You are on page 1of 27

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ

PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Luật tài chính

PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA


CÔNG CHÚNG

Người hướng dẫn : Thạc sỹ Nguyễn Minh Hằng


Người thực hiện: Lê Kim Dung
Hà Nội 2007

Lời nói đầu:

1. Tính cấp thiết của đề tài :


Thị trường chứng khoán Việt Nam trong hai năm trở lại đây phát triển hết sức mạnh mẽ.
Hoạt động chào bán ra công chúng là hoạt động cung cấp hàng hóa cho thị trường chứng
khoán diễn ra sôi động. Trong đó chào bán cổ phiếu ra công chúng thu hút được nhiều sự
quan tâm chú ý của không chỉ các nhà đầu tư mà của toàn xã hội
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

3. Phương pháp nghiên cứu:


4. Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm các phần sau đây:
Phần mở đầu:
Phần nội dung:
Chương I: Những vấn đề chung về pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng
Chương II : Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về chào bán cổ phần ra công chúng:
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phần ra công
chúng
Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

2
Chương I

VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN


CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
I. KHÁI NIỆM VỀ CỔ PHẦN VÀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA
CÔNG CHÚNG
I.1 Khái niệm và phân loại cổ phần
I.1.1 Khái niệm và đặc điểm
• Khái niệm
Khi một công ty cổ phần muốn tăng vốn để mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh, có nhiều cách khác nhau để thực hiện: vay vốn của các tổ chức
tín dụng, phát hành trái phiếu doanh nghiệp hoặc chào bán cổ phần. Mỗi
phương thức huy động vốn nói trên đều có ưu nhược điểm riêng, được áp
dụng tùy theo mục tiêu, chính sách hoạt động của doanh nghiệp trong từng
thời kỳ cụ thể.
Chào bán cổ phần là hình thức được nhiều công ty cổ phần lựa chọn để
thu hút vốn đầu tư.
Khái niệm về cổ phần:
Theo luật doanh nghiệp 2005: Công ty cổ phần là doanh nghiệp có vốn điều
lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần ( Điểm a Khoản 1
Điều 77 ). Như vậy mỗi cổ phần là một phần bằng nhau vốn điều lệ công ty
và người sở hữu cổ phần cũng chính là người sở hữu một phần công ty.

3
Người sở hữu cổ phần của công ty được gọi là cổ đông, nắm giữ cổ phiếu
của công ty đó.
Khái niệm về cổ phiếu:
Theo Luật doanh nghiệp 2005 quy định: Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ
phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số
cổ phần của công ty đó ( Khoản 1 Điều 85 Luật doanh nghiệp 2005 )
Luật chứng khoán 2006 cũng có định nghĩa cổ phiếu như sau: Cổ phiếu là
loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối
với một phần vốn của tổ chức phát hành ( Khoản 2 Điều 6 Luật chứng khoán
2006 )
Như vậy cổ phiếu là một chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền lợi hợp
pháp của một chủ thể đối với một công ty cổ phần đã phát hành ra cổ phiếu
đó. Khi nói một người sở hữu cổ phiếu của một công ty tương đương với
người đó sở hữu cổ phần của chính công ty đó.
• Đặc điểm của cổ phiếu
Thứ nhất: Cổ phiếu có tính thanh khoản cao, nghĩa là khả năng chuyển
hóa thành tiền dễ dàng. Nhà đầu tư bỏ tiền ra mua cổ phiếu của một công ty
sau đó dễ dàng bán đi để thu lại tiền đã đầu tư. Tuy nhiên tính thanh khoản
của cổ phiếu phụ thuộc vào hai yếu tố:
Một là, kết quả kinh doanh của công ty cổ phần đã phát hành cổ phiếu
( hay còn gọi là tổ chức phát hành ). Nếu tổ chức phát hành có kết quả kinh
doanh tốt, thu được lợi nhuận cao , trả cổ tức cao sẽ thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà đầu tư, khiến cổ phiếu của công ty có thể dễ dàng được
mua bán trao đổi. Ngược lại, nếu tổ chức phát hành kinh doanh kém hiệu
quả dẫn đến tình trạng thua lỗ, nợ nần thì các nhà đầu tư không dám mạo
hiểm bỏ vốn mua cổ phần của công ty, dẫn đến cổ phiếu của công ty đó có
tính thanh khoản thấp.

4
Hai là, quan hệ cung cầu trên thị trường cổ phiếu và thị trường chứng
khoán.Thị trường cổ phiếu cũng như các thị trường mua bán các loại hàng
hóa khác đều chịu sự điều chỉnh của các quy luật thị trường đặc biệt là quy
luật cung cầu. Giá của cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của bản thân tổ chức phát hành mà còn
phụ thuộc vào nhu cầu của nhà đầu tư. Điều này đặc biệt dễ nhận thấy khi
thị trường chứng khoán gặp biến động mạnh, các nhà đầu tư theo tâm lý
chung sợ mất tiền nên ồ ạt bán ra cổ phiếu. Cổ phiếu lúc này tràn ngập thị
trường tạo nên nguồn cung quá lớn trong khi số lượng nhà đầu tư muốn mua
vào quá ít, tính thanh khoản của cổ phiếu lúc này hạ xuống còn rất thấp.
Ngược lại khi thị trường cổ phiếu khan hiếm hàng hóa, nhu cầu của các nhà
đầu tư rất lớn thì ngay cả những cổ phiếu có chất lượng thấp cũng dễ dàng
bán được giá cao.
Thứ hai, cổ phiếu có tính lưu thông. Tính lưu thông là khả năng chuyển
giao quyền sở hữu cổ phiếu cho người khác như một tài sản thực sự. Nếu
như tính thanh khoản giuos chủ sở hữu cổ phiếu chuyển đổi cổ phiếu thành
tiền mặt thì tính lưu thông đem lại cho người sở hữu nhiều khả năng sử dụng
hơn như cho, tặng, để thừa kế hay cầm cố tại ngân hàng để bảo đảm thực
hiên nghĩa vụ tài sản khác.
Thứ ba, cổ phiếu có tính tư bản giả, có nghĩa là cổ phiếu là một loại giấy
tờ có giá trị như tiền. Tuy nhiên, bản thân cổ phiếu không có giá trị nếu nó
không được đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của cổ phiếu cũng không phản ánh
đúng giá trị thực của cổ phiếu, và người ta định giá cổ phiếu dựa trên nhiều
phương pháp khác nhau.
Thứ tư, cổ phiếu có tính rủi ro: Là những đe dọa về an toàn vốn và thu
nhập đối với nhà đầu tư. Thể hiện rõ nét của đặc điểm này là cổ phiếu có thể
xuống giá bất thường và đột ngột do những biến cố của thị trường, đem lại

