You are on page 1of 25

VONG NHẬP

Người học khoa Tử Vi nếu không biết về Dịch thì không thể nào thấu triệt được lẽ
huyền vi trong Tử Vi. Tại sao Dịch là sự cần thiết cho Tử Vi? Vì Tử Vi lấy Dịch lý làm
căn bản và hình thành bằng 2 vòng Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái. Nên chi nhân
đây, xin nói sơ qua sự xuất xứ và những khái niệm phổ quát về Dịch Lý, để chúng ta
có một nền tảng cơ bản, ngõ hầu sau này giúp cho sự nghiên cứu Tử Vi được dễ dàng
và thấu đáo hơn.

Tuy nhiên, trước hết xin nêu ra một vấn đề quan trọng căn bản nhưng chưa thấy
ai nói đến, để những người đã học qua Dịch thì chú ý, còn những người chưa học thì
học đặng biết. Độc giả hãy thử nhìn Đồ Thái Cực phía dưới xem ĐÚNG hay SAI?

Hình 1a Hình 1b

Nhìn vào Đồ Thái Cực nầy, người thì thấy nó hoàn toàn sai, người thì thấy nó vẫn
đúng! Vậy làm sao có thể cho rằng ĐÚNG hay SAI? Thật ra, đúng hay sai chỉ là hai
danh từ tương đối mà thôi, vì đúng với thời nầy chưa hẳn là đúng với thời kia. Thí dụ,
như ngày xưa người La Mã cho rằng trái đất hình vuông mà nếu ai nói trái đất hình
tròn có thể bị giết chết ngay, nhưng thời nay chúng ta BIẾT nó hình qủa cầu. Đúng
hay sai chỉ có người THẬT BIẾT mới biết mà thôi, còn với người KHÔNG BIẾT thì vẫn có
thể đúng mà cũng có thể sai.

Vậy làm sao biết được là chúng ta BIẾT? Khi nào chúng ta THỰC hay TỰ thấu
triệt thì chúng ta BIẾT, còn những gì chúng ta học được vẫn là cái BỊ BIẾT. Nhưng nếu
chúng ta cố gắng thấu triệt những cái BỊ BIẾT thì đến một lúc chúng ta sẽ TỰ hay
THỰC BIẾT. Thí dụ: chúng ta học toán, trước hết phải học các con số từ 1 đến 10, rồi
cộng, trừ, nhân, chia, đến công thức của các phương trình...v.v. Sau đó chúng ta thực
hành với những bài toán mẫu (những cái BỊ BIẾT), khi hiểu thấu đáo không sai chạy
thì chúng ta có thể giải bất cứ bài toán nào. Đó là TỰ hay THỰC BIẾT! Và một khi
THỰC BIẾT, nếu có ai làm một bài toán đến hỏi ta đúng hay sai thì ta BIẾT (thí dụ nầy
vẫn tương đối thôi).
Nên chi, nhìn vào Đồ Thái Cực trên, ta BIẾT nó SAI! Muốn phân định Âm-Dương thì
phải tùy thuộc vào lằn kinh (dọc) hay lằn vĩ (ngang). Tức là tùy theo ta muốn dùng
Thái Cực để phân định thời gian (lằn kinh) hay không gian (lằn vĩ). Do đó, ta có hai
cách để lập Đồ Thái Cực như hình 2a hoặc 2b. Nếu ta muốn phân định thời gian thì
phải dung đồ hình 2a. Chân lý của DỊCH là “Âm cực hữu Dương sinh, và Dương cực
hữu Âm sinh”. Nhìn đồ hình 2a, ta thấy một điểm đen nhỏ tượng Thiếu Âm đi dần
đến Thái Âm (giờ Tí ở phía dưới), tức là Âm cực nên ta thấy một điểm trắng tượng
Thiếu Dương lòng bên trong. Rồi từ Thiếu Dương lớn dần đến Thái Dương (giờ Ngọ ở
phía trên), tức là Dương cực nên ta lại thấy một điểm đen nhỏ sinh ra trong lòng Thái
Dương. Nói cho dễ hiểu thì trắng tượng là ban ngày (Dương), đen tượng là ban đêm
(Âm). Đây là lẽ tự nhiên thuận lý (hay thuận động) của trời đất và ngày đêm!

Hình2a Hình 2b

Bây giờ, nếu độc giả đến bất cứ tiệm sách nào sẽ thấy khoảng 50% trang bìa của
các sách Dịch học, hoặc các sách Tử Vi đều in Đồ Thái Cực như hình “1a và 1b” ở
trên. Thiết tưởng, Thái Cực là viền mối của DỊCH học, mà nếu không nắm được thì có
khác gì người không tìm được đầu mối của cuộn chỉ rối! Mong rằng đây là sự thiếu
sót vô tình do in ấn gây nên!
CHƯƠNG MỘT
DỊCH KINH
Phỏng theo Chu Dịch của cụ Phan Bội Châu thì KINH DỊCH được làm ra do bốn
ngài Phục Hy, Văn Vương, Chu Công, và Khổng Tử. Ngài Phục Hy vạch ra tám quẻ
(đơn), và mỗi quẻ chồng thêm một (quẻ), tám lần thành ra 64 quẻ (kép); Ngài Văn
Vương làm soán từ vào dưới 64 quẻ; đến con Ngài là Thánh Chu Công, lại làm Hào-từ
đặt vào dưới 384 hào; Đức Khổng Tử lại thể-ý tùy thời của ba Thánh trước mà làm
thêm bản Thập Dực. Dực nghĩa là cánh của con chim, vì Khổng Tử cho rằng sách của
ba vị Thánh trước đã đủ hình con chim rồi, bây giờ thêm lông cánh nữa là hoàn toàn.

Nếu ai đã từng học qua Dịch đều biết rằng mấy ngàn năm qua, đã có không biết
bao nhiêu học giả tranh luận sanh tử về việc ai sáng lập ra Dịch Kinh. Vô hình chung,
hình như, họ đã đặt trọng tâm sái chỗ! Trên thực tế, ai làm ra cũng chẳng quan trọng
lắm, mà chúng ta học được gì nơi Dịch Kinh mới thật sự là quan trọng!

A. Dịch là gì?

- Dịch là Bất Dịch, Giao Dịch, và Biến Dịch.

Bất Dịch có nghĩa là không thay đổi. Tỷ như ta là người con trai (Dương) hay con
gái (Âm) Việt Nam thì dù ta có thay tên Mỹ, đổi họ Mỹ, và đang ở Mỹ cũng vẫn là
người con trai (Dương) hoặc con gái (Âm) Việt Nam (cái gốc).

Giao Dịch là hòa hợp, trao đổi cho nhau. Bất Dịch là nguyên thể (Thể); Giao Dịch
là ứng dụng (Dụng). Tỷ như ta là người Việt Nam ở Mỹ và lấy một cô đầm (Âm) hay
một anh Mỹ (Dương) rồi đẻ con, đó là Giao Dịch.

Biến Dịch là biến hóa, thay đổi. Cũng như ta là người Việt Nam (Bất Dịch) lấy vợ
(Giao Dịch) Mỹ thì hiển nhiên con ta sanh ra (Biến Dịch) phải là Việt Nam lai Mỹ.
Không thể nào là người Việt chánh gốc được. Đó là Biến Dịch.

Ví dụ: nguyên thủy của một người con trai (Dương) hoặc một người con gái (Âm)
là bất-dịch. Nhưng khi giao-dịch sinh ra trai hay gái, ấy là do giao-dịch mà thành
biến-dịch. Khi đã biến-dịch rồi thì bản thể nguyên thủy của trai vẫn là trai và gái vẫn
là gái. Đó là do biến-dịch mà hoàn lại bất-dịch vậy.

