Professional Documents
Culture Documents
Về vật liệu xây dựng, nhà người Hoa có thể phân ra 2 loại nhà :
nhà bán kiên cố và kiên cố.
Ở nông thôn, nhà của người Hoa (nhất là người Hoa Triều Châu
chuyên làm rẫy) rất hiếm khi xây dựng hoàn toàn bằng vật liệu thô sơ như
nhà người Việt hay người Khơme, mà phần lớn nhà của họ kết hợp giữa
vật liệu thô sơ với bán kiên cố. Ví dụ : nhà vách là nhưng mái tôle, hoặc
vách gỗ mái lợp ngói hay nàh tường gạch nhưng lợp lá…. Cũng như các
dân tộc khác ở miền Nam, Nhà người Hoa dùng lá dừa nước đẻ lợp mái
hay dựng vách, trái với tập quán lợp nhà bằng rơm hay bằng tranh như ở
vùng nông thôn Trung Quốc.
Những nhà kiểu xưa khá giả của người Hoa ở miền Nam, thường
lợp ngói âm dương theo kiểu "lợp lót" (tức mặt dưới của ngói sơn vôi
trắng). Nền nhà thường lót gách "tàu" bằng đất nung màu đỏ sậm, chủ
yếu do người Hoa sản xuất ở Biên Hoà, Vĩnh Long, Mỹ Tho…[ có lẽ
gạch tàu mô phỏng theo 1 loại dá lót, gồm 2 loại : gạch vuông ( 0,40m x
0,40m, dày o,04m) và gạch lục giác ( cạnh 0,40m, dày 0,04m) đều là loại
gạch chịu lực (nên dùng lót ở sân, nhà kho….) gạch này rất to, khó cắt
xén.]
Còn nhà bằng vật liệ kiên cố của người Hoa thường ở thị xã, thị
trấn với các dạng nhà trệt hoặc nhà lầu đúc bê tông cốt sắt hoặc thép 1
hoặc nhiều tầng. Nhà xây dựng bởi các vật liệu hiện đại như đá rửa, đá
mài, đá ốp lát, cửa kính, cửa sắt cuốn…
b2. Nhà sàn :
Ở những vùng ngập nước (định kì hoặc thường xuyên như Châu
Phú (An Giang), Hồng Ngự (Đồng Tháp)…) người Hoa cũng cư trú trên
nhà sàn như các dân tộc khác trong vùng. Nhà sàn người Hoa cũng giống
như nhà sàn của người Việt trong vùng ở chỗ kết cấu nhà kết hợp với cột
liền và cột ngắn đỡ sàn. Cửa chính cũng trổ ở cạnh dài của nhà, cầu thang
cũng bắc nơi góc trái hoặc phải của mặt tiền nhà chứ không bao giờ bắc
vào giữa nhà. Cầu thang thường dẫn lên hàng hiên trước có bao lơn gỗ….
Phân bố mặt bằng sinh hoạt nhà sàn của người Hoa cũng giống như
nhà sàn của người Việt theo kiểu cách như sau : phòng khách đặt bộ bàn
ghế, ván và hệ thống tủ thờ, phía trong là buồng của cha mẹ và các thành
viên trong gia đình. Có khi người ta làm thêm cái trên bên hiên để tăng
diện tích phòng riêng cho con cái và làm nhà bếp.
2. Trang phục :
a. Nữ phục :
Phụ nữ Hoa lớn tuổi có lẽ còn giữ nhiều yếu tố cổ truyền trong
trong trang phục dân tộc nhất. Hiện nay, phụ nữ Hoa lớn tuổi thuộc tầng
lớp bình dân vẫn còn mặc bộ quần áo lục hoặc vải đen (hoặc mặc áo màu
lam). Kiểu áo ngắn này tay dài hoặc ngắn ngang khuỷu, có hò và cài cúa
qua sườn phải, nút thắt, cổ áo cao, mềm, tà xẻ từ 2 bên hông; hoặc loại áo
xẻ ở giữa, cài nút thắt. Họ thường mặc bên trong áo này 1 chiếc áo cánh
trắng. Thêm vào bộ y phục kể trên là 1 chiếc khăn tay trắng thường khi
được cài ngay chỗ hò để lau tay, lau mặt.
