You are on page 1of 62

Nội dung khoá luận tốt nghiệp

Từ yêu cầu của đề tài “Các giải pháp truyền tải IP trên mạng quang” thì
luận văn đã nêu lên được các vấn đề liên quan. Đó là giới thiệu một cách khái
quát về yêu cầu của đề tài, nói lên được tổng quan về công nghê IP. Công nghệ
mà đang trở thành chuẩn phổ biến của nhiều dịch vụ mạng mới. Đã nêu lên
công nghệ IP đang sử dụng hiện nay và xu hướng phát triển công nghệ IP trong
tương lai. Luận văn cũng đã nêu các giải pháp truyền tải IP trên mạng
quang hiện nay. Các cách thức truyền tải dựa trên các phương pháp đã làm chủ,
các giải pháp mới có tính khả thi cho tương lai. Đưa ra vấn đề không thể thiếu
và rất quang trọng là vấn đề vê cách thức điều khiển, báo hiệu trong truyền tải
IP trên mạng quang cũng đã được đề cập.

MỤC LỤC

Chữ viết tắt


AAL ATM Adaptation Layer Lớp thích ứng ATM
ADM Add-Drop Multiplexer Bộ xen rẽ
APS Automatic Protection Switching Chuyển mạch bảo vệ tự động
ARP Address Resolution Protocol Giao thức phân chia địa chỉ
ATM Asynchronous Transfer Mode Phương thức truyền tin không đồng bộ
BGP Border Gateway Protocol Giao thức cổng biên
CAC Call Admission Control Điều khiển nhận cuộc gọi
CBR Constant Bit Rate Tốc độ bit không đổi
CIDR Classless Inter-Domain Routing Định tuyến liên vùng không phân lớp
CLP Cell Loss Priority Độ ưu tiên mất tế bào
CoS Class of Services Lớp dịch vụ
CRC Cyclic Redundancy Check Kiểm tra độ dư thừa theo chu kỳ
DPT Dynamic Packet Transport Truyền tải gói động
DTM Dynamic Transfer Mode Chế độ truyền tải động
DVMRPDistance Vector Multicast Routing Giao thức định tuyến vecto khoảng cách
Protocol
DWDM Density Wavelength Division Ghép kênh phân chia theo bước sóng
Multiplexing mật độ cao
DXC Digital Cross-Connect Kết nối chéo kênh

1
EGP Exterior Gateway Protocol Giao thức cổng ngoài
FCS Frame Check Sequence Chuỗi kiểm tra khung
FDDI Fiber Distributed Data Interface Giao diện số phân bố theo cáp quang
FDL Fibre Delay Line Trễ đường cáp quang
FEC Forward Equivalence Class (in MPLS) Lớp phát chuyển tương ứng
FEC Forward Error Correction (in error Sửa lỗi trước
correction)
GbE Gigabit Ethernet Ethernet tốc độ Gigabit
HDLC High-level Data Link Control Điều khiển tuyến dữ liệu số mức cao
ID Identity Mã nhận dạng
IEEE Institute of Electrical and Electronic Viện đào tạo các kỹ sư điện và điện tử
Engineers
IGP Interior Gateway Protocol Giao thức cổng trong
IP Internet Protocol Giao thức Internet
IPng IP next generation IP kế tiếp
IPS Intelligent Protection Switching Chuyển mạch bảo vệ thông minh
IPv4 IP version 4 Giao thức Internet phiên bản 4
IPv6 IP version 6 (=IPng) Giao thức Internet phiên bản 6
ISDN Integrated Services Digital Network Mạng số đa truy nhập
ISO International Standards Organisation Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế
ISP Internet Service Provider Nhà cung cấp dịch vụ Internet
ITU International Telecommunication Union Hiệp hội viễn thông quốc tế

L2 Layer 2 Lớp 2
L3 Layer 3 Lớp 3
LAN Local Area Network Mạng cục bộ
LAPS LAN Adapter Protocol Support Hỗ trợ giao thức đáp ứng LAN
Program
LCP Link Control Protocol Giao thức điều khiển đường
LDP Label Distribution Protocol Giao thức phân phối nhãn
LF Link Failure Sự cố tuyến
LIB Label Information Base Cơ sở thông tin nhãn
LLC Logical Link Control Điều khiển đường logic
LOF Loss of Frame Mất khung
LOP Loss Of Packet Mất gói
LOS Loss Of Signal Mất tín hiệu
LSP Lable Switched Path Đường chuyển mạch nhãn
LSR Lable Switch Router Định tuyến chuyển mạch nhãn
MAC Medium Access Control Điều khiển truy nhập

2
MAPOS Multiple Access Protocol Over SONET Giao thức đa truy nhập qua SONET

MBGP Multicast Border Gateway Protocol Giao thức cổng biên quảng bá
MPλS Multi Protocol Lambda Switching Chyển mạch Lamda đa giao thức
MPLS Multi Protocol Label Switching Chuyển mạch nhãn đa giao thức
MPOA Multi Protocol Over ATM Đa giao thức theo ATM
NGN Next Generation Network Mạng thế hệ mới
OADM Optical Add Drop Multiplexer Bộ ghép xen rẽ quang
OAM Operation, Administration and Khai thác, Quản trị và Bảo dưỡng
Maintenance
OBS Optical burst switching Chuyển mạch cụm quang
OC Optical Carrier Sóng mang quang
OCH Optical Channel Kênh quang
OCHP Optical Channel Protection Bảo vệ kênh quang
OE Opto-electronic conversion Chuyển đổi quang-điện
ODL Optical Delay Line Trễ đường quang
OEO Optical- Electronical- Optical Quang-Điện-Quang
OEXC Opto-Electric Cross-Connect Kết nối chéo quang-điện
OL Optical Label Nhãn quang
OLA Optical Line Amplifier Bộ khuếch đại đường quang
OLC Optical Label Channel Kênh nhãn quang
OLS Optical Label Switching Chuyển mạch nhãn quang
OMS Optical Multiplex Section Ghép vùng quang
OMSP Optical Multiplex Section Protection Bảo vệ ghép vùng quang
ON Optical Network Mạng quang
OEO Optical-Electrical-Optical Quang-Điện-Quang
OOO Optical-Optical-Optical Quang-Quang-Quang
OP Optical Packet Gói quang
OPS Optical Packet Switching Chuyển mạch gói quang
OS Operating System Hệ thống khai thác
OSC Optical Supervisory Channel Kênh giám sát quang
OSI Open System Interconnection Liên kết nối hệ thống mở
OSPF Open Shortest Path First Thuật toán tìm đường ngắn nhất
OTDM Optical Time Division Multiplexing Ghép quang theo thời gian
OTN Optical Transport Network Mạng truyền tải quang
PDH Plesiochronous Digital Hierachy Phân cấp số cận đồng bộ
POL Packet Over Lightwave Chuyển mạch gói qua bước sóng
POS Packet Over SONET/SDH Gói qua SONET/SDH
PPP Point-to-Point Protocol Giao thức điểm điểm

