You are on page 1of 15

Hệ thống điện thoại hoạt

động thế nào ?

Những thành phần cơ bản nhất cấu thành nên một hệ thống điện thoại là :
+ Điện thoại
+ Hệ thống tổng đài
+ Hệ thống antenna
+ Hệ thống truyền dẫn

Cấu tạo của một chiếc điện thoại đơn giản


Thực sự để tạo ra một thiết bị có khả năng sử dụng như một chiếc điện thoại rất đơn
giản, giống như bạn vẫn thưởng chơi trò chơi điện thoại với 2 cái hộp diêm và một sợi
dây đồng lúc còn nhỏ vậy. Bạn có biết rằng cấu tạo của cái điện thoãi gần như không
thay đổi suốt cả thế kỷ qua ! Bạn có thể lấy một cái điện thoại của nhưng năm 1920s đem
nối vào mạng điện thoại hiện tại và nó vẫn có thể được sử dụng tốt.
Dưới đây là cấu tạo đơn giản nhất của một chiếc điện thoại :

Một chiếc điện thoại được cấu tạo gồm 3 phần sau :
• Công tắc (hook switch) : sử dụng để kết nối và ngắt kết nối khỏi mạng điện thoại. Điện
thoại sẽ kết nối với mạng khi bạn nhấc điện thoại lên khỏi giá đỡ.
• Ống nghe (speaker) : bạn có thể tìm mua một cái ống nghe ngoài chợ với giá khoảng
vài nghìn đồng, có điện trở 8 Ohm.
• Micro (Microphone) : trước đây ống nghe được cấu thành từ 2 lớp lá kim loại mỏng ép
một lớp muội than ở giữa. Âm thanh phát ra khi bạn nói sẽ làm nén, giãn lớp muội than
dẫn đến thay đổi điện trở của lớp than, thay đổi dòng điện chạy qua micro.
Thật đơn giản đúng không ! Sử dụng chiếc điện thoại đơn giản ở hình trên bạn có thể
tiến hành một cuộc gọi qua tổng đài bằng cách nhấp công tắc. Hiện nay hầu hết các tổng
đài vẫn có thể nhận dạng cuộc gọi bằng xung. Có nghĩa là nếu bạn nhấp công tắc 4 lần
sẽ tương đương với bạn quay số 4.
Cấu tạo của một chiếc điện thoại thật

Vấn đề tồn tại duy nhất đối chiếc điện thoại ở trên là bạn sẽ nghe lại tiếng nói của chính
mình ở speaker sau khi nói vào micro. Để giải quyết vấn đề này, trong điện thoại thật sẽ
có một thiết bị được gọi là “cuộn dây duplex” hoặc một thiết bị tương đương có chức
năng ngăn không cho âm thanh của chính bạn vọng lại trong ống nghe. Một chiếc điện
thoại hiện đại còn có bộ phận “chuông” (ringer) dùng để báo hiệu, một bàn phím
(touch-tone keypad) và bộ phận phát tần số (frequency generator). Cấu tạo của chiếc
điện thoại như hình dưới đây :

Tuy trông có vẻ phức tạp hơn chiếc điện thoại đầu tiên nhưng nó vẫn có cấu tạo khá đơn
giản. Trong điện thoại hiện đại, có 1 micro điện tử, bộ khuyếch đại tín hiệu và mạch điện
để thay thế cho lớp muội than và cuộn dây dẫn. Chuông cơ khí được thay thế bằng ống
nghe và một mạch điện phát tín hiệu chuông.

reference : howstuffworks

Điện thoại mẹ bồng con (cordless phone) là một trong những phát minh tuyệt vời trước
khi điện thoại di động ra đời với giá rẻ như hiện nay. Trong bài viết này để ngắn gọn tôi
sẽ gọi điện thoại “mẹ bồng con” với tên gọi là “điện thoại không dây”, nhưng bạn đừng
lầm lẫn với điện thoại di động. Với một chiếc điện thoại không dây, bạn có thể tự do đi
lại và nói chuyện trong phạm vi căn nhà hoặc vườn nhà bạn. Điện thoại không dây cũng
có những đặc tính tương tự như điện thoại cố định, trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu
xem những chiếc điện thoại này làm việc như thế nào và tại sao lại có rất nhiều loại khác
nhau trên thị trường.
Điện thoại không dây V-Tech 2528 2.4 GHz

