị, tên Cao Thị Khê. Vì bà vợ này mà
Duẩn cất nhắc em ruột bà ta là Cao Xuân Diệm (bí danh
Dương Thông), làm Cục trưởng Cục An ninh Nội chính, lúc đó
mới cấp Đại tá, sau này lên Trung tướng. 1 người vợ khác
của Lê Duẩn là Võ Thị Sảnh, con ông Võ Văn Kính, người
Quảng Nam. Ông Kính là công nhân hỏa xa, đồng nghiệp với
Duẩn ở Quang Trị. Bà Sảnh gia nhập đảng CS năm 1948,
xâm nhập vào hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng để báo
cáo cho Trần Văn Trà, lúc đó làm Tư lịnh Quân khu 4.

Khi vào Nam, Duẩn tuyên bố là minh chưa vợ vì còn "mãi lo


làm cách mạng". Thương hại đồng chí Duẩn, tới tuổi này
(42) mà chưa vợ, nhiều cán bộ muốn kiếm vợ cho Lê Duẩn
để ông ta an tâm lo việc nước. Cô Đỗ Thị Thúy Nga là con 1
đại điền chủ quê ở Thác Lác, cháu gọi Đỗ Hữu Vị bằng chú
ruột, và gọi Đỗ Hữu Phương, người giàu nhất Nam Kỳ hồi
đầu thế kỷ 20, bằng ông nội. Số là năm 1900, Toàn quyền
Doumer có dịp vào Saigon, không biết Phương nịnh hót thế
nào mà Doumer đã cấp cho Phương cả ngàn mẫu ruộng ở
Thác Lác.

Đến năm 1945, số đất ấy chỉ còn vài trăm mẫu, do 1 người
con của Phương quản lý. Như vậy cô Nga xuất thân từ giai
cấp địa chủ, kẻ thù không đội trời chung với CS.

Nhắc lại, lúc đó Nguyễn Văn Trấn (tác giả "Viết cho Mẹ và
Quốc hội") vừa đổi xuống miền Tây, mới hơn 30 tuổi. Trấn
sanh vào ngày 21/3/1914 tại Chợ Đệm (làng Tân Kiên),
huyện Bình Chánh, tỉnh Long An, đang giữ 2 chức vụ quan
trọng : Bí Thư Khu Ủy, Chính Ủy Kiêm Tư Lịnh Khu 9, uy
quyền tột bực. Trấn lại có học (Trường Tiểu học Phú Lâm,
Trung học Petrus Ký, tốt nghiệp Trung học, làm báo), khá
điển trai, là đối tượng của các cô gái đẹp ở Saigon mới vô
khu kháng chiến. Trấn bắt tình với cô Đỗ Thị Thúy Nga, 1
mối tình qua đường vì Trấn đã có vợ con hẳn hoi. Mối tình
vụng trộm này không kéo dài được vì bà vợ của Trấn ghen.

Để cứu vãn danh dự và để lấy lòng anh Ba Duẩn, Trấn liền


giới thiệu cô Nga cho Duẩn. Thấy Nga, Duẩn rất thích.
Nhưng, Duẩn vóc dáng cục mịch, ăn nói cộc lốc như "dùi đục
chấm mắm nêm", lại già hơn, gấp đôi tuổi cô Nga, nên Nga
từ chối thẳng thừng. Duẩn kêu vài cán bộ thân tín giữ những
chức vụ quan trọng tới họp mật. Bà Lê Đoàn, Chủ tịch Ban
chấp hành Hộ Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ, được lịnh anh Ba
tới "động viên" cô Nga ưng anh Ba. Anh Ba tuy lớn tuổi
nhưng chưa vợ con vì mãi lo việc cách mạng. Rồi Hà Huy
Tập (Ủy viên Trung ương đảng), cũng được Duẩn giao nhiệm
vụ vận động Thúy Nga. Chưa hết, giáo sư Đặng Minh Trứ,
Chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Cần Thơ,
nhận lịnh Duẩn đến thẳng tư gia của cô Nga để "vận động"
song thân của cô. Tất cả đều là công dã tràng, vì cô Nga
từng là nữ sinh tường đầm, nói tiếng Pháp như gió, không
chịu làm vợ 1 anh nhà quê thất học. 1 người từng ở trong
hàng ngũ kháng chiến kể lại rằng, khi mọi cuộc "vận động"
bế tắc, Duẩn liền dùng bạo lực. Duẩn cho lịnh mời cô Nga
với tư cách đại biểu Cứu Quốc Cần Thơ, đến họp tại 1 ngôi
nhà giữa rừng, bên bờ sông Trẹm, chỗ giáp ranh U Minh
Thượng và U Minh Hạ. Đêm ấy trời mưa, chuyện gì xảy ra
không rõ, sáng chỉ thấy cô Nga mặt mày sưng húp vì khóc
suốt đêm qua. Ván đã đóng thuyền, cô Nga miễn cưỡng làm
vợ bé của Lê Duẩn.

Từ đó, đảng ra lịnh cấm bất cứ ai bàn tán về việc "đồng chí
Ba Duẩn cưới vợ". Năm 1955, cô Nga theo đoàn quân tập
kết ra Bắc. Duẩn cho dấu cô Nga với 2 con trong 1 biệt thự
trên đường Hùng Vương. Không hiểu do ai báo cáo, bà vợ cả
Đỗ Thị Khê tìm tới đánh ghen. Cô Nga chỉ biết ôm mặt khóc.
Duẩn dàn xếp dấu Nga ở Hải Phòng, cũng bị vợ lớn tìm tới
chửi bới, khiến Nga đòi tự tử. Duẩn báo cáo việc lem nhem
với Hồ. Hồ gợi ý đưa Nga qua Trung Quốc tỵ nạn vợ lớn, với
danh nghĩa theo học chính trị tại Thiên Tân. Mỗi năm, Hồ
cho Duẩn mượn chiếc máy bay riêng, ẩn số BH 195 (có
nghĩa là Bác Hồ 19/5) qua Thiên Tân thăm vợ. Mỗi lần đi,
Duẩn có đem theo đứa con gái lớn con bà vợ cả là Lê Thị
Hồng, để cô này thăm tình nhân là 1 Thiếu úy đẹp trai, quê
ở Cái Tàu, Bạc Liêu. Viên Thiếu úy này đang học trường
quân sự Cáp Nhĩ Tân. Về sau, nghe đâu cô này học bên Liên
Xô và lấy chồng người Liên Xô.

Xưa nay, lấy vợ lấy chồng là chuyện bình thường, nhưng có


vợ rồi mà còn muốn có vợ bé...lại còn làm việc bất chính để
chiếm đoạt. Hồ Chí Minh luôn luôn răn đe đảng viên phải có
"đạo đức cách mạng, đời công, đời tư phải trong sáng..."
Thật ra, lời giáo dục ấy chỉ là tuyên truyền, áp dụng cho
đảng viên cắc ké. Các Ủy viên Trung ương đảng, Bộ chính
trị, ai cũng lấy vợ hai, vợ ba, dựa vào quyền lực để ép
duyên, hoặc dùng thủ đoạn để lấy gái tơ cỡ tuổi con mình,
như Lê Đức Thọ, Võ Quang Anh (Tham mưu trưởng Khu 9),
Trần Văn Trà, Hà Huy Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn
Hoan,...

Vài chuyện thật xảy ra trong 9 năm kháng chiến 45-54

Vài chuyện thật xảy ra trong 9 năm kháng chiến 45-54

Theo Hứa Hoành

"Chiều 17/12/1946 Hồ và đồng dảng rút vào hang sâu trong


núi Phượng Hoàng ở Sơn Tâỵ Nửa đêm 19/12/1946, từ chỗ
ẩn náu an toàn, bác Hồ hùng hổ tuyên bố "Toàn quốc kháng
chiến", báo hại tụi du kích, Tự vệ thành...ngơ ngác mất
người chỉ huy, cầm tầm vong vạt nhọn, dao găm, mã tấu,
anh dũng...làm bia đỡ đạn Pháp ở Hà Nội !

"Ở Nam Bộ, khi Pháp mở cuộc tổng phản công (23/9/1945),
Ủy Ban Hành Chánh (CS) của Trần Văn Giàu đã chạy thụt
mạng vô Chợ Đệm. Pháp tiến quân ra Phú Lâm, Ủy Ban chạy
tới Tân An. Pháp mở cuộc ruồng bố Tân An, Ủy Ban chạy
xuống Mỹ Tho, rồi tiện đường...dông tuốt vô Đồng Tháp
Mười mất dạng. Trong khi đó, các lãnh tụ quốc gia như Trần
Văn Ân, Nguyễn Văn Sâm, Kha Vạng Cân, Hồ Văn Ngà liều
chết ở lại lập Ủy Ban phong toả Saigon, Chợ Lớn... Trước khi
bôn tẩu, Ủy Ban Kháng Chiến của Trần Văn Giàu ra lịnh đốt
chợ, đốt phố, đốt nhà dân, và cho tự vệ đi lùng băt các lãnh
tụ quốc gia, đảng phái, tôn giáọ..đem thủ tiêụ Cách chiến
đấu của CS thật lạ lùng khó hiểụ Tỉnh nào cũng hành động y
chang "bác Hồ".

Nhà văn Nguyễn Gia Bảo, chứng nhân thời cuộc :

"Từ đó đến nay, nửa thế kỷ đã trôi quạ..đa số chúng ta cứ


đinh ninh ngày 19/8/45 là ngày "cách mạng thành công".
Điều đó hoàn toàn không đúng, như việc "kháng chiến thành
công", mang lại độc lập, tự do cho xứ sở. Thật ra, CS cướp
công kháng chiến, 1 cuộc kháng chiến hào hùng, do toàn
dân đóng góp..." (trong "Hà Nội, Những Ngày Tháng Cũ",
trang 12).

Nhà văn Vương Hồng Sển, chứng kiến :

"...ngày 5/11/1946, Ủy Ban (Hành Chánh của Trần Văn


Giàu) ra lịnh đốt chợ Sóc Trăng, Tây kéo đến, ta rút luị Ngày
thứ Bảy 6/1/46 lại đốt chợ Bãi Xàụ.. Trước đó, ngày
17/12/45, Thanh Niên Tiền Phong đến nhà treo đồ bổi, lá
khô, trên trình thượng 2 căn phố của thân phụ, ép mình ký
tên cho đốt nhà để "tiêu thổ kháng chiến" khi có giặc Tây
đến... Cách chiến đấu như vậy đâu có...chết thằng Tây nào !
"

Bài viết sau đây là những chuyện thật, xảy ra trong thời
kháng chiến chống Pháp, nhưng rất ít được sách báo thuật
lạị Công cuộc kháng chiến giành độc lập là của toàn dân VN,
chớ không riêng đảng CS, mà CS luôn luôn hãnh diện khoe
khoang thành tích. Là nạn nhân của CS trong nhiều năm,
chúng ta nhận ra 1 sự thật : gian ác, lừa bịp, tráo trở là bản
chất của người CS.

Cho tới nay, lịch sử kháng chiến chống Pháp từ năm 1945 trở
đi, là 1 khoảng trống vắng. Chính quyền quốc gia lấy lý do
phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của CS, nên
các chính phủ Đệ I Cộng Hòa (1954-1963) và Đệ II Cộng
Hòa (1963-1975), đều không viết lại lịch sử trong giai đoạn
tranh tối tranh sáng của đất nước.

Lợi dụng sự sơ hở của chính quyền quốc gia, ở miền Bắc,


nhà cầm quyền CS triệt để khai thác đề tài trên theo quan
điểm của họ. Họ loại bỏ và phủ nhận tất cả công lao của các
đảng phái quốc gia và toàn dân yêu nước không phân biệt
chính kiến. Hàng triệu thanh niên nam nữ yêu nước, bị lợi
dụng cho mưu đồ riêng tư của CS hoặc bị thanh trừng, ám
sát, thủ tiêu 1 cách man rợ như thời trung cổ. Ai cúi đầu
tuân lịnh họ, sẽ bị làm viên gạch lót đường như trường hợp
Ba Dương, lãnh tụ Bình Xuyên (bị ám sát chết ở Bến Tre)
hay Trung tướng Nguyễn Bình... CS trực tiếp ám hại Ba
Dương rồi đổ cho giặc Pháp giết để CS giành quyền lãnh đạo
kháng chiến...sau đó họ làm lễ truy điệu, hay quốc táng
(như ông Huỳnh Thúc Kháng) để truy phong chức tước. Bằng
thủ đoạn gian mang lừa đảo, CS cướp đoạt công lao của
người khác về cho phe nhóm mình. Ngoài ra, khi viết lịch sử
kháng chiến, các sử gia bồi bút của CS còn bịa đặt, thêu dệt
nhiều huyền thoại về các lãnh tụ của họ, ngụy tạo các gương
chiến đấu, hy sinh...làm cho cuộc chiến tranh mà họ cướp
công lãnh đạo như 1 cuộc thánh chiến. Đó là 1 sự lừa bịp vĩ
đại, hào nhoáng trong lịch sử cận đại.

Nhiều người sống trong giai đoạn ấy, đã tham gia kháng
chiến như 1 người yêu nước, đã bị lừa bịp, đã giác ngộ nhận
ra sự thật, nhanh chân bỏ hàng ngũ đành chịu tiếng oan
"theo giặc", để thoát khỏi nanh vuốt của CS. Tiếp xúc với
các người từng ở trong hàng ngũ kháng chiến cũ, ai nấy đều
bài tỏ thái độ hằn học trước những luận điệu tuyên truyền
lừa bịp của CS, nhưng chưa có dịp nói lên tâm sự cùng thái
dộ của mình. Giai doạn lịch sử này ngắn ngủi nhưng nhiều
biến cố dồn dập, phức tạp, gần như 1 định mệnh nghiệt ngã
dành riêng cho người quốc gia và cả dân tộc. Cảm thấy công
việc viết lại lịch sử quá sức mình, tôi (tác giả Hứa Hoành)
không dám làm công việc ấỵ Trong phạm vi hiểu biết hạn
hẹp, tôi chỉ kể lại 1 số sự kiện rời rạc, nhưng là những
chuyện thật về những hành động, những màn lừa bịp, tráo
trở lâu nay bị dấu kín dưới lớp bụi thời gian. Trung thành với
tôn chỉ "biết tới đâu thì tâu tới đó", chúng tôi xin kể lại
những gì chúng tôi được biết hoặc trực tiếp nghe, thấỵ CS
gọi công cuộc kháng chiến chống Pháp 1945-1954 là cuộc
"Cách mạng tháng 8" hay "Cách mạng mùa thu", nhưng
thực tế nó chỉ là hình ảnh của 1 cuộc chiến tranh vệ quốc
giống như nhiều cuộc chiến tranh chống Tàu trước đâỵ Cuộc
chiến này không phải là "cách mạng". CS gán gọi cho nó là
"Cách mạng tháng 8" là có mưu đồ tiến hành 1 cuộc cuộc
thay đổi hoàn cảnh chính trị, xã hội và văn hóa của nước ta
đi theo hướng Mác-xít, nhưng hoàn cảnh lúc đó vẫn chưa
thuận tiện cho họ làm thế nên họ đã che giấu bộ mặt thật.
Viết bài này, chúng tôi được nhiều nhân chứng lịch sử từ
nhiều phía :

- Trước hết là các người yêu nước, các lãnh tụ quốc gia từng
kháng chiến chống Pháp, nhưng đã bị CS giết hụt, đã phải
hợp tác với Pháp để sống còn và mang tiếng "phản bội" như
Trần Văn Ân, An Khê Nguyễn Bính Thinh (nhà văn, nhà báo
mới qua đời ở Pháp), Vương Hồng Sển,...

- Hoặc những người đã sống, chiến đấu trong hàng ngũ CS,
biết rõ tâm địa và mặt mũi của họ như các ông Dương Đình
Lôi, nhà văn Xuân Vũ, Nguyễn Ngọc Nga (tức Hoàng Quốc
Kỳ), Lê Tùng Minh...và rất nhiều vị khác.

Việt Minh (gọi tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh), là 1 sự
lừa bịp dư luận. Ông Hồ Chí Minh luôn luôn lo sợ dư luận biết
ông ta là 1 lãnh tụ CS, 1 thành viên quốc tế của Đệ Tam
Quốc Tế CS sẽ phải luôn phục vụ cho quyền lợi Quốc tế CS,
nên luôn che dấu bộ mặt thật. Thậm chí vào ngày
11/11/1945, ông HCM tuyên bố giải tán đảng CS để lừa bịp
mọi ngườị Riêng tại miền Nam, CS phái cán bộ len lỏi vào
các tổ chức, đoàn thể thanh niên, tôn giáo, xã hộị..

Các cán bộ CS này đã được huấn luyện thành thạo kỹ thuật


xâm nhập, lủng đoạn, khuynh đảo để cướp đoạt tổ chức của
người khác. Trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, ở miền
Nam có những tổ chức xã hội và phi chính trị như sau :
- Liên đoàn Công chức, do Lý Vĩnh Khuông làm tổng thư ký.

- Hội Truyền bá Quốc ngữ do Michel Văn Vĩ làm hội trưởng.

- Tổ chức Thanh niên Tiền phong do bác sĩ Phạm Ngọc


Thạch, kỹ sư Kha Vạn Cân, luật sư Thái Văn Lung làm lãnh
tụ.

- Hội Cứu đói Nam Kỳ do bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm hội
trưởng.