3
QoS Quality of Service Chất lượng dịch vụ
QoSig quality of signal Chất lượng tín hiệu
RSVP Resource ReSerVation Protocol Giao thức dự trữ tài nguyên
SDH Synchronous Digital Hierarchy Truyền dẫn đồng bộ
SDL Simple Data Link Đường dữ liệu đơn giản
SDLC Synchronous Data Link Control Điều khiển tuyến dữ liệu đồng bộ
SLA Service Level Agreement Sự thỏa thuận mức dịch vụ
SNAP Sub Network Access Point Điểm truy nhập mạng con
SONET Synchronous Optical Network Mạng quang đồng bộ
STM Synchronous Transport Module Chế độ truyền tải đồng bộ
SVC Switched Virtual Channels Kênh chuyển mạch ảo
TCA Traffic Conditioning Agreement Sự thỏa thuận điều kiện lưu lượng
TCP Transmission Control Protocol Giao thức điều khiển truyền tải
TDM Time Division Multiplexing Ghép kênh theo thờigian
TOS Type Of Service Kiểu dịch vụ
VC Virtual Connection (in ATM) Kết nối ảo (trong ATM)
VC Virtual Container (in SDH) Gói ảo (trong SDH)
VCI Virtual Channel Identifier Bộ nhận dạng kênh ảo
VP Virtual Path Đường ảo
WAN Wide Area Network Mạng diện rộng
WC Wavelength conversion Chuyển đổi bước sóng
WDM Wavelength Division Multiplexing Ghép kênh theo bước sóng

Lời mở đầu
Giao thức Internet (IP) đã trở thành giao thức chuẩn phổ biến
cho các dịch vụ mạng mới, do đó lưu lượng IP không ngừng tăng
nhanh và dần thay thế các loại giao thức khác. Hằng năm, lưu lượng
số tăng hơn lưu lượng thoại gấp 2 ÷ 4 lần. Đến năm 2010, lưu lượng
số đã đạt đến gấp hàng chục lần lưu lượng thoại.

Kiến trúc mạng IP ngày nay được xây dựng theo ngăn mạng xếp
chồng những công nghệ như ATM, SDH và WDM. Do có nhiều lớp liên
quan nên đặc trưng của kiến trúc này là dư thừa tính năng; và chi phí liên
quan đến vận hành khai thác cao. Hơn nữa, kiến trúc này trước đây sử
dụng để cung cấp chỉ tiêu đảm bảo cho dịch vụ thoại và thuê kênh,
không được thiết kế phù hợp cho mạng số liệu. Do đó nó không thật sự

4
thích hợp đối với các ứng dụng hoạt động dựa trên công nghệ chuyển
mạch gói và đặc biệt là những ứng dụng có nguồn gốc IP.

Một số nhà cung cấp và tổ chức tiêu chuẩn đang đề xuất những
giải pháp mới khai thác IP trên kiến trúc mạng đơn giản, ở đó lớp
WDM là nơi cung cấp băng tần truyền dẫn vô cùng lớn. Những giải
pháp này cố gắng giảm tối đa tính năng dư thừa, giảm mào đầu giao
thức, đơn giản hoá công việc quản lý và qua đó truyền tải IP trên lớp
WDM (lớp mạng quang) càng hiệu quả càng tốt. Hiện nay có nhiều
kiến trúc mạng đã được nhận diện và triển khai trong thực tế. Tất
cả chúng đều liên quan đến việc đơn giản hoá các ngăn giao thức
nhưng trong số chúng chỉ có một số kiến trúc có nhiều đặc tính hứa
hẹn như DoS (Data over SONET/SDH), Gigabit Ethernet (GbE) và
Resilient Packet Ring (RPR) ngoài kiến trúc IP trên
ATM/SDH/WDM.

Một trong những thách thức lớn nhất ngày nay đối mặt với các
nhà sản xuất chuyển mạch quang đó là phát triển các giao thức báo
hiệu cho điều khiển hoạt động và hoạt động liên mạng của lớp quang
mà có lẽ đây cũng là vấn đề cần chuẩn hoá cấp bách nhất hiện nay.
Các tổ chức và diễn đàn quốc tế OIF (Optical Internetworking
Forum), IETF và ITU đều đang nỗ lực gấp rút để thiệt lập nên các
phương pháp xác định việc điều khiển và kết nối giữa mạng WDM
và IP.

Trong quá trình thực hiện đề tài, em xin chân thành cảm ơn sự
giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô tại Khoa Điện Tử Viễn
Thông- Trường Đại Học Công Nghệ, nhất là thầy giáo PGS.TS
Nguyễn Kim Giao- người đã trực tiếp hướng dẫn em.

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ IP


1.1 Giới thiệu chung

Như chúng ta đã biết Internet là một mạng máy tính toàn cầu, do hàng nghìn
mạng máy tính từ khắp mọi nơi nối lại tạo nên. Khác với cách tổ chức theo các
cấp: nội hạt, liên tỉnh, quốc tế của một mạng viễn thông như mạng thoại chẳng
hạn, mạng Internet tổ chức chỉ có một cấp, các mạng máy tính dù nhỏ, dù to khi
nối vào Internet đều bình đẳng với nhau. Do cách tổ chức như vậy nên trên
Internet có cấu trúc địa chỉ, cách đánh địa chỉ đặc biệt, trong khi cách đánh địa
chỉ đối với mạng viễn thông lại đơn giản hơn nhiều.

5
Đối với mạng viễn thông như mạng thoại chẳng hạn, khách hàng ở các vùng
khác nhau hoàn toàn có thể có cùng số điện thoại, phân biệt với nhau bằng mã
vùng, mã tỉnh hay mã quốc tế. Đối với mạng Internet , do cách tổ chức chỉ có
một cấp nên mỗi một khách hàng hay một máy chủ đều có một địa chỉ internet
duy nhất mà không được phép trùng với bất kỳ ai. Do vậy mà địa chỉ trên
Internet thực sự là một tài nguyên.

Hàng chục triệu máy chủ trên hàng trăm nghìn mạng. Để địa chỉ không
được trùng nhau cần phải có cấu trúc địa chỉ đặc biệt quản lý thống nhất và một
Tổ chức của Internet gọi là Trung tâm thông tin mạng Internet - Network
Information Center (NIC) chủ trì phân phối, NIC chỉ phân địa chỉ mạng (Net
ID) còn địa chỉ máy chủ trên mạng đó do các Tổ chức quản lý Internet của
từng quốc gia một tự phân phối. (Trong thực tế để có thể định tuyến (routing )
trên mạng Internet ngoài địa chỉ IP còn cần đến tên riêng của các máy chủ
(Host) - Domain Name).

1.2 IPv4

Địa chỉ IPv4 gồm 32 bit, chia thành bốn octet, mỗi octet là một byte. Địa chỉ
IP được chia thành năm lớp A, B, C, D và E. Giả sử Net_ID và Host_ID lần
lượt là định danh mạng và trạm. Địa chỉ IP được biễu diễn dưới dạng
<Net_ID><Host_ID>. Với IPv4 chúng ta có 232 (4,3 tỷ) địa chỉ.

Kề từ khi chính thức đựơc đưa vào sử dụng và được định nghĩa trong kiến
nghị RFC791 năm 1981 đến nay, Ipv4 đã chứng minh được khả năng dễ triển
khai, dễ phối hợp và hoạt động và tạo ra sự phát triển bùng nổ của các mạng
máy tính. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại với sự phát triển công nghệ hiện
nay, hầu như tất cả tất cả các thiệt bị điện tử trong tương lai sẽ tích hợp dịch vụ
IP, hơn nữa sự tăng vọt ồ ạt các ứng dụng và công nghệ cũng như các thiết bị di
động khác đã làm cho không gian địa chỉ Ipv4 ngày càng chật hẹp và bộc lộ
nhiều điểm yếu của Ipv4:

• Thiếu địa chỉ IP do sự tăng quá nhanh của các host trên mạng Internet đã
dẫn đến tình trạng thiếu địa chỉ IP trầm trọng để gán cho các node. Trong
những năm 1990, CIDR đựơc xây dựng dựa trên khái niệm mặt nạ địa
chỉ (address mask). CIDR đã tạm khắc phục được những vấn đề nêu
trên. Khía cạnh tổ chức mang tính thứ bậc của CIDR đã cải tiến khả
năng mở rộng của Ipv4. Mặc dù có thêm nhiều công cụ khác ra đời như
kĩ thuật subnetting (1985), kĩ thuật VLSM (1987) và CIDR (1993), các
kĩ thuật trên đã không cứu với IPv4 ra khỏi một vấn đề đơn giản: không
có đủ địa chỉ cho các nhu cầu tương lai. Do đó, một vài giải pháp tạm
thời, chẳng hạn dùng RFC1918 trong đó dùng một phần không gian địa

