You are on page 1of 6

Ngày 9/1/2007, Thời báo kinh tế Việt Nam đăng tin, nhiều nhà đầu tư cá nhân đã thua lỗ

hàng trăm triệu đến bạc tỷ do mua cổ phiếu của các công ty lần đầu lên sàn có giá bị đẩy
lên quá cao1. Tiếp đến, là sự bất thường trong hàng loạt các cuộc đấu giá cổ phiếu, khi sự
chênh lệch giữa các mức đấu giá thành công quá cao khiến nhiều nhà đầu tư muốn bỏ tiền
đặt cọc chạy lấy người... Đây sẽ không phải là những trường hợp cá biệt mà có thể trở
thành một làn sóng làm rung chuyển toàn bộ thị trường chứng khoán Việt Nam, mà một
trong những nguyên nhân sâu xa chính là hiện tượng thông tin bất cân xứng.

Thông tin bất cân xứng xuất hiện khi người mua và người bán có các thông tin khác
nhau. Người buôn ngựa mang một con ngựa vừa già vừa xấu ra chợ. Bỏ một con lươn
còn sống vào trong cổ họng của nó. Con ngựa sẽ thể hiện sự tràn đầy sức sống... Đó là
những thủ đoạn lừa gạt. Một bên của thị trường là những kẻ lừa đảo. Còn bên kia là
những người cố tránh những kẻ lừa đảo. Nếu thái quá, thị trường sẽ hoàn toàn bị sụp đổ.
Và cả người tốt lẫn người xấu đều bị thua thiệt.2
Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) lần đầu tiên xuất hiện vào
những năm 1970 và đã khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế học hiện đại
bằng sự kiện năm 2001, các nhà khoa học nghiên cứu lý thuyết này là George Akerlof,
Michael Spence và Joseph Stiglitz cùng vinh dự nhận giải Nobel kinh tế. Thông tin bất
cân xứng có thể xảy ra trước khi tiến hành ký kết hợp đồng. Các bên tham gia giao dịch
cố tình che đậy thông tin, người mua không có thông tin xác thực, đầy đủ và kịp thời nên
trả giá thấp hơn giá trị đích thực của hàng hóa. Hậu quả là người bán cũng không còn
động lực để sản xuất hàng có giá trị và có xu hướng cung cấp những sản phẩm có chất
lượng thấp hơn chất lượng trung bình trên thị trường. Rốt cuộc trên thị trường chỉ còn lại
những sản phẩm chất lượng xấu- những “trái chanh” bỏ đi, hàng tốt bị loại bỏ, dẫn đến
lựa chọn bất lợi (adverse selection) cho cả hai bên. Như vậy, hiện tượng lựa chọn bất lợi
đã cản trở việc giao dịch trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Thông tin bất cân xứng còn gây
ra hiện tượng tâm lý ỉ lại (moral hazard) sau khi hợp đồng đã được giao kết nhưng một
bên có hành động che đậy thông tin mà bên kia khó lòng kiểm soát, hoặc muốn kiểm soát
thì cũng phải tốn kém chi phí.

Làm thế nào để hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng?

Michael Spence chỉ ra được cơ chế phát tín hiệu (signaling): bên có nhiều thông tin có
thể phát tín hiệu đến những bên ít thông tin một cách trung thực và tin cậy. Với việc phát
tín hiệu này, người bán những sản phẩm chất lượng cao phải sử dụng những biện pháp
được coi là quá tốn kém với người bán hàng hóa chất lượng thấp. Spence lấy ví dụ bằng
thị trường lao động. Người bán là những ứng cử viên đi xin việc và người mua là nhà
tuyển dụng. Nhà tuyển dụng không thể trực tiếp quan sát các khả năng của ứng cử viên
mà chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua bằng cấp của họ. Nếu những người kém năng
lực phải mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn những người có năng lực để đạt được cùng
trình độ học vấn thì những người có năng lực có thể phát tín hiệu bằng cách đạt được
những bằng cấp mà người kém năng lực không thể đạt được. Hay một ví dụ khác, việc
triển khai các chương trình quảng cáo đắt tiền, việc duy trì chế độ bảo hành cho sản
phẩm, việc chia cổ tức cho cổ đông... đó đều là những cách phát tín hiệu trên thương
trường.