Tất cả những hội ấy lúc thành lập, đều theo đuổi những mục
tiêu phi chính trị, gồm những người yêu nước, thuộc các gia
đình khá giả. Cán bộ CS tìm cách xâm nhập, lèo lái những
thành phần lãnh đạo các hội đoàn ấy ngả theo phe mình,
như trường hợp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Tại Nam Kỳ không
có "Nạn đói năm Ất Dậu", nên đồng bào miền Nam chưa
thấy CS lợi dụng nạn đói ấy vào công cuộc vận động quần
chúng ủng hộ họ ra saọ Ở Bắc Việt, Việt Minh đã xúi giục
dân cướp kho thóc của Pháp, Nhật, của các điền chủ, các
nhà giàụ..khơi lên sự căm phẫn trong khối quần chúng
nghèo khổ, mục đích là để nắm được sức mạnh của họ.

Trong các tổ chức vừa kể trên, ban đầu chưa có 1 tổ chức


nào có thành phần CS, nhưng CS khôn khéo đưa người xâm
nhập, lủng đoạn, thậm chí khủng bố những người ấy để biến
họ thành những công cụ phục vụ cho đảng CS. Chẳng hạn,
như thành phần Hội Truyền bá Quốc ngữ, chỉ nhìn thành
phần, chúng ta biết lập trường của họ :

- Hội trưởng : Michel Văn Vĩ, giám đốc ngân hàng.

- Phó chủ tịch : Đoàn Quan Tấn, Chủ tịch Hội Khuyến học
Nam Kỳ.
- Thư ký : Nguyễn Thị Châu, giáo sư Trường Áo Tím (Trường
Gia Long).

- Hội viên sáng lập gồm : bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, bác sĩ
Trần Văn Đôn (thân phụ Tướng Trần Văn Đôn), bác sĩ Trần
Quang Đệ.

Ta hãy nghe CS thú nhận trong cuốn "Mùa Thu Rồị..", nxb
Chính trị Quốc gia, 1985 :

"...Mục đích chúng ta là càng ngày càng mở rộng phạm vi


hoạt động từ tính chất văn hóa, xã hộị..qua chính trị. Từng
bước "lấn sân", giành quyền chỉ huỵ Đây là 1 cuộc tập hợp
đông đảo nhân dân quần chúng, chờ thời cơ để cướp chính
quyền" (trang 267).

"...Qua công cuộc cứu đói, các nạn nhân miền Bắc, chúng tôi
(CS) đã kết hợp với việc động viên tinh thần yêu nước và
chờ đợi thời cơ để...cướp chính quyền" (trang 320).

Thời cơ xảy đến đột ngột : Ngày 19/8/1945, Nhật đầu hàng
Đồng Minh. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất, tập họp tất cả
những thành phần yêu nước, không phân biệt chính kiến,
đảng phái, tổ chức 1 cuôc biểu tình rầm rộ để mừng "độc
lập". Quần chúng, đồng bào, đã sống trong bầu không khí
nghẹt thở, ngột ngạt của chế độ thực dân, sôi sục lòng phấn
khởi, tràn ra đường hoan nghinh, reo hò. Tất cả mọi thành
phần xã hội, khuynh hướng, đảng phái, tôn giáọ..đều bày tỏ
sự vui mừng trước "nền độc lập" bất ngờ. Mặt Trận Quốc Gia
Thống Nhất là đại biểu cho quyền lực lúc nàỵ .

Trước khí thế mạnh mẽ của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất,
được quần chúng ủng hộ, CS thấy thất thế. 6 ngày sau, CS
lại tổ chức 1 cuộc biểu tình khác để mượn lực lượng quần
chúng đã theo Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất tuần trước,
phô trương thanh thế của họ. Thực chất, trong cuộc biểu
tình này, CS chỉ có 1 số cán bộ cầm cờ đỏ sao vàng đi trước
và cái "Lâm Ủy Hành Chánh" của họ thành lập vội vàng, rồi
trong đêm 24 rạng 25/8/1945, lén đem niêm yết trước Bồn
Kèn (tức công trường Lam Sơn) để giành quyền lãnh đạọ Rõ
ràng CS biểu dương bằng sức mạnh...của người khác. Trong
bầu không khí sôi sục vì độc lập tự do, chưa phân biệt chính
kiến, vô tình đồng bào đã trở thành công cụ phục vụ cho
đảng CS. Tội nghiệp đa số quần chúng lao động ngây thơ, bị
CS tuyên truyền lừa bịp, nên hết lòng phục vụ mọi mệnh
lệnh của họ. Biết bao người trí thức, điền chủ, thương gia đã
vì lý tưởng yêu nước mà từ bỏ cuộc sống nhung lụa, êm ấm,
dấn thân vào chốn lửa đạn...để rồi chịu hy sinh, hoặc bị ám
sát, khủng bố hay trở thành công cụ của họ. Tựu chung, họ
trở thành viên gạch lót dường cho CS, gián tiếp phục vụ cho
quyền lợi Quốc tế CS.

+ "Lâm Ủy Hành Chánh" đại diện cho ai ?

Ở miền Bắc, từ rừng núi Thái Nguyên, ông Hồ Chí Minh tự


phong cho phe nhóm của mình trở thành chính phủ, nắm
quyền điều khiển việc nước. Ai trái với họ, bị coi là "Việt
gian", là "bán nước". Ngày 2/9/45, cái chính phủ tự phong
ấy trình diện tại vườn hoa Cột Cờ (sau gọi là Ba Đình). Ở
Saigon, 1 nhóm cán bộ CS chưa quá vài chục ngươi, lén lút
lập ra "Lâm Ủy Hành Chánh", phân chia các chức vụ với
nhau, gạt bỏ tất cả mọi người yêu nước khác chính kiến,
đảng phái, tôn giáọ Cũng nên nhắc lại, tại Saigon, trong 2
tuần lễ cuối tháng 8 và đầu tháng 9/45, đã có 3 cuộc biểu
tình lớn nhứt trong lịch sử :
Ngày 21/8/45, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất gồm các
thành phần chính trị, như Việt Nam Độc Lập của Hồ Văn
Ngà, Thanh Niên Tiền Phong của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch -
kỹ sư Kha Vạn Cân - nha sĩ Nguyễn Văn Thủ, Liên Đoàn
Công Chức, Phật Giáo Tịnh Độ Cư Sĩ, Hòa Hảo, Cao Đài,
Đảng Lập Hiến, Việt Nam Nhân Dân Thống Nhất Cách Mạng
Đảng, lãnh tụ nhóm Trốt-kít như Trần Văn Thạch, Phan Văn
Hùm, Dương Văn Giáo (Đảng Lập Hiến), Tạ Thu Thâu, luật
sư Huỳnh Văn Phương, bác sĩ Hồ Vĩnh Ký và vợ là bác sĩ
Nguyễn Thị Sương... Cuộc biểu tình này tụ họp trước khán
đài trên đại lộ Norodom (đường Thống Nhứt sau này), rồi
sau đó tuần hành khắp thành phố Saigon - Chợ Lớn. Lần đầu
tiên tại Saigon có cuộc biểu tình với 400,000 người tham dự
đông đủ, khí thế sôi sục như vậỵ Trước khán đài và trên
đường phố chính, người ta đọc được các biểu ngữ phản ảnh
chủ trương của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất như sau :
Chống đế quốc Pháp, Chống ngoại xâm, Bảo vệ trị an, Bài
trừ phản động.

Trước đó mấy ngày, 17/8/45, ông Trần Văn Ân, Chủ tịch Hội
đồng Nam Kỳ, đã tiếp thu chính quyền từ trong tay quân
Nhật. Với tư cách Chủ tịch Hội đồng Nam Kỳ, ông Trần Văn
Ân bổ nhiệm các ông :

- Hồ Văn Ngà, quyền Khâm sai Nam Bộ trong khi Khâm sai
Nguyễn Văn Sâm từ Huế chưa về.

- Kha Vạn Cân làm Tư lịnh Saigon - Chợ Lớn.

Chứng kiến cuộc biểu tình đầy khí thế đấu tranh và kết hợp
mọi khuynh hướng, đoàn thể, cán bộ CS tức lồng lộng. Vẫn
thủ đoạn nham hiểm, xâm nhập, lủng đoạn rồi cướp chính
quyền từ trong tay Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất, nên tối
24/8/45, Việt Minh lặng lẽ niêm yết danh sách "Lâm Ủy
Hành Chánh" trước Bồn Kèn (ngã tư Lê Lợi - Nguyễn Huệ).
Sáng hôm sau, họ kêu gọi 1 cuộc biểu tình khác. Dân chúng
ngỡ ngàng đọc danh sách "Lâm Ủy Hành Chánh" tự phong.
Đại diện mọi khuynh hướng chính trị, đảng phái trong Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất đều không được tham khảo ý
kiến. Cuộc biểu tình lần thứ hai, cũng với thành phần dân
chúng đã tham dự khi trước, chỉ khác là có 1 số cán bộ CS
giương cờ đỏ sao vàng đi trước, và "Lâm Ủy Hành Chánh" đi
kế bên. Đây không phải là 1 cuộc phản biểu tình, mà chỉ là 1
sự thay đổi kẻ lãnh đạo, có mục đích phô trương để giành
chính quyền.

Chủ trương củng cố tình đoàn kết, không tham quyền cố vị,
các vị lãnh đạo trong Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất bày tỏ
thiện chí bằng cách để "Lâm Ủy Hành Chánh" thay mặt điều
khiển việc nước... Tối đêm đó, trong 1 phiên họp chung, ông
Nguyễn Văn Sâm đồng ý trao quyền cho "Lâm Ủy Hành
Chánh" kể từ đêm 25/8/45. CS đã khéo léo, tấn công "mặc
cả hợp tác vói Nhật của người quốc gia", nên đã thương
lượng để Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất nhường quyền lãnh
đạo cho họ.

Theo "Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc" của
Nguyễn Long Thành Nam, trang 34, danh sách "Lâm Ủy
Hành Chánh" cho chúng ta thấy hầu hết là những người CS
như :

- Trần Văn Giàu, Chủ tịch (CS).

- Dương Bạch Mai, Thanh tra chính trị miền Đông (Công an
CS).

- Nguyễn Văn Tạo, Nội vụ (CS).


- Nguyễn Văn Tây, Thanh tra chính trị miền Tâỵ

- Các ủy viên : bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (mới ly khai với Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất ngày 22/8/45 để gia nhập Việt
Minh).

- Từ Bá Đước, Đảng Dân Chủ, lãnh tụ Thanh Niên Tiền


Phong ở Trà Vinh.

- Kỹ sư Ngô Tấn Nhơn, Dảng Việt Nam Độc Lập của Hồ Văn
Ngà, ly khaị

- Kỹ sư Hoàng Đôn Văn thuộc Tổng Công Đoàn, thiên tả.

- Sinh viên Huỳnh Văn Tiễng (CS)

"Lâm Ủy Hành Chánh" lập Sở Công an, giao cho Nguyễn Văn
Trấn (tác giả "Viết cho mẹ và quốc hội") làm giám đốc, gọi là
"Quốc Gia Tự Vệ Cuộc". Lực lượng này không lo đánh Pháp,
mà nhận chỉ thị của Trần Văn Giàụ Nguyễn Văn Trấn theo đó
di khủng bố, bắt cóc, ám sát, thủ tiêu các thành phần lãnh
đạo, các thân hào nhân sĩ có uy tín, thâm chí cả những
người làm việc cho Pháp trước kiạ Những tên dao búa chyên
đâm thuê chém mướn như Tô Kỳ, Ba Nhỏ, Kiều Đắc Thắng,
Kiều Tấn lập...là tay sai trực tiếp của "Lâm Ủy Hành Chánh",
để thi hành các mật lịnh. Dân chúng đang say sưa trước cao
trào độc lập tự do, khi thấy cờ đỏ sao vàng xuất hiện, họ
bàng hoàng, nhưng rồi cũng tự an ủi :

- Ai lãnh đạo cũng được, miễn họ chống Pháp để giải phóng


quê hương.

Còn lãnh tụ Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất thì sẵn sàng giao
quyền hành cho bất cứ ai có hy vọng thành công, giải phóng
đất nước. Ông Hồ Văn Ngà, trong 1 cuộc mít tinh trước vườn
Ông Thượng (sau này là sân Tao Đàn) cũng tuyên bố :

"...Thế nên, người VN nào đảm đương được và có hy vọng


thành công, chúng tôi sẵn sàng tán trợ. Nghĩa là lúc nào
chúng tôi cũng đặt nền độc lập của tổ quốc trên địa vị. Ai
bảo khôn, ai bảo dại, ai chê hèn yếu, chúng tôi nhận lãnh
cả. Miễn tránh được sự đổ máu của đồng bào, để dành bầu
máu nóng ấy, mai sau hy sinh cho đúng chỗ hy sinh". ("Phật
giáo Hoà Hảo trong dòng lịch sử dân tộc", trang 344).

Người quốc gia vừa thành thật, vừa tỏ thiện chí như thế, dọn
đường tạo cơ hội cho CS cướp chính quyền mau chóng ! Với
vài mươi cán bộ, CS đã biến cuộc biểu tình tuần hành ngày
25/8/45 thành 1 cuộc mít tinh biểu dương lực lượng của họ.
Cũng cần nhớ lại hoàn cảnh năm 1945 rằng hầu hết giới
thanh niên không phải thân Nhật hay có cảm tình với CS,
mà vấn đề chính là họ chưa biết CS là gì. Núp dưới chiêu bài
Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, CS lừa bịp
dư luận, khiến cho mọi người hiểu lầm rằng tổ chức đó là 1
mặt trận liên minh tất cả các đảng phái của người quốc gia !
1 vị cao niên kể lại rằng tối đêm 28/5/45, có dự phiên họp
giữa Lâm Ủy Hành Chánh và đại diện Mặt Trận Quốc Gia
Thống Nhất, đại diện Lâm Ủy Hành Chánh là Trần Văn Giàu
nói:

- Các lãnh tụ Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất bị mang tiếng
cộng tác với Nhật, do đó sẽ bị (quân đội) Đồng Minh coi là
kẻ chiến bại, có thể bị kết án tội phạm chiến tranh vì đã làm
"tay sai cho Nhật". Chi bằng bây giờ quí vị tạm rút lui trong
bóng tối, nhường quyền đại diện dân chúng Nam Bộ cho Việt
Minh để tránh bị Đồng Minh coi là kẻ thù khi đến tiếp thu và
giải giới quân Nhật. Hơn nữa, Việt Minh từng chiến đấu
chống phát xít Nhật và đế quốc Pháp, sẽ được Đồng Minh
dành cho nhiều cảm tình. Điều đó có lợi cho đất nước.
Lời nói điêu ngoa nhưng lại dịu dàng nghe bùi taị Hơn nữa,
các lãnh tụ trong Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất là những
người yêu nước, đặt quyền lợi tối thượng của tổ quốc trên
hết, nên tạm thời rút luị Trong bài phỏng vấn ông Nguyễn
Hữu Đang đăng trên báo Nhân Dân, trang 2, đã viết
:"...người ta biết các anh (CS) nhứt định sẽ gây nội chiến,
nên đành phải nhường. Ngoài Bắc, trong Nam cũng vậy cả
thôi".

Vì thế, ông Nguyễn Văn Sâm, khâm sai Nam Bộ, đại diện
cho Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất trao quyền cho Lâm Ủy
Hành Chánh điều khiển việc nước. Như vậy, rõ ràng trước
sức mạnh của đại diện các đảng phái, tôn giáo, CS yếu thế,
nên đã dùng thủ đoạn để dành nắm quyền. Cuộc mít tinh lớn
nhất tổ chức ngày 2/9/45 tại Saigon do Việt Minh nắm
quyền lèo lái, mặc dầu thành phần tham dự vẫn là những
người của mấy cuộc biểu tình trước.

Cũng buổi sáng hôm ấy, khắp các đô thị lớn trong nước như
Hà Nội, Huế, Hải Phòng, các tỉnh lỵ như Cần Thơ, Sóc
Trăng...đều có tổ chức biểu tình "mừng độc lập". Đó là 1 thứ
độc lập không do tranh đấu mà có. Có người cho rằng "độc
lập giả hiệu", bởi vì chính quyền Nhật đã đầu hàng, quân
Pháp thì chưa tới, nên chính quyền ở VN bỏ trống. Ông Phan
Khôi đã nhận xét:

"Ta lượm được chính quyền, chứ cướp cái nỗi gì ? Tại Huế,
nhiều huyện, xã, ủy ban khởi nghĩa không có, như Thọ Lộc,
khu phố 5..., các Lý Hương phải khăn đen áo dài, để sổ đinh,
sổ điền trong mâm thao, trên phủ khăn điều đến trụ sở Việt
Minh "xin tổ chức này cướp chính quyền cho". Thậm chí 1 xã
gần thành phố Huế như Hồ Lâu, Dương Xuân Hạ mới thành
lập gần Đập Đá, nằm về phía Tây Vỹ Dạ...cũng đề nghị Việt
Minh đến "cướp chính quyền dùm họ".