6
chỉ làm các địa chỉ dành riêng và NAT là một công cụ cho phép hàng
ngàn host truy cập vào Internet chỉ một vài IP hợp lệ để tận dụng tốt hơn
không gian địa chỉ của IPv4.
• Quá nhiều các routing entry (bản ghi định tuyến) trên các backbone
router : Với tình hình hiện tại, do không có sự phân cấp địa chỉ IPv4 nên
số lượng các routing entry trở nên rất lớn, lên tới 110.000 bản ghi. Việc
này làm chậm quá trình xử lý của router, làm giảm tốc độ mạng.
• An ninh của mạng : với IPv4, đã có nhiều giải pháp khắc phục nhược
điểm như IPSec, DES, 3DES… nhưng các giải pháp này đều phải cài đặt
thêm và có nhiều phương thức khác nhau với mỗi loại sản phẩm chứ
không đựơc hỗ trợ ở mức bản thân của giao thức.
• Nhu cầu về các ứng dụng thời gian thực hay vấn đề đảm bảo chất lượng
dịch vụ QoS : Các thách thức mới từ việc nảy sinh các dịch vụ viễn
thông, các yêu cầu truyền thời gian thực cho các dịch vụ multimedia,
video, âm thanh qua mạng, sự phát triển của thương mại điện tử đã đặt ra
việc đảm bảo QoS cho các ứng dụng QoS trong IPv4 cũng được xác định
trong trường TOS và phần nhận dạng tải trọng của gói tin IP. Tuy nhiên
trường TOS này có tính ít tính năng.

1.3 Ưu điểm của IPv6 so với IPv4

Do các vấn đề đặt ra ở trên nên một phiên bản của giao thức mới đã được
giới thiệu. Xuất phát điểm của IPv6 có tên gọi là Ipng (Internet Protocol Next
Generation). Sau đó, IPng được gán với phiên bản 6 và lấy tên chính thức là
IPv6. Quan điểm chính khi thiết kế từng bước thay thế IPv4, không tạo ra sự
biến đổi quá lớn với các tầng trên và dưới.

• Mở rộng của không gian địa chỉ : Địa chỉ của IPv6 bao gồm 128bit so
với 32bit của địa chỉ IPv4. Với phạm vi của địa chỉ IPv6, việc cung cấp
địa chỉ trở nên thoải mái hơn rất nhiều. Về mặt lý thuyết, 128bit địa chỉ
có khả năng cung cấp 2128 địa chỉ, nhiều hơn địa chỉ IPv4 khoảng 8 tỷ tỷ
tỷ lần. Số địa chỉ này sẽ đáp ứng được sự bùng nổ của các thiết bị IP
trong tương lai. Ngoải ra IPv6 còn cung cấp phương thức mới tự động
cấu hình địa chỉ và xây dựng một phép kiểm tra tính duy nhất của địa chỉ
IP.
• Kết cấu địa chỉ định tuyến được phân cấp hiệu quả: Địa chỉ IPv6 được
thiết kết để tạo ra cơ sở định tuyến phân cấp, hiệu quả và có khả năng tập
hợp lại dựa trên sự phân cấp thành nhiều mức của các nhà cung cấp dịch
vụ (ISP). Như vậy các bảng định tuyến trên các router backbone sẽ gọn
nhẹ hơn nhiều.

7
• Dạng header mới: Phần Header của IPv6 được giảm xuống tới mức tối
thiểu bằng việc chuyển tất cả các trường phụ thuộc hoặc không cần thiết
xuống phần header còn lại nằm ngay sau phần header của IPv6. Việc tổ
chức hợp lý phần header này làm tăng hiệu quả xử lý tại các router trung
gian. IPv6 header và IPv4 header là không tương thích với nhau, do đó
các node phải được cài đặt 2 phiên bản IP mới có thể xử lý được các
header khác nhau này.
• Tự động cấu hình địa chỉ: Tương tự như IPv4, IPv6 cũng cung cấp khả
năng cấu hình địa chỉ tự động DHCP, ngoài ra còn đưa thêm khả năng tự
động cấu hình địa chỉ khi không có DHCP Server. Trong một mạng, các
host có thể tự động cấu hình địa chỉ của nó bằng cách sử dụng IPv6
Prefix nhận đựơc từ router (gọi là địa chỉ link-local). Hơn nữa trong một
mạng mà không có router thì host cung có thể cấu hình địa chỉ link-local
để liên lạc với các host khác.
• Bảo mật: Hỗ trợ IPSec đã được hỗ trợ ngay bản thân của IPv6. Yêu cầu
bắt buộc này như là một tiêu chuẩn cho an ninh mạng, đồng thời mở
rộng khả năng làm việc được với nhau của các loại sản phẩm.
• Chất lượng dịch vụ tốt hơn (QoS): Phần header của IPv6 được đưa thêm
vào một số trường mới. trường nhãn luồng (flow label) ở IPv6 header
được dùng để đánh nhãn cho các luồng dữ liệu. Từ đó các Router có thể
có những xữ lý khác nhau với các gói tin thựôc các luồng dữ liêuk khác
nhau. Do trưòng Flow label nằm trong IPv6 header nên QoS vẫn được
đảm bảo khi phần tải trọng được mã hoá bởi IPSec.
• Khả năng mở rộng tốt: IPv6 có khả năng mở rông tốt bằng việc sử dụng
header mở rộng ngay sau phần IPv6 header. Điều này cho phép thêm vào
các chức năng mạng mới. Không giống như IPv4, phần lựa chọn địa chỉ
có 40 byte thì với IPv6, phần mở rộng chỉ bị hạn chế bởi kích thước của
gói tin IPv6.

Có 3 loại địa chỉ IPv6. Đó là Unicast, Anycast và Multicast

• Địa chỉ Unicast xác định một giao diện đơn.


• Địa chỉ Anycast xác định một tập các giao diện sao cho một Packet gửi
đến một địa chỉ Anycast sẽ được phát tới một thành viên của nó.
• Địa chỉ Multicast xác định một nhóm các giao diện, sao cho một Packet
gửi đến một địa chỉ Multicast sẽ được phát tới tất cả mọi giao diện của
nhóm. Không có địa chỉ Broadcast trong IPv6, nó đã được thay thế bằng
địa chỉ Multicast.

Một đặc tính mới của IPv6 so với IPv4 đó là khả năng hỗ trợ QoS tại lớp
mạng. Tuy nhiên, điều này được thực hiện gián tiếp qua nhãn luồng và chỉ thị

8
ưu tiên, và không có sự đảm bảo nào về QoS từ đầu đến cuối cũng như không
thực hiện chức năng dành trước tài nguyên mạng. Dù sao khi các tính năng của
IPv6 được sử dụng với các giao thức dành trước tài nguyên mạng như RSVP
chất lượng dịch vụ từ đầu đến cuối được đảm bảo.

Đặc tính bảo mật của IPv6 hỗ trợ cho tính hợp pháp và bí mật cá nhân.
Chúng cũng cung cấp chức năng cơ bản cho việc tính cước dịch vụ và lưu
lượng tương lai theo cước phí.