5
sự thua lỗ nhanh chóng cho các nhà đầu tư. Nguyên nhân là: Giá trị của cổ
phiếu không nằm trong ý định chủ quan của tổ chức phát hành hay nhà đầu
tư, cổ phiếu có giá trị phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như tình hình tài
chính của tổ chức phát hành, tình hình kinh tế xã hội nói chung và những
yếu tố chính trị nhạy cảm. Vì vậy, một biến động chính trị lớn có thể làm
chao đảo thị trường chứng khoán, cũng như sự sụp đổ của thị trường chứng
khoán của một quốc gia có thể kéo theo sự khủng hoảng của thị trường
chứng khoán nhiều nước khác, kéo theo giá của tất cả cả các cổ phiếu sụt
giảm bất thường. Hơn nữa hoạt động mua bán cổ phiếu phụ thuộc rất nhiều
vào thông tin trên thị trường, chỉ một thông tin bất lợi cho tổ chức phát hành
dù chưa được kiểm chứng cũng dễ dàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới
khả năng thanh khoản, lưu thông của cổ phiếu.
Cổ phiếu là chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu hợp pháp
của cổ đông với công ty cổ phần đã phát hành cổ phiếu. Dựa trên tính
chuyển nhượng của cổ phiếu có thể chia cổ phiếu thành ba loại sau:
Cổ phiếu ký danh: Là loại cổ phiếu có ghi rõ tên chủ sở hữu cổ phiếu trên
cổ phiếu, cổ phiếu này bắt buộc ở dạng chứng chỉ. Đặc điểm ký danh của cổ
phiếu khiến cho cổ phiếu có độ an toàn cao nhưng đem lại sự bất tiện trong
chuyển nhượng cổ phiếu vì đòi hỏi thủ tục phức tạp hơn so với cổ phiếu vô
danh.
Cổ phiếu ký danh: Cổ phiếu vô danh cũng ở dạng chứng chỉ nhưng không
ghi tên người sở hữu cổ phiếu trên đó. Người giữ trong tay cổ phiếu được
coi là chủ sở hữu cổ phiếu. Thủ tục chuyển nhượng cổ phiếu loại này rất
đơn giản, chỉ là mua bán trao tay.
Bút toán ghi sổ và chứng chỉ điện tử: Cổ phiếu này không ở dạng chứng chỉ
và người sở hữu cổ phiếu không nắm giữ cổ phiếu trong tay. Cổ phiếu ở

6
dạng bút toán ghi sổ ngày càng phổ biến vì có độ an toàn cao và đem lại
nhiều tiện lợi cho người sở hữu và tổ chức phát hành.

I.1.2 Phân loại cổ phần


Cổ phần được chia thành hai nhóm là cổ phần ưu đãi và cổ phần phổ thông.
Mỗi loại cổ phần khác nhau mang lại cho người sở hữu những quyền và lợi
ích nhất định. Khả năng chuyển tự so chuyển nhượng cổ phần cũng tùy
thuộc từng loại cổ phần.
• Cổ phần phổ thông
Cổ phần phổ thông là loại cổ phần phổ biến nhất và bắt buộc phải có đối với
công ty cổ phần. Tỷ lệ của giá trị vốn cổ phần phổ thông trên tổng giá trị vốn
cổ phần của công ty do điều lệ công ty quyết định. Người sở hữu cổ phần
phổ thông là cổ đông phổ thông. Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm
giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán của công ty
trong tối thiểu ba năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của cổ đông phổ thông gồm: Tham gia Đại hội
đồng cổ đông và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội
đồng. Cổ đông được chia cổ tức khi công ty làm ăn có lãi. Khi công ty giả
thể phá sản, cổ đông chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn cổ phần đã góp vào
công ty.
Cổ phần phổ thông được quy định tại Khoản 1 Điều 78 Luật doanh
nghiệp 2005: Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông, người sở hữu cổ
phần phổ thông là cổ đông phổ thông. Chi tiết quyền và nghĩa vụ của cổ
đông phổ thông được Luật doanh nghiệp 2005 qui định tại Điều 79 và Điều
80. Luật doanh nghiệp 2005 cũng qui định quyền tự do chuyển nhượng của

7
cổ phần phổ thông trừ trường hợp cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập
( Khoản 5 Điều 84 ).
• Cổ phần ưu đãi
Cổ phần ưu đãi là loại cổ phần mang lại cho người sở hữu một số quyền
ưu tiên so với cổ phiếu thường. Cổ phần ưu đãi được quy định tại Khoản 2
Điều 78 Luật doanh nghiệp 2005: Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi.
Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi.
Không phải mọi nhà đầu tư đều có quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi. Tùy từng
loại cổ phần ưu đãi mà luật và điều lệ công ty cổ phần có quy định khác
nhau về điều kiện nắm giữ và chuyển nhượng cổ phần ưu đãi.
Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau đây:
Cổ phần ưu đãi biểu quyết: Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số
phiếu biếu quyết cao hơn số phiếu biểu quyết của cổ phần phổ thông. Số
phiếu biểu quyết của cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ của công ty cổ
phần quy định. Chỉ có cổ đông sáng lập và tổ chức do Chính phủ ủy quyền
( đối với công ty nhà nước cổ phần hóa ) mới được quyền nắm giữ cổ phiếu
biếu quyết. Cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập cũng chỉ có hiệu
lực trong ba năm kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, sau
đó cổ phần biểu quyết của cổ đông sáng lập sẽ chuyển thành cổ phần phổ
thông. Luật doanh nghiệp 2005 không có quy định về thời hạn hiệu lực của
cổ phần ưu đãi biểu quyết do tổ chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữ, vì
vậy có thể coi cổ phần ưu đãi biếu quyết do tổ chức được Chính phủ ủy
quyền nắm giữ có hiệu lực vô thời hạn. Mục đích của cổ phần ưu đãi biểu
quyết là để bảo vệ quyền lợi cho cổ đông sáng lập trong thời gian hợp lý vừa
đủ để duy trì sự ổn định của công ty mà không hạn chế quyền của các cổ
đông khác; và duy trì quyền kiểm soát của Nhà nước đối với những công ty