Trong cuộc biểu tình ở Saigon vừa đề cập trên, Lâm Ủy Hành
Chánh lại dẫn đầu tuần hành. Khí thế cuộc biểu tình vô cùng
khích động, sẵn sàng gây chiến. Khi cuộc biểu tình diễn
hành qua trước Nhà Thờ Đức Bà, để quẹo sang đường
Catinat (Tự Do), từ trên lầu cao có tiếng súng lẻ tẻ bắn
xuống. Đó là mấy người Pháp muốn khuấy rốị Đám đông
cuồng nộ, công an, Thanh Niên Tiền Phong liền túa ra lục
soát khắp các dãy phố 2 bên dường 2 bên dường. Họ bắt
được 2 người Pháp và xử tự tại chỗ (trong đó có linh mục
Tricoire) không cần cứu xé và làm nhiều người bị thương.
Báo Cứu Quốc của Hà Nội đăng tin :"Đội xung phong của
chính phủ bắt giữ 30 người Pháp và 1 số Việt gian".

Danh từ "Việt gian" xuất hiện từ đó. Ai bị gán cho tiếng "Việt
gian" có nghĩa là chết hoặc bị thủ tiêụ Mọi người mới bắt đầu
lo sợ Lâm Ủy Hành Chánh vì những hành động giết ngươi mờ
ám của họ.

Thấy CS chuyên quyền làm nhiều việc mất đoàn kết, không
lo tổ chức việc phòng thủ chống lại Pháp đang lăm le đưa
quân vào tái chiếm miền Nam, họ lại lo giết những người đối
lập, những kẻ tình nghi, những người trước đây có làm việc
cho Pháp, nên trong phiên họp ngày 7/9/45, đại diện Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất yêu cầu Lâm Ủy Hành Chánh cải
tổ. Trước tình thế ấy, buộc lòng CS phải cải tổ, đưa Phạm
Văn Bạch, 1 luật sư, con 1 đại điền chủ ở Trà Vinh, lên làm
chủ tịch, Trần Văn Giàu vẫn là phó chủ tịch, nắm quân sự.
Lần này trong số ủy viên dự khuyết có các ông :

- Phan Văn Hùm.

- Trần Văn Nhọ


- Nguyễn Văn Thủ.

- Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, cố vấn đặc biệt.

Thật ra Phạm Văn Bạch chỉ giữ hư vị, mọi quyền hành vẫn
nằm trong tay cán bộ CS. Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn
sai mật vụ núp dưới danh nghĩa Thanh Niên Tiền Phong, Tự
Vệ Cuộc đi lùng bắt, ám sát, khủng bố các lãnh tụ quốc gia,
tôn giáo là những người vừa mới hợp tác với họ, được họ mời
giữ chức vụ này, chức vụ nọ trong Ủy ban Hành chánh. Chỉ
nội trong 2 tuần lễ, từ 25/8/45 tới 7/9/45, mà Lâm Ủy Hành
Chánh khủng bố, ám sát, tiêu diệt các nhân vật trong Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất mà cách đó không lâu CS năn nỉ
xin nhường quyền lãnh đạọ Tình trạng trở nên ngột ngạt.
Không khí hoang mang, nghi kỵ bao trùm. Khối đoàn kết
quốc dân bị rạn nứt. Tiềm lực chiến đấu bắt đầu suy yếụ CS
tiếp tục ra lịnh ám sát, bắt cóc, thủ tiêu các nhân vật sau
đây : Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (nhưng thất bại), Vũ Tam Anh
(tức Nguyễn Ngọc Nhan) bị công an của Trần Văn Giàu là Lý
Huê Vinh bao vây bắt tại Xóm Thơm (không thành công),
nhưng CS đã thành công trong việc tới nhà ông Bùi Quang
Chiêu để hạ sát toàn thể gia quyến 1 cách dã man. CS bắt
các ông Hồ Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Lương Trọng
Tường...chờ ngày thủ tiêụ Được biết, từ đầu tháng 9/45, CS
được bổ sung cán bộ từ Côn Đảo trở về. Cũng cùng lúc đó,
ngoài Bắc, Hồ Chí Minh sợ CS ở Nam Bộ ly khai nên phái
Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lĩnh, Nguyễn Thị Thập...vào
Nam để kiềm chế và tăng cường. Vì đã có thêm sức mạnh
trong tay, nên Việt Minh mới trở mặt. Thay vì tổ chức kháng
chiến chống Pháp thì Việt Minh đã tập trung sức mạnh để
tiêu diệt những người quốc gia cùng chiến tuyến chống Pháp
với họ.

Hành động lộ liễu nhứt là bao vây triệt hạ vị lãnh tụ Phật


Giáo Hòa Hảọ
Đêm 9/9/45, Trần Văn Giàu ra lịnh cho Quốc Gia Tự Vệ
Cuộc, tức Công an võ trang, đến bao vây trụ sở Phật Giáo
Hoà Hảo ở số 8 đường Sohier, góc đường Miche, để lùng bắt
Đức Huỳnh Phú Sổ. Nhưng họ chỉ bắt được các tín đồ và
chức sắc, còn giáo chủ thì không tìm thấy ("Phật Giáo Hoà
Hảo trong dòng lịch sử dân tộc", trang 373).

Ông An Khê Nguyễn Bính Thinh kể lại vụ này như sau :

"Nguyễn Văn Mười, tự Mười Bạch, làm trưởng bót cảnh sát
Quận 1 thời Nhật, đã ngả theo Việt Minh. 1 hôm Mười Bạch
nhận được lịnh quái gở "đánh vào trụ sở Phật Giáo Hoà Hảo
để bắt Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ". Mười Bạch đã từng chịu ơn
Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ khi ra khỏi Khám Lớn Saigon. Anh
đến tá túc tại trụ sở của vị Giáo chủ Hòa Hảo và Đức Thầy có
biệt nhãn với anh. Đêm hôm ấy, Mười Bạch cố tình đến họp
quân trễ hơn nửa giờ và mật báo cho Đức Thầy biết... Vì thế,
sau khi bao vây và tấn công vào 2 tòa nhà của tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo, Việt Minh không tìm ra vị Giáo Chủ Hòa Hảo,
mà chỉ bắt hơn 300 tín đồ, với cấp chỉ huy Đệ Ngũ sư đoàn
của Nguyễn Hòa Hiệp lập ra để chống xâm lăng".

Cũng nên nhắc thêm, trước đó thời Nhật thuộc, Nguyễn


Thành Long làm cảnh sát trưởng Quận 3, và Mười Bạch coi
Quận 1. Khi Việt Minh cướp chính quyền, họ ngả theo Việt
Minh để đánh Pháp. Đột ngột Bạch và Long nhận được lịnh
của Lâm Ủy Hành Chánh "giải tán các quận cảnh sát". Các
bót bỏ trống và võ kí phải trả lại cho Pháp (?). Theo lời nhà
văn An Khê, trong bót Quận 1 có 25 súng trường, 25 súng
trái khế, và Quận 3 có 15 súng trường...tất cả đều giao trả
cho Pháp. Các cảnh sát trưởng kinh ngạc đến tột độ và gặp
Trần Văn Giàu chất vấn thì Giàu ngụy biện :"Chính phủ đang
thương thuyết với Pháp. Để tỏ thiện chí, ta giao súng cho
họ". Rõ ràng là CS đã có âm mưu triệt hạ tất cả mọi nhóm
có võ trang ngoài họ.

1 chuyện lạ tại Rạch Giá được nhà văn An Khê thuật lại như
sau :

"Về sau, đến năm 1945, trong khi toàn quốc chuẩn bị kháng
chiến chống xăm lăng, chúng tôi, 1 nhóm chính trị phạm
quốc gia ở Côn Đảo về, lập ra Cảm tử quân, gồm 2 đại đội,
khoảng 600 người, quyết tâm bảo vệ quê hương. Ủy Ban
Kháng Chiến mới của CS muốn lôi kéo 2 đại dội Cảm tử quân
về phía họ, nhưng không được, vì những người cầm đầu là
những người tù chính trị ở Côn Đảo về, biết rõ bộ mặt thật
của CS. Không ăn được thì phải phá cho nát. Chủ tịch CS tên
Tiểng (không phải sinh viên Huỳnh Văn Tiểng), liền bắt 1 số
Cảm tử quân nồng cốt và "gởi đi thụ huấn". Tách 1 đại đội
qua trấn giữ Châu thành Hà Tiên đang bị Pháp từ Miên đe
dọa đánh quạ 2 em gái tôi (lời nhà văn An Khê) trong đảng
Tân Dân Chủ, không chịu ngả theo CS, đang đóng tại Hòn
Chông, Hà Tiên, bị CS ruồng bắt (gọi là tảo thanh), phải nhờ
người dẫn đi trốn qua Quận Long Mỹ do Lý Thanh Cần (tức
nhà báo Nguyễn Kiên Giang sau này) làm chủ tịch để nương
đậụ Tưởng vậy đã yên, nào ngờ 2 hôm sau, Pháp vượt biên
giới Hà Tiên, thì 1 lần nữa CS phát nát 2 đại đội Cảm tử
quân như sau :

- Chiến tuyến đầu, giữ mặt trận Hà Tiên do quân đội của
Lâm Quang Phòng (ông hiện cư ngụ tại Cali), phải rút về
Hòn Đất.

- Chiến tuyến thứ hai, do Cảm tử quân Lê Hiền và Hà Ngọc


Phú chỉ huy, bị CS tước khí giới giải tán cho về Rạch Giá.

- Tại Rạch Giá, CS cho khám xét trụ sở Cảm tử quân, tước
hết súng ống của họ và giải tán tổ chức nàỵ CS bắt theo 1
số anh em Cảm tử quân, trong đó có anh tôi, Nguyễn Bính
Tiên".
Tại Sóc Trăng, theo ông Vương Hồng Sển trong cuốn hồi ký
"Hơn nửa đời hư", trang 386, có thuật lại như sau :

"Ngày 19/8/45 có cuộc biểu tình đòi đôc lập và hoan nghênh
ông Nguyễn Văn Sâm được Hoàng đế Bảo Đại phong làm
Khâm sai Nam Bộ, Hồ Văn Ngà làm phó. Ông Sâm là người
quê ở Bang Long (Giếng Nước), Sóc Trăng.

"Thấy thế yếu, hôm sau ngày 20/8/45, CS lại tổ chức biểu
tình nữạ Lần này họ dùng lực lượng Thanh Niên Tiền Phong
làm nông cốt, rồi giương cờ đỏ sao vàng đi trước. CS dành
quyền chủ dộng tổ chức thêm 1 cuộc biểu tình mừng độc lập
ngày 2/9/45. Lần này họ hô khẩu hiệu "Bắt cóc bọn thân
thiện với Pháp". Họ lập Ủy ban hành chánh địa phương, gồm
các ông Dương Kỳ Hiệp (thân cộng), Tạ Bá Tòng (CS) với
Trương Đại Lượng, Chung Bá Khánh (Cao Đài) làm cố vấn và
1 nhân sĩ Cao Đàị Rõ ràng khi còn yếu, họ liên hiệp trong 1
ủy ban. Rồi tối đến, họ mời đi họp và thủ tiêu những người
mới liên hiệp với họ. Mấy ngày kế tiếp là những vụ bắt bớ,
ám sát, thủ tiêu các nhân vật từng hợp tác với Pháp hay
Nhật. Không khí nghi kỵ chia rẻ bao trùm.

"Chiếm được chính quyền rồi, Lâm Ủy Hành Chánh được lịnh
tổ chức "Tuần lễ vàng" ngày 16/9/45 để thu góp vàng bạc
trong dân chúng, nói là để mua đạn đánh Tâỵ Thực chất số
vàng quyên góp được (không công bố là bao nhiêu) chỉ để
củng cố đảng CS lúc này đang yếu thế. Trong bầu không khí
phấn khởi mừng độc lập, chúng kêu gọi mọi người móc hầu
bao, vòng vàng, bông taị..đem nạp cho ủy ban nhóm tại trụ
sở mỗi làng. Vừa áp dụng tâm lý, vừa tuyên truyền "mua
súng đạn đánh Tây, lập ngân quỹ cứu trợ nạn đóị.."

Ở Nam Bộ, trong "tuần lễ vàng", CS đã thâu được 1 số kếch


xù. Theo Trần Văn Đôn trong cuốn hồi ký Việt Nam Nhân
Chứng cho biết chính ông Bộ trưởng Huỳnh Thiện Vang
mang 12 bao bố loại bao chỉ xanh, chứa đầy vàng đem ra
Bắc giao cho chính phủ Hồ Chí Minh. Số vàng quyên góp của
dân chúng được xử dụng ra sao ? Nhà văn Hoàng Qyốc Kỳ, 1
cán bộ trung ương của Đảng, tiết lộ :"Ông Hồ cho cán bộ
đem vàng lên Đồng Văn đổi lấy thuốc phiện của người Mèo
về cung phụng cho Tiêu Văn, Lư Hán. 2 tướng này được Hồ
Chí Minh hối lộ hàng tấn vàng bạc với điều kiện là không
được ủng hộ, cung cấp vũ khí, che chở cho đảng phái Việt
Cách và Việt Quốc. Riêng Tướng Lư Hán, Hồ Chí Minh còn
tặng 1 bộ bàn đèn để hút thuốc phiện bằng vàng ròng".

Khi theo phái đoàn tham dự Hội nghị Fontainebleau, Hồ Chí


Minh cho mang theo 20 kg vàng để tặng báo L'Humanité, tờ
báo thân Cộng, để họ ủng hộ đảng CS. Sách Đường Xuyên
Tây của tác giả Nguyễn Hùng, nhà xuất bản Long An năm
1990, trang 81-82 viết :

"Theo chỉ thị của bác Hồ, tất cả chi phí giúp đỡ 3 ông Hoàng
Lào, rồi qua tỵ nạn tại Bangkok : ông Hoàng Phouma,
Bésarat và Souphanouvong. 2 ông trên có vợ đầm, còn ông
Souphanouvong có vợ Việt là bà Kỳ Nam, người Việt quen
gọi là "Cô Tám".

"Bằng số vàng của đồng bào Nam Bộ lạc quyên trong "tuần
lễ vàng", mà Xứ ủy Năm Đông (Dương Quang Đông) đã
mang qua Thái Lan. Theo chỉ thị của trung ương, các đồng
chí Trần Văn Giàu, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch tìm cách đưa 3
ông Hoàng Lào từ Thaket qua Thái Lan. 1 phái đoàn được chỉ
định lo "công tác này", gồm các đồng chí Nai Sà Wạch Trọng,
Ban và Năm Đông...đem vàng và tiền đi rước 3 ông Hoàng
qua đất Thái Lan tỵ nạn. Tới Thái, cả 3 ông được ngụ trong 1
biệt thự sang trọng kà pị (?) và được cấp 1 chiếc xe Ford để
3 ông đi chơi".
3 ông Hoàng Lào ấy không phải là tổ tiên của dân tộc VN,
mà sao CS lại tự tiện mang vàng cung phụng, chu cấp, còn
những người yêu nước, khác chính kiến thì CS lại thủ tiêu,
giết hại dã man. Chính sách của CSVN trước sau như một.

Mới chiếm được chính quyền, Lâm Ủy Hành Chánh vội vàng
lập Quốc Gia Tự Vệ Cuộc, giao cho Nguyễn Văn Trấn đi lùng
bắt, ám sát, khủng bố, cho mò tôm... Đó là những người mới
liên hiệp với họ vài hôm trước. Phạm Hùng (từ Côn Đảo mới
về), Kiều Đắc Thắng, Kiều Tấn Lập,...được lịnh lùng sục
khắp nơi, bắt các nhân sĩ, lãnh tụ các đảng phái, tôn giáo,
thậm chí đến những viên chức hội tề đã về hưụ..đem thủ
tiêu rồi chụp mũ họ là "Việt gian".

Giữa lúc đất nước lâm nguy, cuộc kháng chiến chống Pháp
cần sự đoàn kết toàn dân, thì CS lại chủ trương hòa hoãn với
thực dân, nhượng bô họ để rảnh tay tiêu diệt những đồng
bào cùng chiến tuyến. Hành động ấy làm tan rã sự đoàn kết,
tiềm năng chiến đấu suy yếụ CS lèo lái cuộc kháng chiến
chống Pháp đi theo 1 đường vòng vo để có đủ thời giờ nắm
tất cả quyền chỉ huy và tiến hành đưa nước ta vào quỹ đạo
CS Quốc Tế. Ông Dương Đình Lôi đã kể lại việc CS giết 1 ông
Cả, lúc đó đã về hưu trên 70 tuổi, vì đã cộng tác với Pháp
trước kia :

"Chính Bảy Trấn, tức Nguyễn Văn Trấn, vào năm 1945-1946
đã ký tên, ra lịnh bắt giết rất nhiều người có liên quan tới
chính quyền thuộc địa Pháp, nhứt là Hương chức, Hội tề...vì
sợ chính quyền Pháp tái lập chính quyền bằng những thành
phần nàỵ

"Ông Cả Đần tại làng Tân Bửu, bị nhân viên Quốc Gia Tự Vệ
Cuộc bắn chết tại sân nhà khi ông đang cúng Phật trước bàn
thông thiên. Năm 1945, ông Cả Đần đã 72 tuổi, hưu trí từ
lâụ..
Theo lời ông Trần Văn Ân trong cuốn Phật Giáo Hòa Hảo
Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc, trang 415 :

"...Số là ông Hội đồng Nhiều (Hội đồng Thành phố Saigon
Nguyễn Văn Nhiều) đã chứa chấp Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ
trong nhà với vài người khác, đương đêm bị Việt Minh vào
nhà bắt đi và giết chết, chặt thành nhiều khúc, xác bỏ dọc
đường mương trông rất thê thảm..."