Nhằm cải thiện vấn đề định tuyến, định dạng mào đầu (cơ sở) của IPv6 sẽ
được cố định; điều này cho phép giảm thời gian xử lý ở phần mềm do phần
cứng thực hiện nhanh hơn nên định tuyến cũng sẽ nhanh hơn. Nhiều thay đổi
chủ yếu tập trung ở phần phân tách số liệu. Trong IPv6, phân tách số liệu được
thực hiện tại phía nguồn và khác với IPv4, bộ định tuyến có dung lượng kích
thước gói giới hạn. Kết hợp với những thay đổi này bộ định tuyến IPv6 phải hỗ
trợ tối thiểu 576 byte so với 68 byte của bộ định tuyến IPv4. Tất cả thông tin về
phân tách được chuyển từ mào đầu IP tới phần mào đầu mở rộng nhằm đơn
giản hóa giao thức và nâng tốc độ xử lý số liệu IP trong bộ định tuyến.

Kiểm tra lỗi ở mức IP không được thực hiện trong IPv6 để giảm khối lượng
xử lý và cải thiện định tuyến. Kiểm tra lỗi tiêu tốn nhiều thời gian, mất nhiều
bit mào đầu và dư thừa khi cả lớp định tuyến và lớp truyền tải đều có chức
năng kiểm tra tin cậy.

1.4 Sử dụng IPv4 hay IPv6.

Đến bây giờ chúng ta có thể khẳng định rằng IPv6 chưa thể thay thế IPv4
ngay được. Hai phiên bản IP này sẽ cùng tồn tại trong nhiều năm nữa. Về
nguyên lý, có thể thực thi IPv6 bằng cách nâng cấp phần mềm thiết bị IPv4
hiện thời và đưa ra một giai đoạn chuyển đổi để giảm thiểu chi phí mua sắm
thiết bị mới và bảo vệ vốn đầu tư quá khứ. Tuy nhiên, có một điều chưa chắc
chắn đó là liệu tất cả các nhà khai thác Internet sẽ chuyển sang công nghệ IPv6
hay không? Điều này phụ thuộc rất lớn vào lợi ích mà nhà khai thác thu được
khi chuyển sang nó. Hiện tại, vây quanh các nhà khai thác vẫn là các bộ định
tuyến IPv4 và phần lớn lưu lượng trên mạng thích ứng cho IPv4, đây không chỉ
là một yếu tố làm hạn chế sự thay đổi. Một đặc tính khác lôi cuốn các nhà khai
thác có cơ sở hạ tầng phát triển nhanh đó là đặc tính cắm và chạy (Plug and
Play), nó làm cho mạng IPv6 dễ dàng trong việc cấu hình và bảo dưỡng hơn so
với mạng IPv4. Để dễ dàng khi chuyển sang IPv6 thì các ứng dụng của IPv4 và
IPv6 phải có khả năng liên kết và phối hợp hoạt động với nhau (ví dụ các nhà
sản xuất Internet Browser cần phân phối cho các Client khả năng thông tin với
cả IPv4 và IPv6). Một điều quan trọng và tiên quyết cho việc phối hợp họat

9
động đó là IPv6 cần hoạt động theo kiểu Host ngăn kép: một cho ngăn giao
thức IPv4 và một cho ngăn giao thức IPv6.

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng trước mắt sự xuất hiện IPv6 chỉ làm cho
sự lựa chọn thêm khó khăn (cũng giống như lợi ích của việc định tuyến hiệu
quả còn tùy thuộc vào liệu các nhà khai khác có sử dụng IPv6 không). Về lâu
dài, sự nghi ngại về độ phức tạp và hiệu quả của IPv6 so với IPv4 sẽ được loại
bỏ vì đến nay các ứng dụng IP đang cố thu nạp những điểm mạnh của IPv6
chẳng hạn như QoS.

1.5 IPv6 cho IP/WDM

Vấn đề chính của chúng ta là phải xác định xem những gì cần cho mạng và
những gì nên loại bỏ để làm cho truyền tải IP trên mạng WDM hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh hiện nay, IPv6 là phiên bản hợp lý nhất để hiện thực hóa điều
này, để mạng tối ưu hơn. Mào đầu nhỏ và hiệu quả cao, không có chức năng
kiểm tra lỗi trong giao thức đó là ưu điểm của việc sử dụng IPv6. Điều này có
nghĩa là yêu cầu cơ bản đối với hạ tầng WDM là phân phối dung lượng truyền
tải tin cậy, đó là một trong những điểm giá trị nhất của nó. Trong bất kỳ trường
hợp nào, sự thích ứng mới giữa IP và WDM cần được phát triển. Lớp thích ứng
này phải có khả năng dành trước tài nguyên.

Kịch bản này xem các bộ định tuyến IPv4 được thích ứng ở biên của mạng
WDM, điều này đồng nghĩa với việc tạo ra một quá trình chuyển đổi dần dần
tại biên giới giữa các thành phần mạng. Sử dụng IPv6 trong phần lõi của mạng
WDM sẽ đem lại hiệu quả, khả năng mở rộng lớn hơn so với IPv4.

CHƯƠNG 2: CÔNG NGHỆ IP TRÊN


MẠNG QUANG
2.1 Các thế hệ mạng WDM.

Thế hệ WDM đầu tiên được sử dụng trong mạng WAN. Cấu hình mạng
WAN WDM được cài đặt nhân công hoặc cố định. Đường truyền WDM cung
cấp các kết nối điểm nối điểm với tốc độ thấp. Kỹ thuật chính trong WDM thế
hệ đầu tiên là thiết kế và phát triển Laser WDM, các kỹ thuật khuếch đại quang,
các giao thức truy nhập và định tuyến tĩnh. Các thiết bị xen, ré bước sóng
quang WADM cũng được sử dụng trong mạng MAN. Các thiết bị đấu nối chéo
quang DXC được sử dụng để kết nối các vòng Ring WADM. Các kết nối này
có thể là băng thông rộng hoặc băng thông hẹp. Ứng dụng của các hệ thống

10
WDM thế hệ đầu tiên là các trung kế chuyển mạch cho tín hiệu thoại, các
đường truyền E1, T1.

Thế hệ WDM thứ hai có khả năng thiết lập các kết nối từ đầu cuối đến đầu
cuối trên lớp quang bằng cách sử dụng WSXC. Các đường quang này có cấu
trúc (topology) ảo trên topology vật lý của cáp sợi quang. Cấu hình các bước
sóng ảo này được cài đặt mềm dẻo hơn theo yêu cầu sử dụng. Kỹ thuật chính
WDM thế hệ thứ hai là xen, rẽ bước sóng quang, các thiết bị đấu nối chéo, bộ
biến đổi bước sóng quang tại các bộ đấu nối chéo, định tuyến động và phân bổ
bước sóng quang, các giao diện để kết nối với các mạng khác.

Thế hệ WDM thứ ba phát triển theo hướng mạng chuyển mạch gói quang
không có kết nối. Trong mạng này, các nhãn hoặc mào đầu quang được gắn
kèm với số liệu, được truyền cùng với tải và được xử lý tại các bộ chuyển mạch
WDM quang. Căn cứ vào tỷ số của thời gian xử lý gói tin mào đầu và thời gian
xử lý toàn bộ gói tin, các bộ chuyển mạch quang WDM có thể chia thành hai
loại: Chuyển mạch nhãn (OLS) hoặc chuyển mạch nhóm (OBS). Một số ví dụ
thiết bị WDM thế hệ ba là: Bộ định tuyến (Router) quang chuyển mạch nhãn,
Router quang Gigabit, Chuyển mạch quang nhanh.