Một chiếc điện thoại không dây về cơ bản là một bộ gồm hai phần : một chiếc điện thoại
và một bộ thu phát sóng. Một chiếc điện thoại được cấu thành từ 2 thiết bị : phần base
(mẹ) và phần handset (con); chính vì thế mà điện thoại không dây còn được gọi là điện
thoại “mẹ bồng con” trong tiếng Việt.
•Phần base : phần này được nối với đường dây điện thoại cố định trong nhà bạn. Phần
này có thể xem tương tự như một chiếc điện thoại cố định bình thường có chức năng
nhận các cuộc gọi (dưới dạng tín hiệu điện) sau đó chuyển các tín hiệu này sang dạng
sóng radio (sóng FM – frequency modulation), sau đó phát tín hiệu này đến handset.
•Phần handset : nhận tín hiệu phát ra từ base, chuyển tín hiệu sóng thành tín hiệu điện
rồi truyền đến speaker, nơi tín hiệu sẽ được chuyển sang âm thanh mà bạn có thể nghe
được. Khi bạn nói, handset sẽ phát tín hiệu âm thanh của bạn trên một sóng radio FM
khác truyền ngược trở về base. Base sẽ nhận tín hiệu, chuyển sang tín hiệu điện và
truyền đến người nói chuyện qua hệ thống điện thoại.

Base và handset hoạt động trên một cặp tần số nên bạn có thể vừa nghe, vừa nói chuyện
đồng thời. Cập tần số này được gọi là cặp tần số duplex (cặp tần số song công - thực
hiện cùng lúc 2 công : nghe và nói).

Sơ lược về lịch sử của điện thoại không dây :

Điện thoại không dây xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng năm 1980. Chiếc điện thoại đầu
tiên hoạt động ở tần số 27MHz. Chiếc điện thoại đầu tiên này có những khuyết điểm sau
:
+ Phạm vi hoạt động hẹp.
+ Chất lượng thoại kém do nhiễu và các tác nhân như vật chắn, thiết bị điện.
+ Bảo mật kém. Do các kênh tần số ít nên người ngoài có thể dễ dàng xen vào cuộc điện
đàm khi sử dụng một chiếc điện thoại không dây khác ở cùng kênh .
Năm 1986, hiệp hội thông tin liên bang Mỹ (FCC _ Federal Communication
Commission) đã quy định khoảng tần số sử dụng cho điện thoại không dây từ 47 – 49
MHz. Điều này đã làm giảm lượng nhiễu tác động lên điện thoại từ các thiết bị điện và
đồng thời giảm công suất cần thiết để vận hành thiết bị. Tuy nhiên điều này vẫn chưa
giải quyết triệt để được vấn đề phạm vi hoạt động và chất lượng âm thanh của điện thoại
không dây.
Do tần số hoạt động được quy định ở trên nhanh chóng bị đầy nên năm 1990, FCC đã
quy định tần số mới là 900MHz cho điện thoại không dây. Khi hoạt động ở tần số cao
hơn, chất lượng thoại được cải thiện hơn, truyền tín hiệu xa hơn và có khả năng chọn
được nhiều kênh hơn. Tuy vậy giá tiền một chiếc điện thoại không dây vẫn còn khá cao.
Vào năm 1994, điện thoại không dây kỹ thuật số hoạt động ở tần số 900MHz ra đời. Tín
hiệu số làm tăng tính bảo mật của điện thoại, chống nghe trộm. Năm 1995, kỹ thuật trải
phổ (DSS _ Digital spread spectrum) được áp dụng vào điện thoại không dây. Kỹ thuật
trải phổ cho phép tín hiệu số của điện thoại không dây có thể được trải ra trên nhiều tần
số khác nhau, vì vậy càng làm tăng tính bảo mật của điện thoại không dây.
Vào năm 1998, FCC đưa ra chuẩn 2.4GHz cho điện thoại không dây. Chuẩn này đã góp
phần tăng phạm vi hoạt động của điện thoại và cách ly tần số hoạt động của điện thoại
không dây khỏi các thiết bị vô tuyến khác, làm tăng khả năng bảo mật của nó lên một bậc
nữa.

Các đặc tính của điện thoại không dây


—————————————

Về cái gọi là “thông số kỹ thuật” của mạng điện thoại là một khái niệm rất rộng, khó có
thể trình bày hết được. Trong thư viện bạn có thể tìm thấy các tiêu chuẩn này được trình
bày thành khoảng vài quyển sách dày như từ điển BK vậy. Các thông số kỹ thuật phần
cứng của điện thoại cũng như mạng điện thoại, hoặc bất kỳ một hệ thống nào trên thế
giới như LAN network, hardware, internet protocol, v.v…đều là chuẩn quốc tế, do một số
hiệp hội viễn thông quốc tế quy định. Tuy nhiên không phải chỉ có duy nhất một chuẩn
duy nhất mà có thể có nhiều chuẩn tuỳ theo khu vực.