Lúc ấy Việt Minh muốn giết ai thì họ chỉ cần phao tin
những người đó là "Việt gian". Ai bị mang tiếng Việt
gian chỉ còn chờ chết mà thôị Hình thức giết người của
Việt Minh rất tàn bạo : chặt đầu, mổ bụng dồn trấu, trói
thúc ké thả xuống sông...mò tôm để tiết kiệm đạn.

Trần Văn Giàu còn ra lịnh, "Chính phủ Nam Bộ đang lập ủy
ban điều tra mỗi tỉnh để xem xét và tố cáo bọn phản quốc.
Bọn này sẽ bị ra tòa án nhân dân trừng trị, tài sản bị tịch
thâu, ruộng đất của họ sẽ bị lấy chia cho dân nghèọ.."
(Thông cáo ngày 8/9/45, Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng
Lịch Sử Dân Tộc", trang 365).

Trong 1 đoạn khác của cuốn sách trên, ông Trần Văn Ân cho
biết : "...chính Bảy Viễn, lúc mới ra hợp tác với Lâm Ủy Hành
Chánh, được lịnh Trần Văn Giàu và Nguyễn Văn Trấn để hạ
sát mấy trăm người trí thức ở Saigon, nhưng Bảy Viễn không
giết. Thí dụ kỹ sư Lê Văn Ngọ (nhạc phục bác sĩ Trần Lữ Y)
bị Thanh Niên Tiền Phong bắt trói dưới cột cờ, đợi giờ mổ
bụng dồn trấụ Bảy Viễn đi qua hỏi :

- Bắt thằng này trói dưới cờ để làm gì ?

- Thưa đợi giờ mổ bụng dồn trấu !


- Tại sao ?

- Thưa, vì có vợ đầm !

Bảy Viễn ra lịnh : "Thả nó đị Có vợ đầm kệ nó. Có vợ


đầm chưa phải là Việt gian. (Nên nhớ Phạm Văn Bạch,
bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đều có vợ đầm !)... Khi được Trần
Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn trao cho danh sách mấy trăm trí
thức "Việt gian phải giết", Bảy Viễn chửi thề :

- DM. Độc lập mà giết hết trí thức thì lấy ai làm việc !

Ông Hồ Văn Ngà đang ngủ. CS đập cửa vào mời đi họp, rồi
bắt đem giam ở Cà Maụ Nghe tin Pháp đánh xuống Cà Mau,
Việt Minh đem ông Ngà xuống Hòn Đá Bạc trấn nước chết.
Trước khi chết, ông Ngà đã nói :

- Mấy anh có giết tôi thì giết, đừng nói tôi là "Việt gian, phản
quốc".

Lợi dụng cuộc hưu chiến ngắn ngủi ngày 8/10/45, công an
Việt Minh đã bủa lưới bắt trọn các lãnh tụ Đệ Tứ (Trốt-kít)
như các ông Trần Văn Thạch, Phạm Văn Chánh, Nguyễn Văn
Sổ, luật sư Huỳnh Văn Phương, bác sĩ Hồ Vĩnh Ký cùng vợ là
bác sĩ Nguyễn Thị Sương, luật sư Dương Văn Giáọ..tất cả là
64 người, đều bị giết tại cầu Bến Phân (Hạnh Thông Tây, Gò
Vấp) hay chôn sống tại sông Lòng Sông (Mường Mán, Phan
Thiết)...

Trước khi chạy thụt mạng xuống Chợ Gạo, Ủy ban hành
chánh của Trần Văn Giàu còn chôn sống hàng trăm người trí
thức ở Quơn Long (Chợ Gạo), trong đó có luật sư Huỳnh Thái
Thông; khai sanh viết là Hình Thái Thông). Có người biết
chuyện kể lại rằng vì các ông Hồ Vĩnh Ký, Huỳnh Văn
Phương, Dương Văn Giáọ..đã nắm được hồ sơ Trần Văn Giàu
đã cộng tác với mật thám Pháp là Arnoux. Hồ sơ này bị Nhật
tịch thu khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9/3/45, trao lại cho
ông Hồ Vĩnh Ký, lúc ấy đang làm giám đốc công an Nam Bộ.
Trong hồ sơ, Trần Văn Giàu đã cam kết với Pháp là chỉ điểm
những phần tử quốc gia chống Pháp, hợp tác với Nhật, để
đổi lại Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai được bố trí cho vượt
ngục giả tạo.

Ngoài ra, ông Dương Đình Lôi còn cho biết Trần Văn Giàu đã
được Pháp gởi 1 em đầm tới cho Giàu mua vui, và thả những
người Pháp bị bắt giữ làm con tin khi Lâm Ủy Hành Chánh
nắm quyền.

Cũng trong chiến dịch sát hại những người yêu nước không
theo CS, Trần Văn Giàu đã ra lịnh giết Tạ Thu Thâu ở Quảng
Ngãi, Diệp Văn Kỳ (con ông Diệp Văn Cương và Công chúa
Thiên Niệm) ở Tha La (Trảng Bàng). Rồi sau đó, CS lại ám
sát Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ tại Đốc Vàng, do tên Bửu Vinh
thi hành. Tác giả Nguyễn Thị Bạch Tuyết đã viết trong 1 bài
báo "Đời Mà Anh Trấn", như sau :

"Ông Trấn chẳng còn bao lâu nữa, hãy vâng lời ông Như
Phong nhắn trên đài BBC, nhớ lại càng nhiều càng tốt,
những ngày giờ, nơi chốn mà ông đã chôn sống những aị..rồi
thông báo cho thân nhân họ, để con cháu biết mà bốc nắm
xương tàn, để biết đích xác ngày tháng mà cúng giỗ".

http://www.motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/Chuyenthat9
nam.htm

Tình đồng chí hay những bản án tử hình đồng loại

Tình đồng chí hay những bản án tử hình đồng loại


Hứa Hoành
Tôi (tác giả Hứa Hoành) có dịp đàm đạo với 1 vị cao niên,
quen nhau từ hồi ở bên trại ty nạn, mới đây gặp lại trong 1
tiệc cưới. Ông nhận xét về thàn phần dao búa tham gia
kháng chiến năm 1945, kể lại những chuyện thật, xin giấu
tên:

Năm 1945, khi Việt Minh cướp chính quyền, kêu gọi toàn
dân kháng chiến. Chúng tôi, dân giang hồ sống ngoài vòng
pháp luật từ lâu, nghĩ rằng đây là dịp đoái công chuộc tội.
Hơn nữa, chúng tôi có người còn chút lương tri, muốn ngoi
lên ánh sáng làm người lương thiện và làm người yêu nước
trong thời loạn. Đó cũng là tâm trạng các tướng cướp khét
tiếng như Bảy Viễn, Mười Trí, Thomas Phước (tướng cướp
hào hoa nổi tiếng 1 thời ở Saigon). Đầu tiên, chúng tôi xin
gia nhập Tự Vệ của Lâm ủy Hành chánh. Nhóm này chia làm
2 phe: 1 phe lo bảo vệ an ninh cá nhân trong Lâm ủy, còn 1
nhóm khác nhận mật linh thi hành các vụ giết người "Việt
gian", "phản động". Tôi thuộc nhóm thứ haị Qua mấy tháng
nhúng tay vào máu, chúng tôi, có người tỉnh ngộ và đổi thái
độ. Một hôm, Trần Văn Giàu họp chúng tôi và nói:

- Cách mạng nào mà không đổ máu ? Chúng ta hãy tiêu diệt


bọn "phản động", "Việt gian" với bất cứ giá nào.

Những lời kết tội đó chỉ chung chung, không nói rõ tội trạng
một aị Rồi cứ mỗi tối, chúng tôi lại nhận mật lịnh đi lùng
sục, bắt bớ, thủ tiêu nhiều nhân vật tên tuổi mà Lâm ủy có
sẵn tên trong "sổ bìa đen".

Một người trong nhóm chúng tôi thắc mắc:

- Tại sao độc lập rồi mà còn giết nhiều người tài đức, có uy
tính ?

Trần Văn Giàu trả lời:

- Cách mạng làm gì có đức ? Ai làm cách mạng mà không


giết người ?
Từ trong tiềm thức chúng tôi, hận thù dược khơi dậy, nhiều
người say máu, muốn trả thù. Tuy nhiên, cũng có người
chùng bước, không nở nhúng tay, nhưng cũng không dám
cải lịnh. Chúng tôi lào vào công việc chém giết và được
khuyến khích như "nhiệm vụ cách mạng".

Mấy tháng sau chúng tôi tỉnh ngộ. Kẻ còn chút lương tri như
bọn tôi, tự động rã ngũ, về thành để bảo vệ mạng sống 1
cách nhục nhả. Có người "đâm lao thì phải theo lao". Lại có
người tiếp tục "đánh đu với tinh, đùa giởn với rắn độc", chỉ
trong 1 thời gian ngắn, họ "sanh nghề tử nghiệp". Đó là
trường hợp của Ba Nhỏ, Hoàng Thọ, Giang Minh Lý và ngay
cả Trung tướng Nguyễn Bình. Còn lại những kẻ mù quáng,
tiếp tục vay máu đồng bào, cuối cùng cũng bị "hy sinh". Họ
chết không phải vì lằn tên mũi đạn của kẻ thù mà chết vì
dao găm, mã tấu của "đồng chí" họ như Tưởng Đàn Bảo, Vũ
Đức, Sư Muôn..."

Sau đây là vài trường hợp thương tâm ấy.

Khi Pháp chiếm lại các công sở trong thành phố Saigon đêm
22 rạng 23/9/45, Ủy ban Hành chánh đã chạy thụt mạng vô
Chợ Đệm mấy hôm trước, bỏ lại bọn Tự Vệ (Tự Vệ Cuộc, tức
công an Việt Minh), Thanh Niên Xung Phong như rắn mất
đầu. Võ khí thô sơ làm sao đương đầu với quân Pháp khí giới
tối tân ? Từ chỗ ẩn náo an toàn, Ủy ban Han`h chánh ra lịnh
tàn sát bất cứ người da trắng nào họ gặp. Ba Nhỏ, 1 đầu
đảng cướp hoàn lương, chỉ huy 1 toán Tự Vệ thành, được
lịnh ấy. Nửa đêm 25/9/45, Ba Nhỏ dẫn 1 đám lâu la, đột
nhập cư xá He'rault (He'rault City) dành riêng cho gia đình
Pháp kiều tại Tân Định, Phú Nhuận tàn sát 1 số đàn bà, trẻ
con tại đây Rồi họ bắt theo độ 50 người làm con tin, nhưng
rồi cũng giết nốt. Tổng số nạn nhân lên tới khoảng 200
người. Nhiều quân lính Pháp, nóng lòng vì thân nhân bị giết,
nên ra đường gặp ai đều bắn bừa bãi để trả thù. Dư luận tức
giận, quay lại kết án Việt Minh là bọn mọi rợ. Nổi sùng, mấy
ngày kế tiếp, Ba Nhỏ, Tô Ký, Kiều Đắc Thắng, Kiều Tấn Lập
của Việt Minh được lịnh lùng sục, bắt bớ, chém giết man rợ.
Chỉ trong vòng 1 tháng, có hàng trăm nhân vật tên tuổi,
người quốc gia yêu nước đều bị giết.

Cũng như lớp CS đàn anh, Ba Nhỏ xuất thân từ băng du côn
Bà Chiểu, Cầu Bông, Thị Nghè; 3 năm cầm đầu dân dao búa,
Ba Nhỏ thạo nghề chém giết. Được Lâm ủy Hành chánh
trọng dụng, hắn "làm việc cần mẫn". Nạn nhân của hắn
không 1 ai sống sót. Vậy mà khi Pháp xua quân chiếm lại
Thủ Đức, Ba Nhỏ theo bộ đội kháng chiến rút ra trước tới
Biên Hòa. Biên Hòa thất thủ, bộ đội Ba Nhỏ rút về Bà Rịa,
Long Thành. Để xoa dịu dư luận bất mãn đối với Việt Minh,
Tướng Nguyễn Bình được lịnh dàn dựng tội trạng để xử tử Ba
Nhỏ "làm gương" vì tội "vô kỷ luật".

Giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, giặc Pháp thập thò trước cửa,
tàu chiến xập xình trên sông Lòng Tảo hàng ngày, mà Việt
Minh ngụy tạo tội trạng cho Ba Nhỏ "đã giết người đàn mà
mang 2 kg thịt tiếp tế vùng tạm chiếm" để tử hình đồng đội.

Khi Ba Nhỏ bị kêu án, Ba Dương (Ba Dương là lãnh tụ Bình


Xuyên trước Bảy Viễn) và đồng đội giang hồ cũ, đều ký tên
xin ân xá hoặc giảm án, nhưng Nguyễn Bình được lịnh phải
hành quyết tức khắc. Quá ức vì biết mình bị làm con vật hy
sinh, Ba Nhỏ liều giựt cây súng lục của đội hành quyết định
tự sát cho rõ khí phách 1 tay anh chị, nhưng toán hành
quyết giựt lại và bắn Ba Nhỏ chết liền tại chỗ.

Kiều Đắc Thắng là 1 tên du thủ du thực, từ miền Trung lưu


lạc vào Nam trước năm 1945. Thắng làm đủ nghề từ phu
đồn điền, khuân vác, thợ hớt tóc. Kiều Đắc Thắng ăn cướp bị
bắt giam vào khám ở Vũng Tàu. Ở đây, Thắng cùng 1 bạn
đồng tù tên Năm Bé móc nối với 1 tên coi ngục để vượt
ngục. Lúc đó đúng vào cơ hội Việt Minh cướp chính quyền,
Thắng xin làm Tự Vệ. Từ Tiểu đội trưởng Quốc Gia Tự Vệ
Cuộc (công an Việt Minh), Kiều Đắc Thắng lên lên chức
quyền Giám đốc công an các tỉnh miền Đông chỉ hơn 1 năm,
nhờ khả năng bắt cóc và ám sát. Những ai bị Lâm ủy Hành
chánh kết tội "Việt gian, phản động", Thắng hạ sát không
gớm tay Nạn nhân của Thắng dài sọc. Ông Phan Văn Hùm bị
Kiều Đắc Thắng ám sát tại quê nhà Bún, Lái Thiêu, tháng
10/1945. Về sau, thấy Thắng có quyền hành quá lớn, muốn
qua mặt Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Trấn, nên Tướng
Nguyễn Bình "gởi Thắng ra gặp bác Hồ". Có nguồn tin nói
rằng Hồ Chí Minh cho Thắng gặp mặt, phủ dụ mấy câu theo
công thức, rồi đổi tên Thắng là Vũ Tùy Nhàn để khỏi mang
tiếng. Tuy nhiên, trên đường về Nam, Kiều Đắc Thắng chết 1
cách mờ ám.

Một nhân vật độc đáo khác cũng xuất thân từ giới gian hồ,
đánh giặc rất gan lỳ, đó là Hoàng Thọ. Hoàng Thọ là người
Hải Phòng cũng do lò ba búa đào tạo, lưu lạc vô Nam từ năm
1939. Thọ có thân hình cao lớn, khá điển trai, râu quai nón.
Khá hơn những tên trước, Thọ từng làm thợ máy quấn dây
điện. Khi Nhật đảo chánh Pháp (3/1945), Thọ theo Nhật làm
lính hải quân, nên được gọi là "Thọ Mạch lô". Việt Minh nắm
chính quyền mở ra cho Thọ 1 con đường mênh mông vì hợp
khả năng. Khi Tướng Nguyễn Bình vào Nam, nghe tiếng Thọ,
lại người cùng quê, nên Nguyễn Bình chọn bộ đội Thọ để bảo
vệ cho mình. Mộ năm sau, bộ đội của Hoàng Thọ được bổ
sung thêm nhiều chiến sĩ, đánh nhiều trận tiếng tăm lừng
lẫy. Địa bàn hoạt động của Thọ là vùng Gò Dầu, Trãng Bàng,
Tây Ninh. Tuân lịnh Việt Minh, Thọ từng gây nhiều tội ác đối
với giáo phái Cao Đài. Những người quen biết với Hoàng Thọ
có kể lại rằng, mỗi lần phục kích, Thọ chọn hướng gần mé
sông. Binh sĩ chỉ có tiến chớ kho^g có lùi. Khi Nguyễn Bình
chính quy hóa quân đội kháng chiến, bộ đội Hoàng Thọ trở
thành Tiểu đoàn 303. Đó là đơn vị chủ lực của Quân khu 7.
Nguyễn Bình gài 1 tên CS, tên Kính, vào làm chính trị viên
thì Tiểu đoàn 303 bắt đầu chia rẽ nội bộ và trở nên suy yếu.
Có lần Hoàng Thọ bắt gặp 1 số bộ đội sinh hoạt riêng rẽ, bí
mật. Khi Thọ điểm danh, thì vắng mặt. Lúc đó, tên chính trị
viên Kính cố thuyết phục, rùn ép, dụ dỗ Thọ vô đảng CS. Bất
mãn, Thọ bỏ đi, rồi cạo đầu để phản đối. Lúc trở về, Thọ
thấy vật dụng cá nhân đều bị lục soát, anh ta bực tức không
dằn được:
- ĐM. Hoàng Thọ này đi kháng chiến vì dân vì nước, đâu có
ngờ ngày nay có đảng này đảng nọ. Đem mà bắn cha nó cái
đảng CS cho rồi !