Khả năng kết hợp với nhau trong vận hành giữa mạng WDM và mạng IP là
vấn đề trọng tâm trong mạng WDM thế hệ ba. Kết hợp định tuyến và phân bổ
bước sóng trên cơ sở chuyển mạch nhãn đa giao thức (MPLS) được coi là
chuyển mạch nhãn đa giao thức tổng quát (Generalized MPLS) thể hiện nhiều
ưu điểm vượt trội. Nhiều kỹ thuật phần mềm quan trọng như quản lý băng
thông, đặt lại cấu hình, khôi phục, hỗ trợ chất lượng dịch vụ cũng đã được thực
hiện.

Hình 1 : Mạng WDM qua các thế hệ

2.2 Nghiên cứu các giải pháp truyền tải IP trên mạng quang

2.2.1 Xu hướng tích hợp WDM

Nhu cầu truyền tải IP qua mạng ngày càng tăng. Trong khi IP được
xem như là công nghệ lớp mạng phổ biến thì công nghệ WDM cung cấp
khả năng dung lượng truyền dẫn lớn. Hơn nữa, khả năng cấu hình mềm
dẻo của các bộ OXC đã cho phép xây dựng mạng linh hoạt hơn, nhờ đó
các đường quang (lightpath) có thể lập theo nhu cầu. Một trong những
thách thức quan trọng đó là vấn đề điều khiển các lightpath này, tức là
phát triển các cơ chế và thuật toán cho phép thiệt lập các lightpath nhanh

11
và cung cấp khả năng khôi phục khi có sự cố, trong khi vẫn đảm bảo được
tính tương tác giữa các nhà cung cấp thiệt bị.

Đã có nhiều phương pháp để cung cấp dịch vụ gói IP trên mạng WDM
được đề nghị: IP/ATM/SDH over WDM, IP/SDH over WDM, v.v.v. Tuy
nhiên việc quản lý mạng theo các phương pháp trên gặp không ít khó
khăn. Nguyên nhân chủ yếu gây nên sự phức tạp trong quản lý chính là sự
phân lớp theo truyền thống của giao thức mạng. Các mạng truyền thống
có rất nhiều lớp độc lâp, do đó có nhiều chức năng chồng chéo nhau ở các
lớp và thường xuyên có sự mâu thuẩn lẫn nhau. Vì vậy, một trong những
giải pháp để giảm chi phí xây dựng và quản lý mạng một cách triệt để đó
là số lớp giao thức.

Hơn nữa, khi dung lượng và khả năng kết nối mạng trong cả công nghê
IP và WDM tăng lên thì càng cần thiết tối ưu mạng IP và bỏ qua tất cả các
công nghệ lớp trung gian để tạo nên mạng Internet quang thật sự hiệu quả
và mềm dẻo. Tuy nhiên, các lớp trung gian cung cung cấp một số chức
năng có giá trị như lưu lượng (Traffic Engineering) và khôi phục. Những
chức năng này cần được giữ lại trong mạng IP/WDM bằng cách đưa
chúng lên lớp IP hoặc xuống lớp quang.

Từ đó người ta mới nghĩ đến công nghệ IP over WDM. Đây là một công
nghệ mới tuy rằng còn nhiều vấn đề chưa giải quyết nhưng với lợi ích của
nó, thị trường rộng lớn và tương lai sáng sủa, các tổ chức viễn thông quốc
tế đang triển khai công tác nghiên cứu công nghệ này. IP over WDM cung
cấp khả năng truyền dẫn trực tiếp gói số liệu IP trên kênh quang, giảm sự
lặp chức năng giữa các lớp mạng, giảm bộ phận trung tâm dư thừa tại các
lớp SDH/SONET, ATM, giảm thao tác thiệt bị, dẫn đến giảm chi phí bảo
dưỡng và quản lý. Do không phải qua lớp SDH và ATM nên gói số liệu có
hiệu suất truyền dẫn cao nhất, đồng nghĩa với chi phí thấp nhất. Ngoài ra
còn có thể phối hợn với đặc tính lưu lượng không đối xứng của IP, tận
dụng băng tần nhằm giảm giá thành khai thác. Từ đó gián tiếp giảm chi
phí cho thuê bao. Rõ ràng đây là một kết cấu mạng trực tiếp nhất, đơn
giản nhất, kinh tế nhất, rất thích hợp sử dụng cho các mạng đường trục.

Hình 2: Xu hướng tích hợp IP/WDM

2.2.2 Giới thiệu các giải pháp truyền tải IP trên mạng quang

Hiện nay đã có nhiều giải pháp đang được nghiên cứu, phát triển, hoặc
là đã được triển khai trên các mạng của các nhà khai thác trong nhưng
năm qua. Xu hướng nghiên cứu tích hợp IP quang đang diễn ra mạnh mẽ

12
không chỉ ở trong dự án nghiên cứu phát triển của những trung tâm
nghiên cứu khoa học lớn mà nó còn lan rộng trong các phòng thí nghiệm
Lab của các trường Đại học. Theo thống kê của EURESCOM (European
Institute for Research and Strategic Studies in Telecommunication) trong
dự án hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 13 giải pháp liên quan đến vấn
đề truyền tải IP trên mạng quang.

Khi đi vào tìm hiểu và nghiên cứu cho thấy 2 xu hướng khả thi, một là
khai thác ưu điểm của công nghệ hiện có trên mạng, thêm tính năng để
thích ứng với việc mạng lưu lượng IP với kích thước gói thay đổi. Xu
hướng kia là nghiên cứu ra các giao thức mới phù hợp với đặc tín lưu
lượng IP. Điều này được thể hiện rõ khi ta gắn các giải pháp trên vào mô
hình phân lớp mạng.

Hình 3: Các mô hình phân lớp mạng

Trong đó lớp thích ứng ATM (ALL 5) sẽ đóng vai trò cung cấp dịch vụ
và chức năng định tuyến lớp 3.

Chức năng Lớp 2 được xây dựng dựa trên các công nghệ hiện đã trưởng
thành như SDH, ATM, Ethernet, DTM và WDM. Một số giao thức như
MPOA/LAPS, RSP, POS, SDL được phát triển trong lớp mạng này thực hiện
bao gói IP (Encapsulation) trong các định dạng khung cho truyền dẫn trên các
bước sóng quang. Một điều dễ nhận thấy là các giao thức này đều được xây
dựng quanh các công nghệ đã trưởng thành kể trên. Chúng ta hoàn toàn có thể
lý giải được điều này: các dự án nghiên cứu phần lớn chịu ảnh hưởng bởi
nguồn tài chính từ các nhà khai thác mạng, sản xuất thiết bị, như thế nó sẽ chỉ
giải quyết những vấn đề đang tồn tại của họ. Chính vì vậy các nghiên cứu về
giao thức truyền tải cũng chỉ tập trung vào những công nghệ này mà thôi.

Lớp 1- giao diện vật lý, sẽ là các tế bào ATM (theo giao diện STM-1 hoặc
STM-4), khung truyền dẫn SDH, Ethernet, DTM và Digital Wrapper (G.907).
Các bước sóng quang đóng vai trò tuyến kết nối điểm - điểm giữa các nút trong
mạng. Đôi khi người ta xem các bước sóng này tạo thành lớp quang đóng vai
trò.

Lớp 0, nghĩa là nó thuần tuý chỉ là tuyến vật lý cung cấp kết nối giữa các
thành phần trong mạng truyền tải.

Cấn nhớ thêm rằng là khi xuất hiện chuyển mạch gói quang (OPS), công
nghệ này có khả năng hoạt động từ Lớp 1 đến lớp 3 trong mô hình OSI, thì gói
IP sẽ được sắp xếp trực tiếp trong gói quang mà không cần qua lớp trung gian.

13
Tuy nhiên phải cần rất nhiều thời gian nữa thì công nghệ chuyển mạch gói
quang mới có thể thương mại rộng rãi trên thị trường.