Cái lý mầu nhiệm của Dịch là tùy thời, tùy lúc, và tùy phương tiện mà hòa hợp, sử
dụng nên người nào câu nệ ở từ-ngữ, ý niệm, tư tưởng hoặc thí dụ, mà trụ chấp vào
đó thì không thể nào hiểu sâu xa được. Đó chỉ là những phương tiện, “ví như chiếc
thuyền đưa ta qua bên kia sông, khi lên bờ rồi không thể mang chiếc thuyền ấy theo
được” (Kinh Kim Cang). Hoặc “nhân ngón tay mà nhìn mặt trăng vậy, đừng nhìn
ngón tay mà quên mất cái ánh sáng huyền diệu của ánh trăng” (Kinh Viên Giác).
B. Muốn học Dịch thì phải biết chữ Thời.

Bởi thế, Thầy Thiệu Khang Tiết mới nói rằng: “Chu-Dịch nhất bộ, khả nhất ngôn dĩ
tế chi, viết Thì”. Toàn bộ Dịch chỉ một chữ Thì mà bao trùm được hết! Lúc cần phải
dừng lại thì dừng lại, lúc cần phải hành động thì hành động; động tịnh mà đúng lúc
đúng thời là “kỳ đạo quang minh”. Chính bởi vì thời có biến-dịch, nên Dịch lý mới
biến-dịch.

Như ta thấy thời gian trong vũ trụ từ một giờ đến một ngày, một tháng, một năm,
hay một đời người, thay đổi biến hóa không ngừng. Hết ngày tới đêm, hết đêm tới
ngày cứ luân chuyển từng giờ, từng ngày, từng tháng, tạo thành Xuân, Hạ, Thu,
Đông. Hết năm này qua năm khác, bốn mùa cứ biến-dịch rồi hoàn lại bất dịch. Vậy
nên đêm thì ngủ, ngày thì thức và làm việc; mùa Hạ thì dùng máy lạnh, mùa Đông thì
dùng máy sưởi. Đây chỉ là những điển hình của lẽ tự nhiên, nhưng nếu suy rộng ra ta
có thể nhân đó mà tu thân, sửa mình, tề gia, hoặc giáo dục con cái một cách hữu
hiệu hơn. Dù là thiên nhiên vẫn nằm trong Dịch lý “sự cùng tắc biến”, nghĩa là hết
ngày phải tới đêm và hết đêm phải tới ngày. Ngày và đêm là hai thời gian và không
gian trái nghịch nhau (một Âm, một Dương), tuy hai mà một không thể tách rời nhau,
tức là không thể nào ngày hoài mà chẳng đêm hoặc ngược lại. Đây là điểm tối quan
trọng, người nghiên cứu Tử Vi không thể không chú ý.

C. Dịch học là Dịch số:

Trong Dịch học quan trọng nhất là 4 bản Hà Đồ, Lạc Thư, Tiên Thiên, và Hậu Thiên
Bát Quái. Hà Đồ và Tiên Thiên Bát Quái thì nói về vòng Tiên Thiên thuộc về khí (Thể),
tức là nói về đức Càn (trời) lúc còn là bầu không khí (chưa biến dịch). Tất cả vạn vật
đều bắt đầu do trời. Còn Lạc Thư và Hậu Thiên Bát Quái thì nói về vòng Hậu Thiên
thuộc về hình (Dụng), tức là nói về đức Khôn (đất). Tất cả vạn vật đều sinh sôi nẩy
nở từ đó. Ấy là lúc nhân lọai và vạn vật đã thành hình.
I. HÀ ĐỒ

Hình 3

Hà Đồ có khác gì là một bức hình với tổng số 55 khoen đen, trắng. Ấy vậy mà các
bậc Thánh nhân có thể bày thành số Cơ, Ngẫu, Âm, Dương. Cơ là số lẻ (1,3,5,7,9),
thuộc về Dương số (khoen trắng). Ngẫu là số chẵn (2,4,6,8,10), thuộc về Âm số
(khoen đen). Mấu chốt của Dịch chẳng gì khác hơn là Âm-Dương! Hệ Từ Truyện nói
rằng: “Dịch có Thái-Cực, Thái Cực sinh Lưỡng-Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ-Tượng”.
Lưỡng-Nghi là Âm-Dương, mà Tứ-Tượng cũng chỉ là Âm Dương mà thôi.

Nguyên trước khi có trái đất, vũ trụ được bao trùm bởi màn hư không, giữa không
gian ấy tức là (Thái-Cực) thiên, mà ta gọi là trời, và ở trong không khí (Thái-Cực) ấy
hàm súc hai khí Âm và Dương gọi là nhất-âm, nhất-dương. Hai khí Âm Dương kết hợp
với nhau ngưng tụ tạo thành trái đất (địa), mà ta gọi là đất. Khi đã có trời đất rồi thì
liền phát sinh Thủy, Hỏa, Mộc, Kim (Tứ-Tượng) hay còn gọi là Thái Âm, Thiếu Dương,
Thái Dương, Thiếu-Âm. Nên đã đọc Dịch thì phải nhớ câu: Thái-Cực sinh Lưỡng-Nghi,
Lưỡng-Nghi sinh Tứ-Tượng, Tứ-Tượng sinh Bát-Quái.

Nhìn vào Hà Đồ ta thấy có bốn hướng chính là: Đông (Mộc), Tây (Kim), Nam (Hỏa),
Bắc (Thủy), còn ở giửa là Trung (Thổ).

1. Nhìn phía trong của Hà Đồ, ta thấy phương Bắc có một khoen trắng (Dương) bị
bao bọc bởi sáu khoen đen (Âm) bên ngoài (nhất lục Thủy). Như ngầm báo cho ta
biết lúc mà Âm cực thịnh thì đã có Dương ẩn tàng bên trong. (Nên chi người tri thức
gặp vận bĩ vẫn không buồn mà biết ẩn nhẩn để chờ thời)!
2. Cổ nhân cho rằng: nguyên lúc đầu trong trời đất có chất Thủy trước nhất, nên
lấy số (1) làm số thiên sinh Thủy và số (6) thành thủy. Sau khi có Thủy rồi, đồng thời
bao nhiêu nhiệt chất ở trong địa cầu cũng đều phát hiện. Nên phương Nam có hai
khoen đen (Âm) bị bao bọc bởi bảy khoen trắng (Dương) bên ngoài (nhị thất Hỏa),
như ngầm báo khi Dương cực thịnh thì Âm đã ẩn tàng bên trong. (Chính vì vậy, mà
người tri thức lo phòng họa đang khi cực thịnh; còn người ngu si thì lại mừng, quên lo
khi cực thịnh).

3. Đã có Thủy và Hỏa thì đồng thời Mộc là cây cỏ cũng sinh sôi nảy nở, nên phía
Đông có ba khoen trắng bị bao bọc bởi tám khoen đen bên ngoài (tam bát Mộc). Cho
thấy khí Dương đang lấn áp khí Âm (thuộc về mặt trời ban mai, mọc hướng Đông).
Dương ở bên trong làm chủ, nên tinh thần làm chủ vật chất!

4. Đồng lúc ấy, bao nhiêu khoáng chất ở trong địa cầu cũng nảy nở ra nên phía
Tây có bốn khoen đen bị bao bọc bởi chín khoen trắng bên ngoài (tứ cửu kim). Cho ta
thấy khí Âm đang lấn áp khí Dương (thuộc về hoàng hôn, sụp tối, mặt trời lặng
nhường lại cho mặt trăng)1. Âm ở bên trong làm chủ, nên vật chất làm chủ tinh
thần!