Nếu xét về điện thoại cố định , là mạng điện thoại sử dụng dây truyền dẫn, không phải
là truyền qua sóng vô tuyến thì chuẩn ở trên thế giới là như nhau ở mọi nơi. Nếu có khác
biệt thì chỉ khác biệt về dịch vụ mà công ty điện thoại cung cấp cho người dùng chứ
không khác về cấu tạo phần cứng của chiếc điện thoại (với chức năng nghe - nói). Vì vậy
em có thể an tâm cầm chiếc điện thoại cố định ở Nhật về việt nam dùng. Nhưng cùng
đừng thắc mắc là tại sao ở Nhật cái điện thoại đó có thể là điện thoại truyền hình mà ở
việt nam lại không thể.

Về chuẩn của điện thoại di động và mạng di động mình sẽ trình bày cụ thể hơn trong một
bài viết khác. Chỉ xin nói trước là chuẩn của việt nam và Nhật khác nhau.

Điện thoại không dây có những đặc tính giống với với điện thoại cố định, và vì có nhiều
loại điện thoại khác nhau nên cũng có nhiều đặc tính khác nhau.

Những đặc tính quan trọng


Các bạn hẳn còn nhớ rằng điện thoại không dây gồm có 2 phần là chiếc điện thoại và bộ
phận thu phát sóng. Vì nó có bộ phận thu phát sóng nên nó mang những tính chất mà ở
một điện thoại thường không có :

• Phạm vi hoạt động


• Chất lượng thoại
• Tính bảo mật

Phạm vi hoạt động là phạm vi mà bạn có thể di chuyển trong lúc nói chuyện điện thoại.
Chất lượng âm thanh bị ảnh hưởng bởi cự ly, hướng truyền sóng và các vật chắn như đồ
đạc, các bức tường. Tính bảo mật được nhắc đến vì sóng radio giữa handset và base
được truyền trong không gian tự do nên có thể bị nghe trộm bởi một thiết bị thu radio
khác.
Những tính chất trên liên quan đến những đặc tính sau của điện thoại :

• Tần số radio
• Kỹ thuật analog, digital
• Số lượng kênh thu phát sóng

Tần số radio
Dưới đây là một số tần số thông dụng được sử dụng trong điện thoại không dây. Điện
thoại không dây sử dụng 2 tần số theo từng cặp để thực hiện đồng thời 2 chức năng thu
phát trong dải tần số được quy định.
• 43-50 MHz
• 900 MHz
• 2.4 GHz
• 5.8 GHz
Ứng với tần số càng cao thì phạm vi hoạt động của điện thoại không dây càng lớn, khả
năng chống nhiễu càng tốt và càng khó bị nghe trộm bởi các thiết bị thu phát khác. Tần
số 900MHz là tần số thông dụng nhất hiện nay trên thị trường, tại việt nam hầu hết các
điện thoại không dây sử dụng tần số này. Tuy nhiên tần số này cùng được sử dụng cho
nhiều thiết bị không dây khác nên khả năng nghe trộm vẫn còn khá cao.
Ứng với các dải tần được quy định như trên, số lượng kênh có thể sử dụng như dưới đây
:
•10 to 25 kênh - 43-50 MHz và một số điện thoại 900MHz loại rẻ tiền
•20 to 60 kênh - hầu hết các điện thoại 900 MHz
•50 to 100 kênh - một số điện thoại 900 MHz và 2.4/5.8 GHz.

Các loại cáp

Có 4 loại cáp chính được sử dụng trong các mạng truyền thông ngày nay : Cáp đồng
trục, dây xoắn không có vỏ bọc, dây xoắn có vỏ bọc và cáp quang.

Cáp đồng trục

Cáp đồng trục sử dụng tốt cho các mạng loại nhỏ. Vì cáp đồng trục thường được sử dụng
trong các mạng có cấu trúc dạng trục (bus topology) nên cần ít dây cáp và không cần sử
dụng hub. Cáp đồng trục có khả năng chống nhiễu khá tốt vì thế nó thường được sử dụng
trong môi trường sản xuất
Tuy nhiên cũng có một vài hạn chế đối với cáp đồng trục. Cáp đồng trục sử dụng trong
bus topology tuy tiết kiệm được dây dẫn nhưng lại không thể cô lập được trục trặc khi
xảy ra lỗi mạng. Ngày nay các mạng LAN tốc độ cao không hỗ trợ cáp đồng trục.