8
cổ phần hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề quan trọng cần sự định hướng
của Nhà nước.
Cổ phần ưu đãi cổ tức: Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ
tức cao hơn mức trả cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng
năm. Cổ tức được chia hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ
tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty và phương
thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ
tức. Mục đích của cổ phần ưu đãi cổ tức là thu hút vốn điều lệ bằng tỷ lệ lợi
nhuận cao trên mỗi cổ phần, tuy nhiên cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức
không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, để cử người vào
Ban kiểm soát. Điều kiện này để dung hòa quyền và nghĩa vụ của cổ đông
nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức bằng cách không cho họ tham gia vào hoạt
động quản trị công ty.
Cổ phần ưu đãi hoàn lại: Là cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ
khi nào theo yêu cầu của chủ sở hữu cổ phần hoặc theo các điều kiện ghi tại
cổ phần ưu đãi hoàn lại. Cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi hoàn lại có lợi thế
về bảo toàn vốn nhưng cũng như cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức họ
không có quyền can thiệp vào các quyết định của công ty.
Cổ phần ưu đãi khác do công ty quy định: Ngoài các loại cổ phần ưu đãi nói
trên, tự công ty cổ phần có thể đưa ra thêm những loại cổ phần ưu đãi khác
để thu hút nhà đầu tư.
I.2 Chào bán cổ phần ra công chúng
I.2.1 Định nghĩa
Trước đây, Nghị định 144/2003/NĐ-CP định nghĩa phát hành chứng
khoán ra công chúng là việc chào bán một lượng chứng khoán có thể chuyển
nhượng được thông qua tổ chức trung gian cho ít nhất 50 nhà đầu tư ngoài tổ
chức phát hành( Khoản 7 Điều 3 Nghị định 144/2003/NĐ-CP)

9
Hiện nay, Luật chứng khoán 2006 đã có sự thay đổi về định nghĩa của chào
bán chứng khoán ra công chúng: Chào bán chứng khoán ra công chúng là
việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức sau đây:
+ Thông qua phương tiện thông tin đại chúng kể cả internet;
+ Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên không kể nhà
đầu tư chuyên nghiệp;
+ Chào bán cho số lượng nhà đầu tư không xác định.
• Đặc điểm của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng:
Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng chỉ diễn ra trên thị trương sơ
cấp.
Hoạt động chào bán cổ phiếu là hoạt động duy nhất có thể thiết lập được
mối quan hệ giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có cơ hội
góp vốn vào công ty cổ phần: Với các hình thức công ty khác ngoài công ty
cổ phần như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, nhà đầu tư
muốn trở thành chủ sở hữu công ty bắt buộc phải tham gia vào hoạt động
thành lập công ty đó. Đối với hình thức công ty cổ phần có nhiều ưu điểm do
nhà đầu tư chỉ cần có một lượng vốn nhất định là có thể tham gia sở hữu cổ
phiếu của công ty, qua đó sở hữu một phần công ty. Công ty cổ phần muốn
tăng vốn điều lệ bằng cách bán cổ phần của mình cho các nhà đầu tư bắt
buộc phải thông qua hoạt động chào bán cổ phiếu. Trong tất cả các hoạt
động của thị trường cổ phiếu chỉ có hoạt động chào bán cổ phiếu là thiết lập
mối quan hệ giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Khi chào bán cổ phiếu
của mình tổ chức phát hành công bố những thông tin về tình hình tài chính,
lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt động kinh doanh, bộ
máy quản trị công ty. Nhà đầu tư phân tích những thông tin do tổ chức phát
hành cung cấp và quyết định đầu tư vào cổ phiếu và trở thành cổ đông của
công ty.

10
Trong hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng, tổ chức phát hành và nhà
đầu tư không trực tiếp liên hệ với nhau mà bắt buộc phải qua trung gian là
công ty chứng khoán thực hiện tổ chức đấu giá cổ phần hoặc công ty chứng
khoán thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cho doanh nghiệp. Tổ chức
phát hành không được phép tự mình bán cổ phiếu cho nhà đầu tư mà buộc
phải tuân theo một quy trình nghiêm ngặt để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu
tư.
• Ý nghĩa của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng:
Cũng như hoạt động chào bán cổ phần nói chung chào bán cổ phần ra công
chúng là hoạt động thu hút đầu tư, tạo lập vốn điều lệ ban đầu hoặc tăng qui
mô vốn điều lệ để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, ưu
điểm của chào bán cổ phần so với các hình thức huy động vốn khác như vay
vốn từ tổ chức tín dụng hay phát hành trái phiếu công ty là khoản thu được
từ chào bán cổ phiếu không cấu thành một khoản nợ mà công ty có trách
nhiệm hoàn trả, làm giảm áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công
ty. Đối với tổ chức phát hành, một đợt chào bán cổ phần ra công chúng
thành công có thể giúp hình ảnh, thương hiệu của công ty được phổ biến
rộng rãi, nâng cao uy tín của tổ chức phát hành. Đối với toàn bộ nền kinh tế,
hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng giúp cho khả năng luân chuyển
vốn hiệu quả, huy động được lượng vốn dư thừa trong xã hội.
I.2.2 Hình thức chào bán cổ phần ra công chúng
Theo quy định tại Điều 11 Luật chứng khoán 2006, hình thức chào bán cổ
phần ra công chúng bao gồm:Chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng và
Chào bán thêm cổ phần ra công chúng.
• Chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng
+ Chào bán cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn cho tổ chức phát hành:

11
Công ty cổ phần được thành lập mới hoàn toàn huy động vốn điều lệ bằng
cách chào bán cổ phiếu ra công chúng: Các cổ đông sáng lập của công ty
phải có
+ Chào bán cổ phiếu để chuyển đổi cơ cấu sở hữu thành công ty đại chúng
mà không làm thay đổi vốn điều lệ của công ty:
Tổ chức phát hành không phải là công ty mới thành lập, thực hiện chào bán
cổ phần ra công chúng để thay đổi cơ cấu sở hữu mà không làm tăng vốn
điều lệ của công ty.
Công ty nhà nước cổ phần hóa chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng:
Chủ trương của Nhà nước ta là đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước, chỉ giữ lại những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực, ngành nghề đặc biệt
cần sự chỉ đạo của Nhà nước. Hiện nay các công ty nhà nước cổ phần hóa
chiếm tỷ lệ lớn trong số các công ty cổ phần chào bán cổ phần lần đầu ra
công chúng.
Căn cứ vào qui mô vốn điều lệ của công ty nhà nước cổ phần hóa, có ba
phương thức tổ chức đấu giá cổ phần lần đầu:
+ Đấu giá trực tiếp tại doanh nghiệp: Doanh nghiệp tự tổ chức bán đấu giá
cổ phần. Thực hiện đối với các doanh nghiệp có tổng mệnh giá của số cổ
phần bán ra từ một tỷ đồng trở xuống. Doanh nghiệp thành lập ban chỉ đạo
cổ phần hóa trực tiếp thực hiện bán đấu giá.
+ Đấu giá tại các tổ chức tài chính trung gian: Phương thức này áp dụng
đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa có tổng mệnh giá của cổ phần bán
ra trên một tỷ đồng đến mười tỷ đồng. Tuy nhiên, nếu tổ chức phát hành có
tổng mệnh giá cổ phần bán ra từ một tỷ đồng trở xuống nhưng có nhu cầu
vẫn được thuê tổ chức trung gian thực hiện bán đấu giá cổ phần. Tổ chức
trung gian là công ty chứng khoán được tổ chức phát hành thuê để thực hiện
hoạt động đấu giá cổ phần. Tổ chức trung gian có nghĩa vụ phối hợp với ban

12
chỉ đạo cổ phần hóa tổ chức bán đấu giá cổ phần tại công ty chứng khoán
hoặc tại địa điểm được thỏa thuận trong hợp đồng.
+ Đấu giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán: Phương thức này áp dụng
với những doanh nghiệp cổ phần hóa có tổng mệnh giá cổ phần bán ra trên
mười tỷ đồng hoặc dưới mười tỷ đồng nhưng có nhu cầu. Ban quản chỉ đạo
cổ phần hóa thuê tổ chức trung gian hoặc trực tiếp đăng ký thực hiện đấu giá
với trung tâm giao dịch chứng khoán ( thành phố Hà Nội hoặc thành phố Hồ
Chí Minh ) Sau đó, ban chỉ đạo cổ phần hóa phối hợp với Trung tâm giao
dịch chứng khoán hoặc tổ chức tài chính trung gian thực hiện đấu giá cổ
phần.
Trong trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa có tổng mệnh giá cổ phần
bán ra trên một tỷ đồng nhưng nằm ở vùng sâu không lựa chọn được tổ chức
tài chính trung gian đảm nhận việc bán đấu giá, cơ quan quyết định cổ phần
hóa thông báo cho Bộ tài chính để lựa chọn phương thức đấu giá.
• Chào bán thêm cổ phần ra công chúng:
Công ty đại chúng có kết quả hoạt động kinh doanh tốt muốn tăng vốn
điều lệ mở rộng qui mô có thể chào bán thêm cổ phần ra công chúng. Trình
tự chào bán cổ phần thêm ra công chúng cũng giống như chào bán cổ phần
lần đầu. Tổ chức phát hành phải chứng minh được năng lực tài chính và
năng lực quản trị của mình trong hồ sơ chào bán cổ phiếu gửi lên Ủy ban
chứng khoán Nhà nước, sau đó tiến hành hoạt động chào bán như chào bán
cổ phần lần đầu. Đặc điểm khác biệt của chào bán thêm cổ phần ra công
chúng là tổ chức phát hành phải dành quyền ưu tiên cho cổ đông của công ty
để bảo đảm quyền lợi của họ không thay đổi khi công ty chào bán thêm cổ
phiếu. Quyền ưu tiên được thể hiện bằng chứng quyền do tổ chức phát hành
cung cấp cho các cổ đông, theo đó cổ đông được mua thêm một số lượng cổ
phiếu mới theo giá nhất định trong một thởi hạn nhất định để đảm bảo tỷ lệ

13
sở hữu đối với phần vốn điều lệ của công ty. Cổ đông có thể sử dụng dụng
quyền ưu tiên của mình hoặc chuyển nhượng chứng quyền cho người khác.
Giá đăng ký mua cổ phiếu và thời hạn đăng ký mua cổ phiếu trong chứng
quyền do tổ chức phat hành quy định. Giá đăng ký mua cổ phiếu luôn thấp
hơn giá thị trường của cổ phiếu và thời hạn đăng ký ngắn chỉ từ một đến sáu
tuần.
Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi cũng có quyền ưu tiên mua như cổ
đông phổ thông. Tổ chức phát hành có thể phát hành cho cổ đông ưu đãi
chứng quyền hoặc bảo chứng phiếu. Bảo chứng phiếu cũng quy định số
lượng cổ phiếu phổ thông được quyền mua nhưng có thời hạn dài hơn chứng
quyền, hoặc thời hạn vĩnh viễn.
Công ty đại chúng chào bán thêm cổ phần ra công chúng để thay đổi cơ
cấu sở hữu mà không làm tăng thêm vốn điều lệ: Công ty đại chúng đã thực
hiện chào bán cổ phần ra công chúng nhưng chưa bán hết số lượng cổ phiếu
được phép phát hành. Tổ chức phát hành thực hiện đợt chào bán thêm cổ
phiếu chưa phát hành ra công chúng. Do công ty cổ phần chưa phát hành hết
cổ phần của mình ra công chúng nên khi thực hiện chào bán thêm cổ phiếu
công ty không phát hành kèm theo chứng quyền cho cổ đông của công ty.
I.2.3 Ưu điểm của của chào bán cổ phần ra công chúng
Lợi thế đầu tiên của chào bán cổ phần ra công chúng là khả năng thu được
lượng vốn lớn từ xã hội do không hạn chế số lượng nhà đầu tư, đặc biệt là
nhà đầu tư cá nhân. Công ty cổ phần thực hiện chào bán cổ phần riêng lẻ bị
hạn chế số lượng cổ đông và thông thường chỉ bán cổ phần cho những nhà
đầu tư có mối quan hệ mật thiết với tổ chức phát hành. Nếu thực hiện chào
bán cổ phần ra công chúng tổ chức phát hành chỉ cần cung cấp thông tin về
tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khả năng tài chính và năng lực bộ
máyquản trị theo quy định của pháp luật, những nhà đầu tư có nhu cầu sẽ