5. Như trên đã nói: số 1,3,5,7,9 là số Cơ, thuộc về Dương gọi là Thiên-số. Số


2,4,6,8 là số Ngẫu, thuộc về Âm gọi là Địa-số. Ở trung tâm Hà Đồ ta thấy có số 5
(năm khoen trắng là thiên số Ngũ) Dương. Ở phía Nam có năm khoen đen (Âm), ở
phía Bắc có năm khoen đen (Âm), nếu ta cộng 2 số phương Nam và phương Bắc ấy
lại ta có Địa-số 10 (thập). Thiên-số Ngũ (5) sinh Thổ, Địa-số Thập thành Thổ, 2 số ấy
hợp lại với nhau mà thành Thổ. Ngũ Thập Thổ sở dĩ đặt ở giữa đồ là vì, hai số ấy là
trung tâm điểm của công dụng Tạo-hóa. Như ta thấy tất cả Thủy, Hỏa, Mộc, Kim gì
cũng đều từ đất mà phát sinh. Vậy nên số 5 (Thổ) phải được phối hợp với bốn số
1,2,3,4 mới thành được Thủy, Hỏa, Mộc, Kim.

Thí Dụ: số 1 là số sinh Thủy, cộng với 5 (Thổ) thành 6, nên 6 là số thành Thủy.

Thế nên mới nói:


Số 1 sinh Thủy, số 6 thành Thủy
Số 2 sinh Hỏa, số 7 thành Hỏa
Số 3 sinh Mộc, số 8 thành Mộc
Số 4 sinh Kim, số 9 thành Kim
Số 5 sinh Thổ, số 10 thành Thổ

Từ đó chúng ta cũng biết được số 1,2,3,4,5 là số Sinh, còn số 6,7,8,9 và 10 là số


Thành. Số 1,3,5 là số Dương sinh, và 2, 4 là số Âm Sinh; còn số 6,8,10 là số Âm
Thành, và 7, 9 là số Dương thành. Để kiểm định lại, ta thấy hễ số Sinh là Dương thì
số Thành là Âm, mà số sinh là Âm thì số thành phải là Dương. Suy ra, ta có một
nhóm số từ một đến mười (Thái Cực). Rồi chia làm hai ra (Lưỡng Nghi) thành nhóm số
Sinh và nhóm số Thành, và lại chia làm bốn ra (Tứ Tượng) thành số Dương Sinh, Âm
Sinh, Dương Thành, và Âm Thành. Tựu trung vẫn là thuyết Âm Dương! Như nhóm
Thái Cực từ 1 đến 10 chỉ là sự tập hợp của những số Âm và số Dương, rồi đến Lưỡng
Nghi cũng là Âm với Dương, và Tứ Tượng cũng vẫn là Âm với Dương mà thôi (1).
____________________
1. “Chu Dịch Tập Giải” giải thích về các con số như sau: “Trời cao bắt đầu từ ba (3) trở đi đếm tiếp
5,7,9, không lấy 1. Đất rộng bắt đầu từ hai (2) nhưng đếm ngược lại từ 10, 8, 6, không lấy 4”, chính vì vậy
mà Hào Dương thì gọi là Hào Cửu, và Hào Âm thì gọi là Hào Lục. Chúng tôi nghĩ đây là điểm rất quan trọng
cho Tử Vi, vì câu nầy đã giúp tìm ra các Cục trong Tử Vi.
Tóm lại, nguyên lý của tạo hóa, vạn vật hóa sinh, đều do Âm-Dương hòa hợp mà ra. Âm-Dương được
gọi là hai cực, hai khí, hoặc hai trạng thái, ...v.v., trái nghịch nhau nhưng hỗ tương cho nhau để sinh tồn.
Như chúng ta biết, mặt trời mọc phương Đông lặn phương Tây. Phương Đông Dương thịnh (nên trọng
nam khinh nữ), bởi vậy không gian thường sáng. Phương Tây Âm thịnh (do đó phái nữ được trọng) nên
không gian thường tối, chỉ có mặt trăng không đủ sức làm cho không gian sáng sủa, ngoại trừ những đêm
trăng rằm (nhưng hễ cái gì hiếm thì quý!). Theo luật bù trừ: mặt trời sáng sủa, tỏa rộng, nhưng nóng cháy;
còn mặt trăng thì ít khi tròn nhưng lại trong sáng, mát dịu, và là biểu tượng của thơ văn. Về học vấn thì
người phương Tây giỏi về chuyên ngành, người phương Đông thì giỏi về tổng quát.
Dương tượng trưng cho khí (tinh thần), còn Âm tượng trưng cho hình (vật thể). Cũng chính bởi lý đó,
mà ta có thể biết được người Đông-phương thì sống thiên về tinh thần (khí-Thể), còn người Tây-phương thì
quan trọng vật chất (vật thể hay hình-Dụng). Hiện nay, người Việt ở những nước Tây-Âu có mức ly dị khá
cao so với người Việt trong nước, với những lý do thật đơn giản như: chồng không cung cấp đủ tiền bạc,
hoặc sinh lý... Những vấn đề nầy sẽ lan truyền sang Việt Nam trong một thời gian không lâu nữa, khi mà
đời sống vật chất ở Việt Nam đòi hỏi ngang bằng Tây-Âu. Từ đó, chúng ta có thể kết luận rằng những
người ham mê vật chất (nhiều lòng tham và dục vọng) thì thân tâm thường lu mờ, thiếu lòng nhân và tâm
từ thiện. Họ là những người sống trong bóng đêm! Trong Tử Vi họ là những người ôm vòng: Dục, Suy,
Tuyệt, hoặc Đào Hoa-Thiên Không, hay Tham-Vũ.
Vì tượng cho Mộc (cây cỏ) nên Đông phương chủ về nông nghiệp, còn Tây phương tượng là Kim nên
chủ về công nghiệp và cơ khí. Như ta thấy người Tây phương (Kim tượng cứng cỏi) quá dũng mãnh nên
hay sát phạt. Nên từ chiến tranh bộ-lạc, chiến tranh lập quốc, xâm chiếm lục-địa, và đến Thế-chiến, Tây
phương đã đổ không biết bao nhiêu xương máu. Trong khi sau Thành Cát Tư Hãn mấy trăm năm mới thấy
Nhật khởi binh khuấy động thế giới trong đệ nhị Thế-Chiến.
Đông tượng trưng cho Mộc nên thể tính (tạng người) mềm mại (thường nhỏ con), còn Tây phương
tượng trưng cho Kim nên thể tính cứng cỏi (thường bự con). Tuy nhiên như trên đã nói, phương Đông
Dương bên trong, Âm bên ngoài nên bề ngoài thì mềm dẽo nhỏ thó, nhưng bên trong tiềm tàng một tinh
thần bất khuất và gan lì. Còn phương Tây thì Âm bên trong Dương bên ngoài nên thấy tướng to lớn bề thế,
nhưng bên trong lại rất nhu và yếu mềm (đây cũng là lý do tại sao Tây phương thờ vợ). Hơn nữa, chính cái
khí nóng của (mặt trời) Thái Dương (vì lằn “vĩ” thuộc về không gian mà phương hướng là không gian, nên
lấy lằn xích-đạo làm trục chánh), và Châu Á nằm ngay đường xích-đạo nên người châu Á rất nóng tính,
thích đánh lộn, hơn cải nhau. Còn người phương Tây thích cãi nhau, và họ rất nhát so với người Á Đông.
Cũng như phương Nam thuộc quẻ Ly ở giữa rỗng bụng như cái miệng mở, nói nhiều hoạt bát, tính
nóng nhưng thường rộng rãi, nặng về vật chất phô trương. Phương Bắc thuộc quẻ Khảm ở giữa đặc ruột
như cái miệng khép, nói năng cẩn trọng, tính nguội nhưng thường hiểm, nặng về tinh thần. Phương Nam
Dương bao bọc bên ngoài (Thất), Âm bên trong (Nhị) nên tính tình nhu thuận, còn Phương Bắc, Âm bên
ngoài (Lục), Dương bên trong (Nhất) nên tính bạo động. Đây là lý do tại sao toàn thế giới không một nước
nào miền Nam đi xâm chiếm miền Bắc (khi phân tranh), mà toàn miền Bắc xâm chiếm miền Nam thôi.
Cổ nhân Chỉ dùng Hà Đồ và Lạc Thư mà trên thông Thiên Văn, dưới đạt Địa Lý, ngồi ở nhà mà vẫn biết
hết chuyện thiên hạ. Thật là tài tình!
II. LẠC THƯ