Cáp đồng trục sử dụng cho Ethernet có điện trở 50 Ohm. Dây đồng trục cho tivi có điện
trở 75 Ohm. Vì đây là các tiêu chuẩn đã được thống nhất nên nếu dùng sai loại cáp sẽ
ảnh hưởng đến mạng.
Cặp dây xoắn không có vỏ bọc

Dây xoắn dùng trong mạng điện thoại, mạng Token ring 4 & 16 Mbps, Ethernet, 100
Mbps Ethernet, FDDI (CDDI), 155 Mbps ATM. Dây xoắn được chia ra thành một số loại
như sau :
• Loại 1,2 dùng cho mạng truyền tín hiệu thoại.
• Loại 3 có băng thông đến 10 MHz, dùng cho Ethernet (10 Mb/s)
• Loại 4 có băng thông đến 20 MHz, dùng cho mạng Token Ring (16 Mb/s).
• Loại 5 có băng thông đến 100 MHz, dùng cho mạng Fast Ethernet (100 Mb/s) và
ATM (155 Mb/s).

Dây xoắn thường được dùng trong mạng kiểu hình sao (star topology). Các mạng kể trên
chỉ sử sụng 2 cặp dây (4 dây). Mạng điện thoại chỉ sử dụng 1 cặp dây cho 1 đường điện
thoại.

Cặp dây xoắn có vỏ bọc

Dây xoắn có vỏ bọc được chia làm 2 loại . Loại dây nguyên thủy được đưa ra bởi IBM,
sử dụng trong các mạng Token ring. Loại dây này hỗ trợ các đầu kết nối kiểu UDC
(Universal Data Connector). Các đầu kết nối kiểu này thường lớn và có cả 2 loại đầu
đực và cái nên có thể gắn vào nhau được. Loại dây này khá kềnh càng, mỗi cặp dây xoắn
có một vỏ bọc và chùm dây có chung một vỏ bọc bên ngoài. Loại cáp này có băng thông
đến 16MHz. Loại cáp này không có tương lai do chỉ hỗ trợ chuẩn của IBM, mạng kiểu
Token –Ring do tốc độ chậm, cồng kềnh.

Gần đây, thế hệ mới của dây xoắn được giới thiệu và phát triển bởi một số công ty như
ITT Datacomm. Thay vì mỗi cặp dây xoắn có một vỏ bọc riêng, loại này chỉ sử dụng
chung một vỏ bọc cho toàn bộ chùm dây. Loại dây này sử dụng đầu nối RJ-45 được thiết
kế nối mát sẵn. Loại này gọn nhẹ và dễ lắp đặt, sử dụng cho mạng ATM 155Mbps.

Cáp quang

Cáp quang có khả năng sử dụng với băng thông gần như vô hạn và hoàn toàn không bị
nhiễu. Vần đề tồn tại duy nhất là giá thành và lắp đặt. Cáp quang thường được sử dụng
trên các đường truyền xuyên quốc gia, xuyên lục địa do khả năng truyền trải thông tin
cực lớn.
Cáp quang có cấu tạo là những sợi thuỷ tinh tinh khiết, có kích thước cỡ sợi tóc của
chúng ta. Tín hiệu ánh sáng sẽ được truyền đi qua cáp. Một sợi cáp quang đơn lẻ cấu tạo
gồm 3 phần chính :

• Lõi trong cùng là sợi thuỷ tinh


• Lớp vật liệu phản quang có tác dụng phản xạ lại tia sáng hoàn toàn vào phía trong
• Lớp vỏ plastic
Hàng trăm hoặc hàng ngàn những sợi như trên được gom lại với nhau để tạo thành một
sợi cáp quang.
Có hai loại cáp quang : Loại đơn thể và loại đa thể.

Loại đơn thể


• Đường kính lõi : 0.00035 inch (hay 9 micron)
• Tia sáng được truyền đi là tia laser (bước sóng 1300 đến 1550 nm)

Loại đa thể
• Đường kính lõi : 0.0025 inch (hay 62.5 micron)
• Tia sáng được truyền đi là tia hồng ngoại (bước sóng 850 đến 1300 nm)

Một vài loại cáp quang được chế tạo từ plastic. Những loại cáp này có lõi khá lớn
(khoảng 1mm). Tia sáng truyền đi là tia thuộc dải ánh sáng đỏ (bước sóng 650nm)

PHẦN MỞ RỘNG:

HỆ THỐNG VIỄN THÔNG ĐIỆN TỬ


Công nghệ viễn thông điện tử đã tiếp tục tiến bộ nhanh chóng kể từ khi có phát minh hệ
thống điện tín và điện thoại đến mức nó đã cách mạng hoá các phương tiện thông tin
truyền thông khoảng một thế kỷ trước đây. Ngày nay, hệ thống viễn thông điện tử được
xem như các phương tiện kinh tế nhất có được để trao đổi tin tức và các số liệu. Ngoài ra
song song với tǎng trưởng về xã hội kinh tế, việc hình thành các phương tiện cần thiết
cho viễn thông điện tử đã trở nên phức tạp hơn và có khuynh hướng kỹ thuật cao nhằm
đáp ứng nhu cầu đang tǎng về các dịch vụ có chất lượng cao và dịch vụ viễn thông tiên
tiến hơn; mặc dù vậy các thiết bị có thể được hình thành theo các cách khác nhau và có
các mức độ phức tạp khác nhau theo các yêu cầu của người sử dụng.

