You are on page 1of 36

1

LỜI NÓI ĐẦU

Trong năm 2006 vừa qua, thị trường chứng khoán đã có bước chuyển mình đáng
kinh ngạc, thu hút sự quan tâm của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng đã góp phần không nhỏ vào sự phát
triển thành công của thị trường chứng khoán Việt Nam. Chào bán cổ phần ra công
chúng là hình thức huy động vốn hiệu quả, là nguồn cung loại hàng hóa cơ bản nhất
cho thị trường chứng khoán và là cầu nối giữa doanh nghiệp cổ phần và nhà đầu tư.
Luật chứng khoán 2006 ra đời đã tạo ra cơ chế điều chỉnh tương đối đồng bộ về
hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên, một số hiện tượng tiêu
cực của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng trong thời gian vừa qua thể hiện
pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng còn nhiều khe hở. Pháp luật vẫn chưa
tạo ra cơ chế công bố thông tin hoàn chỉnh
Từ thực tiễn nói trên, khóa luận tiến hành nghiên cứu về pháp luật chào bán cổ
phần ra công chúng ở Việt Nam hiện nay, phân tích và đánh giá thực trạng để từ đó
đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phần
ra công chúng.
Kết cấu của khoán luận bao gồm ba phần: Lời nói đầu, Kết luận và Phần nội dung
gồm ba chương:
Chương 1: Vấn đề chung về pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật chào bán cổ phần ra công
chúng.
2

CHƯƠNG I
VẤN ĐỀ CHUNG VÀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN
CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
1.1 KHÁI NIỆM VỀ CỔ PHẦN VÀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG
CHÚNG
1.1.1 Khái niệm và phân loại cổ phần
• Khái niệm về cổ phần và cổ phiếu:
So sánh với các loại hình doanh nghiệp đang tồn tại trong nền kinh tế thị
trường, công ty cổ phần có nhiều ưu điểm nổi trội. Một trong những lợi thế đặc biệt
của công ty cổ phần là khả năng chào bán cổ phần để thu hút vốn đầu tư.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, công ty cổ phần là doanh nghiệp có
vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần (Điểm a Khoản 1
Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005). Như vậy, mỗi cổ phần là một phần của vốn điều
lệ công ty và người sở hữu cổ phần là người sở hữu một phần công ty, được gọi là
cổ đông, nắm giữ cổ phiếu của công ty đó.
Luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa “Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần
phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần
của công ty đó” (Khoản 1 Điều 85). Theo Luật chứng khoán 2006: “Cổ phiếu là
loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một
phần vốn của tổ chức phát hành” (Khoản 2 Điều 6 Luật chứng khoán 2006). Như
vậy, cổ phiếu là chứng thư xác nhận sự góp vốn và và quyền lợi hợp pháp của một
chủ thể đối với một công ty cổ phần đã phát hành ra cổ phiếu. Khi nói một người sở
hữu cổ phiếu của một công ty tương đương với người đó sở hữu cổ phần của chính
công ty đó.
• Đặc điểm của cổ phiếu:
3

Thứ nhất: Cổ phiếu có tính thanh khoản cao, nghĩa là khả năng chuyển đổi
thành tiền mặt dễ dàng. Nhà đầu tư bỏ tiền ra mua cổ phiếu của một công ty, sau đó
dễ dàng bán đi để thu lại tiền đã đầu tư. Tuy nhiên tính thanh khoản của cổ phiếu
phụ thuộc vào hai yếu tố:
Một là, kết quả kinh doanh của công ty cổ phần đã phát hành cổ phiếu (còn gọi
là tổ chức phát hành). Nếu tổ chức phát hành có kết quả kinh doanh tốt, thu được
lợi nhuận cao, trả cổ tức cao sẽ thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư,
khiến cổ phiếu của công ty có thể dễ dàng được mua bán trao đổi. Ngược lại, nếu tổ
chức phát hành kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến tình trạng thua lỗ, nợ nần thì các
nhà đầu tư không dám mạo hiểm bỏ vốn mua cổ phần của công ty, dẫn đến cổ
phiếu của công ty đó có tính thanh khoản thấp.
Hai là, quan hệ cung cầu trên thị trường cổ phiếu và thị trường chứng
khoán.Thị trường cổ phiếu cũng như các thị trường mua bán các loại hàng hóa khác
đều chịu sự điều chỉnh của các quy luật thị trường đặc biệt là quy luật cung cầu.
Giá của cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của bản thân tổ chức phát hành mà còn phụ thuộc vào nhu cầu của
nhà đầu tư. Điều này đặc biệt dễ nhận thấy khi thị trường chứng khoán gặp biến
động mạnh, các nhà đầu tư theo tâm lý chung sợ mất tiền nên ồ ạt bán ra cổ phiếu.
Cổ phiếu tràn ngập thị trường tạo nên nguồn cung quá lớn trong khi số lượng nhà
đầu tư muốn mua vào quá ít, tính thanh khoản của cổ phiếu lúc này hạ xuống còn
rất thấp. Ngược lại khi thị trường cổ phiếu khan hiếm hàng hóa, nhu cầu của các
nhà đầu tư rất lớn thì ngay cả những cổ phiếu có chất lượng thấp cũng dễ dàng bán
được giá cao.
Thứ hai: Cổ phiếu có tính lưu thông. Tính lưu thông là khả năng chuyển giao
quyền sở hữu cổ phiếu cho người khác như một tài sản thực sự. Nếu như tính thanh
khoản giúp chủ sở hữu cổ phiếu chuyển đổi cổ phiếu thành tiền mặt thì tính lưu
4

thông đem lại cho người sở hữu nhiều khả năng sử dụng hơn như cho, tặng, để thừa
kế hay cầm cố tại ngân hàng để bảo đảm thực hiên nghĩa vụ tài sản khác.
Thứ ba: Cổ phiếu có tính tư bản giả, có nghĩa là cổ phiếu là một loại giấy tờ có
giá trị như tiền. Tuy nhiên, bản thân cổ phiếu không có giá trị nếu nó không được
đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của cổ phiếu cũng không phản ánh đúng giá trị thực
của cổ phiếu, và người ta định giá cổ phiếu dựa trên nhiều phương pháp khác nhau.
Thứ tư: Cổ phiếu có tính rủi ro: Là những đe dọa về an toàn vốn và thu nhập đối
với nhà đầu tư. Thể hiện rõ nét của đặc điểm này là cổ phiếu có thể xuống giá bất
thường và đột ngột do những biến cố của thị trường, đem lại sự thua lỗ nhanh
chóng cho các nhà đầu tư. Nguyên nhân là: Giá trị của cổ phiếu không nằm trong ý
định chủ quan của tổ chức phát hành hay nhà đầu tư, cổ phiếu có giá trị phụ thuộc
vào các yếu tố khách quan như tình hình tài chính của tổ chức phát hành, tình hình
kinh tế xã hội nói chung và những yếu tố chính trị nhạy cảm. Vì vậy, một biến động
chính trị lớn có thể làm chao đảo thị trường chứng khoán, cũng như sự sụp đổ của
thị trường chứng khoán của một quốc gia có thể kéo theo sự khủng hoảng của thị
trường chứng khoán nhiều nước khác, kéo theo giá của tất cả cả các cổ phiếu sụt
giảm bất thường. Hơn nữa hoạt động mua bán cổ phiếu phụ thuộc rất nhiều vào
thông tin trên thị trường, chỉ một thông tin bất lợi cho tổ chức phát hành dù chưa
được kiểm chứng cũng dễ dàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng thanh
khoản, lưu thông của cổ phiếu.
• Phân loại cổ phần
Cổ phần được chia thành hai nhóm là cổ phần ưu đãi và cổ phần phổ thông. Mỗi
loại cổ phần khác nhau mang lại cho người sở hữu những quyền và lợi ích nhất
định. Khả năng chuyển tự so chuyển nhượng cổ phần cũng tùy thuộc từng loại cổ
phần.
• Cổ phần phổ thông
5

Cổ phần phổ thông là loại cổ phần phổ biến nhất và bắt buộc phải có đối với công
ty cổ phần. Tỷ lệ của giá trị vốn cổ phần phổ thông trên tổng giá trị vốn cổ phần
của công ty do điều lệ công ty quyết định. Người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ
đông phổ thông. Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ
phần phổ thông được quyền chào bán của công ty trong tối thiểu ba năm kể từ ngày
công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của cổ đông phổ thông gồm: Tham gia Đại hội đồng
cổ đông và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng. Cổ đông
được chia cổ tức khi công ty làm ăn có lãi. Khi công ty giả thể phá sản, cổ đông
chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn cổ phần đã góp vào công ty.
Cổ phần phổ thông được quy định tại Khoản 1 Điều 78 Luật doanh nghiệp 2005:
Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông, người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ
đông phổ thông. Chi tiết quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông được Luật
doanh nghiệp 2005 qui định tại Điều 79 và Điều 80. Luật doanh nghiệp 2005 cũng
qui định quyền tự do chuyển nhượng của cổ phần phổ thông trừ trường hợp cổ phần
phổ thông của cổ đông sáng lập ( Khoản 5 Điều 84 ).
• Cổ phần ưu đãi
Cổ phần ưu đãi là loại cổ phần mang lại cho người sở hữu một số quyền ưu tiên
so với cổ phiếu thường. Cổ phần ưu đãi được quy định tại Khoản 2 Điều 78 Luật
doanh nghiệp 2005: “Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ
phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi”.
Không phải mọi nhà đầu tư đều có quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi. Tùy từng loại
cổ phần ưu đãi mà luật và điều lệ công ty cổ phần có quy định khác nhau về điều
kiện nắm giữ và chuyển nhượng cổ phần ưu đãi.
Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau đây:
Cổ phần ưu đãi biểu quyết: Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu
biếu quyết cao hơn số phiếu biểu quyết của cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết
6

của cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ của công ty cổ phần quy định. Chỉ có cổ
đông sáng lập và tổ chức do Chính phủ ủy quyền (đối với công ty nhà nước cổ phần
hóa) mới được quyền nắm giữ cổ phiếu biếu quyết. Cổ phần ưu đãi biểu quyết của
cổ đông sáng lập cũng chỉ có hiệu lực trong ba năm kể từ ngày cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, sau đó cổ phần biểu quyết của cổ đông sáng lập sẽ
chuyển thành cổ phần phổ thông. Luật doanh nghiệp 2005 không có quy định về
thời hạn hiệu lực của cổ phần ưu đãi biểu quyết do tổ chức được Chính phủ ủy
quyền nắm giữ, vì vậy có thể coi cổ phần ưu đãi biếu quyết do tổ chức được Chính
phủ ủy quyền nắm giữ có hiệu lực vô thời hạn. Mục đích của cổ phần ưu đãi biểu
quyết là để bảo vệ quyền lợi cho cổ đông sáng lập trong thời gian hợp lý vừa đủ để
duy trì sự ổn định của công ty mà không hạn chế quyền của các cổ đông khác; và
duy trì quyền kiểm soát của Nhà nước đối với những công ty cổ phần hoạt động
trong lĩnh vực ngành nghề quan trọng cần sự định hướng của Nhà nước.
Cổ phần ưu đãi cổ tức: Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ tức cao
hơn mức trả cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ tức
được chia hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không
phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty và phương thức xác định cổ tức
thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức. Mục đích của cổ phần ưu
đãi cổ tức là thu hút vốn điều lệ bằng tỷ lệ lợi nhuận cao trên mỗi cổ phần, tuy
nhiên cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết, dự họp
Đại hội đồng cổ đông, để cử người vào Ban kiểm soát. Điều kiện này để dung hòa
quyền và nghĩa vụ của cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức bằng cách không cho
họ tham gia vào hoạt động quản trị công ty.
Cổ phần ưu đãi hoàn lại: Là cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi
nào theo yêu cầu của chủ sở hữu cổ phần hoặc theo các điều kiện ghi tại cổ phần ưu
đãi hoàn lại. Cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi hoàn lại có lợi thế về bảo toàn vốn
7

nhưng cũng như cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức họ không có quyền can
thiệp vào các quyết định của công ty.
Cổ phần ưu đãi khác do công ty quy định: Ngoài các loại cổ phần ưu đãi nói
trên, công ty cổ phần có thể tự mình đưa ra thêm những loại cổ phần ưu đãi khác để
thu hút nhà đầu tư.
1.1.2 Chào bán cổ phần ra công chúng
• Định nghĩa chào bán cổ phần ra công chúng
Trước đây, Nghị định 144/2003/NĐ-CP định nghĩa phát hành chứng khoán ra
công chúng là việc chào bán một lượng chứng khoán có thể chuyển nhượng được
thông qua tổ chức trung gian cho ít nhất 50 nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành(
Khoản 7 Điều 3 Nghị định 144/2003/NĐ-CP)
Hiện nay, Luật chứng khoán 2006 đã có sự thay đổi về định nghĩa của chào bán
chứng khoán ra công chúng: Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán
chứng khoán theo một trong các phương thức sau đây:
+ Thông qua phương tiện thông tin đại chúng kể cả internet;
+ Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên không kể nhà đầu tư
chuyên nghiệp;
+ Chào bán cho số lượng nhà đầu tư không xác định.
• Đặc điểm của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng:
Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng chỉ diễn ra trên thị trường sơ cấp.
Hoạt động chào bán cổ phần là hoạt động duy nhất có thể thiết lập được mối quan
hệ giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có cơ hội góp vốn vào
công ty cổ phần: Các loại hình công ty khác ngoài công ty cổ phần như công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, nhà đầu tư muốn trở thành chủ sở hữu
công ty bắt buộc phải tham gia vào hoạt động thành lập công ty đó. Hình thức công
ty cổ phần có nhiều ưu điểm do nhà đầu tư chỉ cần có một lượng vốn nhất định là
8

có thể tham gia sở hữu cổ phiếu của công ty, qua đó sở hữu một phần công ty. Công
ty cổ phần muốn tăng vốn điều lệ bằng cách bán cổ phần của mình cho các nhà đầu
tư bắt buộc phải thông qua hoạt động chào bán cổ phiếu. Trong tất cả các hoạt động
của thị trường cổ phiếu chỉ có hoạt động chào bán cổ phiếu là thiết lập mối quan
hệ giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Khi chào bán cổ phiếu của mình tổ chức
phát hành công bố những thông tin về tình hình tài chính, lĩnh vực hoạt động sản
xuất kinh doanh, kết quả hoạt động kinh doanh, bộ máy quản trị công ty. Nhà đầu
tư phân tích những thông tin do tổ chức phát hành cung cấp và quyết định đầu tư
vào cổ phiếu và trở thành cổ đông của công ty.
Trong hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng, tổ chức phát hành và nhà đầu
tư không trực tiếp liên hệ với nhau mà bắt buộc phải qua trung gian là công ty
chứng khoán thực hiện tổ chức đấu giá cổ phần hoặc công ty chứng khoán thực
hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cho doanh nghiệp. Tổ chức phát hành không
được phép tự mình bán cổ phiếu cho nhà đầu tư mà buộc phải tuân theo một quy
trình nghiêm ngặt để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư.
• Hình thức chào bán cổ phần ra công chúng
Theo quy định tại điều 11 Luật chứng khoán 2006, hình thức chào bán cổ phần
ra công chúng gồm chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng và chào bán thêm cổ
phần ra công chúng.
+ Chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng:
Chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng gồm chào bán cổ phiếu để huy động vốn
điều lệ, thành lập mới công ty cổ phần và chào bán để chuyển đổi cơ cấu sở hữu
thành công ty đại chúng mà không làm thay đổi vốn điều lệ của công ty.
Công ty cổ phần mới thành lập có thể thực hiện luôn hình thức chào bán cổ phần ra
công chúng để thu hút vốn điều lệ và trở thành công ty đại chúng nhưng cũng có
thể thực hiện chào bán cổ phần riêng lẻ hoặc chỉ dừng lại ở phạm vi cổ đông sáng
lập.
9

+ Chào bán thêm cổ phần ra công chúng:


Công ty đại chúng có kết quả hoạt động kinh doanh tốt muốn tăng vốn điều lệ,
mở rộng qui mô có thể chào bán thêm cổ phần ra công chúng. Trình tự chào bán cổ
phần thêm ra công chúng cũng giống như chào bán cổ phần lần đầu. Tổ chức phát
hành phải chứng minh được năng lực tài chính và năng lực quản trị của mình trong
hồ sơ chào bán cổ phiếu gửi lên Ủy ban chứng khoán Nhà nước, sau đó tiến hành
hoạt động chào bán như chào bán cổ phần lần đầu. Đặc điểm khác biệt của chào
bán thêm cổ phần ra công chúng là tổ chức phát hành phải dành quyền ưu tiên cho
cổ đông của công ty để bảo đảm tỷ quyền lợi của họ không thay đổi khi công ty
thay đổi quy mô vốn điều lệ. Quyền ưu tiên được thể hiện bằng quyền mua cổ phần
do tổ chức phát hành cung cấp cho các cổ đông, theo đó cổ đông được mua thêm
một số lượng cổ phiếu mới theo giá nhất định trong một thời hạn nhất định để đảm
bảo tỷ lệ sở hữu đối với phần vốn điều lệ của công ty. Cổ đông có thể sử dụng dụng
quyền ưu tiên của mình hoặc chuyển nhượng cho người khác. Giá đăng ký mua cổ
phiếu và thời hạn đăng ký mua cổ phiếu trong quyền mua cổ phần do tổ chức phát
hành quy định. Giá đăng ký mua cổ phiếu luôn thấp hơn giá thị trường của cổ phiếu
và thời hạn đăng ký ngắn chỉ từ một đến sáu tuần.
Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi cũng có quyền ưu tiên mua như cổ đông phổ
thông. Tổ chức phát hành có thể phát hành cho cổ đông ưu đãi chứng quyền hoặc
bảo chứng phiếu. Bảo chứng phiếu cũng quy định số lượng cổ phiếu phổ thông
được quyền mua nhưng có thời hạn dài hơn chứng quyền, hoặc thời hạn vĩnh viễn.
Công ty đại chúng chào bán thêm cổ phần ra công chúng để thay đổi cơ cấu sở
hữu mà không làm tăng thêm vốn điều lệ: Đây là trường hợp công ty đại chúng đã
thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng nhưng chưa bán hết số lượng cổ phiếu
được phép phát hành. Tổ chức phát hành thực hiện đợt chào bán thêm cổ phiếu
10