Hình 4

Trung Quốc là một nước rất thích thần thoại hóa sử học của họ! Thật ra, lý do
không ngoài mục đích tạo đức tin và lòng tín ngưỡng của người dân đối với các Thiên
Tử (con trời) của các triều đại để họ có thể dễ cai trị. Vì vậy mà họ đã nói rằng: Hà
Đồ là do vua Phục Hy thấy được trên lưng con Long-Mã đã hiện ra trên sông Mạnh Hà,
còn Lạc Thư là do vua Đại Vũ đã thấy được trên lưng con rùa thần ở sông Lạc. Và thời
nay, nhiều người Việt Nam cho rằng Lạc Thư là của Việt Nam, nhưng thiết tưởng như
tôi đã nói trước đây: "ai làm ra không quan trọng, mà quan trọng là chúng ta học
được gì từ nó".

Dựa vào lời tương truyền trên, nên họ lập Đồ Lạc Thư (hình 4) có hình thù giống
như con rùa và đặt khẩu quyết như sau:

Đầu đội 9, đuôi đạp 1;


Sườn trái 3, sườn phải 7;
Vai trái 4, vai phải 2;
Chân trái 8, chân phải 6;
Số 5 ở giữa lưng (không có 10).

Cộng tất cả có 9 ngôi, và người ta cũng dùng để lập Cửu Trù hay ma-phương; số 5
ở giữa, tượng là Thái Cực.

Nhìn vào Lạc Thư ta thấy có những khác biệt với Hà Đồ như sau:
1. Các con số tổng cộng là 45 số vì không có con số 10.
2. Tất cả các con số của Lạc Thư là con số đơn, vì những con số Âm đã phân tán
ra bốn góc như:
a. Số 2 chuyển qua góc Tây Nam.
b. Số 4 chuyển qua góc Đông Nam.
c. Số 8 chuyển qua góc Đông Bắc.
d. Số 6 chuyển qua góc Tây Bắc.

Bốn phương vị chính Đông (3), Tây (7), Nam (9), Bắc (1) thì thuộc Dương; còn bốn
góc là Âm.

3. Hậu Thiên chú trọng nhất là con số 5 ở trung cung, còn được gọi là con số
“Tam Thiên Lưỡng Địa", vì số 5 là số hỗn hợp của Âm căn 2 và Dương căn 3 (2 + 3 =
5). Nghĩa là số 2 là số căn của Âm số, còn số 3 là số căn của Dương số.

- Phần sau là nguyên văn của cụ Nguyễn Duy Cần (2) về những con số trong Lạc
Thư do đâu mà có. Cụ đã giúp tôi khám phá được nhiều bí ẩn của Tử Vi mà xưa nay
đã bị chôn kín. Biết đâu từ đó, sau nầy có người sẽ tìm được nhiều điều mới lạ khác.

- Lạc Thư: Dương số ở các phương chính, Âm số ở các phương cạnh.


a. Dương thịnh qúa, sinh Âm: số 9 và số 7 ở Tây và Nam là số Dương thịnh, nên
giữa Tây và Nam (tức là Tây-nam) phát sinh âm số, số 2 ở Tây Nam:

9 + 7= 16
Bỏ 10 còn lại 6 (16 - 10 = 6)
6 + 6 = 12
Bỏ 10 còn lại 2 (12 - 10 = 2)
Số 2 ở Tây-nam

b. Số 3 ở Đông; số 9 ở Nam:
3 + 9 = 12
Bỏ 10 còn 2 (12 - 10 = 2)
2+2=4
Số 4 ở Đông-nam
c. Số 7 ở Tây; số 1 ở Bắc:
7+1=8
8 + 8 = 16
Bỏ 10 còn 6 (16 - 10 = 6)
Số 6 ở Tây-bắc
d. Số 3 ở Đông; số 1 ở Bắc:
3+1=4
4+4=8
Số 8 ở Đông-bắc

Số 5 là con số trung bình ở giữa để làm mức độ cho các con số chung quanh. Lấy
số Dương căn bản là 5 cộng với số Dương 1, 3, 5, 7, 9 thành ra số Âm 6, 8, 4, 2.

a) 5 + 9 = 14
(Trừ 10 còn lại 4, nên số 4 ở liên tiếp với số 9)
b) 5 + 3 = 8
(Cho nên số 8 ở liên tiếp với con số 3)
c) 5 + 1 = 6
(Cho nên số 6 ở liên tiếp với số 1)
d) 5 + 7 = 12
(Trừ 10 còn lại 2, nên số 2 ở liên tiếp với con số 7).

- Lẽ biến hóa Âm-Dương thấy rõ ở Hà Đồ và Tiên Thiên Bát Quái: Dương số đi


vòng thuận, đi quanh phía tả từ Bắc sang Đông, sang Nam rồi từ Nam qua Tây, qua
Bắc... (thuận chiều kim đồng hồ).
Âm số đi vòng nghịch, đi quanh bên hữu, từ Tây-nam qua Đông-nam, đến Đông-
bắc, đến Tây-bắc, rồi trở lại Tây-nam (ngược chiều kim đồng hồ).
________________
2. “Dịch Học Tinh Hoa” của Nguyễn Duy Cần, tr. 92-94.
a) Dương số bắt đầu từ số 3:

Vì số 1 chưa có số thừa trừ, nên phải tính từ số 3 (lấy số 3 làm căn-bản), số 3 ở


phía Đông.

Số 3 nhân cho 3 : (3 x 3 = 9)
Số 9 ở phía Nam (Lão Dương)
Số 3 nhân cho 9 : (3 x 9 = 27)
Trừ 2 lần 10, còn lại 7
Số 7 ở phía Tây
Số 3 nhân cho 7 : (3 x 7 = 21)
Trừ 2 lần 10, còn lại 1
Số 1 ở phía Bắc
b) Âm-số bắt đầu từ số 2, nên lấy số 2 làm căn-bản. Số 2 ở Tây-nam, Thiếu Âm.
2 x 2 = 4 (ở Đông-nam)
2 x 4 = 8 (ở Đông-bắc)
2 x 8 = 16 (trừ 10 còn 6)
Số 6 ở Tây-bắc
2 x 6 = 12 (trừ 10 còn 2)
Số 2 ở Tây-nam

Lạc Thư chỉ nói con số 9 mà không nói số 10, là chú trọng về khí hóa và ngũ-hành;
cũng như Hà Đồ nói về số 10, tức là chú trọng về Âm Dương.

Đây là điểm tối quan trọng, không hiểu cụ Nguyễn Duy Cần đã dựa vào sách nào,
hay do cụ thẩm thấu được. Nhưng, dù sao thì điểm nầy độc giả cũng nên nghiền
ngẫm!