Sau đó, Thọ bị kiểm điểm, phê bình và thế là 1 bản án tử


hình bí mật đã định sẵn. Tháng sau, Tướng Nguyễn Bình
"giới thiệu" Hoàng Thọ ra Bắc "gặp bác Hồ". Biết rõ âm mưu
của Việt Minh định giết mình, Hoàng Thọ đi vài chặng, rồi đổi
ý quay về Mỹ An mở quán lá bên bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp
trong Đồng Tháp Mười làm sinh kế. Hoàng Thọ có tiền, tiếp
đãi bạn cũ có dịp công tác đi ngang qua đó rất hậu chẳng
khác gì Mạnh thường quân.

Đầu năm 1950, văn phòng Trung tướng Nguyễn Bình dời về
Cá Lóc, quận Long Mỹ. Bị Tây phát giác, họ chuyển đến Ông
Dèo, ấp Cầu Đúc, quận Gò Quao, tỉnh Rạch Giá. Trong 1
đêm tối trời, Hoàng Thọ bị bắt, đem đi hành quyết tại 1 địa
điểm gân Cạnh Đền. Bọn sát nhân đập đầu Hoàng Thọ như
đập đầu con cá lóc. Trước khi chết, Thọ rống như bò và chửi
rủa Việt Minh thậm tệ.

Cùng thời gian đó, ông Giang Minh Lý bị giết rất dã man. Lý
con nhà đại điền chủ bỏ theo kháng chiến, lập nhiều công
trạng, làm chính trị viên 1 đại đội đóng ở Cần Thợ Lý bị rùn
ép, đe dọa phải vào đảng CS và phục tùng mệnh lệnh của
họ. Lý từ chối nên bị nghi ngờ, theo dõi. Lý bất mãn ra mặt.
Có lần Lý tuột quần, chỉ vào con c. và điểm mặt Hoàng Dư
Khương, Chính ủy Khu 9, nói:

- Tao sợ mày cái con c. tao nè !

Mấy hôm sau, Lý bị bắt đem đi hành quyết tại Cạnh Đền. CS
căng 2 tay ông ra, rồi dùng dao găm đâm túi bụi vào mắt,
vào tim...

Sau đây là 1 vụ hành quyết tập thể các "đồng chí" của mình
(Việt Minh) mà tác giả Dương Đình Lôi có thấy hoặc nghe kể
lại trực tiếp (qua 1 bức thơ ông Dương Đình Lôi gởi riêng cho
tác giả Hứa Hoành):

...Tất cả độ 20 người thuộc bộ chỉ huy, tham mưu và hậu


cần, chính trị của Tiểu đoàn 300 Dương Văn Dương, có cả
Trương Văn Phụng và anh Tám Sơn đều bị trói thúc ké, đem
xuống bờ biển Đông Hòa, rồi chặt đầu hết. Trong số nạn
nhân có Bảy Nghiệp, nguyên Chi đội trưởng Chi đội 21 từ
nhóm Bình Xuyên qua, phụ trách đảng vụ của Trung đoàn và
chị Hai Sương được "hưởng ân huệ" khi xử tử. Đó là dùng
súng bắn vào đầu thay vì bị chăt đầu.

Về cái chết của chị Hai Sương, ông Dương Đình Lôi không
chứng kiến, nhưng được nghe chính người hành quyết kể lại:

Tôi nghe anh Năm Triệu, Đại đội trưởng chỉ huy cuộc hành
quyết đó về vă phòng trung ương báo cáo lại. Năm Triệu gốc
lính Nhật, to lớn con, mang gươm dài chấm đất. Năm Triệu
kể:

"Tao thấy con Sương rụng rời tay chân. Tới phiên nó, nó xin
đi đái. Tới lúc nó đứng dậy sau bụi cây mưạ Nó lột trần
truồng dưới ánh trăng lờ mờ, làm tao trân trối nhìn nó chậm
rãi đi trước miệng hố. Tao biết tội nó chỉ là liên lạc đưa thơ
về Saigon mà sao họ cũng giết đành đoạn ? Khi tới gần tao,
nó nói:

- Anh Năm ! Em muốn hiến cho anh rồi em chết.

"Tao bàng hoàng định tha cho con nhỏ. Nhưng thằng mắc
dịch Bảy Mầu đi tới (Bảy Mầu cũng là Đại đội trưởng, chồng
chị Dưỡng, rễ của Ba Dương, bị Tướng Nguyễn Bình sai Từ
Văn Ri ám sát chết ở Bến Tre). Thằng Mầu nó bảo:

- Bộ hỏng mạnh dạn xuống gươm hả ? Để tao tặng cho em


viên đạn.

"Thế là kết liễu 1 đời hồng nhan bạc phận. Chị Sương là 1
người đẹp nhất của Trung đoàn, con nhà giàu, học sinh ở
Saigon, bỏ theo kháng chiến và rước lấy cái chết thê thảm.

"Những người bị chặt đầu, chôn, hoặc thả trôi sông Lòng Tảo
hôm ấy tôi được biết gồm có:

- Hai Điều, Trưởng ban quản trị, bị bắt ở An Thành.


- Tám Son, Trưởng văn phòng Trung đoàn.
- Bảy Nghiệp, Tiểu đoàn trưởng, Trưởng ban đảng vụ. >BR>-
Năm Son, Trưởng ban quân nhụ
- Bác sĩ Năm Ngà, Trưởng bịnh xá Trung đoàn.
- Chị Sương, 1 thiếu nữ xinh đẹp, thuộc ban quân báo Trung
đoàn.
- Chín Lá, Trưởng đài vô tuyến điện.

Sau đây là chuyện của Sư Muôn.

Sư Muôn là 1 nhà tu mang nhiều tai tiếng xấu, báo chi


phanh phui những hành động lem nhem với phụ nữ. Lý lịch
sư Muôn cũng ít người biết, nhưng nhắc tới sư Muôn, những
người lớn tuổi ở miền Tây không ai không nghe tiếng. Tôi
(Hứa Hoành) may mắn được ông Xuân Tước và 1 vị cao niên
khác chỉ dẫn nhiều chi tiêt.

Hồi những năm từ 1936-1939, sư Muôn có chùa ở quận


Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá. Sát bên chùa có 1 cái am nhỏ,
nơi đây những phụ nữ, những bà hiếm muộn muốn cầu tự,
thường tìm đến sư Muôn để nhờ làm phép và nhiều người
mãn nguyện. Nhờ vậy tiếng ông đồn rất xạ

Sư Muôn tên thật là Nguyễn Kim Muôn, người ở Gia Định,


trước làm công chức Sở hỏa xạ. Luc đó, ông có mướn căn
phố tại đường Hamelin (Hồ Văn Ngà sau này). Ông xuất tiền
và lạc quyên thêm để cất ngôi chùa Long Vân Tự tại đường
Hàng Xanh, Thị Nghè. Bây giờ Long Vân Tự vẫn còn. Trong
khi tu, sư Muôn có nhiều chuyện bất chánh với phụ nữ khiến
dân chúng căm phẫn. Ông bỏ chùa xuống Giồng Riềng, Rạch
Giá, tiếp tục lập chùa, lừa gạt phụ nữ hiếm muộn. Báo chí
Saigon đã tố cáo ông thậm tệ.

Đầu năm 1946, Pháp chiếm trọn các tỉnh miền Nam. Hết đất
dụng võ, nhóm CS đầu não của Khu 9 gồm Tỉnh ủy Nghiêm
Cai Cơ, Bí thư Tỉnh ủy Dương Quang Đông (tức Năm Đông),
Phan Trọng Tuệ, Lâm Ngọc Minh phải bôn đào ra Phú Quốc.
Sẵn thấy chùa sư Muôn có cơm gạo do bá tánh dâng cúng,
nên bọn này ghé ăn dầm nằm dề tại chùa để ăn chực. Để lợi
dụng sư Muôn, họ bèn phong cho ông làm "Ủy viên Xã hội"
bằng miệng. Năm 1948, CS bao vây chùa bắt sư Muôn đem
giết ven mé rừng, giữa Dương Đông và Hàm Ninh.

Phong trào "Thổ dậy" ở miền Nam vào năm 1945

Miền Nam là đất cũ của Chân Lạp, tức lãnh thổ Miên (sau khi
Chân Lạp bị suy tàn). Dân Nam Kỳ gọi người Miên là "Thổ".
"Thổ dậy" là phong trào những người Miên trả thù (cáp
Duồng) giết người Việt. Trong thời Pháp thuộc, người Miên,
người Việt sống đề huề, thuận hòa với nhau trong gần 1 thế
kỷ. Bình thường, bản tính người Miên rất hiền lành. Họ ăn
uống cực khổ (thường ăn mắm) làm việc nặng nhọc như
chèo ghe, vác lúa... Người Miên theo Phật giáo Tiểu thừa.
Tuy nhiên, bị khích động, họ thịnh nộ, giết người dã man.

Sau khi cướp chính quyền ở Cà Mau (lúc đó là 1 quận), Ủy


ban Hành chánh quận này đã giết hàng loạt thường dân và
các nhà sư Miên 1 cách dã man. Thừa gió bẻ măng, khi Pháp
ruồng bố tới, Thổ nhứt tề nổi lên theo Pháp để trả thù người
Việt, gặp ai giết nấy. Võ khí của họ là chiếc phảng phát cỏ,
kèo ngay, xử dụng như mã tấu. Những ai từng sống ở Hậu
Giang vào các năm ấy, chắc không khỏi hãi hùng vì những
tin "Thổ dậy". Thảm cảnh đó do 1 tnhóm Việt Minh CS khơi
nguồn, nhưng nhiều người dân vô tội sau đó đã trở thành
nạn nhân.

Chứng kiến cuộc hành quyết dã man , ông Văn Nguyên


Dưỡng , trong hồi ký "Tết Chạy Giặc Sau Mùa Thu Nhiễu
Nhương", đã thuật lại cuộc giết các thường dân và sư sải
Miên ở Cà Mau năm 1945 như sau:

"...Rồi không lâu, sau ngày "Mừng độc lập", cuộc tao loạn
bắt đầu. Ngoài danh từ mới "Việt Minh" được biết vào ngày
đó, tôi còn biết thêm 1 danh từ nữa là "Việt gian". Dân
chúng, ai cũng sợ danh từ ấy. Ai cũng có thể bị kết tội là Việt
gian với những chứng cớ mơ hồ, hay những việc làm trong dĩ
vãng, rồi đem ra bắn hoặc cho "mò tôm". Người đầu tiên bị
xử bắn dưới dạ Cầu Quay bên kia sông là cậu Bảy Mầu, "ông
Cò Cà Mau". Mắt tôi mở rộng thêm khi biết rằng "có độc lập
rồi" mà Việt Minh vẫn đem người ra xử bắn hàng loạt. Nhứt
là các sư sãi ngươi Miên bị lôi từ trong chùa Miên ra, hoặc bị
bắt ở đâu đó trong quận.

"Cách xử tử quá dã man: Họ trói tay hay bịt mắt bắn hoặc
chặt đầu. Cho rằng các sư Miên có "cà tha" (bùa), có ngải,
súng đạn không lủng, chém không đứt, Việt Minh nghĩ ra các
xử tử bằng tầm vông vạt nhọn, đâm vào hậu môn rồi thả
trôi sông. Xử tập thể trước mắt công chúng, trông thật
khủng khiếp.

"Cầu tàu dưới bến, nơi họp lưu của sông Cà May và kinh
xáng Đội Cường, thường là nơi diễn ra cuộc hành quyết đó.
Mỗi lần như vậy, dân chúng tò mò kéo nhau đi coi rất đông.
Hàng loạt sư sãi Miên bị cột chặt vào 3 đòn tre cứng, dài,
mỗi người cách nhau 1 bước, thành 1 hàng ngang, xoay mặt
ra phía sông. Quần bị lột bỏ. Đòn tre thứ nhứt đặt trên cổ,
sau ót hàng người bị xử tử. Đòn tre thứ hai đặt ngang thắt
lưng. 2 tay mỗi nạn nhân bị trói thúc ké, bẻ quặc ra sau
lưng, buộc chặt vào đòn. Đòn tre thứ ba đặt ngang mắt cá,
phía trước hàng chân dạng ra của họ. 1 đoạn dây buộc vào
cổ mỗi người dính vào đòn tre thứ nhứt, kéo thẳng xuống
buộc 2 chân họ vào đòn tre thứ bạ 6 du kích khoẻ mạnh giữ
cứng 6 đầu của 3 đòn tre, kèm cho hàng người tù tội đứng ở
thế cúi người xuống, chổng mông hướng vào mép trong cầu
tàu.

"Ở mép trong cầu tàu, đã có sẵn 1 đội du kích bằng với số tử
tội, đứng sắp hàng ngang, tay giữ tầm vong vạt nhọn đầu,
dựng ngọn lên trời, chờ đợi.

"Đến giờ xử, có lịnh hành quyết do 1 người chỉ huy phất lên.
Những tên du kích này hạ tầm vông ngang thắt lưng, chỉa
mủi nhọn ra trước mặt, cùng 1 lượt chạy nhanh ra mép cầu,
dùng hết sức mạnh, đâm thẳng mũi nhọn vào hậu môn của
mỗi tử tội, đẩy cả hàng tù tội này xuống sông và buông luôn
cả cây tầm vông....

"Cách xử như vậy là xong. Bọn du kích Việt Minh bình thản
kéo nhau ra về mang đầy máu me của những người bị xử
phọt ra. Chúng bỏ cho những người đi coi mặc tình tràn ra
cầu tàu nhìn xuống nước, xem những người này sống chết ra
sao. Dĩ nhiên không 1 ai sống sót. Nếu họ không chết vì vết
đâm thấu ruột gan, thì cũng chêt vì ngộp nước không lâu
sau đó. Những cán tầm vông sẽ chổng lên trời hoặc ngã
nghiêng xiêng xọ, rồi những đàn diều, quạ, kên kên lượn
vòng khu vực đó. Vài con đậu trên cán tầm vông. Năm bảy
con chúi xuống rỉa thịt xác chết. Cả 1 vùng nồng nặc hôi
thúi, gieo sự kinh hoàng tột đỉnh cho mọi người.

"Người dân lành trong quận đã bắt đầu câm nín. Cuộc sống
của họ bị đe dọa và bị ám ảnh bởi những cuôc hành quyết
man rợ của cs...".

-------------------------------------------------------------------
-------------

Hoàng Thọ
Lâm Chương

Những năm loạn lạc, các phe phái nổi lên như loài thảo
khấu. Tất cả đều lấy danh nghĩa chống Pháp, giành độc lập
cho nước nhà. Họ chống Pháp, nhưng đồng thời cũng chống
nhau. Thời đốn mạt, phe nào cũng tự cho mình là chính
nghĩa. Ðến thằng ăn cướp giết người, cũng lấy tiếng vì dân
làm cách mạng. Kẻ chân lấm tay bùn chẳng biết tin ai. Chân
lý có một, mà nghĩa lý thì rối bung. Bọn có học bảo sách vở
thánh hiền là khuôn vàng thước ngọc, rồi tự giải thích theo ý
riêng của mình. Miệng lưỡi của bọn mọt sách thật đáng sợ.
Nói xuôi cũng được, nói ngược cũng hay. Trong cái đầu ti tiện
của bọn này, chất xám chứa đầy những tế bào vị kỷ, lọc lừa,
phản trắc. Những lời khoác lác không thấy gươm đao, nhưng
lọt vào lỗ tai có sức tác hại rộng lớn. Ðám vô lại thì chữ
nghĩa mù mờ, còn biết tranh biện làm sao? Với chút máu du
côn cộng thêm tính khí liều mạng, họ muốn làm anh hùng ra
tay nghĩa hiệp trừ gian diệt bạo. Họ càng làm nghĩa hiệp thì
xã hội càng bất an. Họ thường qua lại trên chốn giang hồ,
lấy câu "tứ hải giai huynh đệ" kết bè lập đảng, tự cho mình
là hảo hán. Họ chứng tỏ lẽ phải bằng con dao cái búa, chủ
trương giải quyết bất công xã hội bằng hành động. Dân đen
có chút tiền của, ngày đêm nơm nớp lo sợ. Biết đâu là kẻ
cướp, biết đâu là cách mạng? Hôm qua là tên lưu manh giết
người giựt của. Hôm nay bỗng thay hình đổi dạng thành
người cách mạng. Vàng thau lẫn lộn là câu nói văn hoa vô
nghĩa. Thời đốn mạt kẻ tinh đời ẩn mật, không xuất đầu lộ
diện. Còn lại những đồng chì thau thiết, thì những thứ này
lại nằm trong hầm phân hố xí. Cái môi trường ghê tởm, vấy
bẩn tất cả.

Lúc bấy giờ, Việt Minh nổi lên thu phục những tên côn đồ
dao búa làm tay chân, trong đó có Hoàng Thọ. Thủ đoạn của
Việt Minh là tuyên truyền mị dân, khủng bố, thủ tiêu. Giết
người thủ tiêu là ngón nghề của Thọ.

Thọ là tay anh chị ở Hải Phòng trôi giạt vô Nam. Mặt mày
bặm trợn như Trương Phi. Mắt xếch, càm bạnh, râu rậm tới
mang tai. Thân hình vạm vỡ, cánh tay săn chắc, ngực vồng
lên, ức mọc một chòm lông. Thọ xuất thân từ gia đình
nghèo. Thuở thiếu thời có lúc phải nương vào cửa Phật kiếm
ăn. Sư chùa thương thằng bé siêng năng lanh lợi, truyền cho
võ nghệ với mục đích mai sau giúp đời. Năm mười bảy tuổi,
Thọ cởi trần gánh nước, sư nhìn thấy lún phún chòm lông
giữa ngực. Sư quay đi không nói gì. Từ đó, sư không truyền
võ nữa, thuần dạy gõ mõ tụng kinh. Thọ chán, khăn gói ra
đi. Sư chép miệng, "râu rìa lông ngực là tôi phản thần".