chưa phát hành ra công chúng. Do công ty cổ phần chưa phát hành hết cổ phần của
mình ra công chúng nên khi thực hiện chào bán thêm cổ phiếu công ty không phát
hành kèm theo chứng quyền cho cổ đông của công ty.
• Ý nghĩa của chào bán cổ phần ra công chúng
Cũng như hoạt động chào bán cổ phần nói chung, chào bán cổ phần ra công chúng
là hoạt động thu hút đầu tư, tạo lập vốn điều lệ ban đầu hoặc tăng qui mô vốn điều
lệ để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. So với các phương pháp huy động
vốn đầu tư khác như vay vốn từ tổ chức tín dụng hoặc phát hành trái phiếu công ty,
huy động vốn bằng chào bán cổ phần ra công chúng có nhiều ưu điểm :
Thứ nhất, khoản thu được từ chào bán cổ phiếu không cấu thành một khoản nợ mà
công ty có trách nhiệm hoàn trả, làm giảm áp lực về khả năng cân đối thanh khoản
của công ty.
Thứ hai, khả năng thu được lượng vốn lớn từ xã hội do không hạn chế số lượng
nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân. Công ty cổ phần thực hiện chào bán cổ
phần riêng lẻ bị hạn chế số lượng cổ đông và thông thường chỉ bán cổ phần cho
những nhà đầu tư có mối quan hệ mật thiết với tổ chức phát hành. Nếu thực hiện
chào bán cổ phần ra công chúng tổ chức phát hành chỉ cần cung cấp thông tin về
tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khả năng tài chính và năng lực bộ máy quản
trị theo quy định của pháp luật, những nhà đầu tư có nhu cầu sẽ tìm hiểu và quyết
định mua cổ phiếu. Thông tin về tổ chức phát hành được công bố rộng rãi là cơ hội
để mọi nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư cá nhân có cơ hội góp vốn. Số
lượng nhà đầu tư không bị hạn chế tạo cho tổ chức phát hành cơ hội huy động được
nguồn vốn dư thừa dồi dào trong công chúng. Đây là ưu điểm nổi bật của hình thức
chào bán ra công chúng.
Thứ ba, các loại cổ phiếu đuợc chào bán rộng rãi ra công chúng mới thực sự là cổ
phiếu có tính thanh khoản cao. Nhà đầu tư sở hữu cổ phiếu được chào bán ra công
chúng có toàn quyền tự do chuyển nhượng cổ phiếu của mình (trừ trường hợp cổ
11

phiếu ưu đãi biểu quyết hoặc cổ phiếu phổ thông của của cổ đông sáng lập khi
chuyển nhượng phải tuân theo một số yêu cầu của pháp luật). Công ty cổ phần chào
bán riêng lẻ luôn bị giới hạn số lượng cổ đông duới một trăm nhà đầu tư trừ nhà
đầu tư chuyên nghiệp. Chính vì vậy, khi một cổ đông muốn chuyển nhượng một
phần cổ phần của mình họ không thể tự do chuyển nhượng cho bất kỳ ai, mà phải
đảm bảo sau khi chuyển nhượng công ty cổ phần vẫn giữ đuợc số lượng cổ đông
duới một trăm (trừ cổ đông là nhà đầu tư chuyên nghiệp). Ngoài ra, chào bán cổ
phiếu ra công chúng giúp cho cổ phiếu được niêm yết và giao dịch trên thị trường
tập trung khiến cho hoạt động mua bán cổ phiếu dễ dàng và thuận tiện.
Thứ tư, chào bán cổ phiếu ra công chúng giúp tổ chức phát hành quảng bá được
tên tuổi, thương hiệu của mình. Để được cấp giấy chứng nhận chào bán cổ phần ra
công chúng, công ty cổ phần phải thỏa mãn đuợc những điều kiện khắt khe về công
bố thông tin, chế độ kiểm toán của các cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán
và thị trường chứng khoán. Do vậy, một công ty có cổ phiếu đuợc chào bán rộng rãi
mặc nhiên được đánh giá cao hơn các công ty khác cùng lĩnh vực, ngành nghề
không thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng. Một công ty đại chúng có kết
quả kinh doanh tốt sẽ thu hút được nhiều sự chú ý của các nhà đầu tư, cổ phiếu của
công ty lên giá và qua đó công ty được quảng bá bằng chính cổ phiếu của mình.
• Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng
Chào bán cổ phần ra công chúng không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với tổ
chức phát hành mà cả với nhà đầu tư và tòan bộ nền kinh tế:
Đối với tổ chức phát hành, chào bán cổ phần ra công chúng là công cụ huy động
vốn hiệu quả và linh hoạt. Trước khi Việt Nam có thị trường chứng khoán, các
doanh nghiệp chỉ có thể vay vốn từ ngân hàng với lãi suất nhất định trong một thời
hạn nhất định và thường phải thế chấp tài sản cố định để bảo đảm khoản vay. Huy
động vốn bằng phương thức chào bán cổ phần ra công chúng không chỉ thu hút
12

được lượng vốn lớn mà còn giảm áp lực cho tổ chức phát hành về nghĩa vụ hoàn trả
và cân đối thanh khoản của công ty.
Đối với nhà đầu tư, hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng là cơ hội tốt để họ
góp vốn vào những công ty có triển vọng kinh doanh tốt, tăng khả năng sinh lợi cho
đồng tiền của mình.Nhà đầu tư được chia thành hai loại là: nhà đầu tư cá nhân và
nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Nhà đầu tư cá nhân chủ yếu là các cá nhân và hộ gia đình. Từng cá nhân và hộ
gia đình riêng lẻ không có nhiều tiền nhưng chiếm số lượng lớn trong xã hội và là
đối tượng chính hoạt động chào bán ra công chúng nhắm đến. Chỉ khi các công ty
cổ phần chọn hình thức chào bán cổ phần ra công chúng thì đông đảo các nhà đầu
tư cá nhân mới có cơ hội tham gia vào hoạt động mua cổ phiếu của công ty. Đối với
các đợt chào bán cổ phiếu riêng lẻ, nhà đầu tư cá nhân thực sự không có nhiều cơ
hội trở thành cổ đông của công ty vì bị hạn chế số lượng và thông tin. Những công
ty nhà nước cổ phần hóa chào bán riêng lẻ thường chỉ bán cho một bộ phận cán bộ
công nhân viên của công ty, không thể bán hết cho toàn bộ người lao động vì hạn
chế số lượng. Thêm vào đó, các nhà đầu tư cá nhân khi muốn chuyển nhượng cổ
phiếu chào bán riêng lẻ gặp khó khăn hơn so với cổ phiếu được chào bán ra công
chúng vì ràng buộc bởi những quy định về điều kiện chuyển nhượng của công ty.
+ Nhà đầu tư chuyên nghiệp là các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công
ty cho thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng
khoán. Nhà đầu tư chuyên nghiêp khác nhà đầu tư cá nhân ở quy mô tổ chức và
nghiệp vụ. Đối với hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng các tổ chức nói trên
không chỉ là nhà đầu tư đơn thuần mà còn đóng vai trò trung gian quan trọng giữa
nhà đầu tư và tổ chức phát hành
• Vai trò của chào bán cổ phần ra công chúng với toàn bộ nền kinh tế
Chào bán cổ phần ra công chúng là một bộ phận của chào bán cổ phần, là hoạt
động khởi điểm mở đầu cho mọi hoạt động của thị trường cổ phiếu. Cổ phiếu được
13

giao dịch trên thị trường có đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng hay không phụ thuộc
phần lớn vào hoạt động chào bán.
Để được chào bán cổ phiếu ra công chúng các công ty cổ phần phải thỏa mãn một
số điều kiện nhất định về vốn điều lệ, về kết quả kinh doanh trong một thời gian cụ
thể, cùng các quy định khắt khe về kế toán và kiểm toán. Sau khi phát hành cổ
phiếu ra ra công chúng các công ty này phải tiếp tục duy trì chế độ báo cáo thông
tin đầy đủ và minh bạch về những hoạt động của công ty cũng như về tình hình tài
chính dưới sự kiểm tra và giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì
vậy, hoạt động chào bán cổ phiếu ra công chúng sẽ tăng chất lượng và độ chính xác
của các bản báo cáo tài chính, làm trong sạch môi trường đầu tư và kinh doanh.
Điều kiện, thủ tục chào bán cổ phiếu được lập theo chuẩn chung do nhà nước quy
định nên vừa đảm bảo tính chính xác cao vừa thuận tiện cho việc so sánh đánh giá
kết quả hoạt động của các công ty cổ phần.
1.2 PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
1.2.1 Các văn bản pháp luật quy định về chào bán cổ phần ra công chúng
Thị trường chứng khoán Việt Nam tuy mới chính thức đi vào hoạt động từ ngày
20 tháng 7 năm 2000 nhưng đến nay đã có nhiều bước phát triển ấn tượng. Song
song với sự phát triển của thị trường chứng khoán và hoạt động chào bán cổ phần
ra công chúng, pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này đã có nhiều thay đổi phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của thị trường.
Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ ra ngày 11 tháng 7 năm 1998 là tiền
thân của Nghị định 144/2003/NĐ-CP và Luật chứng khoán 2006 văn bản đầu tiên
điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán trong đó có hoạt động phát hành
chứng khoán ra công chúng. Ra đời cùng với Nghị định 48/1998/NĐ-CP là quyết
định 127/1998/QĐ-TTg về việc thành lập hai trung tâm giao dịch chứng khoán Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, tạo thị trường giao dịch tập trung cho hoạt động
mua bán chứng khoán nói chung và hoạt động mua bán cổ phiếu nói riêng.
14