Về cơ bản chúng được mô phỏng như sau (diễn giải) :

Hình 1.1. Cấu tạo của mạng lưới viễn thông.

Nguồn thông tin: Con người hay máy để phát ra thông tin cần truyền đi. Thông tin phát
ra được phân loại thành tiếng nói, mã, và hình ảnh (ký tự, ký hiệu và hình ảnh).
Thiết bị truyền: Bộ phận hay thiết bị để chuyển thông tin phát ra thành các tín hiệu để
được truyền đi qua đường truyền dẫn.
Đường truyền dẫn: Một phương tiện để truyền các tín hiệu từ thiết bị truyền đến thiết bị
nhận. Các loại cáp đồng trục, cáp quang, không gian, và các hướng sóng được dùng
rộng rãi cho mục đích này. Các tín hiệu được gửi đi qua đường truyền bị nhiễu bởi các
yếu tố như tiếng ồn.
Thiết bị nhận: Là một bộ phận hay thiết bị dùng để biến đổi các tín hiệu đã nhận được
thành các tín hiệu ban đầu.
Người sử dụng: Là con người hay máy nhận thông tin đã được phục hồi từ thiết bị nhận.
Hệ thống viễn thông điện tử được sử dụng phổ biến nhất là hệ thống thông tin điện thoại
trong đó con người là nguồn thông tin cũng lại là người sử dụng, còn máy điện thoại
dùng làm thiết bị truyền thiết bị nhận. Hiện nay loại máy (bǎng) dịch vụ thông báo thông
tin trong đó máy hoạt động như nguồn thông tin và con người như là người sử dụng có
như cầu cao. Ngoài ra, việc giao tiếp giữa máy với máy như việc trao đổi số liệu hiện
cũng đang hoạt động. Như trình bày ở hình 1.2, các quá trình trao đổi được tiến hành
thông qua giao diện giữa người với máy, và giữa máy với máy, như trong trường hợp các
phương pháp thông thường, sẽ trở nên ngày càng thông dụng hơn.

Hình 1.2. Truyền, nhận thông tin

Xu thế phát triển các mạng lưới viễn thông hiện nay được mô tả ngẵn gọn ở phần sau.
Trước hết, là giải thích về việc đa dạng hoá các dịch vụ viễn thông và các phương tiện.

Cùng với các dịch vụ viễn thông điện tử thông dụng dựa trên cơ sở các hệ thống điện
thoại và điện tín hoạt động một cách độc lập thông qua việc sử dụng mạng lưới thuê bao
điện thoại, mạng lưới chuyển mạch rơ-le điện tín, và mạng lưới thuê bao điện tín, một số
các phương tiện có độ phức tạp cao và rất mạnh càng tǎng lên như các các phương tiện
truyền số liệu và hình ảnh để truyền thông tin các loại và cho phép thực hiện các dịch vụ
phi điện thoại đang được lắp đặt và vận hành, đang cách mạng hoá cuộc sống của chúng
ta.

Dịch vụ phi điện thoại được đưa ra hiện nay yêu cầu các thiết bị và phương tiện viễn
thông tiên tiến và chuyên môn hoá cao độ.Thực tế này càng trở nên rõ ràng hơn khi
chúng ta kiểm tra các loại tần số hiện đang dùng; không giống như các phương tiện phổ
thông chỉ yêu cầu các dường tín hiệu 4 KHz cho các loại dịch vụ, các dải tần 1-4 MHz,
12-240 KHz, và 12-240 KHz đang được sử dụng, một cách tương ứng cho Video, các số
liệu tốc độ vừa và cao, truyền fax để đáp ứng các đặc tính dịch vụ của chúng; đồng thời
khi cung cấp một dịch vụ, các tần số khác nhau có thể được sử dụng để có kết quả tối ưu.
Theo đó, việc thiết lập nhiều mạng lưới viễn thông khác nhau, sử dụng các dải tần khác
nhau và các dịch vụ khác nhau là điều không thực tế và không kinh tế. Do vậy một nhu
cầu cấp bách là phát triển công nghệ các mạng lưới viễn thông với dung lượng có thể
giao tiếp với nhau, có khả nǎng xử lý các loại dịch vụ khác nhau để có thể đưa ra sử
dụng trong tương lai gần. Với mục đích này, các nhà nghiên cứu và kỹ sư tham gia vào
lĩnh vực này đang cố gắng kết hợp các mạng lưới viễn thông hiện nay một cách có hệ
thống và có hiệu quả.