Kiểu tóc đặc trưng của người phụ nữ Hoa lớn tuổi thuộc tầng lớp
bình dân là cắt ngắn, để thẳng, vừa tới vai, phía trước rẽ tóc đường ngôi
giữa và vén sau tai. Còn phụ nữ ở tầng lớp giàu có thường uốn tóc quăn
hoặc búi tóc sau gáy và cài trâm, nhưng không búi tròn như người Việt
mà ép dẹp xuống.
Nữ trang của phụ nữ Hoa rất đa dạng. Cũng như người Việt, họ đeo
vòng tay hạt mã não, cẩm thạch ("phòng xủi xẹt"), những chiếc "neo"
(tức vòng tay bằng vàng kéo sợi), vòng huyền, vòng bạc ("ngành ek"),
trên cổ đeo dây chuyền chuỗi hạt vàng ("cắm lỉn") hoặc có khi là những
đồng tiền đeo với dây ngũ sắc, những chiếc hoa tai hình nụ hoặc hình giọt
nước bằng vàng… ( "từng tằn dị quản")
Trang phục lễ cưới cổ truyền của người Hoa chỉ còn xuất hiện hiếm
hoi, phần lớn trong những gia đình nền nếp, phong lưu, do họ có ý thức
bảo tồn phong tục cũ. Khi làm lễ trước bàn thờ gia tiên, ra mắt thân tộc,
cô dâu người Hoa Quảng Đông mặc nguyên bộ áo cưới ("kắm khoành")
màu đỏ ( màu của sự tốt đẹp, may mắn) gồm chiếc xiêm đỏ bằng gấm
thêu, dài chấm gót và chiếc áo ngắn bằng gấm ngũ sắc, cổ đứng, xẻ giữa,
nút thắt to, tay áo dài và rộng để lộ chiếc áo trằng bên trong. Toàn bộ áp
và xiêm này đều thêu nổi hình phụng nên còn gọi là "phùng xám" (áo
phụng).
Còn nếu cô dâu Hoa mặc nguyên bộ gồm xiêm với áo dài thì gọi là
"tài khoành", đó là kiểu áo rất xưa. Theo tục cổ, cô dâu bới tóc, thoa dầu
bóng loáng, giắt trâm hình cành hoa đỏ và lá trắc bá diệp xanh tươi
(tượng trưng cho sự tươi trẻ thanh xuân vĩnh cửu). Cô dâu Quảng Đông
còn đội thêm chiếc mũ cưới (phùng kúi) tức mũ phụng, gồm hình chim
phượng với các bông nhung đỏ đung đưa theo bước chân, phía trước có
tấm rèm thưa bằng hạt châu để che mặt. Cô dâu còn cầm quạt ("xấm phù
xịt") để che mặt khi e thẹn. Chân cô đi hài bọc gấm hoặc nhung thêu hoa.
Trong tiệc cưới, cô dâu Hoa Quảng Đồng thường mặc áo dài "chuền chi"
(hoặc "khì phù" hay "pao khoành") màu đỏ, là kiểu áo ở Thượng Hải, dài
tới cổ chân; xẻ vạt cao ngang đùi, cổ áo cao, tay áo sát vai hoặc ngắn tay
(tiếng Triều Châu là "từng xa").
b. Nam phục :
Trang phục của nam giới người Hoa thuộc thành phần bình dân rất
đơn giản. Ở trong nhà họ chỉ mặc quần đùi màu đen ("khấu của") rất rộng
và dài đến gối, lưng cột dây rút và quấn tròn quanh bụng. Khi lao động họ
mặc quần áo vải đen, áo "xá xẩu" cổ truyền cổ đứng, xẻ giữa từ cổ xuống
vạt, cài nút thắt, lưng áo có đường nối. Vào đầu thế kỉ này, người Hoa
nghèo chỉ mặc quần đùi dài ngang gối, áo xá xẩu tay lỡ, ít khi cài cúc, đội
nón "cời lối" hoặc "tức lối", đó là loại nón đan bằng tre, vành rất rộng và
đỉnh nó có chỏm nhọn. Nón tre (tức lối) được sử dụng cho đến năm 1960
mới thay thế bằng loai nón cối nhựa trắng. So với nón tre cồng kềnh, dễ
bị gió lật tốc thí nón cối nhựa gon gàng hơn và độ bền cao hơn. Người
bình dân thường đi chân không hoặc đi guốc ("khà kia"). Họ thường cột
khăn tắm ("ệk bậu") quanh bụng hoặc vắt vai để lau mồ hôi.