Thọ vào đời, xông xáo múa võ kiếm ăn. Trên chốn giang hồ,
Thọ khét tiếng ra tay tàn độc. Một lần đối đầu với gã anh chị
tên Luân Mặt Ngựa, thủ lãnh đầu gấu bến tàu Hải Phòng.
Thọ hạ đo ván, và đánh gãy một chân đối thủ. Luân Mặt
Ngựa nằm co quắp, cắn răng nén đau, giương mắt nhìn
trừng trừng vào mặt Thọ. Thọ đứng quan sát một hồi, bỗng
nói, "Ðịt mẹ! Dứt điểm luôn, không cho mày có cơ hội phục
thù." Nói xong, Thọ bước đến, vươn hai ngón tay trỏ và giữa
thọc sâu vào hai hố mắt của Luân Mặt Ngựa. Hai tròng mắt
lòi ra, Thọ tóm tròng mắt ném xuống đất, lấy chân dày xéo
lên nát bấy. Rồi Thọ đứng giạng chân, lôi dương vật ra đái
vào mặt Luân Mặt Ngựa, trước sự chứng kiến của đám đàn
em Luân Mặt Ngựa. Không thằng nào dám cử động nói năng.
Gã thủ lãnh đầu gấu nằm quằn quại trong máu và nước đái.
Thọ thản nhiên bỏ đi. Mấy ngày sau, Thọ quay lại bến tàu
Hải Phòng và nghiễm nhiên trở thành thủ lãnh của bọn đầu
gấu, thay thế Luân Mặt Ngựa.

Khi Nhật đảo chánh Pháp, tàu Nhật ra vô kiểm soát cảng Hải
Phòng. Trước khí thế súng đạn của quân phiệt, Thọ mất địa
bàn hoạt động. Bọn đàn em phân tán tứ phương, Thọ đầu
quân ngay vào lính hải quân Nhật, được dạy nghề thợ điện.
Ngày Nhật đầu hàng Ðồng Minh, rút khỏi Hải Phòng, Thọ
không theo. Thọ quy tụ lại đám đàn em thất lạc, sống tiếp
tục bằng nghề đâm chém. Giai đoạn này, Thọ có biệt danh
Thọ Mạch Lô, để chỉ thời gian đi lính hải quân Nhật. Khi Việt
Minh nổi lên cướp chính quyền, Thọ hùa theo đoàn quân Cứu
Quốc. Từ đó, Thọ giạt vô Nam làm tay chân bộ hạ của tướng
Nguyễn Bình.

Cả tỉnh Tây Ninh ai nghe danh Thọ cũng đều khiếp hãi. Vùng
hoạt động của Thọ là Gò Dầu Hạ, Trãng Bàng. Mục tiêu của
Thọ là chức sắc đạo Cao Ðài, và những kẻ làm việc cho
Pháp. Người chết dưới tay Thọ không biết bao nhiêu mà kể.
Hành tung của Thọ vô cùng bí mật. Thoắt hiện thoắt biến
khó lường. Bóng đêm là thế giới của ma quỷ. Khi vầng
dương chìm khuất, Thọ nương theo khí âm trở về. Bao giờ
Thọ cũng xuất hiện lẫm liệt, hông trái súng ngắn, hông phải
gươm dài. Trang bị theo kiểu cấp chỉ huy lính Nhật. Thọ xuất
hiện là có đổ máu. Giết người không nháy mắt. Cắt cổ, đập
đầu thả trôi sông. Cần thanh toán nhiều người cùng một lúc,
Thọ cột thành bè ra tay một loạt là xong.

Khúc sông Vàm Cỏ Ðông chảy ngang qua hai huyện Gò Dầu
Hạ và Trảng Bàng là mồ chôn những nạn nhân của Việt
Minh, và của bọn Pháp. Người dân sống theo hai bên bờ
sông, cứ vài ngày lại thấy chà chổng nổi lên, trôi lềnh bềnh
theo những cụm lục bình. Thời kỳ này, người ta gọi khúc
sông này là khúc sông chà chổng. Nhìn dấu tích trên thi thể,
người ta biết ngay là do Pháp, hay do Việt Minh sát hại. Pháp
giết người bằng cách trói thúc ké nạn nhân, đưa ra cầu tàu
Vên Vên bắn và hất xác xuống sông. Việt Minh không bao
giờ phí đạn với những con mồi nằm sẵn trong tay. Họ cắt cổ,
đập đầu.

Ngoài thủ đoạn ám sát thủ tiêu, Thọ còn có biệt tài đánh
trận. Nổi tiếng gan lì, từng gây cho quân Pháp nhiều tổn thất
lớn. Thọ được tướng Nguyễn Bình phong làm tiểu đoàn
trưởng, tiểu đoàn 303, quân khu 7. Ðể phô trương lực lượng,
đêm tối trời Thọ cho quân di chuyển chung quanh làng.
Quân đi cả đêm. Người ta tưởng đoàn quân đông đến hơn
trung đoàn. Thật ra, chỉ là trò mị. Quân của Thọ tiếp nối
nhau, đi theo vòng tròn kín. Một người có thể ngang qua
một địa điểm mười lần. Như thế đoàn quân của Thọ được
miệng đời nhân lên gấp mười. Ðó chỉ là một trong những
tiểu xảo lừa mị dân đen của Việt Minh.

Thọ mê truyện Tàu, khoái nhân vật Hạng Vũ. Chủ trương
quân cần tinh, không cần đông. Bắt chước Hạng Vũ hành
quân thần tốc, dàn quân theo thế tử chiến. Phía trước là địch
quân, phía sau là sông ngòi khó di chuyển. Ở vào cái thế
không thể lui binh, buộc quân sĩ phải liều chết xông lên tìm
đường sống. Trên trận mạc, Thọ tỏ ra tháo vát, can đảm phi
thường. Thọ thường tổ chức phục kích đoàn quân xa tiếp vận
của Pháp, thu được nhiều vũ khí đạn dược, quân trang quân
dụng. Nhiều lần được ghi công lớn. Trong đời, Thọ chỉ thất
bại một lần duy nhất. Và lần ấy cũng là điềm báo vận mạt
cho Thọ.

Theo chiến thuật cũ, Thọ đưa quân về Vên Vên Trà Võ phục
kích đoàn xe tiếp vận của Pháp. Nửa đêm, quân của Thọ đào
hầm độn thổ. Phía sau là sông Vàm Cỏ Ðông, phía trước là
rừng cao su bạt ngàn chạy dài lên tận Cầu Khởi, nối tiếp với
mật khu Bời Lời. Lúc mười giờ sáng, ba chiếc auto blindé mở
đường vừa qua khỏi, thì chiếc xe đầu của đoàn tiếp vận trờ
tới. Thọ chờ cho tất cả đoàn xe lọt trọn vào ổ phục kích, liền
nổ súng khai hỏa. Quân của Thọ từ dưới đất trồi lên, giáo
mác và súng "mút cà tông" xung phong ào ạt. Khí thế vô
cùng dũng mãnh. Nhiều xe đâm đầu lật xuống mương hoặc
bốc cháy. Thế trận đang nghiêng phần thắng về phía Thọ.
Bỗng từ đâu trong rừng cao su, lính Lê Dương xuất hiện
phản công mãnh liệt. Giáo mác và súng "mút cà tông" làm
sao chống nổi vũ khí hiện đại của Pháp? Quân Thọ núng thế,
không đường rút lui buộc phải cận chiến. Nhưng tình thế hỗn
loạn mất rồi. Thọ không thể điều động chỉ huy. Mỗi người tả
xung hữu đột chiến đấu theo cách riêng của mình, tìm
đường tháo thân. Rút lui không được, tiến tới thì rừng cao su
đã bị lính Lê Dương phong toả, chận bít lối về Bời Lời. Như
con thú bị dí vào ngõ cụt, quân của Thọ vùng vẫy điên
cuồng. Tiếng la hét lẩn trong tiếng sắt thép va chạm, và
súng nổ vang trời. Những cây thịt đổ xuống. Lớp khác tràn
lên, gục ngã. Trong hỗn loạn, không ai còn nhìn thấy Thọ
đâu nữa.

Mưu mô xảo trí và nhanh như sói, Thọ thoát thân bằng cách
nào không ai biết. Chuồn về tới mật khu Bời Lời, dưới tay
Thọ chỉ còn hơn ba chục mạng. Gần một trăm hai mươi bỏ
lại chiến trường.

Sau thất bại cay đắng này, Thọ nghi ngờ có gián điệp làm
nội tuyến. Người bị Thọ chiếu tướng là Lê Minh Chiếu, tự
Năm Chiếu. Năm Chiếu là tay chân bộ hạ của Nguyễn Bình,
hoạt động nội thành. Chiếu vẫn thường về mật khu báo cáo
và nhận chỉ thị. Thọ giận quá mất khôn, cho người phục kích
bắt Chiếu trên đường về, đem đến một cái lều giữa rẫy bắp
ven rừng.

Thọ mình trần ngồi trên chõng tre, dõng dạc hài tôi Chiếu.
Chiếu mặc đồ đen, khăn rằn quấn cổ, mặt không hề đổi sắc.
"Loạn rồi. Ông biết tôi là ai mà dám nói thế?"
"Mày là thằng chỉ điểm cho Tây."
Chiếu cười mỉa: "Ông chưa đủ tư cách nói câu đó."
Thọ gầm lên: "Tao đập đầu mày như đập đầu bọn chó săn
phản bội."
Nói xong, Thọ ra lệnh trói Chiếu dẫn đi.
Chiếu ngoái lại, nói với những người trong lều: "Anh em có
mặt, xin báo vụ này lên đồng chí Nguyễn Bình."
Thọ xô Chiếu chúi nhủi về phía trước: "Nguyễn Bình cũng
không cứu nổi mày đâu."
Thọ dẫn Chiếu đến trước cái giếng lạn trong rừng, dùng khúc
gỗ quật vào ót, đạp xác xuống giếng.
Khi Thọ trở lại lều, có người nói: "Năm Chiếu là đảng viên."
Thọ vung tay bất cần: "Ðảng cái đầu bùi tao."

***
Ít lâu sau. Thọ được gọi lên gặp Nguyễn Bình.
Bình hỏi: "Sao giết Năm Chiếu?"
Thọ nói: "Hắn làm gián điệp cho Tây."
Bình vỗ bàn: "Hồ đồ! Chiếu là người của đảng. Chú dám tự
động ra tay, không cần chỉ thị cấp trên. Chú đang là đối
tượng được đề nghị vào đảng, nhưng vô kỷ luật không còn
xứng đáng nữa."
Thọ quen thói du côn coi trời bằng vung, không biết sợ là gì.
"Thọ này đi kháng chiến vì dân vì nước, không cần đảng.
Ðảng chỉ là bọn bè phái bênh vực cho nhau."
Lời vừa ra khỏi miệng, Thọ biết đã lỡ.
Nguyễn Bình cười nhạt, đuổi Thọ ra ngoài chờ chỉ thị.
Thọ được chỉ thị ra Bắc nhận công tác mới.
Con sói tinh ranh biết trên đường đi có nhiều cạm bẫy. Thọ
khôn ngoan biết người ta muốn đưa mình vô cửa tử, như
Thọ đã bao lần đưa người khác vào chỗ chết. Thọ rời bỏ
hàng ngũ kháng chiến, trốn đi biệt tích.

***
Năm sau. Có người khách miền Bắc đến Mỹ An. Khách có
thân hình cao lớn vãm vỡ, nói năng tự tin, hoạt bát sành đời.
Khách dựng quán lá bên bờ kinh Nguyễn văn Tiếp làm kế
sinh nhai. Người dân Ðồng Tháp Mười gọi khách là ông Bắc
Kỳ.

Năm sau nữa. Có người khách lỡ độ đường xa, ghé quán lá


ông Bắc kỳ xin trọ qua đêm.
Trời chiều. Nắng ráng mỡ gà đổ mênh mông trên những lá
dừa nước điệp trùng dọc theo bờ kinh. Bên ly rượu nhạt, chủ
khách nói chuyện ra chiều tương đắc.

Khách nhận xét: "Ông có cái phong thái của nhà sư Lỗ Trí
Thâm."
Ông Bắc Kỳ cười lớn: "Tài thật! Mới gặp nhau mà đã nhìn ra
chân tướng. Vâng, kẻ này có lúc ở chùa."
Khách hỏi: "Còn nhớ gì không?"
Ông Bắc Kỳ nói: "Vỏn vẹn một câu thần chú, Yết Ðế. Yết Ðế.
Ba La Yết Ðế. Ba La Tăng Yết Ðế. Bồ Ðề Tát Bà Ha."
Khách nói: "Ngộ thì chớp mắt đáo bỉ ngạn. Mê thì cả đời
chìm đắm. Ông toàn ăn thịt chó mắm riềng, qua sông sao
khỏi?"
Ông Bắc Kỳ nói: " Lấy hình tướng để xét thực tướng, nhà
Phật cho đó là cái lầm lớn của người đời."
Khách nói: "Thực giả, giả thực quyện vào nhau. Nhìn ra cái
giả là biết cái thực."
Nửa khuya đêm ấy. Ông Bắc kỳ bị bắt đem đến Cạnh Ðền,
quận Gò Quao, tỉnh Rạch Giá.
Trong ánh sáng mập mờ của mảnh trăng non, khách nói nửa
đùa nửa thật: "Năm Chiếu ở dưới suối vàng gởi lời thăm
Hoàng Thọ, và nhắn xuống dưới chơi."
Ông Bắc Kỳ hỏi: "Mày là ai?"
Khách nói: "Tôi là bạn Năm Chiếu, được chỉ thị của đồng chí
Nguyễn Bình, đi tìm Hoàng Thọ bấy lâu. Gặp ông Bắc Kỳ
nhìn ra giả tướng, biết thực tướng là Hoàng Thọ."

Biết mình không sống được, Thọ chửi Nguyễn Bình, chửi
đảng. Thọ bị đập đầu, và rống từng hồi như bò rống. Sau khi
hành quyết, ông khách cho lệnh phá nát mặt Hoàng Thọ để
đừng ai nhìn ra danh tính.

Ðó là năm 1950.

Lâm Chương

(trích đoạn truyện dài Cơn Lốc)

Posted by VIET NAM QUE HUONG TOI at 1:52 AM 0 comments

VIET CONG MAI SONG TRONG SU KHINH BI


CUA NHAN LOAI VA NOI CAM HON CUA
NGUOI VIET

Dẹp bỏ ngôi nhà lũ gia nô


ăn hại !!!
Ban Biên Tập TDNL (15.05.2007 số 27) Tiếng Nói của người dân Việt Nam
đòi Quyền Tự Do Thông Tin Ngôn Luận

Trong các vụ án phi pháp và phiên tòa quái đản kể


từ hôm 30-3-2007 tới giờ, Cộng sản Việt Nam đã bẽ
mặt nhiều vì tiếng hô dõng dạc của linh mục Nguyễn
Văn Lý, nụ cười bất khuất của bác sĩ Lê Nguyên Sang
và khí phách can trường của luật sư Nguyễn Văn Đài
cùng mọi chiến sĩ dân chủ liên hệ.

Tuy nhiên, Bộ chính trị cũng hí hửng không kém vì


vẫn còn thấy được sự trung thành tối mặt của đám
gia nô qua các vụ án đó: từ đám gia nô báo chí đã
đồng loạt đánh hội đồng, tuyên “cáo trạng” cách đê
tiện đối với các bị cáo, đám gia nô công an thẩm vấn
đã vận dụng mọi ngón đòn lừa gạt và hăm dọa để
bức cung ép cung, đám gia nô viện kiểm sát đã dùng
ngòi bút thâm độc để viết lên những bản cáo trạng
vừa khôi hài vừa thô bỉ, vừa vu khống vừa ngụy
biện, đến đám gia nô tòa án đã dùng mọi thủ thuật
để tước các quyền của bị cáo, để ngoác miệng luận
tội cách vu vơ, chẳng còn biết gì là công lý và liêm
sỉ. Thậm chí có tên gia nô còn nhiệt tình đến độ dùng
hai bàn tay hộ pháp của mình để bịt miệng và điểm
huyệt cha Lý, trước cử chỉ gật gù của đám chánh
thẩm và bồi thẩm. Quả là đảng đã thành công trong
sự nghiệp giáo dục nhân dân thành người hèn (thay
vì thành người hiền như truyền thống trị quốc xưa
nay của nhân loại). Cũng làm Bộ chính trị hí hửng
không kém là sự im lặng đáng tiền và đáng thưởng
của những người có trách nhiệm với linh mục Lý về
lý lẫn tình hơn cả! Chúc mừng đảng đã có được
những tay sai nô bộc ở chỗ không ngờ nhất!