Thứ nhì, xu hướng gần đây có đặc điểm là tǎng nhu cầu đối với mạng lưới số. Từ khi
phát hiện ra các nguyên lý về điện thoại từ việc chuyển nǎng lượng âm thanh thành nǎng
lượng điện để truyền đi tiếng nói cho đến khi phát sinh ra phương pháp truyền bằng ghép
kênh điện thoại, các dịch vụ điện thoại đưa ra sử dụng các hệ thống chuyển mạch phân
chia không gian thông qua các đường truyền tương tự. Điều này cũng dựa vào công nghệ
tương tự. Vào đầu những nǎm 1960, phương pháp PCM-24 đã được thương mại hoá một
cách thành công vì vậy chứng minh rằng phương pháp truyền dẫn số là kinh tế hơn nhiều
so với phương pháp truyền dẫn tương tự. kể từ đó, các hệ thống tổng đài số sử dụng hệ
thống truyền dẫn số đã được lắp đặt và vận hành một cách rộng rãi.

Những ưu điểm của các mạng lưới viễn thông số là: Khi sử dụng hệ thống tổng đài tương
tự và đường truyền dẫn số, bộ mã hoá và bộ giải mã được sử dụng cho các dịch vụ thoại
để biến đổi các tín hiệu ngược lại thành tiếng nói tại thời điểm chuyển mạch; Khi sử
dụng hệ thống số và đường truyền dẫn số, chỉ cần có một thiết bị đầu cuối với khả nǎng
thực hiện chức nǎng đơn giản vì các tín hiệu số đã dược đấu nối ở mức ghép kênh. Một
ưu điểm khác của việc sử dụng hệ tổng đài số là nó làm tǎng chất lượng truyền dẫn.
Trong mạng lưới điện thoại số, các tín hiện đã được mã hoá tại tổng đài chủ gọi được
giải mã, sau đó được mã hoá tại tổng đài trung chuyển và cuối cùng được gửi đến tổng
đài bị gọi.

Theo đó, bằng cách sử dụng phương pháp này, có thể tránh được việc tǎng lượng tiếng
ồn phát ra khi chuyển các tín hiệu tương tự thành các tín hiệu số. Ngoài ra, do đường
truyền dẫn số trải qua ít thay đổi về mức hơn là đường truyền dẫn tương tự, hiện tượng
mất đường truyền sẽ có thể đặt nhỏ hơn. Để thực hiện mục đích này, nếu sử dụng một
đường truyền số giữa hai tổng đài, thì sự mất đường truyền có thể được giảm bớt từ 10
dB xuống còn 6dB. Đồng thời, trong mạng điện thoại số, đối với một đường điện thoại,
64 kbps được dùng như tốc độ bít cơ sở; các số liệu, fax, và thông tin video có tốc độ nhỏ
hơn mức bít này có thể được gửi đi một cách tương đối dễ dàng hơn thông qua mạng
điện thoại số. Như đã trình bày, các thiết bị có thể được chia sẻ theo các yêu cầu dịch vụ
và vì thế có thể được sử dụng một cách linh hoạt để ứng dụng cho các loại dịch vụ hiện
đang tồn tại cũng như các dịch vụ mới.
Hình 1.3. Tiến trình trong số hoá

Các nhà nghiên cứu và kỹ sư ở các nước tiên tiến đang cố gắng phát triển loại mạng
truyền thông số này. Tiến bộ thực hiện được trong công nghệ số được giải thích sử dụng
mô hình ở Hình 1.3. Một đường truyền số dược sử dụng giữa hai tổng đài trong mạng
lưới số tích hợp được mô phỏng trong sơ đồ. Đồng thời mạng ISDN (mạng đa dịch vụ số)
cũng được phát triển trong đó các dịch vụ tích hợp được cung cấp với các thiết bị đầu
cuối được số hoá. Ngoài ra, do các loại dịch vụ viễn thông được đưa ra ngày càng trở
nên phong phú, một phạm vi rộng lớn các loại thiết bị đầu cuối, một trong 3 phần quan
trọng mạng lưới viễn thông, chủ yếu là, các thiết bị đầu cuối, đường truyền dẫn và các
thiết bị tổng đài, hiện nay được sử dụng rộng rãi. Hầu hết các thiết bị đầu cuối công
cộng hiện nay đều được thiết kế để vận hành càng dễ dàng càng tốt, tuy nhiên một số các
thiết bị đầu cuối này gọi là các thiết bị đầu cuối tích hợp, được trang bị với các tính nǎng
tiên tiến dùng cho các dịch vụ đặc biệt. Từ đó, việc sử dụng truyền thông sẽ trở nên đa
dạng hoá hơn, và việc cố gắng phát triển công nghệ phù hợp cho các mục đích đó cũng
sẽ được thực hiện.