Joseph Stiglitz đã tiếp tục bổ sung vào công trình nghiên cứu của Akerlof và Spence.
Stiglitz đặt ra vấn đề là bản thân những người có ít thông tin hơn cũng có thể tự cải thiện
tình trạng của mình thông qua cơ chế sàng lọc (screening). Ông đã chỉ ra rằng bên có ít
thông tin hơn có thể thu thập thông tin từ bên kia bằng cách đưa ra các điều kiện giao
dịch hợp đồng khác nhau. Ví dụ điển hình là các công ty bảo hiểm thường cung cấp
những loại hợp đồng bảo hiểm với các mức phí bảo hiểm khác nhau, tương ứng với mức
bồi thường khác nhau. Các khách hàng sẽ tự lựa chọn loại hợp đồng bảo hiểm phù hợp
với mình, do đó tự phân hóa thành các loại khách hàng khác nhau. Những khách hàng có
rủi ro thấp thường thích loại hợp đồng có phí bảo hiểm thấp trong khi khách hàng có rủi
ro cao lại lựa chọn hợp đồng có phí bảo hiểm cao.

Trải qua hơn hai thập kỷ, lý thuyết về thị trường có thông tin bất cân xứng đã trở nên vô
cùng quan trọng và là trọng tâm nghiên cứu của kinh tế học hiện đại. Thông tin bất cân
xứng càng trở nên phổ biến và trầm trọng khi tính minh bạch của thông tin, khả năng tiếp
cận thông tin và cơ sở hạ tầng thông tin yếu kém.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Trên thị trường chứng khoán, hiện tượng bất cân xứng xảy ra khi: doanh nghiệp che giấu
các thông tin bất lợi, thổi phồng thông tin có lợi...; doanh nghiệp cung cấp thông tin
không công bằng đối với các nhà đầu tư; doanh nghiệp sau khi phát hành cổ phiếu không
chú trọng vào đầu tư sản xuất kinh doanh mà chỉ tập trung vào việc “làm giá” trên thị
trường chứng khoán; có sự rò rỉ thông tin nội gián; một số nhà đầu tư tạo cung cầu ảo
trên thị trường dẫn đến phản ánh sai lệch giá trị của doanh nghiệp; một số kẻ xấu tung tin
đồn thất thiệt cho doanh nghiệp; các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch;
các trung gian tài chính cung cấp, xử lý thông tin không chính xác...
Tình trạng bất cân xứng về thông tin sẽ dẫn đến việc các nhà đầu tư đưa ra các quyết định
đầu tư không chính xác, gây cung cầu ảo, thị trường bong bóng và tiềm ẩn nguy cơ sụp
đổ thị trường.
Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như bất kỳ thị trường mới nổi nào trên thế giới,
hiện tượng thông tin bất cân xứng xảy ra phổ biến trên mọi ngành, lĩnh vực.