Nay qua cái gọi là “cuộc bầu cử quốc hội khóa XII”
vào ngày 20-5 sắp tới, đảng ta sắp tạo thêm được
một đám gia nô mới, trong đó có cả một lô chức sắc
tôn giáo quốc doanh, ra ứng cử với sự cho phép,
chúc lành của bề trên họ! Và cũng như mọi lần, đảng
đang nắm chắc phần thắng trong tay. Trước hết là
nhờ tay sai Mặt trận Tổ quốc –qua ba cuộc hiệp
thương kiểu đấu tố- đã mưu trí gạt bỏ mấy trăm kẻ
ngây thơ (nhưng đảng gọi là “bọn có ý đồ”) nộp đơn
tự ứng cử. Tiếp đến là nhờ những người nắm trong
tay thế lực tinh thần và sức mạnh quần chúng,
nhưng thay vì lên tiếng hướng dẫn công luận trong
cuộc bầu cử theo lương tâm chức nghiệp và theo tấm
gương đồng nghiệp bên trời Âu, thì họ lại bận bịu
xách bị đi xin bên trời Mỹ, mặc cho thế sự xoay vần!
Tiếp nữa là nhờ đảng đã mau mắn nhốt kín “bọn kêu
gọi tẩy chay, phá hoại bầu cử” sau những cánh cửa
sắt kiên cố của nhà tù. Giờ đây, ai trong nhân dân
hoặc quốc tế có thắc mắc về bản chất quốc hội
(Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất hay là Bộ
Chính trị và Ban chấp hành Trung ương Đảng?), về ý
nghĩa bầu bán (Cử tri thậm chí không biết mặt người
được ứng cử là ai, họ đã, đang và sẽ làm được gì cho
dân cho nước!), thì hãy nghe lời tuyên bố chắc như
bắp rang, không biết ngượng ngập của một trong
những tay gia nô hàng đầu: “Cần phân biệt hai vấn
đề: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, nhưng Đảng CSVN với đại diện cao nhất là Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị là lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước, Quốc hội,
nhưng Đảng không làm thay nhiệm vụ của các cơ
quan Nhà nước!” và “Ở các nước khác có chế độ
tranh cử, nhưng ở Việt Nam không có tranh cử mà là
vận động bầu cử và theo quy định” (Đối thoại trực
tuyến tại website của báo Điện tử Đảng CSVN vào
ngày 02-05-2007).

Tuy nhiên, chẳng phải toàn dân đều đã bị đảng biến


thành tay sai nô bộc cả. Thành thử chúng ta dù hiểu
rằng bầu cử là quyền lợi thiết thực, nghĩa vụ cao quý
và rằng Quốc hội là cơ quan cần thiết, thể chế ích lợi,
nhưng nhất định không thể tiếp tục góp phần duy trì
mà phải dẹp bỏ ngôi nhà lũ gia nô ăn hại, vì những
lý do chính đáng sau đây:
1- Lý do chính trị: Việc chuẩn bị bầu cử Quốc hội
tại Việt Nam xưa nay đều áp dụng phương thức gọi
là Hiệp thương do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì.
Qua bao nhiêu năm, việc hiệp thương ấy đã lộ rõ là
một thủ đoạn xảo quyệt và trơ trẽn của đảng CS,
nhắm làm mọi cách cho người của mình được đề cử
vào Quốc hội thôi. Mặt trận Tổ quốc là một tổ chức
ngoại vi, một công cụ của Đảng, nên dù hiệp thương
rộng hay hiệp thương hẹp cũng chỉ dám theo chỉ thị
của Đảng để chọn những kẻ “trung thành với tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa” mà thực chất là trung
thành với Đảng CS.

Tại các nước dân chủ thật sự có ba ngành lập pháp,


tư pháp và hành pháp phân chia quyền lực rõ rệt,
một người ở vai trò hành pháp hay tư pháp thì không
thể là “đại biểu nhân dân” ở Quốc Hội, vì như thế là
độc tài, là “vừa đánh trống vừa thổi còi”. Nhưng ở
Việt Nam, Ðảng CS là đảng duy nhất được phép hoạt
động, các đảng viên cao cấp vừa là thành viên chính
phủ lại vừa là “đại biểu nhân dân”. Nhìn vào bản
danh sách do báo Tuổi Trẻ đưa ra, Bộ chính trị có 14
người thì 12 người đã được “cơ cấu” ra ứng cử, chỉ
trừ Phạm Quang Nghị (bí thư thành ủy Hà Nội) và Lê
Thanh Hải (bí thư thành ủy Sài Gòn). Các đảng viên
cao cấp nhất của đảng CS dù chỉ nắm chức vụ trong
Ðảng như Nông Ðức Mạnh, hoặc nắm chính phủ như
Nguyễn Tấn Dũng hoặc làm chủ tịch nước như
Nguyễn Minh Triết trở xuống đều chiếm một ghế ở
Quốc Hội, với vai trò giữ các “đại biểu” còn lại luôn
trong tình trạng “gia nô”. Do đó, tiến trình và kết
quả bầu cử Quốc hội từ bấy lâu nay tại Việt
Nam là bất hợp pháp.
2- Lý do xã hội: Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương,
đại biểu cho nhóm bảo thủ, giáo điều trong đảng CS,
đã huênh hoang tuyên bố trên báo Nhân Dân hôm
27-3-2007 : “Ngày 20-5 tới đây sẽ diễn ra một sự
kiện đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị
nước ta. Ðó là ngày toàn thể cử tri Việt Nam thực
hiện quyền lựa chọn những người đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân để bầu vào Quốc hội, cơ
quan đại biểu cao nhất của dân, cơ quan quyền lực
cao nhất của nước…”. Nhưng qua các cuộc “hiệp
thương” của Mặt trận Tổ quốc tại 182 đơn vị bầu cử
trên cả nước, thì số người ngoài đảng và tự ứng cử là
238 người, nhưng nay bị gạn lọc chỉ còn khoảng 30
người, và họ có trúng cử hay thuần làm phận sự lót
đường lại là chuyện khác. Ngoài ra, nhìn vào danh
sách 876 người được chọn, ta không khỏi thắc mắc
tại sao chỉ 29 ứng viên là có tôn giáo, số còn lại đều
“vô tôn giáo” trong một đất nước mà đại đa số nhân
dân đều có tín ngưỡng. Và ngày 20-5 tới, trong số
876 ứng cử viên được được chọn, nhân dân sẽ bỏ
phiếu lấy 500 ghế Đại biểu, đang khi con số ứng cử
lẽ ra phải là gấp ba: 1500 hay ít nhất gấp đôi: 1000.
Ngoài ra, tiền chi phí cho cuộc bầu bán vô nghĩa, để
chọn ra một Quốc hội vô ích này tốn hết 350 tỷ
đồng, tăng gấp rưỡi phí tổn bầu khóa XI chỉ mất có
230 tỷ đồng. Tất cả đều là tiền thuế của nhân dân,
của toàn xã hội.

Hậu quả về mặt xã hội là cho tới nay, những cuộc


bầu cử Quốc hội tại Việt Nam đã không đem đến một
nền Pháp chế công minh, một nền Dân chủ đúng
nghĩa, một nền Tự do đích thực cho Tổ quốc, đã
không tạo nên những Đại biểu chỉ một lòng thực thi
ý muốn của Dân, chỉ chịu hoàn toàn trách nhiệm
trước Dân và chỉ dựa vào sức mạnh, niềm kính trọng,
lòng tin yêu của Dân để hành xử, để soạn ra Pháp
luật, mà chỉ nặn ra những gia nô cho đảng, những
con rối cho bộ chính trị. Bởi thế Việt Nam vẫn đầy
dẫy dối trá và bạo hành, thảm cảnh và tệ nạn, tụt
hậu và suy đồi, không có các Quyền tự do cơ bản
như Tự do Tôn giáo, Tự do Ngôn luận, Tự do Lập hội,
Tự do Ứng cử và Bầu cử,… không thể vươn tới tầm
cao phát triển nhân sinh nhân quyền như mọi Quốc
gia Dân chủ Văn minh. Do đó, tiến trình và kết
quả bầu cử Quốc hội bấy lâu nay tại Việt Nam
đều vô ích, nếu không muốn nói là tai hại cho
xã hội.

3- Lý do đạo đức: Trong hơn 60 năm rồi, qua 11 lần


bầu cử dưới chế độ Cộng sản, việc đi bầu đã luôn là
điều gượng ép đối với mọi người dân Việt. Theo bộ
máy tuyên truyền của CS, tại Việt Nam có tự do đầu
phiếu, ai muốn đi bầu hay không là tùy ý thích cá
nhân và hoàn cảnh gia đình. Trong thực tế, Đảng và
nhà nước CS đã luôn dùng nhiều biện pháp để lùa
dân tới phòng phiếu, nhẹ thì buộc thân nhân bầu
thay, nặng tay hơn là cưỡng bức bằng cách bằng
cách đe dọa gây khó dễ về sau trong công việc làm
ăn, xin chứng nhận giấy tờ..., đặc biệt thô bạo là
trừng phạt những ai khước từ bỏ phiếu vì lương tâm
xét thấy nghĩa vụ rất cao cả và quyền lợi rất cơ bản
đó đã bị Đảng CS biến thành phương tiện để duy trì
và củng cố ách độc tài của đảng. Cụ thể, mỗi người
dân trong tổ dân phố, hay thôn xóm đều được cấp
phát một Thẻ cử tri; đến ngày bỏ phiếu, cử tri đem
thẻ đó đến phòng phiếu trình diện và công an trách
nhiệm sẽ đóng mộc vào thẻ để chứng minh là cư dân
ở địa chỉ đó có đi bỏ phiếu. Những ai bệnh nặng đi lại
không được thì thùng phiếu sẽ được đưa đến tận
nhà. Sau ngày bầu cử, công an khu vực kiểm tra lại
và sẽ đối phó tùy theo đối tượng. Bằng chứng cụ thể
mới nhất là việc CS đã và đang sách nhiễu, giam
cầm, xét xử những thành viên cốt cán của Khối
8406, Liên minh Dân chủ Nhân quyền Việt Nam,
đảng Thăng Tiến và đảng Dân chủ Nhân dân là
những lực lượng quyết tâm tẩy chay cuộc bầu cử
Quốc hội khóa 12 tới.

Qua các cuộc bầu cử đầy gian trá và cưỡng bức như
trên, đảng CS đã biến toàn thể nhân dân đủ mọi
tầng lớp, mà đặc biệt là giới trí thức và giới tu hành,
những con người ở vị trí hướng dẫn xã hội về mặt
tinh thần, trở thành một quần chúng quen gian dối,
làm một điều trái lương tâm như thế mà vẫn không
hay ít áy náy hổ thẹn. Đảng CS đã biến toàn thể
nhân dân đủ mọi tầng lớp trở thành một quần chúng
hèn nhát, bạc nhược, bị cưỡng bức làm một điều vô
ích, phi pháp, nghịch thường như vậy mà vẫn không
phản kháng hay phản kháng cách tiêu cực, yếu ớt.
Do đó, tiến trình và kết quả bầu cử Quốc hội từ
bấy lâu nay tại Việt Nam là vô đạo đức, gây tổn
thương cho tinh thần dân tộc.

Posted by VIET NAM QUE HUONG TOI at 12:09 AM 0 comments

Saturday, May 12, 2007


Đã tới lúc phát động cuộc “cách mạng
nhung”
- bất tuân lệnh dân sự -
tại VN nhân biến cố Bầu Cử Quốc Hội Độc Đảng 20-5-
07 hay chưa?
Gs. Vũ Quốc Thúc

“… phải chăng sẽ có một cuộc tranh đấu gay go, dưới hình
thức “bất tuân lệnh dân sự’’, sau đó nhà cầm quyền sẽ
nhượng bộ, chấp nhận dân chủ hóa thể chế?…”

Cụm từ cách mạng nhung được dùng để chỉ sự thay đổi thể
chế chính trị , từ chế độ “cộng sản đảng toàn trị’’ sang chế
độ dân chủ tự do, đa đảng, xảy ra ở Tiệp Khắc trong khoảng
hai năm 1989- 1990. Sự thay đổi này đã thực hiện một cách
êm đềm, không kéo theo cảnh tượng đổ máu, tàn phá, trả
đũa... đáng tiếc nào, nhờ ở sự đồng thuận của mọi đảng
phái, tổ chức, xu hướng trong xã hội. Chính vì vậy mà giới
truyền thông đã đưa ra cụm từ cách mạng nhung để gọi biến
cố ấy: “cách mạng’’ vì có sự thay đổi toàn diện trong một
thời gian ngắn, “nhung” vì không có những sự bạo động
thường đi kém các cuôc thay đổi sâu xa và đột ngột. Để hiểu
biến cố lịch sử này, ta phải khách quan nhận định rằng Đảng
Cộng Sản nắm quyền toàn trị ở Tiệp Khắc cho tới năm 1989
đã sáng suốt, biết trả lại chính quyền cho nhân dân đúng
lúc; mặt khác các nhân vật lãnh đạo phong trào đối lập đã
biết đặt quyền lợi tối cao của đất nước lên trên mọi cảm tính
đố kỵ hay thù hận riêng tư.
<!--[if !vml]--> <!--[endif]-->
cách mạng nhung 1990

Hai điều kiện vừa nêu không dễ gì hội đủ. Các lãnh tụ cộng
sản đương quyền luôn luôn có xu hướng bảo vệ chức vụ, thế
lực cùng lợi lộc của mình: do đó, những kẻ đối lập phải tranh
đấu, phải tìm mọi cách làm suy yếu đối phương để tới một
lúc nào đó cưỡng bách đám đảng viên cộng sản ngoan cố
này rút lui mà không phải dùng tới bạo lực. Đó là đặc điểm
của những cuộc cách mạng xảy ra từ năm 2000 ở một số
quốc gia thuộc Liên Bang Xô Viết cũ (nay đã đổi tên thành
Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập). Các nhà cách mạng đã
dùng tên hoa hay trái cây để gọi biến cố chính trị do họ gây
nên, nhằm mục đích nói lên hoài bão ôn hòa của họ, thí dụ:
Cách mạng hoa hồng ở Georgia, Cách mạng cam ở Ukraina,
Cách mạng tuy líp ở Kirghizistan. Để đạt mục tiêu thay đổi
thể chế toàn diện , nhanh chóng nhưng vẫn ôn hòa, họ đã
dùng một phương pháp quen thuộc: đó là phương pháp “bất
tuân lệnh dân sự’’(civil disobedience) . Các công dân không
công nhận chính quyền đang cai trị mình vì người ta cho rằng
chính quyền ấy đã mất chính nghĩa: đó không phải là một
chính quyền “của dân” “do dân lập nên”, “để phục vụ toàn
dân”.

Người ta không làm những hành động cụ thể để lật đổ chính


quyền: như vậy chính quyền không có lý cớ gì để đàn áp !
Trái lại, người ta không chịu tuân hành lệnh của nhà cầm
quyền vì tin rằng lệnh ấy vi hiến, phi pháp, hay trái đạo đức.
Nếu là một công chức, tất nhiên cấp trên sẽ tìm cách trừng
phạt đương sự nhưng muốn trừng phạt phải theo đúng thủ
tục và luật lệ mà chế độ đương quyền đã đặt ra để bảo vệ
nhân viên của mình: do đó kẻ bất tuân thượng lệnh có cơ hội
chứng minh sự sai trái của cơ quan hay người đã ra lệnh.
Trước mắt, việc thi hành lệnh bị chậm lại và không ai có thể
Nhưng sự kiện đang gây bất bình trong khắp thế giới là vụ
L.m. Nguyễn Văn Lý và mấy người cùng bị bắt với Ông bị
đưa ra Toà Án Nhân Dân Thừa Thiên để bị kết án nặng nề
trong phiên tòa ngày 30 /03/2007, một cuộc đấu tố trá hình
vì phiên toà không có luật sư biện hộ, thân nhân không được
tham dự. Bọn Công An không ngờ là có người chứng kiến
phiên toà đã lén chụp được hình Cha Lý, hai tay bị còng, hai
bên là hai tên Công An mặc sắc phục, một tên mật vụ mặc
thường phục đứng sau lưng giơ tay bịt miệng Cha, không
cho Cha nói những lời công kích chế độ. Bức hình đã được
chuyển ngay ra hải ngoại và được phổ biến khắp các nước.
Nó đã gây nên một chấn động rất lớn trong công chúng quốc
tế, khiến người ta nhớ lại mấy bức hình đã làm bộc phát
phong trào phản chiến ở Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam.

Những sự việc vừa kể khiến ai nấy đều thắc mắc, chưa hiểu
đường lối của nhà đương quyền cộng sản Việt Nam là thế
nào. Điều chắc chắn là một cuôc “cách mạng nhung” kiểu
Tiệp Khắc không thể nào xảy ra ở Việt Nam trong năm 2007
vì không có dấu hiệu đồng thuận giữa Đảng Cộng Sản và các
phe phái đối lập. Tuy nhiên vẫn còn một câu hỏi: Liệu rằng
một cuôc cách mạng bất bạo động giống như ở các nước
Georgia, Ukraina, Kirghizistan có cơ xảy ra không? Nói rõ
ràng hơn, phải chăng sẽ có một cuộc tranh đấu gay go, dưới
hình thức “bất tuân lệnh dân sự’’, sau đó nhà cầm quyền sẽ
nhượng bộ, chấp nhận dân chủ hóa thể chế?

Để trả lời câu hỏi vừa nêu, chúng tôi lần lượt phân tích các
điểm sau đây:

a) Khả năng “tấn công” chế độ đương quyền của phe đối
lập;
b) Khả năng hưởng ứng phe đối lập của quần chúng;
c) Khả năng phản tỉnh của nhóm cộng sản đương quyền;
d) Cơ hội lịch sử của cuộc bầu cử Quốc Hội khóa 12 sắp tới.