Trong loạt bài viết này giới thiệu những khái niệm cơ bản nhất về hệ thống mạng điện
thoại.

Chúng ta chắc ai cũng quá quen thuộc với cái điện thoại cố định trong nhà hoặc điện
thoại cầm tay. Điện thoại đã thực sự trở thành một trong những phát minh vĩ đại và tuyệt
vời nhất của nhân loại. Bạn chỉ cần nhấc điện thoại lên, bấm một vài con số nào đó là
bạn có thể nói chuyện ngay với một người bạn ở cách bạn cả hàng nghìn cây số. Ngày
nay bạn hầu như có thể gọi điện thoại đến tận mọi ngóc ngách trên trái đất.Chúng ta thử
so sánh với những phương tiện cách đây hàng 100 năm trước, khi mà con người cần cả
tuần lễ để chuyển tin tức đi được vài nghìn cây số,chúng ta sẽ thấy chiếc điện thoại tuyệt
vời đến thế nào.
Phương pháp nhận dạng thoại trong môi trường nhiễu dựa trên biến đổi
WAVELETS

Thu nhận tiếng nói với hiệu suất và chất lượng cao là một vấn đề phức tạp và luôn được
đặt ra cho các nghiên cứu trong lĩnh vực xử lý thoại. Các hệ thống thu nhận tiếng nói
hiện nay đều sử dụng các giải pháp công nghệ hỗ trợ loại bỏ nhiễu trong các bộ thu để
thu được tiếng nói sạch cho quá trình xử lý và truyền phát, các ứng dụng được phát triển
mạnh trong các lĩnh vực thông tin di động, thu âm và nhận dạng. Bài báo này giới thiệu
hướng tiếp cận gần đây nhất trong lĩnh vực xử lý truyền thông thoại bằng biến đổi
wavelets.

Thu nhận tiếng nói với hiệu suất và chất lượng cao là một vấn đề phức tạp và luôn được
đặt ra cho các nghiên cứu trong lĩnh vực xử lý thoại. Các hệ thống thu nhận tiếng nói
hiện nay đều sử dụng các giải pháp công nghệ hỗ trợ loại bỏ nhiễu trong các bộ thu để
thu được tiếng nói sạch cho quá trình xử lý và truyền phát, các ứng dụng được phát triển
mạnh trong các lĩnh vực thông tin di động, thu âm và nhận dạng. Bài báo này giới thiệu
hướng tiếp cận gần đây nhất trong lĩnh vực xử lý truyền thông thoại bằng biến đổi
wavelets.
1. Các nguyên tắc chung của phương pháp lọc nhiễu thoại
Các phương pháp tiên tiến sử dụng trong lọc và phân loại các âm tiết trong tín hiệu
thoại dựa trên tổ hợp của lý thuyết các hệ thống tương thích động và các băng tần lọc.
Tiếp cận này dựa trên một số nguyên tắc cơ bản của hệ thống lọc nhiễu truyền thống
gồm có: Phân rã tín hiệu, xác định điểm cuối thông tin, xác định dải tần hữu ích của tín
hiệu và tần số cơ bản của nhiễu. Trên cơ sở đó ta sử dụng biến đổi wavelets trong phân
rã tín hiệu, kỹ thuật này giúp chúng ta có thể định vị thời gian - tần số một cách chính
xác nhất nhằm nâng cao hiệu năng hệ thống xử lý thông tin. Hướng tiếp cận tái cấu trúc
không gian pha tập trung vào khả năng mô hình hoá các đặc tính phi tuyến của tín hiệu
thoại. Không gian được lập mang tất cả các thông tin động thể hiện trong tín hiệu hiện
thời, việc tái cấu trúc không gian pha sử dụng để mô hình hoá và phân loại các âm tiết
được xây dựng trên các băng tần con được tạo ra bởi một tập các bộ lọc băng tần, các
bộ lọc băng tần con tương úng với từng mô hình tín hiệu thoại và đó là một vấn đề sẽ
không được đề cập chi tiết trong bài báo.
Xác định điểm cuối thông tin để hệ thống có thể thu nhận phần năng lượng hữu ích,
lọc bỏ khoảng lặng. Đây là chìa khoá của việc tiền xử lý tín hiệu trong các hệ thống nhận
dạng tiếng nói tự động. Đánh giá chính xác điểm bắt đầu và kết thúc của tiếng nói sẽ
giúp chống khoảng lặng và nhiều nền, từ đó chống đánh giá nhầm giác âm, và đem lại
hiệu quả cao trong thu nhận thông tin. Phương pháp này được sử dụng lược đồ nhận
dạng dựa trên thuật toán viterbi căn cứ trên việc sẵp xếp trước và mô phỏng các theo từ
vựng hay mô hình khoảng lặng và mô hình nhiễu [1].
Bản chất của quá trình phân rã tín hiệu là quá trình tách băng con nhằm mục đích
thu được các tần số hữu ích trong dải tần tín hiệu thu. Quy trình phân rã tín hiệu bằng
wavelets sử dụng mô hình 1/f gausian nhằm đưa ra hệ số wavelets của tín hiệu tiếng nói
số trong môi trường nhiễu được đặc trưng bởi hệ số tổng quan trong bộ phân lớp gồm 2
lớp Bayesian.
Xác định dải tần hữu ích của tín hiệu và xác định tần số cơ bản của nhiễu nhằm tách
năng lượng hữu ích ra khỏi năng lượng nhiễu bằng các phương pháp toán học, trong đó
biến đổi wavelets là một phương pháp thường được sử dụng hiện nay. Ngoài ra một vài
phương pháp tổ hợp các phân loại băng tần con cũng được đưa ra và được tái cấu trúc
không gian pha sử dụng các mô hình trộn gausian.
2. Kỹ thuật biến đổi wavelets
Nhiều nhà phân tích tín hiệu đã nhận ra được nhược điểm của biến đổi fourier thời gian
ngắn STFT(Short Time Fourier Transform) đòi hỏi cần phải được giải quyết. Vì vậy
người ta đã sử dụng biến đổi wavelets để giải quyết các vấn đề của STFT. Wavelet là một
dạng sóng hiệu quả trong một khoảng thời gian so với giá trị bình quân lệch không [2].
Do sự bất lợi của STFT là không xác định được độ chính xác thời gian đối với tín hiệu có
tần số cao, với kích thước cửa sổ quá nhỏ. Nhưng nếu cửa sổ được thiết lập quá nhỏ thì
thay vào đó là độ bất định về tần số lại lớn. Như vậy người ta thấy rằng cần phải có một
cách tiếp cận khác. Thay vào việc giữ cho kích thước của cửa sổ cố định và làm đầy nó
với những dao động có tần số khác nhau,giải pháp này giữ cho số những sự dao động là
cố định và thay đổi chiều rộng của cửa sổ.