14
tìm hiểu và quyết định mua cổ phiếu. Như vậy, số luợng nhà đầu tư không
hạn chế là một ưu điểm lớn của phương thức chào bán cổ phần ra công
chúng. Những nhà đầu tư cá nhân ít có cơ hội tham gia mua cổ phần của các
công ty chào bán riêng lẻ do thiếu thông tin và tổ chức phát hành cũng bị
hạn chế số luợng cổ đông.
Thứ hai, các loại cổ phiếu đuợc chào bán rộng rãi ra công chúng mới thực
sự là cổ phiếu có tính thanh khoản cao. Khi nhà đầu tư muốn mua bán
chuyển nhượng cổ phiếu đuợc chào bán rộng rãi, họ có toàn quyền tự do
chuyển nhượng (trừ trường hợp cổ phiếu ưu đãi biểu quyết hoặc cổ phiếu
phổ thông của của cổ đông sáng lập nếu chuyển nhượng phải tuân theo một
số yêu cầu của pháp luật ). Công ty cổ phần chào bán riêng lẻ luôn bị giới
hạn số lượng cổ đông duới một trăm nhà đầu tư trừ nhà đầu tư chuyên
nghiệp. Chính vì vậy, khi một cổ đông muốn chuyển nhượng một phần cổ
phần của mình họ không thể tự do chuyển nhượng cho bất kỳ ai, mà phải
đảm bảo sau khi chuyển nhượng công ty cổ phần vẫn giữ đuợc số lượng cổ
đông duới một trăm (trừ cổ đông là nhà đầu tư chuyên nghiệp). Ngoài ra,
chào bán cổ phiếu ra công chúng giúp cho cô rphiếu được niêm yết và giao
dịch trên thị trường tập trung khiến cho hoạt động mua bán cổ phiếu dễ
dàngvà thuận tiện nhất.
Thứ ba, chào bán cổ phiếu ra công chúng giúp tổ chức phát hành quảng bá
được tên tuổi, thương hiệu của mình. Để được cầp giấy chứng nhận chào
bán cổ phần ra công chúng, công ty cổ phần phải thỏa mãn đuợc những điều
kiện khắt khe về công bố thông tin, chế độ kiểm toán của các cơ quan quản
lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Do vậy, một công ty
có cổ phiếu đuợc chào bán rộng rãi mặc nhiên được đánh giá cao hơn các
công ty khác cùng lĩnh vực ngành nghề mà không thực hiện chào bán cổ
phiếu ra công chúng. Bên cạnh đó, nếu công ty làm ăn có hiệu quả cổ phiếu

15
của công ty đó sẽ lên giá và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, như vậy
là công ty đó đã được quảng cáo bằng chính cổ phiếu của mình.

1.2.4 Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng


Chào bán cổ phần ra công chúng không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với tổ
chức phát hành mà cả với nhà đầu tư và tòan bộ nền kinh tế:
• Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng với tổ chức phát hành:
Để huy động vốn, doanh nghiệp có nhiều sự lựa chọn: vay vốn từ các tổ
chức tín dụng, phát hành trái phiếu hoặc phát hành cổ phiếu. Trước khi Việt
Nam có thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp chỉ có thể vay vốn từ
ngân hàng với lãi suất nhất định trong một thời hạn nhất định và thường phải
thế chấp tài sản cố định để bảo đảm khoản vay. Sự ra đời của thị trường
chứng khoán Việt Nam cho phép các doanh nghiệp có thêm một kênh huy
động vốn hiệu quả và linh hoạt. Nguồn vốn huy động từ chào bán cổ phần ra
công chúng không cấu thành một khoản nợ mà công ty có trách nhiệm hoàn
trả, giảm áp lực cho công ty.
• Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng với nhà đầu tư:
Nhà đầu tư được chia thành hai loại là: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư
chuyên nghiệp.
+ Nhà đầu tư cá nhân chủ yếu là các cá nhân và hộ gia đình. Từng cá nhân
hoặc hộ gia đình riêng lẻ không có nhiều tiền nhưng với số lượng lớn nên
lượng tiền nhàn rỗi rất lớn và thực sự đóng vai trò quan trọng nhất khi tham
gia vào thị trường cổ phiếu nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung.
Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng giúp cho tất cả các nhà đầu tư có
khả năng tham gia sở hữu cổ phiếu với số lượng bất kỳ. Chỉ khi các công ty
cổ phần chọn hình thức chào bán cổ phần ra công chúng thì đông đảo các

16
nhà đầu tư cá nhân mới có cơ hội tham gia vào hoạt động mua cổ phiếu của
công ty. Đối với các đợt chào bán cổ phiếu riêng lẻ, nhà đầu tư cá nhân thực
sự không có nhiều cơ hội để tham gia sở hữu cổ phần của công ty vì bị hạn
chế số lượng và thông tin. Những công ty nhà nước cổ phần hóa chào bán
riêng lẻ thường chỉ bán cho một bộ phận cán bộ công nhân viên của công ty,
không thể bán hết cho tòan bộ người lao động vì hạn chế số lượng. Thêm
vào đó, khi người sở hữu cổ phần của công ty muốn chuyển nhượng cổ
phiếu lại bị ràng buộc bởi những qui định chuyển nhượng của công ty.
+ Nhà đầu tư chuyên nghiệp các ngân hàng thương mại, công ty tài chính,
công ty cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh
chứng khoán. Nhà đầu tư chuyên nghiêp khác nhà đầu tư cá nhân ở quy mô
tổ chức và nghiệp vụ. ĐốI vớI hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
các tổ chức nói trên không chỉ là nhà đầu tư đơn thuần mà còn đóng vai trò
trung gian quan trọng giữa nhà đầu tư và tổ chức phát hành
• Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng với toàn bộ nền kinh tế
Chào bán cổ phần ra công chúng là một bộ phận của chào bán cổ phần. Nó
là hoạt động khởi điểm mở đầu cho mọi hoạt động của thị trường cổ phiếu.
Cổ phiếu được giao dịch trên thị trường có đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng
hay không phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động chào bán.
Để được chào bán cổ phiếu ra công chúng các công ty cổ phần phải đạt đủ
một số điều kiện nhất định về vốn điều lệ, về kết quả kinh doanh trong một
thời gian cụ thể, cùng các quy định khắt khe về kế toán và kiểm toán. Sau
khi phát hành cổ phiếu ra ra công chúng các công ty này phải tiếp tục duy trì
chế độ báo cáo thông tin đầy đủ và minh bạch về những hoạt động của công
ty cũng như về tình hình tài chính dưới sự kiểm tra và giám sát của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, hoạt động chào bán cổ phiếu ra công
chúng sẽ tăng chất lượng và độ chính xác của các bản báo cáo tài chính, làm