Trong năm năm đầu đi vào hoạt động (2000-2004) thị trường chứng khoán Việt
Nam không có nhiều phát triển, hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng cũng
không thể hiện được bộ mặt của nền kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam hầu như
không mặn mà với phương thức huy động vốn được đánh giá là rất linh hoạt và
hiệu quả này. Nghị định 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ về chứng khoán và thị
trường chứng khoán ra đời được đánh giá là chưa đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn phát triển của thị trường chứng khoán và hoạt động chào bán cổ phần ra công
chúng.
Trước yêu cầu xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về chứng khoán và
thị trường chứng khoán, ngày 29 tháng 6 năm 2006, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa
XI đã thông qua Luật chứng khoán 2006. Luật chứng khoán 2006 đã hệ thống lại
toàn diện các quy phạm điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán trong đó
có những nội dung quan trọng của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng: Điều
kiện chào bán, thủ tục trình tự chào bán, và trách nhiệm của các cơ quan tổ chức có
liên quan.
Năm 2006 là một năm có nhiều sự kiện quan trọng về kinh tế xã hội như Việt
Nam đạt được quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Hoa Kỳ và
gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO là động lực thúc đẩy sự phát triển ấn
tượng của thị trường chứng khoán Việt Nam. Hoạt động chào bán cổ phần ra công
chúng của các công ty cổ phần thuộc mọi lĩnh vực kinh doanh phát triển mạnh mẽ
và nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết. Để trợ giúp cho hoạt động thực thi Luật
chứng khoán 2006 về chào bán cổ phần ra công chúng được hiệu quả, các cơ quan
quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã xây dựng và ban
hành thêm những văn bản hướng dẫn như Nghị định 14/2007/NĐ-CP của Chính
phủ về hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán 2006 trong đó có chi tiết hóa các quy
định về chào bán cổ phần ra công chúng.
15

Bên cạnh đó, một văn bản rất quan trọng cũng điều chỉnh hoạt động chào bán cổ
phần ra công chúng của đối tượng doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa là Nghị định
187/2004/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 16 tháng 11 năm 2004 vẫn còn
hiệu lực thi hành. Tổng hợp những văn bản pháp lý nói trên tạo thành hệ thống quy
phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam.
1.2.2 Nội dung pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng
Luật chứng khoán 2006 ra đời đã luật hóa những quy định về chào bán cổ phần ra
công chúng, tạo điều kiện để hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng được thực
hiện hiệu quả và thống nhất. Kết hợp với các quy định tại Nghị định 187/NĐ-CP
của Chính phủ và các văn bản dưới luật khác, pháp luật chào bán cổ phần ra công
chúng điều chỉnh những nội dung sau:
• Chủ thể của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
Chủ thể chào bán cổ phần ra công chúng là những công ty cổ phần được phép của
Ủy ban chứng khoán nhà nước sau khi đã đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp
luật về điều kiện chào bán và trình tự thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng.
Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn, được thành lập và
tồn tại độc lập với những chủ sở hữu công ty. Vốn của công ty được chia nhỏ thành
những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành nhằm mục đích huy động
vốn của các nhà đầu tư từ mọi thành phần kinh tế. Các nhà đầu tư khi mua cổ phần
của công ty trở thành chủ sở hữu một phần vốn góp của công ty gọi là cổ đông của
công ty. Cổ đông được quyền tham gia quản lý kiểm soát điều hành công ty thông
qua việc bầu cử và ứng cử vào các vị trí trong Ban quản lý, Ban kiểm soát, Ban
điều hành. Ngoài ra cổ đông được hưởng các khoản lợi nhuận do công ty tạo ra
được cũng như chịu lỗ tương ứng với mức độ đóng góp (tỉ lệ thuận với cổ phần của
họ).
Công ty cổ phần có nhiều ưu điểm nổi trội so với các loại hình công ty khác:
16

- Ưu điểm thứ nhất là cấu trúc vốn của công ty mềm dẻo linh hoạt. Công ty cổ
phần có thể tăng vốn bằng cách chào bán cổ phần ra công chúng, là hình thức huy
động vốn đặc trưng không có ở các loại hình công ty khác như công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty hợp danh...Cấu trúc vốn mềm dẻo khiến quy mô của công ty cổ
phần rất phong phú, có thể có quy mô vốn nhỏ từ vài tỷ đồng đến vài nghìn tỷ
đồng.
- Ưu điểm thứ hai là khả năng điều chuyển vốn linh hoạt. Các cổ đông có thể dễ
dàng mua bán chuyển nhượng phần sở hữu của mình cho các cổ đông khác hoặc
người ngoài công ty.
Công ty nhà nước cổ phần hóa:
Công ty nhà nước cổ phần hóa chiếm số lượng đáng kể trong số những công ty
cổ phần đang ký chào bán cổ phiếu ra công chúng. Các công ty này có đặc điểm
khác với công ty cổ phần thông thường vì có giai đoạn chuyển đổi từ công ty nhà
nước sang công ty cổ phần. Công ty nhà nước cổ phần hóa là đặc trưng của những
nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam và Trung Quốc.
Công ty nhà nước cổ phần hóa là các doanh nghiệp nhà nước được chuyển đổi
hình thức sở hữu từ một trăm phần trăm vốn nhà nước hoặc có tỉ lệ vốn góp chi
phối (từ năm mươi mốt phần trăm trở lên) thành công ty cổ phần. Mục tiêu chuyển
đổi công ty nhà nước thành công ty cổ phần nhằm huy động nguồn vốn của các cá
nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước nhằm nâng cao
công nghệ cải tiến kỹ thuật đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đối tượng công ty nhà nước không thuộc diện nhà nuớc nắm một trăm phần
trăm vốn được cổ phần hóa đuợc quy định tại nghị định 187/2004/CP bao gồm các
tổng công ty nhà nước( bao gồm cả các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài
chính nhà nước), công ty nhà nước độc lập, công ty thành viên hạch tóan độc lập
17

của tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và thành lập, đơn vị hạch toán phụ
thuộc của công ty nhà nước.
Những doanh nghiệp do nhà nuớc nắm một trăm phần trăm vốn là đối tượng cổ
phần hóa được quy định trong danh mục cụ thể do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
• Điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng
Tùy theo từng loại công ty cổ phần mà pháp luật đòi hỏi điều kiện khác nhau đối
với hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng:
+ Công ty cổ phần thành lập theo luật doanh nghiệp: Là công ty cổ phần ngoài
quốc doanh, điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng của loại hình công ty cổ
phần này hoàn toàn tuân theo Luật doanh nghiệp 2005 và Luật chứng khoán 2006.
Điều kiện về tư cách của doanh nghiệp: là công ty cổ phần được thành lập hợp
pháp, có điều lệ công ty không trái với quy định của Luật doanh nghiệp 2005.
Điều kiện về vốn: Vốn điều lệ đã góp phải đạt mười tỷ đồng trở lên tính theo giá trị
sổ sách kế toán()
Điều kiện về tình hình hoạt động của công ty: Công ty phải có kết quả kinh doanh
tốt, có lãi trong năm liền trước năm đăng ký hồ sơ chào bán, không có lỗ lũy kế
tính đến năm đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng.
Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn được Đại hội đồng cổ đông
thông qua.
+ Công ty nhà nước cổ phần hóa:
Đối với công ty nhà nước cổ phần hóa đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng thì
phải thỏa mãn được các điều kiện quy định tai Nghị định 187/2004/NĐ-CP của
Chính phủ về việc chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần:
Công ty nhà nước không nắm 100% vốn : Điều kiện cổ phần hóa là: Vẫn còn vốn
nhà nước (không tính giá trị quyền sử dụng đất) sau khi giảm trừ giá trị tài sản
không cần dùng và tài sản chờ thanh lý; các khoản tổn thát do lỗ, giảm giá trị tài
sản; công nợ không có khả năng thu hồi và chi phí cổ phần hóa.
18

Đối với đơn vị hạch toán độc lập của các công ty nhà nước không nắm 100% vốn
đòi hỏi đơn vị hạch toán phụ thuộc phải có điều kiện hạch toán độc lập và khi tách
đơn vị để cổ phần hóa thì không làm ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp hoặc của các bộ phận khác của doanh nghiệp.
Công ty 100% vốn nhà nước phải thuộc danh mục công ty 100% vốn nhà nước
chuyển đổi thành công ty cổ phần do Chính phủ ban hành.
Sau khi đạt điều kiện chuyển đổi thành công ty cổ phần, cơ quan quyết định cổ
phần hóa sẽ quyết định hình thức chào bán cổ phần là chào bán cổ phần ra công
chúng hoặc chào bán cổ phần riêng lẻ.
• Thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng
Trừ trường hợp doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, tất cả các công ty cổ phần
muốn thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng trước hết phải đăng ký với Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước.
Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng được quy định tại Khoản 1
Điều 14 Luật chứng khoán 2006 và được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư số
17/2007/TT-BTC của Bộ tài chính ban hành ngày 13 tháng 3 năm 2007 hướng dẫn
hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng.
Theo đó, hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng gồm:
- Giấy đăng ký chào bán ra công chúng được lập theo mẫu do Bộ tài chính
quy định.
- Bản cáo bạch
- Điều lệ công ty
- Quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành và
phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán.
- Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có): Cam kết bảo lãnh phat hành thực hiện
theo quy định của Bộ tài chính, nếu thực hiện bảo lãnh là tổ hợp các công ty chứng
19