Hình 1: Mô hình phân tích tín hiệu sử dụng wavelets.


Phân tích wavelet là một phiên bản của kỹ thuật cửa sổ, nhưng với một kích thước cửa sổ
khác nhau. Nó cho phép cho sự sử dụng cửa sổ dài hơn khi có thông tin tần số thấp và
những cửa sổ ngắn hơn với những thông tin tần số cao.
3. Phương pháp phân rã tín hiệu dựa trên biến đổi wavelets
Động năng của luồng không khí trong tiếng nói có thể chỉ ra mức độ hỗn loạn dựa
trên học thuyết fractal, tín hiệu tiếng nói là tổng các quy trình ngẫu nhiên tự tương ứng.
Hình 2 dưới đây chỉ ra mô hình phân ra tín hiệu dựa trên wavelets, việc chia băng tần
thành các băng tần con được thực hiện như sau: Tín hiệu gốc được đưa qua hai bộ lọc
thông thấp và thông cao nhằm tách ra hệ số tổng quan và hệ số chi tiết của tín hiệu gỗc.
Quá trình phân tích được lặp lại để có được nhiều hệ số nhằm thu được thông tin tín hiệu
gốc chi tiết nhất, mỗi một hệ số này ứng với một dải tần của tín hiệu gốc. Qua mức ta có
thể tách ra các mức nhiễu và mức âm với các đặc tính khác nhau cho phép nhận dạng tín
hiệu hữu ích.

Trong đó: S (Orginal Signal) : Tín hiệu gốc, L (Low pass filter): Bộ lọc thông thấp
H (High pass filter): Bộ lọc thông cao
Hình 2: Mô hình phân rã tín hiệu dựa trên wavelets
4. Kết luận:
Trên các đặc điểm của quá trình tách nhiễu dựa trên biến đổi wavelets và lọc băng tần
con đã trình bày trên đây, nhóm tác giả nhận thấy hướng phát triển tiếp theo của nhận
dạng tiếng nói (nói chung) và tiếng Việt nói riêng nên dựa trên biến đổi wavelets. Gần
đây biến đổi wavelets được chứng minh bằng thực nghiệm [5] là một phương pháp hữu
hiệu trong xử lý tín hiệu hơn so với các phương pháp truyền thống như biến đổi fourier,
xử lý đồng hình..v..v. Phương pháp này cho phép định vị chính xác dải đồ phân dải thời
gian – tần số của tín hiệu thoại cũng như có khả năng ứng dụng trong lĩnh vực xử lý ảnh.

You might also like