Thứ nhất, ngoài các thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì các doanh nghiệp
không chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời. Đặc biệt đối với các công ty có cổ
phiếu giao dịch trên thị trường phi chính thức (OTC), tình trạng phổ biến là nhà đầu tư
hầu như mù mờ về tình hình làm ăn, tình hình hoạt động kinh doanh của công ty. Các
thông tin tìm được chủ yếu qua nguồn tin riêng, trên các diễn đàn chứng khoán hoặc tin
đồn. Một thực trạng nữa là đối với các công ty chào bán lần đầu ra công chúng thực hiện
đấu giá tại cơ sở, Ban giám đốc công ty có xu hướng che giấu các thông tin để “dìm giá“
sao cho những người nội bộ công ty có thể mua được cổ phiếu với giá thấp.
Thứ hai, có hiện tượng rò rỉ thông tin chưa hoặc không được phép công khai. Sự rò rỉ
thông tin phổ biến trong công tác đấu giá cổ phiếu. Hiện nay, quy chế đấu giá do UBCK
ban hành chỉ yêu cầu các Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố tổng số nhà đầu tư
tham gia đấu giá và tổng lượng CP đặt mua, trong khi những thông tin có ảnh hưởng rất
lớn đến việc đặt giá như số lượng nhà đầu tư tổ chức/nhà đầu tư nước ngoài tham gia đấu
giá; số lượng CP đặt mua của các đối tượng này, lại không được công bố cụ thể. Điều
đáng nói là, những thông tin này không được bảo mật chặt chẽ mà được cung cấp một
cách riêng lẻ cho những đối tượng có nhu cầu. Những người nắm được cụ thể, chi tiết về
tổng cầu cổ phiếu của thị trường, các cá nhân tổ chức nào tham gia đấu giá sẽ tính toán
được hợp lý mức giá mà mình bỏ thầu, qua đó chiếm lợi thế so với các nhà đầu tư khác
không có thông tin.
Sự rò rỉ thông tin còn thể hiện ở việc công bố các thông tin có lợi của công ty. Ví dụ đối
với các quyết định của Hội đồng quản trị như chia cổ tức bằng cổ phiếu thưởng, tăng quy
mô vốn... thông thường do các nguồn quan hệ cá nhân, một số nhà đầu tư còn biết trước
khi Trung tâm chứng khoán công bố vài ngày và đã tranh thủ thu mua cổ phiếu để chờ giá
lên. Đến khi các nhà đầu tư còn lại biết được thông tin thì đã quá muộn. Chính vì vậy,
không có gì ngạc nhiên khi đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam đang diễn ra
theo hiện tượng "bầy đàn", vì có sự suy diễn rằng, việc mua hàng loạt hay bán hàng loạt
cổ phiếu của một nhóm nhà đầu tư nào đó là do có thông tin biết trước.

Thứ ba, doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư: ưu
tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư tổ chức mà không
công bố rộng rãi. Đến nay, một hiện tượng phổ biến cho thấy các cuộc đấu giá thì người
đấu giá thành công chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức. Loại trừ khả năng các nhà đầu tư tổ
chức có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích và "trường vốn" hơn thì người ta cũng nghi ngờ
các nhà đầu tư nhận được nhiều thông tin chất lượng hơn so với các nhà đầu tư cá thể.

Thứ tư là hiện tượng lừa đảo. Đây không phải là hiện tượng phổ biến trên thị trường
chứng khoán Việt Nam nhưng rất đáng cảnh báo các nhà đầu tư nghiệp dư, đặc biệt
những người không có kiến thức về chứng khoán và kinh tế lại có tham vọng làm giàu
bằng kinh doanh chứng khoán. Báo Vnexpress đăng tin, một số cá nhân đã lừa đảo bán cổ
phiếu giả cho những nhà đầu tư nhẹ dạ ở Hải Phòng để thu được gần 800 tỷ đồng.4 Tiếp
đó là vụ lừa đảo hàng chục tỷ đồng, lợi dụng lòng tin của những người chơi chứng khoán
nhỏ lẻ để ôm tiền bỏ chạy.

Thứ năm là việc tung tin đồn thất thiệt. Trong thời gian 6 năm hoạt động của thị trường
chứng khoán, có không ít tin đồn ảnh hưởng đến uy tín của các công ty niêm yết. Các tin
này thường được tung ra trên các diễn đàn chứng khoán (forum), trên các sàn giao dịch
chứng khoán, hoặc được truyền miệng. Do nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm, kỹ năng để
kiểm chứng nguồn thông tin, đồng thời do cơ chế thông tin của doanh nghiệp còn yếu
kém, chậm chạp nên dẫn đến gây tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư, ảnh hưởng đến giá
cả cổ phiếu trên thị trường. Trong khi đó, các quy định của Nhà nước về việc xử phạt đối
với việc tung tin đồn trên thị trường chứng khoán vẫn còn trong giai đoạn soạn thảo. Cơ
chế phát hiện đối với việc tung tin đồn cũng chưa rõ ràng.
Thứ sáu là các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ. Đây
không phải là hiện tượng phổ biến nhưng khiến cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp không
mấy tin cậy vào chất lượng thông tin của các cơ quan báo chí. Ví dụ, thông tin về SJS
"sập sàn" do báo Tiền phong điện tử đăng ngày 12/1/20076. Thực chất là do SJS chia 3
cổ phiếu thưởng cho 1 cổ phiếu hiện tại nên giá cổ phiếu của công ty giảm tương ứng từ
728.000đ/CP xuống còn 190.000đ/CP. Mặt khác, về nội dung thông tin do cơ quan truyền
thông cung cấp, chủ yếu vẫn là tin tức, diễn biến thị trường, chưa có nhiều các thông tin
nhận định phân tích mang tính định hướng cho nhà đầu tư và thị trường.