Người thuộc thành phần trung lưu thì mặc quần dài lãnh đen rất
rộng, áo "xá xẩu" bằng gấm, tay áo dài, cửa tay rộng, bên trong mặc áo
lót, đo giầy gỗ (spây chương sơ) hoặc hia gấm, đội mũ quả dưa hấu hoặc
quả bí màu đen.
Chú rể người Hoa trong trang phục cổ truyền là bộ xiêm và áo
bằng gấm xanh, dệt chữ thọ hoặc chữ phúc, nếu áo có thêu rồng gọi là
"lùng xám" (áo rồng). Xiêm có thể có cùng hoặc khác màu với áo. Áo
kiểu thường dài, cổ áo cao, tay dài và rộng, cài cúc ở sườn phải hoặc
giữa. Bên trong mặc áo trắng. Trên đầu đội mũ quả bí hoặc mũ dưa hấu
(xi que bò) màu xanh xậm, chân đi hia bọc gấm. Giữa ngực chú rể có
đíng 1 bông hoa vải to màu đỏ, các dải dây cột chéo người. Cũng có thể
chú rể không cài hoa mà khoác bên ngoài 1 chiếc áo ngắn không tay, xẻ
giữa gọi là "mẻ khoảnh" tức "mạ hoa" ( có khi người ta gọi nguyên bộ
xiếm và áo của chú rể là "mạ hoa").
c. Trang phục trẻ em :
Trước đây trẻ con thương được mẹ địu sau lưng bằng những chiếc
đai lụa ("pí tụa") thêu nhiều hoa văn tươi đẹp. Người ta cũng mặc cho các
đứa trẻ loại yếm lụa thêu nhiều hoạ tiết sặc sỡ. Trẻ em cũng được đeo dây
chuyền ở cổ hình con cá (ngư : ngụ ý được như ý, giàu sang, khoẻ mạnh)
bằng ngọc bích, những đồng tiền xưa, những chiếc kiềng, khánh bạc
chạm 4 chữ "trường sinh bổn nhiệm" cầu mong đứa bé được bình yên, tốt
lành.
3. Ẩm thực :
Một trong những khía cạnh lý thú, phong phú nhất của "văn hoá
bảo đảm đời sống" trong cộng đồng người Hoa là ăn uống. Nó bao hàm
những đặc điểm riêng của tộc người này và góp phần duy trì truyền thống
của người Hoa.
a. Những món ăn và phong cách nấu ăn của người Hoa:
Trong lúc nấu ăn, tuỳ theo từng thức, từng loại, việc điều chỉnh
mức độ của lửa : to, vừa, nhỏ… là cả 1 nghệ thuật kinh nghiệm của người
Hoa khi nấu nướng để món ăn được chế biến 1 cách thích hợp, không làm
mất đi chất dinh dưỡng của nó. Đặc điểm của món ăn người Hoa thường
là sự tổng hợp từ 1 món chính (như thịt, cá, tôm, cua…) với món phụ (các
loại rau, quả, đậu…) nấu kèm theo món chính để làm cho món ăn trở nên
phong phú không đơn điệu mà lại thêm ngon miệng (ví dụ gà nấu với
nấm rơm, cải bẹ xanh hoặc món gà, vịt tiềm nấu với táo khô, hạt sen, nấm
hương…). Người ta có thể để món chính và món phụ gộp lại nấu cùng 1
lúc, hoặc có khi phải nấu món chính riêng, món phụ riêng, sau cùng mới
để chung 2 thứ lại thành 1 món ăn. Vì vậy có món ăn chỉ nấu 1 lần là
dùng ngay, có món phải được chuẩn bị nầu riêng tưng thứ rồi mới nấu
gộp chung vào nhau. Thông thương, người Hoa thái tất cả vật liệu nấu ắn
(như thịt, rau…) ra nhỏ ( thái ô vuông, thái lát mỏng, thái sợi cắt từng
miếng, hoặc băm nhuyễn rồi tuỳ theo món ăn mà ướp gia vị) để khi nấu
xong, món ăn ấy có thể dùng ngay bằng muỗng, đũa, không cần sử dụng
dao, nĩa để vừa cắt thức ăn vừa dùng như cách ăn của người phương Tây.
Một đặc điểm khác nữa là "món lục" (nước lèo) của người Hoa.