Có thể nêu các phương pháp trên bằng các tên gọi sau:

• IP/ATM/SDH/WDM
• IP/ATM/SDH(frame)/WDM
• IP/ATM/WDM
• IP/SDH/WDM
• IP/SDH(khung)/WDM
• IP/Ethernet/SDH/WDM
• IP/Ethernet/SDH(khung)/WDM
• IP/GbE/WDM
• IP/RPR/SDH(khung)/WDM
• IP/MAPOS /SDH(khung)/WDM
• IP/GFP/SDH/WDM
• IP/DTM/WDM
• IP/DTM/SDH(khung)/WDM
• IP/LAPS/SDH(khung)/WDM
• IP-MPLS/SDH(khung)/WDM
• IP-MPLS/quang (Digital Wrapper -G.907)
• IP-GMPLS/quang

Cần biết rằng nguyên lý hoạt động của khung SDH (kỹ thuật ghép kênh
SDH) có thể ứng dụng trong các thiết bị độc lập hoặc được tích hợp trong thiết
bị khác mà có chung phần điều khiển với công nghệ khác. Đó là lý do người ta
phân thành hai giải pháp sử dụng khung SDH trong thiết bị độc lập và thiết bị
tích hợp (SDH (khung)), phù hợp theo hai mô hình xếp chồng và đồng cấp
đang được ứng dụng trong mạng ngày nay.

2.2.3 Thích ứng IP trên WDM

2.2.3.1 IP/ATM/SDH cho truyền dẫn WDM

Bảng 1: Ngăn giao thức sử dụng tích hợp cho IP/ATM/SDH

IP Được đóng thành các gói kích thước 250 đến 65535 byte.
LLC/SNAP Điều khiển tuyến logic thêm 8 byte mào đầu vào gói IP để tạo
thành khối dữ liệu giao thức (PDU) ATM.

14
AAL5 Lớp thích ứng ATM5 thêm 8 byte mào đầu (trường độ dài và 4
byte CRC) cộng với trường nhồi (0 đến 47 byte) để tạo thành
một PDU AAL5 có kích thước bằng một số nguyên lần tải
trọng ATM 48 byte
ATM Chia PDU AAL5 thành các tải trọng 48 byte và thêm 5 byte
mào đầu để tạo thành các tế bào ATM 53 byte.
SDH Đặt các tế bào ATM vào tải trọng VC-4 hoặc VC-4 kết chuỗi
SDH. Thêm mào đầu đoạn SDH (81 byte gồm cả con trỏ AU)
và 9 byte mào đầu tuyến VC4 vào vùng tải trọng VC4 2340
byte. Trường hợp kết chuỗi các VC4 một VC4-Xc

Truyền tải IP qua ATM được thực hiện dưới nhiều giao thức IP/ATM cổ
điển, LAN mô phỏng, đa giao thức qua ATM,... Ở đây ta tập trung chủ yếu vào
giao thức cổ điển đã được chuẩn hoá và hoàn thiện. Để truyền tải trong các
tuyến WDM, phần lớn các định dạng truyền dẫn chuẩn sử dụng khung SDH.
Ngăn giao thức cho giải pháp này được trình bày tóm lược trong bảng trên.

- Kích thước gói sau lớp ATM

AAL5_PDU = IPSIZE + SNAP_HD + AAL5_OH

= IPSIZE + 16.

Cells/Packet = AAL5_PDU / 48.

ATM_PSIZE = (Cells/Packet)*53 = 53*roundup [(IPSIZE + 16)/48]

Hình 4: Biểu diễn kiến trúc mạng khả thi sử dụng IP/ATM/SDH over
WDM.

Theo cách này, các gói IP được phân tách trong các tế bào ATM và được gán
vào các Kết nối ảo (VC) qua Card đường truyền SDH/ATM trong bộ định
tuyến IP. Tiếp đến các tế bào ATM được đóng trong khung SDH và được gửi
tới chuyển mạch ATM hoặc trực tiếp tới bộ Transponder WDM để truyền tải
qua lớp mạng quang (biểu diễn đơn giản như trong Hình 4 cho ring OADM).

Hiện tại, một cách thực hiện đảm bảo QoS cho dịch vụ IP là cung cấp một
băng tần cố định giữa các cặp thiết bị định tuyến IP cho từng khách hàng (quản
lý QoS Lớp 2). ATM cung cấp tính năng thực hiện điều này với tính hạt băng
tần thay đổi nhờ các Kênh ảo cố định (PVC) qua hệ thống quản lý ATM hoặc

15
thiết lập Kênh chuyển mạch ảo (SVC) linh hoạt, tất cả nằm trong Luồng ảo
(VP). Hoặc cũng có thể sử dụng phương pháp ghép kênh thống kê cho phép
người sử dụng có thể truy nhập băng tần phụ trong một khoảng thời gian ngắn.
Điều này đảm bảo băng tần tuỳ ý và cố định từ 1 Mbit/s đến vài trăm Mbit/s
cho các khách hàng khác nhau. Ngoài ra, với tính hạt mịn của băng tần có thể
cho phép các bộ định tuyến IP kết nối logic dạng mạng nhện (Mesh) một cách
dễ dàng, do trễ được giảm thiểu giữa các bộ định tuyến trung gian. Một lợi
điểm khác của việc sử dụng giao thức ATM là khả năng thực hiện các hợp đồng
lưu lượng khác nhau với nhiều mức chất lượng dịch vụ tuỳ theo ứng dụng yêu
cầu. Đối với lưu lượng IP (thực chất là phi kết nối), mạng ATM sẽ chủ yếu sử
dụng hợp đồng lưu lượng UBR (tốc độ bit không xác định). Tuy nhiên, nếu các
ứng dụng IP nào đó yêu cầu mức QoS riêng, đặc biệt với các ứng dụng thời
gian thực cần sử dụng Năng lực chuyển giao (ATC) khác như Tốc độ bit không
đổi (CBR) hoặc VBR-rt. Tuy nhiên khi sắp xếp các gói IP có độ dài biến thiên
vào các tế bào ATM có độ dài cố định chúng ta phải cần đến phần mào đầu phụ
(do gói một gói IP có thể cần đến nhiều tế bào ATM), và đây được gọi là thuế tế
bào. Sự khác biệt về kích thước cũng tạo ra yêu cầu lắp đầy khoảng trống trong
các tế bào mà có phần mào đầu phụ. Một giải pháp để ngăn chặn yêu cầu trên
là sắp xếp các gói trực tiếp liền kề nhau, nhưng điều này cũng đồng nghĩa với
việc tăng rủi ro mất hai gói liền nhau khi tế bào bị mất.

IP/ATM cũng có thể được sử dụng trong MPLS. Trong trường hợp này, PVC
không được thiết lập từ hệ thống quản lý ATM mà linh hoạt từ giao thức MPLS.
Đối với MPLS dựa trên ATM, nhãn có thể được lưu trong VCI ATM.

2.2.3.2 IP/ATM trực tiếp trên WDM

Một giải pháp khác là truyền tải trực tiếp bào ATM bao gói IP trên kênh
WDM. Kịch bản này giống như kịch bản trên theo quan điểm kiến trúc. Sự
khác biệt ở đây là các tế bào ATM không được đóng trong các khung SDH mà
chúng được gửi trực tiếp qua môi trường vật lý bằng sử dụng tế bào ATM tạo
trên lớp vật lý.

Tế bào tạo trên lớp vật lý là một kỹ thuật tương đối mới đối với truyền tải
ATM. Tế bào dựa trên cơ chế vật lý đã được phát triển riêng cho giao thức
ATM; kỹ thuật này không hỗ trợ cho bất kỳ giao thức nào ngoài những giao
thức thiết kế cho ATM.