Điểm 1- Khả năng tấn công chế độ đương quyền của


phe đối lập: Sự tấn công nói ở đây không phải là một chiến
dịch quân sự hay bán quân sự dựa trên bạo lực nhằm tiêu
diệt hay ít nhất cũng làm suy yếu đối phương tới mức phải
đầu hàng. Ai cũng biết chủ trương hiện thời của phe đối lập
ở ngoài nước cũng như trong nước là phát động một phong
trào tranh đấu bằng cách thuyết phục quốc dân ý thức nhu
cầu đòi lại chủ quyền của mình hiện đang bị một nhóm
người tước đoạt, không phải để phục vụ quyền lợi chung của
đất nước mà chỉ để vinh thân phì gia. Như vậy, phương pháp
chủ yếu là thông tin.

Cần thông tin rộng rãi để ai nấy biết rằng có một hay nhiều
tổ chức đối lập với chính quyền đương nhiệm vì chính quyền
này phản dân hại nước: do đó cần vạch trần những hành
động tham nhũng, chiếm công vi tư, bóc lột lương dân, lừa
bịp các quan sát viên ngoại quốc... Không phải chỉ để công
kích một cách mơ hồ, tổng quát, vu vơ mà cần nêu đích
danh những kẻ có tội, ở mọi cấp của bộ máy Nhà nước. Cần
giải thích cho ai nấy biết rõ là hành động của họ sai trái thế
nào, vi hiến, vi luật thế nào ? Tố cáo tài sản họ tước đoạt
của nhân dân hiện giấu giếm như thế nào ? ở nơi đâu, dưới
tên ai ? Việc phổ biến những thông tin này chắc chắn tạo
nên một tâm trạng nghi ngờ, khinh ghét kẻ đương quyền...
khiến những người đang cộng sự với họ mất dần nhiệt
thành, còn những người ngoài thì sẵn sàng bất tuân mệnh
lệnh của nhà cầm quyền, khi thấy mệnh lệnh ấy có vẻ không
hợp tình, hợp lý.

Mục đích thứ hai không kém quan trọng của việc thông tin là
thực hiện một công cuộc giáo dục công dân đại quy mô. Phải
gạt bỏ ảo tưởng là ai nấy, kể cả những người có bằng cấp
đại học, trung học v.v.. đểu hiểu rõ các quyền tự do cơ bản
của công dân cũng như những quy tắc phổ quát của thể chế
dân chủ. Đừng quên là nhân dân quốc nội từ lúc còn thơ ấu
đã bị “nhồi sọ’’ với vô số khẳng định sai lầm của chủ thuyết
Mác Lê nin, một chủ thuyết nhằm thâu tóm tất cả quyền
hành trong nước vào tay một nhóm đảng viên cộng sản. Do
đó, muốn đả phá chế độ Cộng Sản toàn trị, phải tích cực
giáo dục công dân, có như thế người ta mới dần dần ý thức
được thực tại dân chủ. Còn không, dưới ảnh hưởng của công
tác tuyên truyền do chính quyền cộng sản điều khiển, người
ta sẽ lầm nghĩ rằng dân chủ chỉ là một trò chơi của những
nhà trí thức không tưởng !

Mục đích thứ ba của việc thông tin là khơi động sự chú tâm
của quảng đại quần chúng , đặc biệt của các tầng lớp trẻ.
Chiến thuật của các đảng viên Cộng Sản đương quyền là tạo
ấn tượng rằng phe đối lập chỉ gồm một nhóm nhỏ, do các
lực lượng thù địch ở ngoài nước xúi giục và yểm trợ. Như vậy
chỉ cần nhận diện, rồi trừng trị nặng nề nhóm “đầu sỏ’’ này:
những kẻ đã theo hoặc lăm le đi theo họ sẽ khiếp sợ không
dám làm chi nữa ! Có lẽ lý luận này đã đưa nhóm đương

<!--[if !vml]--> <!--


[endif]-->
Đấu tranh quyền lợi dân sinh
quyền cộng sản tới việc đàn áp thô bạo những nhà dân chủ
đối lập như chúng ta đã thấy. Do đó mục đích của công tác
thông tin trong giai đoạn này là chứng minh rằng phe đối lập
càng ngày càng mạnh và đông đảo hơn.
Những tiến bộ vô cùng ngoạn mục của kỹ thuật truyền
thông đã giúp đỡ các nhà đấu tranh dân chủ: không phải
ngẫu nhiên khi ta thấy Công An Huế tịch thâu 8 máy vi tính,
9 máy điện thoại di động, 147 tấm các SIM trong phòng ngủ
của L.m. Nguyễn Văn Lý: đây chính là những dụng cụ hiện
đại, cần dùng cho bất cứ ai có nhu cầu thông tin. Những
dụng cụ này nhan nhản khắp nơi, trong các doanh nghiệp,
các trường học, cũng như trong nhiều nhà thường dân. Nhờ
các dụng cụ hiện đại này công cuộc đấu tranh chống chế độ
cộng sản toàn trị trở nên dễ dàng hơn xưa: Ai cũng biết
Cộng sản duy trì quyền lực bằng cách bưng bít thông tin, chỉ
cho nhân dân biết những thông tin nào không hại cho chính
quyền. Một thí dụ: trong vụ đàn áp L.m. Nguyễn Văn Lý và
các nhà đối lập ở Huế, nhiều Việt kiều hiện diện ở thành phố
này trong dịp Tết Nguyên Đán đã không biết gì hết vì các đài
truyền hình, phát thanh, cũng như báo chí đều “lờ tịt” làm
như không có chuyện gì xảy ra. Nếu biện pháp bưng bít tạm
thời có vẻ hữu hiệu đối với những người vừa rồi thì rất nhiều
người khác đã biết tin ngay và dĩ nhiên chỉ một thời gian
ngắn sau đó mọi người đều biết sự thật. Kết quả là chẳng ai
còn tin các cơ quan truyền thông của chính quyền nữa.

Như ta thấy, công tác thông tin nằm trong kế hoạch tấn
công chế độ vì nó chuẩn bị tâm lý quần chúng để ai nấy sẵn
sàng hưởng ứng lời kêu gọi bất tuân lệnh dân sự của phe đối
lập. Cũng như trong một cuộc đấu bóng tròn hay đấu quần
vợt, chính những sai lầm của một bên thường khiến cho đối
phương thắng cuộc. Trong cuộc đàn áp các nhà đối lập ở Huế
vừa qua, rõ ràng là nhóm Cộng Sản đương quyền ở Việt
Nam đã sai lầm thảm hại. Họ không ngờ rằng kỹ thuật chụp
hình hiện đại khiến cho người ta có thể thâu hình kín đáo và
chuyển ngay cho mọi người qua mạng internet. Bức hình
L.m. Nguyễn Văn Lý trước vành móng ngựa, hai tay bị còng
, miệng bị bịt, đang gây một xúc động cực kỳ mạnh mẽ
trong công luận, khiến cho chiến dịch bất tuân lệnh dân sự
có nhiều cơ thành công nếu khởi sự trong thời gian trước
mắt. Tuy nhiên ta cần phải đánh giá chính xác khả năng
hưởng ứng của quần chúng trước khi công khai phát động
chiến dịch này.

Điểm 2 - Khả năng hửơng ứng phe đối lập của quần
chúng: Chính quyền cộng sản đương nhiệm đã thiết lập một
mạng lưới công an bao trùm toàn lãnh thổ quốc gia . Tuyệt
đại đa số công an là đảng viên. Công An viên được chính
quyền bao che, nâng đỡ, khuyến khích bàng mọi cách như
thưởng tiền, tăng lương, cấp nhà, phong quân hàm v.v.. Khỏi
nói là bọn công an đã yên tâm lạm dụng chức quyền của họ.
Do đó muốn cho nhân dân hưởng ứng chiến dịch bất tuân
lệnh dân sự, quần chúng cần phải giúp đỡ vượt qua nỗi sợ,
đừng sợ công an nữa. Những cuộc đấu lý, đấu sức với các
công an viên ở cấp địa phương thường không mang lại kết
quả mong muốn. Phải hành động ở cấp trung ương theo
đúng kinh nghiệm “muốn giết rắn phải đánh rắn dập đầu”.
Sở dĩ cuộc cách mạng

“hoa , trái” thành công ở các nước cựu cộng sản chính vì phe
đối lập đã làm một số hành động bất tuân lệnh, rất “bắt
mắt’’ ở ngay thủ đô, như biểu tình ngồi hàng vạn người, rồi
biến thành cắm trại, cản trở lưu thông, ngăn chặn không cho
ai vào các công sở v.v.. Khi các công an viên bị bó tay không
dám giải tán bằng võ lực, tất nhiên sự kiện này sẽ khiến cho

<!--[if !vml]--> <!--


[endif]-->
Đấu tranh quyền lợi dân sinh
quần chúng hết sợ. Ở nước ta, từ nhiều tháng nay đã có
những vụ dân oan cắm trại ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng
ngay gần nơi làm việc hay cư ngụ của các nhân vật lãnh
đạo. Số dân oan cắm trại như vậy không đông lắm: yêu
sách của họ có tính cách hành chánh hay tư pháp, không
phải là chính trị. Nhà cầm quyền đã dùng nhân viên công lực
cưỡng bách họ về địa phương để địa phương giải quyết. Như
vậy, dân chúng thủ đô đã quen với cảnh tượng biểu tình cắm
trại. Tại sao những người đối lập không mạnh bạo tiến xa
hơn nữa, đưa ra những yêu sách chính trị chỉ có thể giải
quyết ở cấp trung ương ? Tại sao không cố gắng huy động
hàng vạn người ? Lẽ nào người Việt ở quốc nội không làm
nổi những việc mà dân Georgia, Ukraina, Kirghizistan đã làm
? Có người lý luận rằng những đảng viên Cộng sản đương
quyền ở các nước vừa kể không biết “lì lợm” như những lãnh
tụ Cộng sản Việt Nam. Điều “lì lợm” của nhóm đương quyền
Việt Nam mà thôi. Nói khác họ có “khả năng phản tỉnh”
không ?

Điểm 3 - Khả năng phản tỉnh của nhóm đảng viên


Cộng sản đương quyền: Qua mạng Internet, chúng tôi
được biết rằng, mới đây, Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Đảng
Cộng Sản Việt Nam, tuyên bố trước Quốc Hội: “Chúng ta sẽ
không để cho trò chơi dân chủ lọt vào Quốc Hội khóa 12 .
Dân chủ phải có kỷ cương . Dân chủ không phải là ai muốn
làm gì thì làm”. Thật là rõ ràng ! Những lời khẳng định của
kẻ đang nắm chức vụ lãnh đạo cao nhất của Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có nghĩa là nhóm đương quyền sẽ
không thay đổi đường lối toàn trị của họ. Phải chăng họ vẫn
còn bị mê muội vì chủ thuyết Mác Lê nin ? Không ! Chắc
chắn không ! Họ chỉ là một nhóm cơ hội chủ nghĩa không
phục vụ một lý tưởng xã hội chủ nghĩa nào hết ! Nhờ thời cơ,
họ đã cướp được chính quyền và do đó dành cho bản thân,
gia đình, tay em... mọi đặc quyền, đặc lợi. Họ dại gì để cho
chính quyền lọt vào tay người khác vì họ biết rõ hơn ai hết là
nếu tổ chức một cuộc đầu phiếu tự do chắc chắn họ sẽ bị
loại.

Tuy nhiên, nếu có một cuộc chống đối đại quy mô của quần
chúng, họ sẽ tìm cách “rút lui trong trật tự’’ để bảo toàn tính
mạng cùng quyền lợi của bản thân, gia đình và tay em. Điều
này đã nhận thấy ở các nước cộng sản cũ. Ta cũng thừa hiểu
rằng từ ngày Cộng Sản Việt Nam cho phép đảng viên công
khai làm giàu, công khai mua nhà riêng, công khai kinh
doanh, một số “đã trở cờ”, “đã đi hàng hai”, “móc ngoặc với
địch” ( ! ) để sau này, khi cần sẽ chứng minh là mình đã “đới
công chuộc tội”. Việc này là lẽ thông thường: nơi đâu cũng
vậy !

Tóm lại khả năng phản tỉnh của nhóm đảng viên cộng sản
đương quyền là một điều không ai chối cãi.

Điểm 4 - Cơ hội lịch sử của cuộc bầu cử Quốc Hội khóa


12: Cuộc bầu cử Quốc Hội khóa 12, được dự trù vào ngày 20
tháng 5 sắp tới chính là cơ hội thuận lợi nhất để phe đối lập
khởi sự chiến dịch “bất tuân lệnh dân sự’’. Cách đây mấy
tháng L.m. Nguyễn Văn Lý, nhân danh Khối 8406, đã tung
lời kêu gọi tẩy chay bầu cử nếu các điều kiện mà Khối đưa ra
không được chấp nhận. Hành động tẩy chay bầu cử là một
hành động bất tuân lệnh dân sự. Việc đảng Cộng sản đương
quyền đàn áp các nhà tranh đấu dân chủ ở nhiều nơi, rồi tới
việc đấu tố L.m. Nguyễn Văn Lý trong một phiên toà “trò hề”
vô cùng man rợ và lố bịch khiến cho việc tăng cường chiến
dịch tẩy chay bầu cử Quồc Hội dễ được nhân dân hưởng ứng.
Nếu nhóm cầm quyền vẫn tiếp tục làm ngơ, dùng sức mạnh
bắt ép cử tri đi bầu , phe đối lập không nên chùn tay, trái lại
nên mở rộng chiến dịch bất tuân lệnh dân sự dưới mọi hình
thức khác ! Vì thời cơ đã đến để thực hiện cuộc cách mạng
dân chủ hóa ở Việt Nam. Nếu cuộc cách mạng thành công,
kẻ viết bài này đề nghị nên gọi đó là cuộc cách mạng trúc.
Tại sao ? Chính vì cây trúc (tre) đã đóng một vai cực kỳ
quan trọng trong tiến trình xây dựng nền văn hóa của dân
tộc Việt. Đã có học giả tây phương từng mệnh danh nền văn
minh nước ta là civilisation du bambou (văn minh cây trúc)
.Sau các cuộc cách mạng hoa hồng, cách mạng cam, cách
mạng hoa tuy líp, tại sao không có một cuộc cách mạng trúc
?

Paris tháng 4 năm 2007


Gs. Vũ Quốc Thúc

Điều 88 - Hai Cái Còng Số 8


Trần Nam
“… Điều 88 thực chất chính là hai cái còng số 8 do đảng
Cộng sản Viêt Nam sáng tạo để triệt hạ các tiếng nói dân
chủ …”

Trong những năm 2000, khi có nhu cầu đàn áp các nhà bất
đồng chính kiến, nhà cầm quyền Hà Nội thường tạo dựng ra
các tội danh tưởng tượng để truy tố, gán ghép phạm tội một
cách tuỳ tiện, vô văn hoá và thô bạo. Những tội danh nặng
và thông dụng lúc đó thường là tội gián điệp, vi phạm điều
80 luật hình sự nước Cộng Hoà XHCNVN. Các bộ máy cầm
quyền cố gắng vận dụng trí sáng tạo nhằm đặt ra một số tội
hết sức trẻ con để truy tố những nhà dân chủ. Anh Nguyễn
Khắc Toàn, nhà báo Nguyễn Vũ Bình, bác sĩ Phạm Hồng Sơn
đã bị kết án tội gián điệp này. Ngay cả ông Hà Sĩ Phu, ông
Lê Hồng Hà cũng từng bị gán ghép không thể tưởng tượng,
đó là tội “tiết lộ bí mật nhà nước”. Lý do ấu trĩ đến độ cả
nước và dư luận thê giới phải ngạc nhiên chỉ vì ông Hà Sĩ
Phu, ông Lê Hồng Hà có lưu giữ bức thư của Ông Võ Văn
Kiệt, viết góp ý cho Bộ Chính Trị.

Hiện nay bài bản tội gián điệp, tội tiết lộ an ninh quốc gia
không còn ăn khách, vừa lạc điệu, nhảm nhí lại vừa không
thuyết phục, nên các quan công an tìm cách đề ra những tội
danh khác. Tên có thể khác nhưng án tù, giọng điệu cáo
buộc thì không có gì khác. Vì vậy, “tuyên truyền chống nhà
nước Việt Nam” đã được Hà Nội tung ra, thay thế tội gián
điệp nhưng bản chất và mức độ gán ghép thì giống nhau.
Trong đợt trấn áp gần đầy, Hà Nội đã dùng tội danh này để
bắt hàng loạt các nhà dân chủ gồm linh mục Nguyễn Văn Lý,
các đảng viên đảng Thăng Tiến, đảng viên Đảng Vì Dân, luật
sư Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Luật sư Lê Quốc
Quân, nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ, đảng viên đảng Dân
chủ Nhân dân v.v.. Ngay cá nhân tôi, sau khi bị vu khống tội
khủng bố trên các cơ quan ngôn luận trong nước. Hà Nội
trắng trợn chính thức tuyên bố với các phóng viên nước
ngoài là Đỗ Thành Công đã vi phạm tội trạng trên, nhưng
thực chất lệnh bắt khẩn cấp và lệnh phê chuẩn tạm giam từ
Viện kiểm sát cũng thu gọn trong phạm vi điều 88.
<!--[if

You might also like