Hầu như bếp ăn nào của người Hoa cũng không thiếu nồì nước lèo này để
dùng nó nấu với mì sợi, hủ tiếu, nấu canh, nấu xúp… Nước dùng phần
lớn nấu bởi xương heo, thêm củ cái trắng có khi cả cải bắc thảo để ngọt
nước. Vào 1 tiệm ăn của người Hoa nếu thực khách yêu cầu món ăn
chiên, xào sẽ được dọn thêm bát nước dùng để giúp thực khách ăn đỡ khô
khan, ngấy dầu mỡ. Món lẩu của người Hoa thực chất là canh thập cẩm
nhưng nó giúp món ăn ấy luôn được nóng nhờ lớp than cháy rực trong
khuôn ở giữa lẩu.
Cách chế biến thức ăn của người Hoa nói chung đều giống nhau
trên đại thể, song trong từng nhóm người Hoa địa phương như Triều
Châu, Quảng Đông, Phước Kiến…. cũng có những phong cách riêng
khác nhau. Người Quảng Đông thường dùng nhiều dầu, mỡ là chất trung
gian để nấu ăn. Người Triều Châu có khẩu vị ăn mặn, còn người Phước
Kiến lại thích ăn vị cay…
Cũng như các dân tộc khác ở miền Nam, Người Hoa Triều Châu
thích ăn cơm với món ăn khô, mặn (vì có thể để dành, bảo quản được lâu,
tiện cho những nhà trong rẫy, xa chợ) như củ cải muối, măng khô, nấm
khô, cá khô… Món "hàm duỷ" của họ là món ăn bình dân phổ biến chỉ có
cá khô mặn chưng với trứng vịt cà thịt mỡ, hoặc cá mặn chiên, nêm dấm
đỏ và đường…
Gia vị để nêm vào thức ăn của người Hoa cũng có cả 1 "danh mục"
phong phú. người ta cho rằng muốn có "mùi vị món ăn Tàu" phải gia
thêm dầu hào. Quả vậy, thật là thiếu sót nếu trong bếp ăn của người nội
trợ dân tộc Hoa lại không có các loại dầu hào, dầu mè, xì dầu, húng lìu,
dấm đỏ…
Mặc dù sử dụng gạo làm lương thực chính, người Hoa còn bổ sung
thêm nguồn lương thực chế biến từ bột mì như mì vằn thắn, mì sợi. Song
ở các nhóm Hoa ở miền Nam, món mì cũng không giồng nhau. Mì Quảng
Đông nấu với thịt nạc, thịt băm hẹ… nhưng mì Phước Kiến lại nầu với cá
vò viên, tàu hủ, ăn kèm với miếng bánh tôm tròn nhỏ…. Ngay cả món
cháo cũng nhiều dị biệt. Cháo Quảng (Quảng Đông) nấu thật nhừ, ăn kèm
với thịt, tôm, cua, cá và nhiều lát gừng thái sợi nhuyễn. Còn có món cháo
Quảng nấu nhừ cùng với trái bạch quả thơm ngon. Món cháo của Triều
Châu với Phước Kiến ăn với cá khô, trứng vịt muối, dưa cải muối và cải
tần ô cũng được cư dân miền Nam ưa chuộng, dù chỉ được xem là món ăn
đạm bạc của nhà nghèo.
Làm việc cực nhọc nời đồng áng, người Triều Châu thương quảy
theo gánh cháo nấu đặc biệt theo cách của họ là chỉ nấu vừa chín tới (chứ
không nấu nhừ như cháo Quảng), ngay khi hạt gạo vừa nở mềm, còn
nhiều nước. Người Triều Châu cho rằng khi lao động nặng nhọc dưới
nắng gắt, húp cháo này sẽ đỡ mệt và đỡ khát, sẽ ít khát nước hơn là uống
nước lã. Qua đó có thể thấy ăn uống cũng thể hiện sự phù hợp theo điều
kiện sinh hoạt và lao động của cư dân.
Vào ngày Tết, nhà người Hoa nào cũng hấp bánh tổ - vốn là loại
bánh cổ truyên - và cũng đều trữ sẵn lạp xưởng với nhiều loai: lạp xưởng
thịt heo ngũ vị hương, loại thượng hạng là lạp xưởng ướp rượu Mai quế
lộ khiến thịt săn chắc, thơm phức. Người ta còn chế biến lạp xưởng gan
heo màu đen, được ướp nhiều loại gia vị thơm ngon. Họ còn làm vịt lạp
(lạp áp), gồm 2 loại : loại thứ nhất thịt vịt được chặt từng miếng ướp gia
vị, sấy khô gọi là "lạp bẻn" (bẻn là bỉnh, có nghĩa là bánh, tức vịt miếng);
loại thứ 2 thịt vịt để nguyên con, ướp gia vị, màu sậm nâu, gọi là vịt bắc
thảo. Người ta còn dùng các loại giò heo hun khói bắc thảo, củ cái bắc
thảo và trứng vịt bắc thảo nữa.