Một số ưu điểm của việc sử dụng tế bào dựa trên giao diện SDH như trình
bày ở trên:

16
• Kỹ thuật truyền dẫn đơn giản đối với tế bào ATM cũng như các tế bào
được gửi trực tiếp trên môi trường vật lý sau khi trộn.
• Mào đầu lớp vật lý ít hơn (khoảng 16 lần so với SDH)
• ATM là không đồng bộ nên không đòi hỏi cơ chế định thời nghiêm ngặt
với mạng.

Tuy nhiên, nhược điểm của giải pháp này là phần mào đầu (thuế tế bào)
cũng lớn tương tự như đối với truyền tải SDH; công nghệ này không được các
nhà công nghiệp phát triển rộng rãi, và kỹ thuật truyền dẫn này chỉ có thể mang
riêng các tế bào ATM.

Tế bào ATM dựa trên các lớp vật lý được định nghĩa trong một số tổ chức
tiêu chuẩn, 155 Mbit/s và 622 Mbit/s của ITU, và hiện tại thì Diễn đàn ATM đã
hoàn thành chỉ tiêu cho tốc độ 622 Mbit/s và 2488 Mbit/s.

2.2.3.3 IP/PDH/SDH cho truyền dẫn WDM

Truyền tải IP qua môi trường PDH có thể thực hiện dựa trên giao thức PPP
và khung HDLC ở lớp 2. Hiện nay, ITU cũng đã chuẩn hoá giải pháp đóng gói
IP trong khung PDH qua giao thức LAPS (X.85/Y.1321).

Lớp vật lý bao gồm các bước sóng WDM và sợi quang. Để tăng cải thiện
chức năng mạng (bảo vệ và khôi phục mạng) cho PDH thì các khung của nó
sau đó sẽ được đóng trong các khung SDH trước khi truyền trên bước sóng
quang.

Ngày nay, do sự bùng nổ lưu lượng số liệu nên giới hạn tốc độ và phương
pháp ghép kênh của PDH đã làm cho nó không thể tồn tại trong mạng truyền tải
mới. Và sử dụng PDH sẽ làm giảm hiệu quả khai thác của mạng truyền tải
quang. Giải pháp kết nối này chỉ còn hiện diện trong những mạng số liệu mà
dung lượng kết nối rất thấp.

2.2.3.4 Các giao thức hỗ trợ truyền dẫn SONET/SDH trên WDM

2.2.3.4.1Phương thức đóng khung HDLC (POS)

Mạng truyền tải gói IP được đóng trong khung SDH truyền trên môi trường
WDM được biểu diễn trong Hình 5.

Các khung SDH được dùng để tạo nên khung bao gói IP đơn giản cho
truyền dẫn WDM bằng bộ Transponder (thích ứng bước sóng) hoặc truyền tải

17
lưu lượng IP trong khung SDH qua mạng truyền tải SDH cùng với lưu lượng
khác sau đó mới sử dụng các tuyến WDM.

Giải pháp này tận dụng ưu điểm của SDH để bảo vệ lưu lượng IP chống lại
sự cố đứt cáp nhờ chức năng chuyển mạch tự động (APS). Điều này cũng có
thể thực hiện trong lớp mạng quang dựa trên WDM.

Hình 5. Ví dụ về mạng IP/SDH/WDM

Card đường truyền trong bộ định tuyến IP thực hiện tạo khung PPP/HDLC.
Tín hiệu quang phải phù hợp với truyền dẫn qua môi trường sợi quang trong
phần tử mạng SDH hoặc bộ Transponder WDM. Có một số kiểu giao diện
IP/SDH khác:

• VC4 hoặc “ống” kết chuỗi VC4 cung cấp băng tần tổng hợp, không có
bất cứ sự phân chia nào giữa các dịch vụ IP hiện diện trong luồng gói.
• Giao diện kênh hoá, ở đây đầu ra quang STM-16 có thể chứa 16 VC4
riêng rẽ với dịch vụ phân biệt cho từng VC4. VC4 khác nhau cũng có thể
được định tuyến qua mạng SDH tới các bộ định tuyến đích khác nhau.

Bảng 2. Các giao thức sử dụng cho IP/SDH

IP Gói số liệu có độ dài cực đại 65535 byte


PPP Đóng khung gói theo PPP (RFC 1661). Thêm “trường giao thức” 1 hoặc 2
byte và thực hiện nhồi theo tuỳ lựa. PPP cũng cung cấp giao thức thiết lập
tuyến nhưng không phải là quyết định trong IP/SDH.
HDLC Tạo khung (RFC 1662). Thêm 1 byte cờ để chỉ thị điểm bắt đầu của
khung, hơn 2 byte cho mào đầu và 2 byte kiểm tra khung (FCS) tạo ra
khung có độ dài tới 1500 byte. Cùng với PPP, HDLC tạo thành 7 hoặc 8
byte mào đầu thêm vào gói IP.
SDH Đặt các khung HDLC trong tải VC4 hoặc VC4 kết chuỗi (RFC 1619).
Thêm mào đầu đoạn SDH (81 byte gồm cả con trỏ AU) và 9 VC4 byte
Mào đầu luồng vào 2340 byte tải VC4 SDH. Đối với VC4 kết chuỗi, tải
V4-Xc có độ dài X*2340. Các khung được phép vắt ngang qua ranh giới
của các VC4. Giống như ATM, đa thức 1+x43 được sử dụng cho trộn tín
hiệu để giảm thiểu rủi ro người sử dụng truy nhập với mục đích xấu mà
có thể gây mất đồng bộ mạng.

Phiên bản IP/WDM được xem xét ở đây sử dụng giao thức PPP và khung
HDLC. Phiên bản này cũng được biết dưới tên gọi khác POS hoặc Gói trên

18
SONET. PPP là một phương pháp chuẩn để đóng gói các gói IP và các kiểu gói
khác cho truyền dẫn qua nhiều môi trường từ đường điện thoại tương tự tới
SDH, và cũng bao gồm chức năng thiết lập và giải phóng các tuyến (LCP).
HDLC là phiên bản chuẩn hoá của SDLC theo ISO, giao thức này được IBM
phát triển trong những năm 1970. Khung HDLC chứa dãy cờ phân định ranh
giới ở điểm đầu và điểm cuối của khung cùng một trường kiểm tra CRC để
kiểm soát lỗi.

• Định dạng khung HDLC (POS)

POS_PSIZE = IPSIZE + POS_OH = IPSIZE + 7 (CRC 16).

POS_PSIZE = IPSIZE + POS_OH = IPSIZE + 9 (CRC 32).

Hình 6: Định dạng khung HDLC (POS)

2.2.3.4.2 MAPOS (Multiple-access protocol overl SONET)

Giao thức MAPOS là giao thức lớp tuyến số liệu hỗ trợ IP trên SDH. Giao
thức MAPOS cũng được gọi với một tên khác là Packet Over Lightwave
(POL). Đây là một giao thức chuyển mạch gói phi kết nối dựa trên việc mở
rộng khung POS (PPP-HDLC) được NTT phát triển. Trước đây MAPOS được
phát triển với mục đích mở rộng dung lượng tốc độ cao SONET cho LAN
nhưng hiện nay sự hiện diện của Gigabit Ethernet dường đã làm người ta lãng
quên nó. Hiện tại cũng có một số chuyển mạch MAPOS được thử nghiệm ở
Nhật bản (Tokyo).

Trong hình Hình biểu diễn khung MAPOS thế hệ 1 và 2. Giao thức MAPOS
/POL được xem như sự mở rộng thành phần khung HDLC. Các trường được
truyền trong MAPOS là:

• Dãy cờ, sử dụng cho đồng bộ khung.