khoán thì cam kết phát hành là của tổ chức bảo lãnh phát hành chính có kèm theo
hợp đồng giữa các tổ chức bảo lãnh phát hành.
- Quyết định của Hội đồng quản trị công ty thông qua hồ sơ (Đối với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là quyết định của Hội đồng quản trị doanh nghiệp
liên doanh hoặc quyết định của chủ doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài). Trường
hợp tổ chức phát hành là tổ chức tín dụng thì hồ sơ phải có văn bản chấp thuận của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Văn bản xác nhận của tổ chức các nhân với một phần hoặc toàn bộ hồ sơ
đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng (trong trường hợp cần sự xác nhận của cá
nhân, tổ chức đó đối với thông tin trong hồ sơ).
Đối với trường hợp đặc biệt khi tổ chức phát hành là doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc doanh nghiệp thành lập mới
thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao, hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu
ra công chúng tuân theo quy định chi tiết tại Thông tư số 17/2007/TT-BTC của Bộ
tài chính ban hành ngày 13 tháng 3 năm 2007 về hướng dẫn hồ sơ đăng ký chào
bán chứng khoán ra công chúng.
Sau khi hoàn tất nội dung tổ chức phát hành gửi hồ sơ chào bán cổ phần ra công
chúng lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và trong vòng 30 ngày nếu không có gì
thiếu sót Ủy ban sẽ cấp giấy chứng nhận chào bán cổ phần ra công chúng cho tổ
chức phát hành. Trường hợp hồ sơ không đạt yêu cầu Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước gửi trả lại cho tổ chức phát hành kèo theo văn bản nêu rõ ký do hồ sơ không
được chấp thuận.
Tổ chức phát hành sau khi được cấp giấy chứng nhận tiến hành hoạt động phân
phối cổ phiếu theo nguyên tắc công bằng công khai. Tiền mua cổ phiếu được
chuyển vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng cho đến khị hoàn tất việc chào bán.
Việc phân phối cổ phiếu phải được hoàn tất trong vòng chín mươi ngày kể từ khi
Giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu có hiệu lực.
20

Kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành thực hiện chuyển giao cổ phiếu hoặc giấy
chứng nhận quyền sở hữu cổ phiếu cho nhà đầu tư trong thời hạn ba mươi ngày.
1.2.3 Vai trò của pháp luật với hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
Pháp luật luôn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong công cuộc xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt đối với
những lĩnh vực nhạy cảm nhiều rủi ro như thị trường chứng khoán và hoạt động
chào bán cổ phần ra công chúng thì pháp luật là công cụ không thể thiếu được để
để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư và bảo đảm môi trường đầu tư được lành mạnh
và an toàn.
Nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư cá nhân không có khả năng tự bảo vệ mình đối
với những rủi ro của việc mua cổ phiếu: Nhà đầu tư hoàn toàn bị động trước những
thông tin do tổ chức phát hành đưa ra, họ không có điều kiện và công cụ để tự mình
kiểm tra tính xác thực của những thông tin đó. Tổ chức phát hành có thể che giấu
thông tin hoặc gian lận thông tin, gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Vì vậy, cần phải có
những quy phạm pháp luật quy định trách nhiệm của tổ chức phát hành khi công bố
thông tin.
Cổ phiếu được lưu hành trên thị trường phải đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng cụ
thể. Nếu để cổ phiếu có chất lượng thấp được chào bán rộng rãi ra công chúng thì
khi có hậu quả xấu xảy ra, ví dụ như công ty cổ phần phá sản sẽ gây thiệt hại không
chỉ cho các cổ đông của công ty mà có thể dẫn đến sự biến động của toàn bộ thị
trường chứng khoán. Để đảm bảo chất lượng của cổ phiếu được chào bán, pháp luật
quy định những điều kiện chào bán ra công chúng. Những điều kiện này góp phần
sàng lọc loại bỏ những công ty cổ phần không đủ tiêu chuẩn phát hành cổ phiếu ra
công chúng.
Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng là một hoạt động tài chính phức tạp,
đòi hỏi nhiều kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn và dễ phát sinh những rủi ro trong
quá trình thực hiện. Do đó, để quá trình thực hiện hoạt động chào bán cổ phần ra
21

công chúng được an toàn, chặt chẽ và thống nhất cần có quy phạm pháp luật điều
chỉnh trình tự thủ tục chào bán cổ phần ra công chúng.
Cuối cùng, để ngăn chặn, cảnh cáo và răn đe các cá nhân tổ chức có ý định hoặc
đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động chào bán cổ phần ra công
chúng, cần có những chế tài xử lý nghiêm minh.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN
RA CÔNG CHÚNG Ở VIỆT NAM
2.1 CHỦ THỂ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
Theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam chỉ có hai chủ thể được chào bán cổ phần ra
công chúng là công ty cổ phần và công ty nhà nước cổ phần hóa.
2.1.1 Công ty cổ phần
Huy động vốn bằng phương thức phát hành cổ phiếu là một quyền năng cơ bản,
đặc thù của công ty cổ phần, được quy định tại Khoản 3 Điều 77 Luật doanh nghiệp
2005.
Căn cứ vào tư cách chủ thể chào bán cổ phần ra công chúng, công ty cổ phần có
những loại sau:
- Công ty cổ phần được thành lập mới theo Luật doanh nghiệp 2005 thực hiện chào
bán cổ phần ra công chúng để tạo lập vốn điều lệ:
Theo Luật doanh nghiệp 2005, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ
thông được quyền chào bán. Đây là sự trở lại tiến bộ của quy định tại Luật doanh
nghiệp 1990 mà Luật doanh nghiệp 1999 đã bỏ qua. Số cổ phần được quyền bán
còn lại phải được chào bán và bán hết trong thời hạn ba năm kể từ ngày Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh có hiệu lực. Như vậy công ty cổ phần chỉ có tư cách chào
22

chào bán cổ phần ra công chúng sau khi các cổ đông sáng lập nắm giữ ít nhất 20%
cổ phần phổ thông được quyền chào bán.
- Công ty đại chúng chào bán thêm cổ phần ra công chúng:
Công ty đại chúng là công ty cổ phần đã thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng
hoặc có cổ phiếu niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc có từ một trăm
cổ đông trở lên (không kể cổ đông là nhà đầu tư chuyên nghiệp) với vốn điều lệ đã
góp từ mười tỷ đồng trở lên. Công ty đại chúng có đặc điểm là đã thực hiện chào
bán cổ phần ra công chúng hoặc chưa chào bán cổ phần nhưng quy mô và số lượng
cổ đông lớn.
- Công ty cổ phần tiền thân là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Pháp luật hiện hành chỉ quy định hai trường hợp chào bán cổ phần ra công chúng
của công ty cổ phần do doanh nghiệp nước ngoài chuyển đổi thành bao gồm:
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ
phần kết hợp chào bán cổ phần ra công chúng và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chuyển đã chuyển đổi thành công ty cổ phần. Có thể thấy rằng tuy pháp luật
về đầu tư cho phép nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện đầu tư trực tiếp vào Việt
Nam được phép thành lập mọi loại hình doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2005
(Khoản 1 Điều 22 Luật đầu tư 2005) trong đó có hình thức công ty cổ phần nhưng
pháp luật về chứng khoán đã hạn chế không cho nhà đầu tư nước ngoài có quyền
thực hiện hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng để thành lập mới công ty cổ
phần tại Việt Nam. Có thể nói đây là quy định rất hay, cần thiết để bảo vệ môi
trường đầu tư trong nước. Nhà đầu tư nước ngoài sau khi thành lập công ty cổ phần
tại Việt Nam phải thể hiện được khả năng kinh doanh của mình mới có thể chào
bán cổ phần ra công chúng.
2.1.2 Công ty nhà nước cổ phần hóa
Về bản chất, công ty nhà nước cổ phần hóa cũng là công ty cổ phần, có vốn điều
lệ chia thành nhiều phần bằng nhau. Tuy nhiên, công ty nhà nước cổ phần hóa được
23

xếp vào nhóm riêng và tư cách chào bán cổ phần ra công chúng khác với công ty cổ
phần thành lập theo Luật doanh nghiệp vì những lí do cơ bản sau:
Thứ nhất, công ty nhà nước cổ phần hóa được thành lập theo Luật doanh nghiệp
nhà nước và đến trước khi thực hiện cổ phần hóa vẫn hoạt động theo Luật doanh
nghiệp nhà nước trừ những nội dung do Luật doanh nghiệp 2005 điều chỉnh (Điều
166 Luật doanh nghiệp 2005).
Thứ hai, công ty nhà nước cổ phần hóa thực hiện hoạt động cổ phần hóa và chào
bán cổ phần ra công chúng theo chủ trương của Nhà nước. Luật doanh nghiệp 2005
quy định các doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo quy định của Luật doanh
nghiệp Nhà nước 2003 phải chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
công ty cổ phần. Mục đích của sự chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty
cổ phần khác với mục đích chuyển đổi của công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập
theo quy định của Luật doanh nghiệp chuyển đổi thành công ty cổ phần. Đó là để
thực hiện mục tiêu thu hẹp tối đa diện nhà nước độc quyền, xóa bỏ doanh nghiệp
nhà nước làm ăn kém hiệu quả tăng gánh nặng cho ngân sách, tạo điều kiện cho
người lao động trong công ty tự mình chịu trách nhiệm về hoạt động của doanh
nghiệp.
Thứ ba, công ty nhà nước thực hiện cổ phần hóa chịu sự điều chỉnh của Luật chứng
khoán 2006 và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP là nghị định của Chính phủ quy định
riêng về công ty nhà nước cổ phần hóa. Do đó, hoạt động cổ phần hóa của công ty
nhà nước cổ phần hóa cũng chịu sự điều chỉnh của hai văn bản Luật nói trên.
Như vậy, công ty nhà nước cổ phần hóa tuy là công ty cổ phần song có tư cách chủ
thể khác hẳn với các công ty cổ phần được thành lập theo Luật doanh nghiệp.
2.2 ĐIỀU KIỆN VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
2.2.1 Điều kiện về chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng
Đối với từng loại doanh nghiệp, điều kiện chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng
là khác nhau:
24

• Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần muốn chào bán cổ phần ra công chúng phải thỏa mãn những điều
kiện sau:
Thứ nhât, công ty phải có vốn điều lệ đã góp đạt mười tỷ đồng trở lên tính theo giá
trị sổ sách kế toán (Điểm a Khoản 1 Điều 12 Luật chứng khoán 2006). Trước đây,
khi Nghi định 48/NĐ-CP ban hành cũng đã quy định doanh nghiệp cổ phần muốn
chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng phải đạt mức vốn điều lệ tối thiểu mười tỷ
đồng (Khoản 1 Điều 6 Nghị định 48/1998/NĐ-CP) Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện
nền kinh tế Việt Nam lúc đó con số mười tỷ đồng không khả thi. Chính vì vậy trong
thời gian dài từ năm 2000 đến năm 2003 rất ít doanh nghiệp Việt Nam thực hiện
huy động vốn bằng phương thức chào bán cổ phần ra công chúng. Đến năm 2003,
Nghị dịnh 144/2003/NĐ-CP ra đời thay thế Nghị định 48/1998/NĐ-CP giảm mức
vốn điều lệ đã góp xuống còn năm tỷ đồng (Khoản 1 Điều 6 Nghị định
144/2003/NĐ-CP). Đây lại là một quy định nữa không phù hợp của luật thực định
vì điều kiện kinh tế toàn xã hội của Việt Nam từ năm 1998 đến năm 2003 đã có sự
thay đổi rõ rệt, mức vốn mười tỷ đồng vào năm 1998 là quá lớn, cản trở sự phát
triển của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng nhưng tại năm 2003 nó đã phù
hợp với quy mô của đa số các doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì vậy, Luật
chứng khoán 2006 đã quay trở về mức mười tỷ đồng đối với vốn điều lệ đã đã góp.
Thứ hai, công ty phải có năng lực kinh doanh, cụ thể là: “Hoạt động của năm liền
trước năm đăng ký chào bán phải có lãi đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm
đăng ký chào bán” ( Điểm b khoản 1 Điều 12 Luật chứng khoán 2006). Điều kiện
này đã loại trừ những công ty làm ăn thua lỗ, đảm bảo chất lượng của cổ phiếu
được chào bán ra công chúng.
Thứ ba, có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào
bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có
quyền quyết định cao nhất của công ty cổ phần, có quyền quyết định những hoạt
25

động quan trọng của công ty. Chào bán cổ phần nói chung và chào bán cổ phần ra
công chúng là hoạt động ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của công ty
và lợi ích của toàn bộ cổ đông trong công ty. Vì vậy, phương án phát hành và
phương án sử dụng vốn thu được phải do Đại hội đồng thông qua mới có giá trị
pháp lý.

2.2.2 Điều kiện về chào bán thêm cổ phần ra công chúng


2.2.3 Điều kiện về chào bán cổ phần ra nước ngoài
Tổ chức phát hành muốn thực hiện chào bán cổ phiếu ra nước ngoài phải đáp
ứng một số điều kiện sau:
+ Không thuộc ngành nghề mà pháp luật cấm bên nước ngoài tham gia và phải
đảm bảo tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật. Hiện
nay pháp luật không cho phép nhà đầu tư nước ngoài được tham gia vào một số
ngành nghề có thể gây phương hại đến an ninh quóc phòng và lợi ích công cộng.
Nếu công ty cổ phần là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thám tử điều tra thì
không được phép bán cổ phần ra nước ngoài. Ngoài ra một số ngành nghề lĩnh vực
kinh doanh nhất định pháp luật chỉ cho phép bên nước ngoài được nắm tối đa một
tỷ lệ vốn nhất định thì tổ chức phát hành cũng chỉ được phép chào bán cổ phiếu ra
nước ngoài trong phạm vi tỷ lệ cổ phần đó.
+ Có quyết định thông qua việc chào bán cổ phần ra nước ngoài và phương án
sử dụng vốn thu được của Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông.
+ Đáp ứng các điều kiện chào bán theo quy định của cơ quan có thẩm quyền của
nước nơi tổ chức phát hành đăng ký chào bán: điều kiện này hoàn toàn tùy thuộc
vào nước mà tổ chức phát hành dự định chào bán cổ phiếu.
Hiện nay pháp luật Việt Nam chỉ cho phép mỗi công ty được niêm yết ở một
sàn chứng khoán nước ngoài. Tổ chức phát hành chứng khoán phải gửi cho Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước các tài liệu chứng minh công ty đủ điều kiện chào bán cổ
26

phiếu ra nước ngoài và bản sao hồ sơ đăng ký chào bán với cơ quan có thẩm quyền
của nước nơi tổ chức phát hành đăng ký chào bán tối thiểu mười ngày trước khi
công ty gửi hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra nước ngoài. Trong thời hạn
10 ngày, sau khi hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra nước ngoài có hiệu lực, tổ
chức phát hành gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước bản sao hồ sơ đăng ký chào
bán chứng khoán đã được chấp thuận ở nước ngoài và phải công bố ra công chúng
các thông tin về đợt chào bán.
2.3 THỦ TỤC CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
2.3.1 Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần ra công chúng
• Bản cáo bạch
Bản cáo bạch được lập theo mẫu do Bộ tài chính quy định, nội dung của bản cáo
bạch tuân theo quy định tại điều 15 Luật chứng khoán 2006.
- Thông tin tóm tắt về tổ chức phát hành bao gồm mô hình tổ chức bộ máy, hoạt
động kinh doanh, tài sản, tình hình tài chính, Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng
thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc
và cơ cấu cổ đông (nếu có). Những thông tin này giúp cho nhà đầu tư có được cái
nhìn tổng quát về tình hình của tổ chức phát hành, từ đó tự mình đưa ra đánh giá về
năng lực hoạt động của công ty. .
- Thông tin về đợt chào bán cổ phần ra công chúng gồm điều kiện chào bán, các
yếu tố rủi ro, dự kiến kế hoạch lợi nhuận và cổ tức của năm gần nhất sau năm chào
bán cổ phiếu, phương án phát hành và phương án sử dụng tiền thu được từ đợt chào
bán. Đây là những thông tin về lợi nhuận doanh nghiệp sẽ mang lại nhằm thu hút
sự quan tâm của nhà đầu tư đối với tổ chức phát hành và cổ phiếu được chào bán.
- Báo cáo tài chính trong hai năm gần nhất của tổ chức phát hành đảm bảo điều
kiện về chế độ kế toán và kiểm toán của Nhà nước.
Tuy nhiên, vấn đề là hiện nay các bản cáo bạch chưa thực sự phản ánh đúng tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Những triển vọng phát triển được nhấn mạnh
27

trong khi những khó khăn tồn tại chỉ được nhắc đến một cách chung chung. Nhà
đầu tư khi đọc bản cáo bạch chỉ thấy nhắc nhiều đến tiềm năng phát triển của công
ty phát hành cổ phiếu mà không được báo cáo đầy đủ về những rủi ro thực tế công
ty có thể phải đương đầu. Phần dự kiến kế hoạch lợi nhuận được nhấn mạnh và
phóng đại hơn thực tế, còn phần rủi ro ngành nghề chỉ được nhắc đến chung chung.
Không phải mọi bản cáo bạch chào bán cổ phiếu ra công chúng đều mang thông tin
thiếu chính xác nhưng thực tế là ngày càng có nhiều bản cáo bạch chất lượng kém.
Thông tin thiên lệch trong bản cáo bạch không giúp nhà đầu tư nắm được chính xác
tình hình của doanh nghiệp. Nguyên nhân của tình trạng này nằm ở chất lượng của
kiểm toán. Đơn vị kiểm toán có trách nhiệm kiểm tra bản cáo bạch của tổ chức phát
hành trước khi đưa trình Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Tuy nhiên, Việt Nam hiện
nay chỉ có 11 đơn vị kiểm toán được phép hoạt động với nhân lực luôn thiếu so với
nhu cầu kiểm toán của thị trường. Đối với các công ty cổ phần niêm yết cổ phiếu
trên sàn giao dịch chứng khoán, thông thường bản cáo bạch là do đơn vị tư vấn
niêm yết (là các công ty chứng khoán) làm ra. Nhưng chất lượng tư vấn của các
công ty chứng khoán thực hiện nhiệm vụ tư vấn niêm yết không đảm bảo, dẫn đến
tình trạng làm bản cáo bạch theo hướng dẫn của tổ chức phát hành.
Chất lượng kiểm toán thấp không phát hiện được lỗi trong bản cáo bạch khiến
bản cáo bạch sau khi được kiểm toán vẫn không phản ánh đúng tình hình của doanh
nghiệp không chỉ dẫn đến sự đánh giá sai của nhà đầu tư đối với triển vọng phát
triển của công ty mà còn có khả năng ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường chứng
khoán. Nếu để một công ty có chất lượng không tốt lên sàn giao dịch tập trung,
công ty đó phá sản sẽ dẫn đến hiệu ứng dây chuyền cho toàn bộ thị trường chứng
khoán.
Bản cáo bạch phải có đầy đủ chữ ký của những người có liên quan đến hoạt động
chào bán theo quy định tại điểm d khoản 1.2 điều 1 mục II Thông tư 17/2004/TT-
BTC của Bộ tài chính hướng dẫn Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công
28