***************
Ma Phương:

4 9 2
3 5 7
8 1 6

Nếu cộng tất cả các chiều xuôi, ngược, dọc, ngang gì thì số thành vẫn là 15 (15 -
10 = 5). Vậy nên, con số 5 là con số Thái Cực ở trung cung, sinh hóa ra vạn vật.
Những vị trí và con số của Lạc Thư và Hậu Thiên Bát Quái có một giá trị rất cao đối
với những khoa thực dụng như: Y-học, Lý-Mệnh-học, Toán-học, Hóa-học v.v... Vì huyền
nghĩa của nó đã gồm thâu toàn bộ vũ trụ vào trong ấy. Triết thuyết của Đông phương
nói chug và Dịch Học nói riêng rất xem trọng những con số, phương hướng và vị trí
của những con số trên (Dịch Số)!

III. TIÊN THIÊN BÁT QUÁI

Hình 5

Ngài Phục Hy vạch ra tám quẻ thành hình Bát Quái mà hình dung đại tạo hóa của
Thiên Địa. Như trên đã đề cập về Thái Cực là Âm Dương chưa phân, lúc vũ trụ còn
hỗn mang gọi là Thái Cực vì bao la đến vô cùng, vô tận. “Sự cùng tắc biến”, nên
Thái Cực phân hóa thành Âm-Dương, mà hình thành trời (Càn) và đất (Khôn). Tuy
nhiên, xưa nay bàn cãi về Bát Quái rất nhiều, nhưng chưa ai xác định được cách vạch
tám Quẻ. Riêng cụ Đào văn Dương đã viết như sau:

- Riêng biệt về quẻ CÀN và KHÔN, Thánh Nhân lại ghi thêm DỤNG CỬU và DỤNG LỤC
mà hậu thế muốn hiểu rõ phải xét qua ba mặt, TRIẾT HỌC, KHOA HỌC, và SỬ HỌC
mới khám phá ra DỤNG CỬU và DỤNG LỤC.
Cho đến nay, không hề có một học giả Trung Hoa nào, trải qua mấy ngàn năm, đã
hiểu nổi DỤNG CỬU và DỤNG LỤC. Những học giả lỗi lạc của Trung Hoa như Trần
Thục Am, Kinh Phòng, và ngay cả những nhân tài bậc nhất như Chu Liêm Khê và
Thiệu Khang Tiết cũng không giải thích nổi. Lý do rất giản dị là các vị đó chỉ lưu tâm
đến TRIẾT HỌC, mà không biết còn phải phối hợp với TOÁN HỌC, và SỬ HỌC mới hiểu
được cặn kẻ DỤNG CỬU và DỤNG LỤC...
Khởi điểm là Lưỡng Nghi DƯƠNG ( ) và ÂM ( ): đó chỉ là DỤNG CỬU và
DỤNG LỤC lần 1 để mỗi TƯỢNG có 1 hào.
Ta thực hiện DỤNG CỬU lần nữa thì được hai tượng THÁI DƯƠNG (I) và THIẾU ÂM (II),
tiếp đến là DỤNG LỤC thì được hai tượng THIẾU DƯƠNG (III) và THÁI ÂM (IV), mỗi
tượng có 2 hào:

(I) (II) (III) (IV)

Ta cũng nên biết: ta khởi điểm từ hào DƯƠNG (tượng I và III), vạch thêm hào Dương
(tức DỤNG CỬU) thì được THÁI DƯƠNG (tượng I), còn vạch thêm hào Âm (tức DUNG
LỤC) thì tất nhiên sẽ được THIẾU DƯƠNG (tượng III). Cũng như trên, ta khởi điểm từ
Hào Âm (tượng II và IV) mà vạch thêm Hào Âm (tức DỤNG LỤC) thì được Thái ÂM
(tượng IV), còn vạch thêm HÀO DƯƠNG (tức DỤNG CỬU) thì được THIẾU ÂM (tượng
II).

Vậy TỨ TƯỢNG phải là THÁI DƯƠNG (I), THIẾU ÂM (II), THIẾU DƯƠNG (III), và THÁI
ÂM (IV)...
Bây giờ, ta thực hiện DỤNG CỬU lần nữa (lần thứ ba) xuống dưới TỨ TƯỢNG thì được
bốn quái thuộc CÀN ĐẠO là CÀN (1), ĐOÀI (2), LY (3), CHẤN (4):

1 2 3 4

Ta thực hiện DỤNG LỤC thì được 4 quái thuộc KHÔN ĐẠO là TỐN (5), KHẢM (6), CẤN
(7), KHÔN (8).

5 6 7 8

Vậy BÁT QUÁI NGUYÊN THỦY phải là: CÀN (1), ĐOÀI (2), LY (3), CHẤN (4), TỐN (5),
KHẢM (6), CẤN (7), KHÔN (8).
Nếu ta khởi điểm từ HÀO ÂM (- -) rồi đến HÀO DƯƠNG (--), ta phải thực hiện DỤNG
LỤC trước, rồi DỤNG CỬU sau. Ta sẽ có thứ tự ngược lại: TỨ TƯỢNG sẽ là THÁI ÂM,
THIẾU DƯƠNG, THIẾU ÂM, THÁI DƯƠNG, còn BÁT QUÁI thành KHÔN, CẤN, KHẢM,
TỐN, CHẤN, LY, ĐOÀI, CÀN.

Như vậy, khởi điểm từ DƯƠNG đến ÂM hay từ ÂM đến DƯƠNG, kết quả chỉ là đi từ
trái sang phải hay từ phải sang trái 3.
Phần nầy tác giả bàn rất hay, nhưng tôi lại thấy có điều không ổn, hình như không
đúng với Dịch Lý. Vì theo Dịch Lý thì vạch quẻ phải vạch từ dưới lên, và đọc quẻ thì
đọc từ trên xuống, vả lại lý do có Bát Quái theo như truyền thuyết là như thế nầy:

- Nguyên lúc đầu Thánh Phục Hy thoạt thấy được lẽ Vũ Trụ Tạo Hóa, chỉ có một
Dương một Âm. Vậy nên vạch một nét cơ (lẻ) – một nét ngang liền ( ) – tức là
nét Dương; lại vạch một nét ngẫu (chẵn) – hai nét ngang đứt ( ) – tức là nét
Âm.

Vạch xong hai nét rồi, lại thấy ở trong Vũ Trụ phải có Thiên, Địa, Nhân, mới đủ
Tam Tài mà thành được Vũ Trụ. Vì vậy Dương phải có ba nét và Âm cũng phải có 3
nét. Vạch xong hai Quẻ 3 nét ấy rồi thì, thấy quẻ 3 nét Thuần Dương là Càn, quẻ 3
nét Thuần Âm là Khôn.

Khi vạch xong 2 quẻ Càn, Khôn rồi, lại thấy ở trong Vũ Trụ chẳng bao giờ cô Dương
mà sinh, và cô Âm mà thành. Nếu chỉ có Thuần Âm, Thuần Dương mà thôi thì không
thể thành được Vũ Trụ vậy, nên phải vạch thêm sáu quẻ nữa. Đạo Càn (Dương) nhân
giao dịch với Âm mà thành ra ____________________
3. “Nhữg Khám Phá Mới Về Dịch Kinh” của Đào Văn Dương, trang 19-20.
Dựa theo cụ Đào Văn Dương thì: biết bao nhiêu siêu nhân từ xưa đã không thấu triệt cách vạch Quẻ
của thánh nhân. Theo cụ thì luôn cả Thầy Thiệu Khang Tiết là một đại tông sư Dịch Học mà cũng chưa giải
thích hết được. Thử hỏi, nếu cổ nhân truyền lại một môn học nào đó, liệu có đúng 100% không? Chắc
chắn phải có những sơ sót, nên những người đi sau phải có bổn phận bổ túc. Cũng thế, dù đệ tử chân
truyền của Ngài Trần Đoàn viết sách Tử Vi để lại cũng chưa chắc là đúng hết, chưa kể tam sao thất bổn.
Cho nên, nếu chúng ta tin thì phải “tin trong sự sáng suốt” như Đức Phật đã nói!
Tốn, Ly, Đoài; Đạo Khôn (Âm) nhân giao dịch với Dương mà thành ra Chấn, Khảm,
Cấn. Do đó ta thấy từng hào một biến từ dưới lên như sau:

Quẻ Càn Tốn Ly Đoài

Quẻ Khôn Lôi Chấn Sơn

Nhưng ở trên là nói theo lý Âm Dương giao dịch, còn theo vạch quẻ thì Thánh
Nhân vạch quẻ Càn từ dưới lên thành 3 vạch Dương (vạch dài). Khi đã đến cùng thì
hào trở lại động để di xuống thành ra Đạo Càn có:

Càn Đoài Ly Chấn

1 2 3 4

Thánh Nhân vạch quẻ Khôn từ dưới lên thành 3 vạch đứt. Khi đã đến cùng thì hào
trở lại động đi xuống thành ra Đạo Khôn có:

Tốn Khảm Cấn Khôn


5 6 7 8

Ta thấy trong Tiên Thiên Bát Quái các quẻ đi theo chiều nghịch vì đó là đạo Tự
Nhiên trước khi có trời đất chuyển nghịch để tìm về quá khứ, (bởi Thánh Nhân muốn
mượn cái đã có để tìm về cái chưa có thì phải chuyển nghịch). Do đó, trong Tiên
Thiên Bát Quái trước là quẻ Càn số 1 động lần đầu thành Đoài số 2, động lần sau
thành quẻ Ly số 3, động lần nữa thành Chấn số 4. Nhưng tại sao Càn động lần thứ 3
lại không thành Tốn mà thành Chấn. Đó là bởi Thánh Nhân không cho động hào dưới
của quẻ Càn ở lần thứ 3, vì nếu cho động như thế thì Càn động hết 3 hào Dương sẽ
trở thành quẻ Khôn còn gì, nên phải đổi thành động hào 3 ở trên và hào 2 ở giữa do
trước đã động qua hai lần mà dùng cho lần thứ 3.

Kế đó là quẻ Khôn đối với Càn vì có Trời thì phải có đất. Quẻ Khôn số 8 động lần
đầu thành Cấn số 7, động lần sau thành Khảm 6, động lần nữa thành Tốn số 5. Điểm
tối yếu ở đây là Đạo Trời (Càn) thuận động chuyển số theo chiều thuận, 1, 2, 3, 4; Còn
Đạo Đất (Khôn) chuyển nghịch số 8, 7, 6, 5. Đây là nguyên ý của Thánh Nhân nhưng
chưa thấy ai bàn đến.

Đạo lý là như vậy, nhưng khi Thánh Nhân lập Đồ Tiên Thiên Bát Quái là thuận
theo lẽ tự nhiên của Vũ Trụ mà sắp xếp theo từng cặp tương đối với nhau, như:

- Càn đối với Khôn: Càn là Trời ở trên, ở phương Nam, nóng thuộc Hỏa (Dương);
Khôn là Đất ở dưới, ở phương Bắc, lạnh thuộc Thuỷ (Âm), đối diện với nhau định ngôi
Trời Đất.
- Đoài đối với Cấn: Đoài ở Đông Nam vì Đông Nam có nhiều đầm hồ; Cấn ở Tây
Bắc vì Tây Bắc có nhiều đồi núi, đó là núi đầm thông khí.
- Chấn đối với Tốn: Tốn ở Tây Nam vì Tây Nam là nơi nóng lạnh xô xát nhau sinh
ra gió; Chấn ở Đông Bắc vì gió từ Tây Nam thổi qua Đông Bắc gây ra tiếng động, hoặc
sáng (Ly) tối (Khôn) cọ xát nhau sinh ra sấm, đó là sấm gió xô xát.
- Ly đối với Khảm: Ly là mặt trời ở Đông vì mặt trời mọc phương Đông, Khảm là
mặt trăng nên hiện ở phương Tây, đó là nước lửa thân thiết nhau.

Thuyết Quái Truyện nói rằng: “Trời Đất định vị trí phối hợp trên dưới, Núi Đầm một
cao một thấp đủ thông khí, Sấm Gió tuy mỗi cái tự hưng động nhưng có thể ngầm
nhập giao nhau, ứng hóa với nhau, Thủy Hỏa tuy khác tính nhưng không ghét nhau,
khác mà đỡ đần nhau, Bát Quái đắp đổi nhau, lay động chà xát hỗn hợp mà sinh ra
64 quẻ”, là vậy. (Tuy nhiên, có người hiểu lầm cho rằng Thánh Nhân dựa vào địa dư
của Trung Quốc mà lâp ra).

THỨ TỰ CỦA TIÊN THIÊN BÁT QUÁI

1 2 3 4 5 6 7 8
Bát Quái CÀN ĐOÀI LY CHẤN TỐN KHẢM CẤN
KHÔN
Tứ Tượng

THÁI DƯƠNG THIẾU ÂM THIẾU DƯƠNG


Lưỡng Nghi THÁI ÂM
DƯƠNG ÂM
Tại sao sắp xếp theo thứ tự Càn – Đoài – Ly – Chấn – Tốn – Khảm – Cấn – Khôn?

Đối với Dịch học mà nói thì dù có thiên biến vạn hóa cũng không thoát khỏi Âm và
Dương. Thầy Thiệu Khang Tiết nói: “Thứ tự Tiên Thiên Bát Quái: Càn 1, Đoài 2, Ly 3,
Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Càn, Đoài, Ly, Chấn thuộc phần Dương. Tốn,
Khảm, Cấn, Khôn thuộc phần Âm. Càn, Đoài là Thái Dương (Lão Dương), Ly, Chấn là
Thiếu Âm; Tốn, Khảm là Thiếu Dương, Cấn, Khôn là Thái Âm”.

Lại một thuyết khác cho rằng:


- Càn là Trời, có Trời mới có muôn vật.
- Đoài tiếp theo là vì đã có trời đất tất phải có sương mù.
- Ly tiếp theo là vì đã có sương mù tất phải có khí nóng đối lại.
- Chấn là do hơi nước và khí nóng gây ra nên phải tiếp theo Ly.
- Tốn tiếp theo Chấn bởi lẽ sự chuyển động sẽ gây ra gió.
- Khảm tiếp theo, bởi lẽ khi có gió thì nước chuyển theo.
- Cấn liền theo Khảm vì nước lưu chuyển kết quả sẽ làm đất thành đồi thành núi.
- Khôn ở cuối vì là sự hoàn tất của sự che chỡ, và dung chứa tất cả.

Phân Âm-Dương là thành lưỡng nghi. Lấy Dương thay cho trời, lấy Âm thay cho
đất. Hào Âm và hào Dương là ký hiệu căn để hình thành Bát Quái. Hai nghi Âm –
Dương trong đồ Thái Cực ôm ngoạm lấy nhau, biểu thị cho Âm Dương giao nhau trong
hài hòa, để sinh sinh biến biến.

Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng là Âm Dương trùng nhau và Âm Dương giao nhau mà
ra.

Tứ Tượng sinh Bát Quái, vẫn là Âm-Dương trùng hợp mà thành. Lưỡng Nghi là
Âm-Dương tượng cho trời đất, giờ thêm một hào nữa cho đủ tam tài (trời, đất, người)
mà thành Bát Quái. Và điều nầy cũng nói lên con người, đầu đội trời chân đạp đất, là
vật chí linh được dự phần với trời đất để cải sửa số phận, hay bổ túc cho vũ trụ. Cao
Hanh nói: “Thiếu Dương, Lão Dương, Thiếu Âm, Lão Âm vẫn tượng trưng cho tứ thời,
Bát Quái chính là bốn cái đó tạo thành”.