17
trong sạch môi trường đầu tư và kinh doanh. Điều kiện, thủ tục chào bán cổ
phiếu được lập theo chuẩn chung do nhà nước quy định nên nó vừa đảm bảo
tính chính xác cao vừa thuận tiện cho việc so sánh đánh giá kết quả hoạt
động của các công ty cổ phần.
I. PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
I.3 Khái niệm
Chào bán cổ phần ra công chúng là một hoạt động cơ bản và quan trọng của
thị trường chứng khoán. Tất cả các nước trên thế giới đểu có những quy định
chi tiết điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng. Chào bán cổ
phần ra công chúng mục đích là để thu hút lượng vốn dồi dào trong xã hội từ
tất cả các thành phần, bao gồm cả những nhà đầu tư nhỏ như cá nhân và hộ
gia đình đến những nhà đầu tư chuyên nghiệp là các tổ chức tín dụng, các
công ty bảo hiểm và các công ty tài chính. . Khác với chào bán riêng lẻ chủ
yếu bán cổ phiếu cho những nhà đầu tư có mối quan hệ mật thiết với tổ chức
phát hành nên có khả năng tự mình tìm kiếm và phân tích thông tin, hoạt
động chào bán cổ phần ra công chúng rất phức tạp. Khi chào bán ra công
chúng các nhà đầu tư hầu như không tự mình tìm kiếm được thông tin mà
hoàn toàn phụ thuộc và những thông số do tổ chức phát hành đưa ra. Chính
vì vậy để bảo vệ nhà đầu tư pháp luật chứng khoán tất cả cá nước đều có quy
định về chào bán cổ phần ra công chúng.
I.4 Pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng ở một số nước trên
thế giới :
Chứng khoán và thị trường chứng khoán ngày nay không còn xa lạ với
hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, với các quốc gia phát triển thị
trường chứng khoán đã trở thành một kênh dẫn vốn không thể thiếu được
đối với nền kinh tế.

18
Với vị trí là một hoạt động chủ chốt của thị trường chứng khoán, chào
bán chứng khoán cũng có một lịch sử lâu đời. Đi cùng với sự phát triển của
hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng là sự hình thành và phát
triển của pháp luật điều chỉnh họat động chào bán cổ phần ra công chúng.
Pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng ở từng quốc gia có những
nét khác biệt. Những quốc gia thuộc hệ thống Luật chung (điển hình là Anh)
hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng được điều chỉnh bởi Luật Công
ty. Các nước này cũng có luật chứng khoán nhưng luật chứng khoán chỉ đề
cập đến các lĩnh vực của thị trường chứng khoán như các dịch vụ về chứng
khoán.
Đối các quốc gia thuộc hệ thống Luật Châu Âu lục địa điển hình là Pháp
và đa số các quốc gia khác trên thế giới (Hàn Quốc, Thái Lan..) thì hoạt
động phát hành cổ phần ra công chúng nằm trong hoạt động chào bán chứng
khoán ra công chúng được điều chỉnh bới Luật Chứng khoán và thị trường
chứng khoán hoặc có luật riêng là Luật phát hành chứng khoán. Việc chào
bán cổ phần ra công chúng cũng như chào bán chứng khoán phải được phép
của cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán là Ủy ban Chứng khoán.
(Dẫn theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, trung tâm nghiên cứu và bồi
dưỡng nghiệp vụ chứng khoán – Tập bài giảng Luật áp dụng trong ngành
chứng khoán, Hà Nội 2000 )
Về hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng các quốc gia trên thế giới
nói chung đều thống nhất về một số quy định chung như:
- Quy định về công bố thông tin : Tất cả các nước trên thế giới đều có quy
định bắt buộc tổ chức phát hành phải công bố thông tin về tình hình doanh
nghiệp: tình hình tài chính, bộ máy quản trị, kết quả hoạt động kinh doanh,
các thông tin về cổ phiếu sắp phát hành, để giúp cho nhà đầu tư nắm được

19
đầy đủ chính xác thông tin về cổ phiếu phát hành qua đó đưa ra quyết định
đầu tư đúng đắn.
Theo Luật chứng khoán Mỹ tổ chức phát hành phải gửi kèm thông tin tài
chính trong hồ sơ đăng ký, báo cáo định kỳ và các báo cáo khác, trình lên
Ủy ban chứng khoán và sẵn sàng cho công bố ra công chúng. Tại Trung
Quốc việc chào bán cổ phiếu ra công chúng phải được hội đồng thẩm định
và ban giám quản chứng khoán xét duyệt. Luật Hàn Quốc quy định để chào
bán chứng khoán trong đó có chào bán cổ phần ra công chúng công ty phải
đáp ứng các điều kiện về đăng ký và công bố thông tin do Ủy ban chứng
khoán quy định. Công ty phát hành phải trình hồ sơ đăng ký cùng với tài liệu
về phương án phát hành cổ phiếu. Sau khi hoàn thành việc đăng ký công ty
phải ký hợp đồng và đại lý chuyển nhượng để công bố và phân phối các cổ
phần. Tại Thái Lan muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng tổ chức phát
hành phải trình với Ủy ban chứng khoán là họ có kinh nghiệm phát hành và
việc phát hành và khả thi về tài chính để xin phép cơ quan này cho phép phát
hành cổ phiếu. Tại Philippin, công ty phát hành phải thực hiện công bố
thông tin theo quy định của Luật chứng khoán và của Ủy ban chứng khoán,
cùng với việc công bố thông tin ra công chúng về lịch sử hoạt động của công
ty và ban quản trị cùng với những báo cáo tài chính đã kiểm toán.
- Quy định về điều kiện phát hành:
Thông thường, những điều kiện cơ bản để chào bán cổ phiếu ra công chúng
mà Luật chứng khoán các nước đều quy định gồm:
_ Điều kiện về vốn: Ở mỗi quốc gia, điều kiện về vốn đối với hoạt động
chào bán ra công chúng là khác nhau.
_ Điều kiện về thời gian hoạt động: Luật chứng khoán các nước thường quy
định công ty phả có thời gian hoạt động trên thực tế ít nhất là 2 năm.