chúng: Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Giám đốc tài chính hoặc Kế toán trưởng của tổ
chức phát hành và người đại diện theo pháp luật của tổ chức bảo lãnh phát hành
hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành chính (nếu có). Trường hợp ký thay phải có giấy
uỷ quyền. Quy định vày thể hiện tính chặt chẽ của pháp luật về trách nhiệm của
những người có liên quan đến hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng. Khi ký
tên vào bản cáo bạch, những cá nhân trên đã đảm bảo cho những thông tin đưa ra
và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về phần nội dung liên quan đến chữ ký
của họ.
• Báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính là công cụ được sử dụng để công bố hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, là nguồn thông tin rất quan trọng cho biết sức mạnh của tổ chức phát
hành. Báo cáo tài chính là một bộ phận của bản cáo bạch
Báo cáo tài chính được quy định tại điều 16 Luật chứng khoán 2006:
Báo cao tài chính gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Báo cáo
tài chính phản ánh tổng quát toàn bộ tài sản và nguồn hình thành tài sản của tổ chức
phát hành, cung cấp các số liệu thông tin để phân tích đánh giá chi tiết về tình hình
chi phí, thu nhập và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua thuyết minh báo cáo tài chính, nhà đầu tư biết được chế độ kế toán đang
áp dụng tại doanh nghiệp.
Như vậy, báo báo tài chính là nguồn thông tin chính thức duy nhất nhà đầu tư có
được để phân tích tình hình hoạt động của tổ chức phát hành. Tính trung thực có ý
nghĩa đặc biệt qua trọng đối với một báo cáo tài chính, do đó báo cáo tài chính của
chào bán cổ phần ra công chúng phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được
chấp thuận.
29

Hiện nay, hầu hết các chuẩn mực kế toán của Việt Nam chưa theo kịp chuẩn mực
kế toán quốc tế. Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung trong
đó có các công ty cổ phần chào bán ra công chúng chưa thực sự là công cụ giúp
nhà đầu tư nắm rõ tình hình doanh nghiệp.
Trường hợp tổ chức phát hành là công ty mẹ thì báo cáo tài chính là báo cáo hợp
nhất theo quy định của pháp luật về kế toán. Ví dụ công ty cổ phần phát triển đầu tư
công nghệ FPT là một công ty mẹ với sáu công ty chi nhánh do đó khi lập báo cáo
tài chính phải là báo cáo tài chính hợp nhất theo quy định của pháp luật về kế toán.
Hồ sơ đăng ký chào bán ra công chúng nếu nộp trước ngày 1 tháng 3 của năm thì
báo cáo tài chính gồm báo cáo của năm trước đó (có thể chưa có kiểm toán) và báo
cáo tài chính của hai năm trước liền kề ( bắt buộc có kiểm toán) .
Để đảm bảo cho báo cáo tài chính sát với tình hình hoạt động của tổ chức phát
hành, Luật chứng khoán quy định: nếu ngày kết thúc kỳ kế toán của của báo cáo tài
chính gần nhất cách thời điểm gửi hồ sơ chào bán cổ phiếu ra công chúng hợp lệ
cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quá 90 ngày thì tổ chức phát hành phải lập báo
cáo tài chính bổ sung đến tháng hoặc đến quý gần nhất.
2.3.2 Phân phối cổ phần ra công chúng
Giai đoạn phân phối cổ phiếu là giai đoạn tổ chức phát hành chuyển giao quyền
sở hữu cổ phiếu đến tay nhà đầu tư, từ giai đoạn này trở đi, nhà đầu tư chính thức
trở thành cổ đông của công ty.
Phân phối cổ phiếu được quy định tại điều 21 Luật chứng khoán 2006.
Việc phân phối cổ phiếu chỉ được thực hiện sau khi tổ chức phát hành bảo đảm
người mua cổ phiếu tiếp cận Bản cáo bạch trong hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu
ra công chúng được công bố tại các địa điểm ghi trong Bản thông báo phát hành.
Hiện nay, nhà đầu có thể tiếp cận bản cáo bạch qua công ty chứng khoán, trung tâm
giao dịch chứng khoán, hoặc tìm kiếm trên mạng internet.
30

Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải phân
phối chứng khoán công bằng, công khai và bảo đảm thời hạn đăng ký mua chứng
khoán cho nhà đầu tư tối thiểu là hai mươi ngày; thời hạn này phải được ghi trong
Bản thông báo phát hành. Thực tế hiện nay, không phải tổ chức phát hành nào cũng
thực hiện đúng yêu cầu phân phối công bằng công khai cho tất cả các nhà đầu tư,
đặc biệt với chào bán thêm cổ phần ra công chúng. Công ty Cổ phần cáp và vật liệu
viễn thông (SAM) khi phân phối cổ phiếu bổ sung đợt 2 vào ngày 28 tháng 3 năm
2006 đã không thực hiện công bố thông tin công khai minh bạch cho các nhà đầu
tư. Hết thời hạn đóng tiền đăng ký mua cổ phần không nhà đầu tư nào biết để nộp
sau đó công ty bán cho cán bộ công nhân viên. Trường hợp này Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước đã ra quyết định phân phối lại. Công ty vận tải xăng dầu Vipco khi
đưa ra phương án tăng vốn điều lệ bằng phát hành thêm cổ phiếu đã phân phối cổ
phiếu không công bằng cho các cổ đông khác nhau của công ty, trong đó cổ đông
chiến lược là Tổng công ty xăng dầu Việt Nam được mua cổ phiếu với giá chỉ
15000VND/cổ phiếu với tỷ lệ 1:1 trong khi các cổ đông khác của công ty phải mua
với giá 40000VND/cổ phiếu với tỷ lệ 50:21. Phương án tăng vốn điều lệ này đã
được Đại hội đồng cổ đông thông qua.[vneconomy ngày 4.04.2007]
Tổ chức phát hành có nghĩa vụ phân phối số cổ phiếu được phép chào bán theo tỷ
lệ mà từng nhà đầu tư đăng ký mua. Trường hợp số lượng cổ phiếu đăng ký mua
vượt quá số lượng cổ phiếu được phép phát hành thì tổ chức phát hành hoặc tổ
chức bảo lãnh phát hành phải phân phối hết số cổ phiếu được phép phát hành cho
nhà đầu tư tương ứng với tỷ lệ đăng ký mua của từng nhà đầu tư.
Tổ chức phát hành phải hoàn thành việc phân phối cổ phiếu trong thời hạn chín
mươi ngày, kể từ ngày Giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu ra công chúng có hiệu
lực. Trong trường hợp tổ chức phát hành không thể hoàn thành việc phân phối cổ
phiếu ra công chúng trong thời hạn 90 ngày, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xem
xét gia hạn việc phân phối cổ phiếu nhưng tối đa không quá ba mươi ngày. Thực tế
31

chưa có tổ chức phát hành nào phải xin phép Ủy ban Chứng khoán Nhà nước gia
hạn phân phối cổ phiếu, điều này chứng tỏ thời hạn 90 ngày là đủ cho hoạt động
phân phối cổ phiếu của tổ chức phát hành.
Trường hợp đăng ký chào bán cổ phiếu cho nhiều đợt thì khoảng cách giữa đợt
chào bán sau với đợt chào bán trước không quá mười hai tháng. Tổ chức phát hành
lập báo cáo kết quả đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng theo mẫu do Bộ tài chính
ban hành. Báo cáo kết quả chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm thông tin về
cổ phiếu chào bán, tổ chức phát hành, đại lý phân phối cổ phiếu, kết quả chào bán
cổ phiếu gồm: đối tượng mua cổ phiếu, số cổ phiếu chào bán, giá mua cổ phiếu, tỷ
lệ phân phối, số cổ phiếu còn lại...; tổng hợp toàn bộ kết quả đợt chào bán cổ phiếu:
tổng số cổ phiếu đã chào bán, số tiền thu được, tổng chi phí và cơ cấu vốn của tổ
chức phát hành sau đợt chào bán. Tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát
hành phải báo cáo kết quả đợt chào bán cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong
thời hạn mười ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, kèm theo bản xác nhận của
ngân hàng nơi mở tài khoản phong toả về số tiền thu được trong đợt chào bán.
Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải chuyển
giao cổ phiếu hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu cổ phiếu cho người mua trong
thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán.
2.3.3 Đình chỉ, hủy bỏ hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
• Đình chỉ hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
• Hủy bỏ hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
2.4QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC BÊN TRONG HOẠT ĐỘNG
CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
2.4.1 Quyền và nghĩa vụ của tổ chức phát hành
• Quyền của tổ chức phát hành:
32

• Nghĩa vụ của tổ chức phát hành:


Bên cạnh quyền, pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng còn quy định cho
tổ chức phát hành nghĩa vụ sau:
Thứ nhất tổ chức phát hành có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các điều kiện về hồ sơ
đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng: Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra
công chúng phải cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực các thông tin theo quy định
của pháp luật về bản cáo bạch và báo cáo tài chính. Hiện nay tổ chức phát hành
chưa thực sự thực hiện đúng nghĩa vụ này. Các bản cáo bạch của các công ty đại
chúng hiện nay mang nhiều thông tin thiên lệch. Các nhân tố rủi ro phải để cập
trong bản cáo bạch quá chung chung, khiến nhà đầu tư không biết được thực tế
công ty phát hành phải đối đấu với những khó khăn nào. Đặc biệt đối với ngành tài
chính ngân hàng có đặc thù rủi ro cao, bản cáo bạch của các tổ chức tín dụng cũng
không thể hiện chi tiết những rủi ro có thể xảy ra, thay vào đó nhà đầu tư chỉ thấy
dự kiến lợi nhuận rất hấp dẫn.
Thứ hai, tổ chức phát hành đã hoàn thành việc chào bán cổ phiếu ra công chúng
trở thành công ty đại chúng và phải thực hiện các nghĩa vụ của công ty đại chúng
quy định tại khoản 2 Điều 27 của Luật Chứng khoán 2006:
Nghĩa vụ công bố thông tin: Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày có báo cáo
tài chính năm được kiểm toán, công ty đại chúng phải công bố thông tin định kỳ về
báo cáo tài chính năm.
Công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn hai mươi tư
giờ kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện tại khoản 2 điều 101 Luật chứng khoán
và công bố thông tin bất thường trong thời hạn bảy mươi hai giờ kể từ khi xảy ra
một trong các sự kiện tại khoản 3 điều 101 Luật chứng khoán. Tuy nhiên không
phải lúc nào nghĩa vụ công bố thông tin cũng được các công ty đại chúng thực hiện
đầy đủ. Một số công ty không thực hiện hoặc thực hiện không đúng việc công bố
ngày thực hiện quyền mua cổ phiếu của người sở hữu trái phiếu kèm theo quyền
33

mua cổ phiếu hoặc ngày thực hiện chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi sang cổ phiếu
và các quyết định liên quan đến việc chào bán. Trường hợp của công ty cổ phần cáp
và vật liệu viễn thông SAM đã không thông báo công khai minh bạch cho các nhà
đầu tư biết về thời hạn đăng ký mua cổ phần khi công ty này chào bán thêm cổ
phần ra công chúng [vnexpress.net ngày 28 tháng 3 năm 2006 ] là ví dụ tiên biểu về
vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin của tổ chức phát hành.
Công ty đại chúng phải công bố thông tin theo yêu cầu của Ủy ban chứng khoán
nhà nước khi xảy ra một trong các sự kiện sau:
Có thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền
và lợi ích của nhà đầu tư hoặc có thông tin liên quan đến công ty đại chúng ảnh
hưởng lớn đến giá cổ phiếu và cần phải xác nhận thông tin đó . Trong thời gian qua
Ủy ban chứng khoán nhà nước đã có yêu cầu giải trình đối với một số công ty đại
chúng liên tục có giá cổ phiếu tăng kịch trần liên tiếp nhiều phiên ví dụ như Ủy ban
chứng khoán Nhà nước đã có yêu cầu giải trình đối với cổ phiếu của Công ty cổ
phần Thực phẩm quốc tế Interfood tên giao dịch cổ phiếu là IFS có cổ phần tăng
kịch trần năm phiên liên tiếp. Hoặc với những thông tin quan trọng liên quan đến
hoạt động của công ty như trường hợp Công ty cổ phần Thép Việt - Ý giải trình về
hợp đồng đặt hàng sản xuất thép tại nước ngoài.
Trong trường hợp hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng bị đình chỉ, tổ
chức phát hành phải có nghĩa vụ thực hiện theo những yêu cầu của Ủy ban chứng
khoán nhà nước về sửa chữa bổ sung những sai sót trong hồ sơ đăng ký chào bán
hoặc về hoạt động phân phối cổ phiếu. Ngoài ra tổ chức phát hành còn có nghĩa vụ
thu hồi cổ phiều đã phát hành và hoàn trả lại tiền mua cổ phiếu cho nhà đầu tư tự
động (đối với hủy bỏ chào bán) hoặc theo yêu cầu (đình chỉ chào bán).
2.4.2 Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
• Quyền của nhà đầu tư:
34

Nhà đầu tư được quyền có những thông tin chính xác trung thực và đầy đủ về
tình hình tài chính của công ty cũng như thông tin về bộ máy quản lý quản trị của
công ty tổ chức chào bán cổ phiếumà cụ thể là nhà đầu tư được quyền nhận bản cáo
bạch đầy đủ của tổ chức phát hành.
Được quyền đặt mua số lượng cổ phần theo quy định của pháp luật và điều lệ
công ty: tất cả các nhà đầu tư đều có quyền đặt mua số lượng cổ phần theo khả
năng và quy định của điều lệ công ty. Tổ chức phát hành không được quyền từ chối
bán cổ phiếu cho nhà đầu tư nếu như pháp luật và điều lệ công ty không hạn chế.
Khi hoạt động chào bán cổ phiếu bị Ủy ban chứng khoán nhà nước ra quyết
định đình chỉ thì nhà đầu tư có quyền yêu cầu hoàn trả lại tiền mua cổ phần và được
quyền nhận lại tiền trong vòng mười lăm ngày từ khi đưa ra yêu cầu:
Nếu đợt chào bán bị Ủy ban chứng khoán hủy bỏ thì nhà đầu tư được quyền
nhận lại tiền mua cổ phiếu trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày hoạt động
chào bán bị hủy bỏ, quá thời hạn này nhà đầu tư được tổ chức phát hành bồi thường
theo cam kết giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư.
Quyền của nhà đầu tư chiến lược: Nhà đầu tư chiến lược được mua cổ phiếu
của công ty với giá thấp hơn 20% so với giá trúng thầu bình quân.
• Nghĩa vụ của nhà đầu tư:
Nhà đầu tư có trách nhiệm tìm hiểu phân tích bản cáo bạch để đưa ra quyết định
mua cổ phiếu và thực hiện thủ tục đăng ký mua cổ phiếu theo quy định của pháp
luật.
Nhà đầu tư có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ và đúng hạn cổ phiếu mình đã đăng ký
mua. Trong trường hợp nhà đầu tư đã đăng ký mua cổ phiếu và trúng thầu từ chối
mua sẽ bị mất toàn bộ tiền đặt cọc.
2.4.3 Quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu có):
Theo quy định pháp luật hiện hành chỉ những công ty chứng khoán có nghiệp
vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán mới có quyền bảo lãnh phát hành cổ phiếu.
35

Hiện nay, theo quy định pháp luật về chứng khoán điều kiện để công ty chứng
khoán có nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán là công ty chứng khoán phải
đạt vốn điều lệ từ một trăm sáu mươi lăm tỷ đồng trở lên (điều 18 nghị định
14/2007/CP).
Tính đến thời điểm hiện tại Việt Nam có năm mươi lăm công ty chứng khoán
đang hoạt động nhưng chỉ năm công ty chứng khoán thỏa mãn mức vốn điều lệ
này[ website ủy ban chứng khoán nn], tuy nhiên nhìn về lâu dài thì còn rất nhiều
công ty lớn sắp chào bán cổ phần ra công chúng với khối lượng cổ phiếu rất lớn,
mức vốn một trăm sáu mươi lăm tỷ chưa thỏa mãn được nhu cầu của thị trường. Do
vậy chính phủ cần nâng mức vốn pháp định cho nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của
công ty chứng khoán lên cao hơn nữa.
• Quyển của tổ chức bảo lãnh :
Công ty chứng khoán nhận thực hiện bảo lãnh phát hành cổ phiếu có quyền nhận
tiền thù lao theo hợp đồng đã ký kết giữa tổ chức phát hành và công ty chứng
khoán. Trong phạm vi đã cam kết tổ chức bảo lãnh có quyền sử dụng nghiệp vụ của
mình để đảm bảo thực hiện hoạt động bảo lãnh.
Công ty chứng khoán có thể một mình đảm nhiệm vai trò bảo lãnh cho toàn bộ đợt
chào bán ra công chúng của tổ chức phát hành nhưng cũng có thể ký hợp đồng với
những công ty chứng khoán khác cùng bảo lãnh.
• Nghĩa vụ của tổ chức bảo lãnh:
Tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện hoạt động bảo lãnh theo cam kết với tổ
chức phát hành.
Tổ chức bảo lãnh phát hành liên đới chịu trách nhiệm với tổ chức phát hành về nội
dung hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng trái pháp luật
Tổ chức phát hành không được thực hiện bảo lãnh với hợp đồng có tổng giá trị cổ
phiếu vượt quá tỷ lệ quy định của pháp luật.
36

2.5 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA


CÔNG CHÚNG
2.5.1 Chính phủ
2.5.2 Bộ tài chính
2.5.3 Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
2.5.4 Trung tâm giao dịch chứng khoán

CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
3.1 CĂN CỨ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHÀO
BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
3.1.1 Đường lối chính sách của Đảng về chứng khoán và thị trường chứng
khoán
3.1.2 Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam
3.1.3 Yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới và hội nhập WTO
3.2 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
CHÀO BÁN CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG

You might also like