Trong Tiên Thiên Bát Quái thấy từ 1, 2, 3, 4 đi ngược chiều kim đồng hồ; còn 5, 6,
7, 8 thì lại thuận chiều. Đây là một điểm tối quan trọng cho môn Tử Vi, nhưng chưa
thấy ai bàn đến. Chúng ta sẽ bàn trong phần thành lập lá số Tử Vi, và an sao Tử Vi.
IV. HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Hình 6

Nhiều người cho rằng Hậu Thiên Bát Quái là dựa theo phương vị của các quẻ Thuyết
Quái trong câu:

1. Đế xuất hồ Chấn: Vũ trụ vận động bắt đầu từ quẻ chấn (Quẻ Chấn là phương
Đông, lệnh của tháng 2, mùa Xuân, mặt trời phương Đông mọc lên, là thời kỳ tỏa
chiếu cho vạn vật sinh trưởng).

2. Tế hồ Tốn: Vận hành đến quẻ Tốn, vạn vật đã đầy đủ, hưng vượng (Quẻ Tốn là
Đông Nam, lệnh của tháng 3 tháng 4, mặt trời đã lên cao, chiếu rọi vạn vật rõ ràng).

3. Tương kiến hồ Ly: Quẻ Ly là tượng trong ngày ánh sáng rực rỡ, mọi vật đều thấy rõ
(Quẻ Ly là phương Nam lệnh của tháng 5, chính là lúc mặt trời ở trên cao, nhìn rõ mọi
vật đang sinh trưởng).

4. Chí dịch hồ Khôn: Thiên đế (chỉ vũ trụ) giao cho đất (Khôn) trọng trách (dịch) nuôi
dưỡng vạn vật (Quẻ Khôn là phương Tây Nam, lệnh của tháng 6 tháng 7; khôn là đất,
nuôi dưỡng vạn vật, thời kỳ vạn vật đã phát triển đầy đủ).

5. Thuyết ngôn hồ Đoài: là lúc vạn vật tươi vui (thuyết tức tươi vui) bèn ứng ở quẻ
Đoài là phương Tây lệnh của tháng 8, chính là lúc hoa quả trĩu đầy, lúc mừng được
mùa).

6. Chiến hồ Càn: Thời khắc tương ứng với quẻ Càn, vạn vật mâu thuẫn, đối lập, đấu
tranh (Quẻ Càn là phương Tây Bắc, lệnh của tháng 9 tháng 10. Mặt trời đã Xuống
chân phía Tây, là lúc tối sáng, Âm-Dương đấu tranh lẫn nhau).

7. Lao hồ Khảm: Khi vũ trụ đã vận hành đến khảm, mặt trời đã lặn, vạn vật mệt mỏi
(Quẻ Khảm là phương Bắc, lệnh của tháng 11. Khảm là nước không ngừng chảy,
nghĩa là lao khổ. Mặt trời ở phương nầy hoàn toàn không có, vạn vật đã mệt mỏi, là
lúc nên nghỉ).
8. Thành ngôn hồ Cấn: Vũ trụ vận hành đến quẻ Cấn là đã hoàn thành một chu kỳ và
sắp bước sang một chu kỳ mới (Quẻ CẤn là phương Đông Bắc, lệnh của tháng 12 và
tháng Giêng, tức giao thời của Đông và Xuân, đen tối sắp qua, ánh sáng sắp tới, vạn
vật đến đây đã kết thúc một ngày, cũng là lúc ngày mới sắp bắt đầu).

Rất nhiều người đã cho rằng, “quá trình tuần hoàn của Hậu Thiên Bát Quái hầu như là
quá trình thuận, tức mô phỏng trời quay sang trái”. Tức là sự chuyển động tự nhiên
của trái đất phải quay theo chiều kim đồng hồ. Trong “Vân Đài Loại Ngữ” của Lê Qúi
Đôn, chương Hình Tượng loại có bàn như sau:

- Đối với thuyết “trời quay về tả, mặt trời, mặt trăng và 5 vì sao (Kim tinh, Mộc tinh,
Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh) chuyển về hữu”, xưa nay bàn cãi đã nhiều. Nhưng theo
Kinh Dịch: “Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi
không quá độ”, thì cứ lấy câu ấy ta cũng đủ xét đoán.
Cứ xem trên mặt đất thì thấy 7 sao (tức là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, mặt trời và mặt
trăng) lớn đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Nay xét ngược lại cho
hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.
Điều nầy cũng rất quan trọng và có liên quan mật thiết với khoa Tử Vi, vì 12 cung của
lá số Tử Vi là biến thể của hình Hậu Thiên Bát Quái. Và nó là lý do tại sao vòng Thái
Tuế an theo chiều thuận mà bất kể là Dương nam, Âm nữ, hay Âm nam, Dương nữ.
Chúng ta sẽ bàn sau trong phần lập thành lá số Tử Vi.
Có Trời Đất thì có bốn Mùa, rồi bốn Mùa lại chia ra thành tám Thời: Xuân Thủy (đầu
Xuân), Xuân Chí (giữa Xuân), Hạ Thủy (đầu Hạ), Hạ Chí (giữa Hạ), Thu Thủy (đầu
Thu), Thu Chí, Đông Thủy, Đông Chí.

Đông Ba nói: “Vua Phục Hy đặt ra 8 quẻ, mỗi quẻ 3 vạch để tượng trưng 24 khí tiết.
Thiên Nguyệt Lệnh trong kinh Lễ chua rằng: Chu Công làm ra phép xem giờ, định ra
24 khí, 72 tiết hậu. Lấy 5 ngày là một tiết hậu, một tháng 6 tiết hậu, 5 nhân với 6 là
30 ngày, 3 tiết hậu là một khí, một khí có 15 ngày” 4.

Họ lấy Khảm, Chấn, Ly, Đoài làm Quẻ bốn Mùa. Bốn Quẻ nầy mỗi Quẻ chủ quản 6
Tiết Khí: Đông chí, Tiểu Hàn, Đại Hàn, Lập Xuân, Vũ Thủy, Kinh Trập do Khảm chủ
quản; Xuân phân, Thanh Minh, Cốc Vũ, Lập Hạ, Tiểu Mãn, Mang Chủng do Chấn chủ
quản; Hạ Chí, Tiểu Thử, Đại Thử, Lập Thu, Xử Thử, Bạch Lộ do Ly chủ quản; Thu Phân,
Hàn Lộ, Sương Giáng, Lập Đông, Tiểu Tuyết, Đại Tuyết do Đoài chủ quản. Mỗi Quái có
6 Hào, mỗi Hào quản một Tiết Khí, và mỗi Tiết Khí có Sơ Hậu, Thứ Hậu, Mạt Hậu nên
24 Tiết Khí có tổng cộng 72 Hậu.

Lý luận Quái Khí nói trên, là lấy từ Quái Cấu đến Quái Càn làm Quái giao biến tin tức
cho 12 Tháng. Lấy 48 Quái còn lại phối với 12 Tháng như vậy mỗi Tháng có 5 Quái
tin tức, mỗi Quái 6 Hào lần lượt chủ quản 6 Ngày, và 5 Quái có 30 Hào làm số ngày
cho mỗi Tháng. (Cổ nhân chắc đã dùng cách nầy để lập 5 Cục và an định vòng sao
Tử Vi). Đây là chỗ dựa để chế định lịch pháp mà sách “Tam Thống Lịch” của cha con
Lưu Hướng, Lưu Hâm, “Chính Quan Lịch” đời Bắc Ngụy, “Khai Nguyên Đại Diễn Lịch”
đời Đường đều áp dụng 5.