20
_ Điều kiện về năng lực quản trị công ty: Hội đồng quản trị công ty và ban
giám đốc phải có trình độ năng lực và kinh nghiệm nhất định trong lĩnh vực
kinh doanh của công ty.
_ Điều kiện về kết quả hoạt động kinh doanh: Hoạt động kinh doanh của
công ty phải có lãi, công ty không đạt điều kiện về kết quả hoạt động không
thể chào bán cổ phần ra công chúng.
_ Điều kiện về phương án sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành: Phương
án sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành phải có tính khả thi và được Đại
hội cổ đông thông qua.
I.4.1 Pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên
thế giới còn non trẻ. Hai trung tâm giao dịch chứng khoán Hà NộI và thành
phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động chưa được mười năm. Song song với sự
phát triển của thị trường chúng khoán và hoạt động chào bán chứng khoán,
pháp luật điều chỉnh cũng liên tục được thay đổ để phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của thị trường.
Văn bản pháp luật đầu tiên điều chỉnh về chứng khoán là Nghị định 75/CP
của chính phủ ngày 28 tháng 11 năm 1996 về thành lập Ủy Ban Chứng
Khoán Nhà Nước. Sự ra đời của Ủy ban chứng khoán nhà nước là một cột
mốc đánh giá sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.
khi có sự tham gia của một cơ quan nhà nước có chức năng chuyên biệt về
chứng khoán và thị trường chứng khoán. Sau đó là quyết định của Thủ
thướng chính phủ QĐ 127/1998/QĐ-TTg ngày 11 tháng 7 năm 1998 về việc
thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán, tạo thị trường tập trung cho hoạt
động mua bán chứng khoán nói chung và hoạt động mua bán cổ phiếu nói
riêng.

21
Hoạt động chào bán cổ phiếu là một trong những hoạt động chủ chốt của
thị trường chứng khoán, do vậy khi Chính Phủ ban hành Nghị định
144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 về Chứng khoán và thị trường
chứng khoán đã dành chương II để qui định về phát hành chứng khoán ra
công chúng trong đó có những quy định cơ bản về phát hành cổ phiếu ra
công chúng .
Luật chứng khoán 2006 ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2006 đã hệ thống
lại các quy phạm cơ bản điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán
trong đó có hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng. Luật chứng khoán
2006 đã quy định cụ thể các nội dung của hoạt động chào bán cổ phần ra
công chúng: Điều kiện chào bán, thủ tục trình tự chào bán và quy định trách
nhiệm cụ thể của các cơ quan, tổ chức có liên quan. Do những quy định về
hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng là một trong những nội dung
quan trọng nhất của hệ thống quy phạm luật chứng khoán nên những quy
định về chào bán cổ phần ra công chúng nằm xen lẫn trong tất cả các chương
của Luật chứng khoán 2006.
Luật chứng khoán 2006 thực sự là một khung pháp lý tương đối hoàn
chỉnh về hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng. Luật có những quy
định cụ thể về mọi mặt của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng như
mệnh giá cổ phiếu, hồ sơ đăng ký chào bán, phân phối cổ phiếu cho đến
hình thức xử lý đối với vi phạm hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
như đình chỉ, hủy bỏ đợt chào bán ra công chúng.
Tóm lại, Luật chứng khoán 2006 ra đời đã luật hóa những quy định về
chào bán cổ phần ra công chúng, tạo điều kiện để hoạt động chào bán cổ
phần ra công chúng được thực hiện hiệu quả và thống nhất
I.5 Nội dung pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng

22
Sau khi Luật chứng khoán 2006 ra đời tạo khung pháp lý cho hoạt động
chào bán cổ phần ra công chúng, các cơ quan quản lý nhà nước về chứng
khoán và thị trường chứng khoán đã tích cực đưa ra những văn bản dưới luật
để hướng dẫn và giải thích áp dụng luật trong hoạt động chào bán cổ phần ra
công chúng. Các văn bản dưới luật do các cơ quan Nhà nước như Chính phủ,
Bộ tài chính, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cùng với Luật chứng khoán
2006 đã tạo thành hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho hoạt động
chào bán cổ phần ra công chúng.
Luật chứng khoán 2006 quy định về chào bán cổ phần ra công chúng,
với ý nghĩa là một bộ phận của chào bán chứng khoán ra công chúng:
Trong chương I Luật có những quy định về các nguyên tắc của hoạt động
chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng chính là các nguyên tắc của
hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng. Luật định nghĩa một số thuật
ngữ cơ bản liên quan đến hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng như tổ
chức phát hành, chào bán ra công chúng, bảo lãnh phát hành, bản cáo
bạch...và các quy định về quản lý nhà nước về hoạt động chứng khoán nói
chung.
Chương II : Là chương về chào bán chứng khoán ra công chúng. Hoạt
động chào bán cổ phần ra công chúng là một bộ phận của chào bán chứng
khoán ra công chúng, do vậy chương II quy định những vấn đề chủ yếu nhất
của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng: mệnh giá cổ phiếu, hình
thức chào bán, điều kiện chào bán, phân phối cổ phiếu...
Các chương còn lại của Luật quy định một số vấn đề khác của hoạt động
chào bán như chế độ công bố thông tin, công ty đại chúng, thanh tra và xử lý
vi phạm trong hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng .
Ngoài Luật chứng khoán 2006, các văn bản hiện hành được dùng để điều
chỉnh hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng còn có: Nghị định số