Ngoài ra còn nhiều hiện tượng khác về việc một số nhà đầu tư làm giá, tạo cung cầu ảo
trên thị trường khiến cho giá cả biến động mạnh. Sự thua thiệt thuộc về các nhà đầu tư cá
nhân, không có nguồn tin nội bộ, khi muốn mua thì không thể nào tìm được nguồn mua
do các nhà đầu tư lớn đã thâu tóm toàn bộ, khi muốn bán thì cũng không thể nào bán
được do thị trường bão hòa...

Mặc dù đến nay chưa có những nghiên cứu định lượng nhưng có thể khái quát bức tranh
toàn cảnh tình trạng bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam khá
hỗn độn. Điều này phù hợp với đánh giá của các chuyên gia về tình trạng thị trường
chứng khoán Việt Nam đang phát triển quá nóng, không phản ánh thực chất giá trị
của doanh nghiệp và cung cầu thị trường.

Thứ hai, ngày 19 tháng 10 năm 1987 - "Ngày thứ hai đen tối", chỉ số Dow Jones tụt 508
điểm (22,9%), một trong những sự đổ vỡ lớn nhất của lịch sử chứng khoán. Sử dụng một
phương pháp phân tích tương tự như phương pháp được áp dụng để nghiên cứu nhịp tim,
các nhà nghiên cứu đã phát hiện một số hiện tượng bất thường xảy ra trước sự đổ vỡ này.
Những kết quả này tỏ ra là rất có ích cho các nhà kinh tế trong việc phân tích rủi ro và
đoán nhận được những sự đổ vỡ không thể tránh khỏi trong tương lai.
Mặc dù giá cổ phiếu thường dao động, nhưng những biến đổi trên toàn thị trường lại
tương đối nhỏ. Không ai biết tường tận được những nguyên nhân đổ vỡ của thị trường cổ
phiếu, người ta chỉ biết rằng, điều này có liên quan đến rất nhiều yếu tố.
Trong khi phân tích những dao động giá cổ phiếu dựa trên sự tương đồng với các hiện
tượng chuyển pha và động học tới hạn, các nhà vật lý Đại học Tokyo (Kiyono và các
cộng sự) đã quan sát thấy một số biểu hiện đáng ngạc nhiên xảy ra trước các vụ đổ vỡ.
Nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, trong suốt một năm trước Ngày thứ hai đen tối,
xác suất của những dao động giá lớn tăng một cách bất ngờ, cứ như thể là nó đang tiếp
cận một điểm tới hạn báo hiệu một sự thay đổi lớn. Ở điểm tới hạn (tức là ngày đổ vỡ),
một sự chuyển pha đột ngột đã xảy ra khi mẫu hình xác suất từ phụ thuộc thang chuyển
thành bất biến thang. Sự bất biến thang trong trường hợp này có nghĩa là giá cổ phiếu
không còn phụ thuộc vào thang thời gian nữa, đó là biểu hiện đặc trưng xảy ra ở điểm tới
hạn.
"Dựa theo sự tăng đột ngột của xác suất trước Ngày thứ hai đen tối, chúng tôi nhận định
rằng, qua một quá trình động học nội tại, hệ dần dần đạt đến một điểm tới hạn, điều đó có
vẻ như đã dẫn đến một sự đổ vỡ," các nhà nghiên cứu đã viết như vậy trong một công
trình đăng trên Physical Review Letters.
Mô hình "tới hạn" được xây dựng dựa trên ý tưởng là tính bất ổn của sự biến động giá có
thể dùng để đánh giá một cách định lượng mức độ dao động của thị trường. Tuy nhiên,
nếu chỉ dựa trên một mình tính bất ổn thì không thể giải thích được những dao động giá
lớn. Nhóm của Kiyono cũng nghiên cứu những biến động giá trong một thang thời gian
ngắn (cỡ 10 phút) và đã phát hiện ra sự tồn tại của một xác suất dao động giá lớn. Tính
tương đồng của những dao động giá trong những thang thời gian khác nhau là rất giống
với đặc tính của các hiện tượng động đất và nhịp tim, chúng cũng là những hiện tượng
bất biến thang. Các nhà vật lý tin rằng, chính những dao động giá cổ phiếu ở thang nhỏ
có thể đã gây nên hiện tượng tập trung thành nhóm của những người giao dịch, và hiện
tượng này bùng nổ nhanh chóng qua những tương tác nội tại với thị trường cổ phiếu.
"Nếu những đặc trưng như vậy cũng có thể xảy ra đối với các chỉ số cổ phiếu khác thì
nghiên cứu của chúng tôi có thể được áp dụng cho việc đánh giá rủi ro một cách định
lượng", các nhà nghiên cứu nói.
Sự tăng xác suất dao động giá có nhất thiết dẫn đến một sự đổ vỡ hay không? Không, bởi
vì ngay cả sự phân tích thống kê đáng tin cậy nhất cũng không thể tính hết được các yếu
tố bên ngoài. Chẳng hạn, nhóm nghiên cứu đã từng quan sát được trong tư liệu hồi trước
năm 1990 những dao động giá cực lớn. Tuy nhiên, vào tháng 8 năm đó, việc Iraq tấn
công Kuwait và sau đó là chiến tranh vùng vịnh (1991) đã dẫn đến sự xuống dốc của giá
cổ phiếu. Quá trình động học của thị trường cổ phiếu khi ấy đã trải qua một sự thay đổi
sâu sắc, những biến động đã không thể đạt tới điểm giới hạn và một sự chuyển pha đã
không xảy ra. Quản lý OTC qua công ty đại chúng