Phần tượng quẻ của Bát Quái có lẽ quan trọng cho Tử Vi, nên tôi cũng xin chép ra đây
để độc giả tham khảo.

Thứ Tự Hậu Thiên Bát Quái thể hiện nam nữ giao hợp, vạn vật hóa sinh, thuyết minh
Đạo Càn thành nam,Đạo Khôn thành nữ. Nếu được khí của cha làm nam, được khi
của mẹ làm nư.õ Ba nam đều lấy Khôn mẹ làm Thể, Càn cha làm Dụng; ba nữ đều
lấy Càn cha làm Thể, Khôn mẹ làm Dụng. Tượng trưng cho một gia đình: Càn là cha,
Khôn là mẹ, Chấn là con trai trưởng, Tốn là con gái trưởng, Khảm là con trai giữa, Ly
là con gái giữa, Cấn là con trai út, Đoài là con gái út. Còn biểu tượng cho cơ thể con
người thì Càn là đầu, Khôn là bụng, Chấn là chân, Ly là mắt, Đoài là miệng, Tốn là tay
và đùi, Khảm là tai, Cấn là mũi.

Trong Tử Vi: Càn ở cung Hợi, Khôn ở cung Thân, Chấn ở cung Mão, Tốn ở cung Tỵ,
Khảm ở cung Tí, Ly ở cung Ngọ, Cấn ở cung Dần, Đoài ở cung Dậu. Những Quẻ nầy
thấy cần cho việc đoán sanh con, trai hay gái, tốt hay xấu cho đương số, và sẽ tốt
cho đứa nào trong Tử Vi. Không biết có ai áp dụng Bát Quái để đoán cung Tử Tức hay
Phu Thê trong Tử Vi chưa, nhưng trong thực tế tôi áp dụng thấy cũng khá đúng.
____________________
4. Vân Đài Loại Ngữ của Lê Qúi Đôn, tr. 92.
5. Bí Ẩn Bát Quái của Vương Ngọc Đức, tr. 142-143.
TIÊN THIÊN QUÁI
PHỐI VỚI TƯỢNG CỦA HÀ ĐỒ
Hình 7

“Chu Dịch Triết Trung – Khải Mông Phụ Luận” nói rằng: “Phương bên trái của Hà
Đồ, Dương ở trong Âm ở ngoài, lấy Tiên Thiên Quái phối vào là Chấn Ly Đoài Càn,
tượng trưng Dương trưởng, Âm tiêu vậy. Phương bên phải nó, Âm ở trong Dương ở
ngoài, lấy Tiên Thiên phối vào là Tốn Khảm Cấn Khôn, tượng trưng Âm Trưởng, Dương
tiêu. Đại để vì lẽ đó tượng cho hai khí giao động”. *

HẬU THIÊN QUÁI


PHỐI VỚI TƯỢNG CỦA HÀ ĐỒ
Hình 8

“Khải Mông Phụ Luận” nói rằng: “Số 1, 6 của Hà Đồ là Thủy, phối với quẻ Khảm
của Hậu Thiên. Số 3, 8 là Mộc phối với hai quẻ Chấn Tốn của Hậu Thiên. Số 2, 7 là
Hỏa phối với quẻ Ly của Hậu Thiên. Số 4, 9 là Kim phối với hai quẻ Đoài Càn của Hậu
Thiên. Số 5, 10 là Thổ phối với hai quẻ Khôn Cấn của Hậu Thiên, hai quẻ ấy chu lưu ở
Xuân Hạ Thu Đông, bốn quý mà thiên vượng ở chỗ giao của Sửu Mùi. Chỉnh lại bức
Đồ hình dùng để tượng trưng cho việc thuận sắp bày năm khí Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ”. *

TIÊN THIÊN QUÁI


PHỐI VỚI SỐ CỦA LẠC THƯ
Hình 9

“Khải Mông Phụ Luận” nói rằng: “Chín số của Lạc Thư (hư) không dùng, số 5 ở
giữa đem phối với Tiên Thiên Bát Quái, Dương ở trên Âm ở dưới, vì vậy 9 là Càn, 1 là
Khôn. Nhân từ 9 mà nghịch số. Chấn 8, Khảm 7, Cấn 6. Càn sinh ba Dương vậy. Lại
từ 1 mà thuận số Tốn 2, Ly 3, Đoài 4. Khôn sinh ba Âm vậy. Lấy 8 số và 8 quẻ phối
với nhau, mà vị trí của Tiên Thiên Bát Quái chính là hợp khớp với nhau vậy”.

Theo ông Mai Cốc Thành: “Thuật gia lấy Càn phối 9, Khôn phối 1, Ly phối 3, Khảm
phối 7, đó là số lẻ, vì vậy là Dương; Đoài phối 4, Chấn phối 8, Tốn phối 2, Cấn phối 6,
đó là số chẵn vì vậy là Âm”.*

HẬU THIÊN QUÁI


PHỐI VỚI SỐ CỦA LẠC THƯ
Hình 10

“Khải Mông Phụ Luận” nói rằng: “Trên Hỏa dưới Thủy vì vậy 9 là Ly, 1 là Khảm.
Hỏa sinh táo Thổ, vì vậy 8 ở bậc dưới 9 mà là Cấn. Táo Thổ sinh Kim vì vậy 7, 6 ở bậc
dưới 8 mà là Đoài, Càn. Thủy sinh thấp Thổ, vì vậy 2 tiếp sau 1 mà là Khôn. Thấp
Thổ sinh Mộc, vì vậy 3, 4 tiếp sau 2 mà là Chấn, Tốn. Lấy 8 số và 8 quẻ phối với nhau
mà vị trí của Hậu Thiên Bát Quái hợp vậy”.

“Theo thầy Thiệu Khang Tiết: 'Lấy Văn Bát Quái là vị trí để dùng, cái học Hậu
Thiên. Chu Tử lấy số của Lạc Thư để dùng. Thuật gia phi cung đến thay, toàn dùng
Hậu Thiên Bát Quái phối với Lạc Thư. Phép nầy lấy Khảm 1, Khôn 2, Chấn 3, Tốn 4,
giữa 5, Càn 6, Đoài 7, Cấn 8, Ly 9 làm thứ tự'”.

“Lưu Hâm nói rằng: 'Bát Quái Cửu Cung cùng nhau làm biểu lý'”.

“Trương Hoành nói rằng: 'Thánh Nhân gặp việc quan trọng dùng Bốc Phệ, việc tạp
dùng Cửu Cung', thì từ đó đến nay đã xa lắm vậy”. *

***

May thay, nay nhờ “Hiệp Kỷ Biện Phương Thư” mà chúng ta lại được học những
Đồ hình quý giá nầy, xin độc giả đừng bỏ qua mà hoang phí!

Những gì sưu tầm được và viết ra đây chỉ là một phần nhỏ của DỊCH, mà tôi đã áp
dụng để khám phá TỬ VI, nên không làm sao hoàn toàn và đầy đủ như quý vị mong
đợi. Xin độc giả thông cảm!
__________________

* “Hiệp Kỷ Biện Phương Thư” của Mai Cốc Thành chủ biên, Nhà Xuất Bản Cà Mau
(trang 47-52). Sách nầy là sách lịch thông dụng của triều Thanh, là vạn niên thông
thư, chủ trì biên soạn bởi nhà Thiên Văn học Mai Cốc Thành, là cháu của nhà số học
trứ danh Mai Văn Đỉnh, dâng lên hoàng đế Càn Long thẩm định và ban phát ra cho
thiên hạ, vì thế còn có tên là “Thẩm Định Biện Phương Thư”.

You might also like