Ngoài ra, người Hoa còn mua để dành ăn trong các ngày Tết món
"lạp dục", tức thịt heo ba chỉ cắt từng miếng nhỏ, dài ướp xì dầu và gia vị,
sấy khô. Các loại thịt khô kể trên khi dọn ra ăn thường được đêm hấp với
gừng hoặc chiên trong mỡ thành 1 món ăn hấp dẫn, nhất là trong những
ngày trở mùa lanh.
Ngày cuối năm (30 Tết), người Hoa Quảng Đông cúng thần tài, tổ
tiên, ông bà và các vị thần bằng thịt gà mái. Còn gà trống và gà thiến thì
cúng vào mồng 2 hoặc mồng 3 tết. Người Hoa Quảng Đông ít ăn thịt vịt
vào ngày đầu năm vì cho rằng sẽ xui xêo, lận đận, chậm chạp trong làm
ăn. Trong khi đó những gia đình người Hoa Triều Châu lài có tập quán ăn
thịt vịt hoặc ngỗng vào dịp đầu năm mới. Họ thích nhất là món "vịt ram".
Đó là 1 món ăn khô, ăn nguội, Thịt vịt chặt miếng nhỏ, ram trong mỡ sôi,
gia muối cho mặn, sau đó để nguội, bảo quản trong hũ kín, có thể để dành
trong nhiều ngày. Nước luộc vịt ssược dùng nấu xôi đậu phộng rất thơm
và béo. Trước ngày đưa ông Táo về trời, người Hoa Triều Châu còn hay
làm món bánh củ cải (sai thào cuối). Bột gạo nhồi với nước, trôn với củ
cải non bào sợi. đập phộng luộc, tôm khô, nước cốt dừa, rau cần tàu, thịt
heo thái nhỏ, xong vắt từng viên tròn hoặc quâấ bột cho đặc quánh lại
trên bếp xong đổ vào khuôn, đem hấp chín ăn rất thơm ngon và ngọt.
Món ăn ngon của người Hoa cũng phong phú, đặc sắc. Nhiều địa
danh ở miền Nam nổi tiếng về các loại bánh của người Hoa như bánh bía
ở Vũng Thơm (Cửu Long), bánh in ở Cao Lãnh (Đồng Tháp), bánh mè
láo ở Sóc Trăng….Riêng về bánh, người Hoa Triều Châu có khoảng 24
loại bánh khác nhau. Cón những loại bắt buộc phải có trong lễ cưới như
"hủng co" (bánh dẻo)… Sính lễ của nhà trai hàng hai tạ bánh, ít nhất cũng
đủ 8, 12, 16, hoặc 24 loại bánh, tức phải luôn là số chẵn. Nhiều món chè
của người Hoa Quảng Đông như chè mè đen (chí mà phủ), chè đậu xanh
(lục tào xá), chè đậu đỏ táo khô (hùng tào xá), chè hạt sen (lín chỉ cấn),
chè khoai môn (phủ thẩu), chè khoai lang (phán xí thỏon)… hầu hết đều
là thức ăn mát , bồi bổ cơ thể.
Thức ăn của người Hoa còn có các loại quả khô, muối và ngâm
đường.
b. Thức uống:
Về thức uống của ngươi Hoa cũng thể hiện yếu tố truyền thống tộc
người. Rượu vốn được người Hoa sử dụng như 1 thức uống không thể
thiếu trong bữa cơm, bữa tiệc. Nó thường được phổ biến dưới dạng "rượu
thuốc", được pha chế trong rượu để nhiều vị thuốc Bắc có tác dụng điều
hoà, bồi bổ cơ thể. Đối với người Hoa, rượu là 1 nghi thức trong các mối
quan hệ xã hội.
Trà cũng thế, ngoài ý nghĩa là 1 thức uống thể hiện mối quan hệ xã
hội về vật chất và tinh thần, nó còn là một yếu tố truyền thống của văn
hoá tộc người. Cách thức trồng, ướp trà và uống trà của người Hoa là cả 1
nghệ thuật tinh tế. Nổi tiếng nhất vè kĩ thuật ướp trà là của người Hoa
Triều Châu.