Kế hoạch tăng cường quản lý thị trường cổ phiếu chưa


Các nhà đầu tư tại buổi bán niêm yết (OTC) của Ủy ban Chứng khoán nhà nước xem
đấu giá cổ phần của bộ phận chừng khó có thể thực hiện khi hầu hết công ty cổ phần
Khu công nghiệp Hiệp Phước. đều thờ ơ trước quy định bắt buộc đăng ký lại để trở
thành công ty đại chúng.

Anh Huy, Giám đốc một công ty cổ phần chuyên kinh doanh các mặt hàng viễn thông,
nhún vai khi được hỏi sao chưa đăng ký công ty cổ phần đại chúng (CTĐC): “Đăng ký để
được cái gì? Làm CTĐC dễ bị “thổi còi” lắm, đủ thứ qui định ràng buộc, trong khi quyền
lợi chẳng có gì nhiều. Tôi ngán nhất là việc công bố thông tin, kiểm toán, rồi bao nhiêu
người dòm ngó giám sát”.

Công ty của anh Huy chỉ là một trong số cả chục nghìn công ty thuộc diện CTĐC nhưng
chưa muốn đi đăng ký lại. Anh Huy bày tỏ: “Tôi phải đợi một thời gian nữa mới quyết
định. Bây giờ số cổ đông của công ty là 120 người, ít bữa họ giao dịch bán mua giảm
xuống chỉ còn 50 người, tôi làm đơn xin thôi làm CTĐC xem có được không?”.

Mới đây, Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Thơ (Đại học Kinh tế TP HCM) đã thực hiện
một cuộc khảo sát trong 235 doanh nghiệp (chủ yếu là các công ty cổ phần và các DN
nhà nước sắp cổ phần hóa thuộc các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, sản xuất kinh
doanh...) về những vướng mắc của họ khi “bị” hoặc “được” trở thành CTĐC. Cuộc khảo
sát cho thấy lý do mà các công ty cổ phần không thích trở thành CTĐC vì lợi ích mang
lại không tương thích với những cái mà họ sẽ mất đi.