23
187/2004/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày ngày 16 tháng 11 năm 2004
về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, Nghị định số
14/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 19 tháng 1 năm 2007 quy
định chi tiết về một số điều của Luật chứng khoán 2006 và một số văn bản
dưới luật khác do Chính phủ, Bộ tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước ban hành.
Ngoài những văn bản luật chuyên ngành về chứng khoán và thị trường
chứng khoán còn có một văn bản luật rất quan trọng là Luật doanh nghiệp
2005 quy định cụ thể về công ty cổ phần và cổ phiếu.
I.5.1 Chủ thể của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
Chủ thể chào bán cổ phần ra công chúng là những công ty cổ phần được
phép của Ủy ban chứng khoán nhà nước sau khi đã đáp ứng đầy đủ các quy
định của pháp luật về điều kiện chào bán và trình tự thủ tục chào bán cổ
phần ra công chúng.
• Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn, được thành
lập và tồn tại độc lập với những chủ sở hữu công ty. Vốn của công ty được
chia nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành
nhằm mục đích huy động vốn của các nhà đầu tư từ mọi thành phần kinh tế.
Các nhà đầu tư khi mua cổ phần của công ty trở thành chủ sở hữu một phần
vốn góp của công ty gọi là cổ đông của công ty. Cổ đông được quyền tham
gia quản lý kiểm soát điều hành công ty thông qua việc bầu cử và ứng cử
vào các vị trí trong Ban quản lý, Ban kiểm soát, Ban điều hành. Ngoài ra cổ
đông được hưởng các khoản lợi nhuận do công ty tạo ra được cũng như chịu
lỗ tương ứng với mức độ đóng góp (tỉ lệ thuận với cổ phần của họ).
Công ty cổ phần có nhiều ưu điểm nổi trội so với các loại hình công ty
khác:

24
- Ưu điểm thứ nhất là cấu trúc mềm dẻo linh hoạt. Công ty cổ phần có thể
tăng vốn bằng cách chào bán cổ phần ra công chúng, là hình thức huy động
vốn đặc trưng không có ở các loại hình công ty khác như công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh...Cấu trúc vốn mềm dẻo khiến quy mô của
công ty cổ phần rất phong phú, có thể có quy mô vốn nhỏ từ vài tỷ đồng đến
vài nghìn tỷ đồng.
- Ưu điểm thứ hai là khả năng điều chuyển vốn linh hoạt. Các cổ đông có
thể dễ dàng mua bán chuyển nhượng phần sở hữu của mình cho các cổ đông
khác hoặc người ngoài công ty.
• Công ty nhà nước cổ phần hóa:
Công ty nhà nước cổ phần hóa chiếm số lượng đáng kể trong số những
công ty cổ phần đang ký chào bán cổ phiếu ra công chúng. Các công ty này
có đặc điểm khác với công ty cổ phần thông thường vì có giai đoạn chuyển
đổi từ công ty nhà nước sang công ty cổ phần. Công ty nhà nước cổ phần
hóa là đặc trưng của những nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam và
Trung Quốc.
Công ty nhà nước cổ phần hóa là các doanh nghiệp nhà nước được
chuyển đổi hình thức sở hữu từ một trăm phần trăm vốn nhà nước hoặc có tỉ
lệ vốn góp chi phối (từ năm mươi mốt phần trăm trở lên) thành công ty cổ
phần. Mục tiêu chuyên đổi công ty nhà nước thành công ty cổ phần nhằm
huy động nguồn vốn của các cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong
nước và ngoài nước nhằm nâng cao công nghệ cải tiến kỹ thuật đổi mới
phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế.
Đối tượng công ty nhà nước không thuộc diện nhà nuớc nắm một trăm
phần trăm vốn được cổ phần hóa đuợc quy định tại nghị định 187/2004/CP
bao gồm các tổng công ty nhà nước( bao gồm cả các ngân hàng thương mại

25
và các tổ chức tài chính nhà nước), công ty nhà nước độc lập, công ty thành
viên hạch tóan độc lập của tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và
thành lập, đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước
Những doanh nghiệp do nhà nuớc nắm một trăm phần trăm vốn là đối
tượng cổ phần hóa được quy định trong danh mục cụ thể do Thủ tướng
Chính phủ ban hành.
I.5.2 Điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng
Điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng tùy thuộc từng loại công ty cổ
phần khác nhau:
Đối với công ty cổ phần thành lập theo Luât doanh nghiệp, điều kiện chào
bán cổ phần ra công chúng được thực hiện theo Luật chứng khoán 2006:
Điều kiện về vốn: Vốn điều lệ đã góp phải đạt từ mười tỷ đồng trở lên tính
theo giá trị sổ sách kế toán.
Điều kiện về tình hình hoạt động của công ty: Công ty phải có kết quả kinh
doanh tốt, có lãi trong năm liền trước năm đăng ký hồ sơ chào bán, không có
lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng.
Phương án phát hành và phương án sử dụng vốn được Đại hội đồng cổ đông
thông qua
I.5.3 Thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng
I.5.3.1Hồ sơ đăng ký chào bán
I.5.3.2Trình tự chào bán
2.2.4 Vai trò của pháp luật với hoạt động chào bán cổ phần ra công
chúng

26
Chương II

THỰC TRẠNG VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN


RA CÔNG CHÚNG Ở VIỆT NAM

I. Chủ thể chào bán cổ phần ra công chúng


I.1 Công ty cổ phần
I.2 Công ty nhà nước cổ phần hóa
II. Điều kiện về chào bán cổ phần ra công chúng
II.1Điều kiện về chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng
II.2Điều kiện về chào bán thêm cổ phần ra công chúng
II.3Điều kiện về chào bán cổ phần ra nước ngoài
III. Thủ tục chào bán cổ phiếu ra công chúng
III.1Đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng
III.2Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng
III.2.1 Bản cáo bạch
III.2.2 Báo cáo tài chính
III.3Phân phối cổ phiếu
III.4Đình chỉ, hủy bỏ chào bán cổ phiếu ra công chúng
III.4.1 Đình chỉ hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng
III.4.2 Hủy bỏ hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng
IV. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động chào bán cổ phiếu ra công
chúng
IV.1Quyền và nghĩa vụ của tổ chức phát hành
IV.2Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
IV.3Quyền và nghĩa vụ của tổ chức phát hành ( nếu có )
V. Quản lý nhà nước về hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng
Chương III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ
PHẦN RA CÔNG CHÚNG
I. Căn cứ kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phần ra công
chúng
II. Một số kiến nghị cụ thể
Phần kết luận:
Tài liệu tham khảo:

27

You might also like