Cụ thể, các DN e ngại rủi ro bị chia quyền kiểm soát, các ràng buộc về công bố thông tin,
sự thiếu vắng các điều luật bảo vệ nhà đầu tư, các chính sách chưa đầy đủ và công bằng
của Nhà nước...
Về thuế, các DN được khảo sát cho rằng chưa có tính công bằng và hiệu quả về thuế giữa
CTĐC (phải công khai tài chính) so với mô hình hoạt động hiện tại của họ (không phải
công khai minh bạch tình hình tài chính).

Các công ty cổ phần sẽ trở thành Dường như cũng đã nhận biết được khó khăn trong
CTĐC khi đáp ứng một trong ba việc triển khai qui định này, Bộ Tài chính chỉ quyết
điều kiện: định “thử nghiệm” bằng cách kêu gọi các công ty
cổ phần mà Nhà nước đang nắm giữ sở hữu đi
Thực hiện chào bán cổ phiếu ra công đăng ký lại.
chúng, có cổ phiếu được niêm yết
trên sàn giao dịch chính thức, hoặc Tuy nhiên, kết quả vẫn không mấy khả quan. Sau
có số vốn điều lệ 10 tỷ đồng trở lên một tháng gửi công văn đi các bộ, UBND
với ít nhất 100 nhà đầu tư tham gia tỉnh/thành phố, các tập đoàn, các tổng công ty 90,
góp vốn. 91..., Bộ Tài chính chỉ nhận được danh sách CTĐC
từ Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà
Luật chứng khoán cũng qui định các nước, Tổng công ty Lương thực miền Nam, Tổng
công ty cổ phần phải nộp hồ sơ đăng công ty Ximăng và Sở Tài chính Lâm Đồng.
ký lại thành CTĐC trong vòng 90
ngày kể từ ngày có số lượng cổ đông Một chuyên gia CK nhận định nghị định 36 của
đạt từ 100 người trở lên. Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực CK với mức phạt 5-20 triệu đồng đối với
Theo UBCKNN, việc yêu cầu các các công ty không nộp hồ sơ đăng ký CTĐC cũng
công ty cổ phần đăng ký lại thành chỉ là giải pháp tình thế.
CTĐC là bước đầu tiên để kiểm soát
thị trường cổ phiếu OTC. Sau khi “Tôi cho rằng về lâu dài, Nhà nước nên có những
đăng ký, các công ty này sẽ phải chính sách để khuyến khích các công ty “bước từ
thực hiện kiểm toán, công bố thông bóng tối ra ánh sáng” hơn là ép buộc họ”, ông này
tin và quản trị công ty theo qui định nói.
của Luật chứng khoán.
Còn theo ông Thơ, để khuyến khích các công ty cổ
Bước tiếp theo là các công ty tiến phần (hoặc cổ phần hóa) hoạt động theo mô hình
hành lưu ký cổ phiếu, sử dụng các CTĐC, Chính phủ cần triển khai một số chính
công ty chứng khoán làm đầu mối và sách. Thứ nhất, yêu cầu bắt buộc phải tiến hành các
chuyển giao dịch về Trung tâm Giao phương thức quản trị doanh nghiệp hiện đại trong
dịch chứng khoán Hà Nội. các DNNN sau cổ phần hóa để họ không phải “ngỡ
ngàng” khi lên CTĐC.

Thứ hai, theo ông, Chính phủ cần ban hành nghị định hướng dẫn cụ thể về minh bạch
thông tin trong các CTĐC để hạn chế tình trạng mất cân xứng thông tin trên TTCK.

Và thứ ba, cần có những qui định chính sách về các hoạt động mua lại, sáp nhập và bảo
vệ nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nhỏ. Xu hướng này sẽ diễn ra khá phổ biến trong tương
lai và cần phải được Nhà nước dự báo thấu đáo nhằm đưa ra các chính sách thích hợp để
bảo vệ nhà đầu tư.

You might also like