• Địa chỉ, chứa địa chỉ đích HDLC (8 bit trong phiên bản 1 và 16 trong
phiên bản 2)
• Điều khiển, là trường điều khiển có giá trị 0x03, thuật ngữ chuyên môn
trong HDLC nghĩa là khung Thông tin không đánh số với bit Poll/Final
được thiết lập bằng 0.
• Giao thức, xác định giao thức cho việc bao gói số liệu trong trường
thông tin của nó.
• Thông tin, chữa gói số liệu tối đa 64 Kbyte.
• Dãy kiểm tra khung, được tính trên khắp các bit mào đầu, giao thức, và
trường tin

19
Cờ Địa chỉ Điều Giao thức Trường thông tin FCS
đích khiển
0x7E 8 bit 0x03 (16bit) (0-65280 bytes) (16/32bit
)
Cờ Địa chỉ đích Giao thức Trường thông tin FCS

0x7E 16 bit (16bit) (0-65280 bytes) (16/32bit


)

Hình 7: khung MAPOS Phiên bản 1 và Phiên bản 2

Việc thực hiện giao thức MAPOS trong bộ định tuyến IP chuẩn với các giao
diện POS đã được thực hiện trong khoảng thời gian ngắn. Chỉ có hai chức năng
mới (Giao thức chuyển mạch nút - NSP và Giao thức phân chia địa chỉ- ARP)
được thêm vào giao thức MAPOS .

2.2.3.4.3 Phương thức đóng khung LAP (Link Accsess Procedure-SDH)

Giao thức truy nhập tuyến-SDH (LAPS) là một giao thức tuyến số liệu được
thiết kế cho mục đích IP/SDH và Ethernet/SDH được ITU-T chuẩn hoá lần lượt
trong khuyến nghị X.85, X.86. LAPS hoạt động như khung HDLC bao gồm
dịch vụ liên kết số liệu và chỉ tiêu giao thức để thực hiện việc sắp xếp gói IP
vào tải SDH.

IP/SDH sử dụng LAPS như một sự kết hợp kiến trúc thông tin số liệu giao
thức IP (hoặc các giao thức khác) với mạng SDH. Lớp vật lý, lớp tuyến số liệu
và lớp mạng hoặc các giao thức khác được hiện diện tuần tự gồm SDH, LAPS
và IP hoặc PPP. Mối liên hệ này được biểu diễn như ngăn giao thức/lớp cho IP
trên STM-n. Hình dưới mô tả IP/SDH như ngăn giao thức/lớp.

Hình 8: Ngăn giao thức/lớp cho IP trên STM-n sử dụng LAPS X.85
(Ngăn TCP/UDP/IP được thay bằng Ethernet đối với X.86)

Định dạng khung của LAPS bao gồm:

• Trường cờ: chỉ điểm bắt đầu và kết thúc khung (từ mã cố định 01111110)
• Trường địa chỉ: liền ngay sau trường cờ được gán giá trị cố định để biểu
thị trường cờ liền trước là cờ mở (nếu trường cờ mà không có trường địa
chỉ liền sau thì được xem là cờ đóng và cũng được làm vai trò cờ mở của
khung kế tiếp).

20
• Trường điều khiển và SAPI: Trường điều khiển có giá trị hexa 0x03 và
lệnh thông tin không đánh số với giá trị Poll/Final là 0. SAPI chỉ ra điểm
tại đó dịch vụ tuyến số liệu cung cấp cho giao thức lớp 3.
• Trường thông tin: chứa thông tin số liệu có độ dài tối đa 1600 byte.
• Dãy kiểm tra khung (FCS-32): đảm bảo tính nguyên dạng của thông tin
truyền tải
• LAPS_PSIZE = IPSIZE + LAPS_OH = IPSIZE + 9

Cờ Địa Điều Giao Thông tin Nhồi Cờ


chỉ khiển thức
0x7e 0x04 0x03 SAPI Thông tin LAPS, gói IP 32bit 0x7e

Hình 9: Định dạng khung LAPS theo X.85

2.2.3.4.4 Phương thức đóng khung GFP (Generic Framing Procedure-


GFP)

Thủ tục lập khung tổng quát (GFP) được ANSI thảo luận đầu tiên trong
T1X1.5; và hiện nay đã được ITU-T chuẩn hoá trong khuyến nghị G.704.1.
GFP là một thủ tục lập khung để tạo nên tải có độ dài thay đổi theo byte từ các
tín hiệu client mức cao hơn cho việc sắp xếp tín hiệu trong luồng đồng bộ.

GFP là một thuật ngữ chung cho hai hướng xếp chồng: ở lớp phía dưới liên
quan đến dịch vụ truyền tải sử dụng GFP; và ở lớp phía trên liên quan đến sắp
xếp các dịch vụ cung cấp bởi GFP. Ở lớp phía dưới, GFP cho phép sử dụng bất
cứ kiểu công nghệ truyền tải nào, mặc dù hiện chỉ chuẩn hoá cho SONET/SDH
và OTN (Digital Wrapper, G.709). Tại lớp phía trên, GFP hỗ trợ nhiều kiểu gói
khác nhau như IP, khung Ethernet, và khung HDLC như PPP.

Hình 10: Mối quan hệ GFP với tín hiệu client và luồng truyền tải

GFP có hai phương pháp sắp xếp để thích ứng các tín hiệu client vào trong
tải SONET/SDH: GFP sắp xếp theo khung (GFP-F) và GFP trong suốt (GFP-
T).

• GFP-F: sử dụng cơ chế tìm hiệu chỉnh lỗi mào đầu để phân tách khung
GFP nối tiếp (giống như cơ chế sử dụng trong ATM) trong dòng tín hiệu
ghép kênh cho truyền dẫn. Do độ dài tải GFP thay đổi nên cơ chế này
đòi hỏi khung tín hiệu client được đệm toàn bộ lại để xác định độ dài
trước khi sắp xếp vào khung GFP.
• GFP-T: một số lượng đặc tính tín hiệu client cố định được sắp xếp trực
tiếp vào khung GFP có độ dài xác định trước (sắp xếp theo mã khối cho

21
truyền tải trong khung GFP, hiện chỉ mới định nghĩa cho mã 8B/10B
trong chuẩn G.704.1 ITU-T).
• Cấu trúc khung GFP (hình 11), nó bao gồm các thành phần cơ bản sau:
• Mào đầu lõi
• Phần tải tin
• Trường kiểm tra khung (CFS)

Đầu đề chính

Đầu đề tải trọng

Đầu đề mở rộng

(tùy chọn)

TẢI TRỌNG

Tổng kiểm tra

(tùy chọn)

PLI

cHEC (CRC-16)

PTI PFI kiểu EXI

UPI

tHEC (CRC-16)

EXI

eHEC (CRC-16)

TẢI TRỌNG

pFCS (CRC-32)

4 byte

4 byte

0-60 byte

22
n byte

0-4 byte

Thứ tự truyền bit

Thứ tự truyền byte

PLI: chỉ thị kích cỡ PDU

cHEC: kiểm tra lỗi đầu đề chính

PTI: chỉ thị kiểu tải trọng

000: số liệu khách hàng

100: quản lý khách hàng

PFI: chỉ thị FCS tải trọng

1: có FCS

0: không FCS

kiểu EXI: chỉ thị đầu đề mở rộng

0000: Null

0001: Chuỗi

0010: V

UPI: chỉ thị tải trọng người sử dụng

tHEC: HEC trường kiểu

EXI: chỉ thị đầu đề mở rộng

eHEC: HEC mở rộng

Tải trọng: chứa khung PDU

pFCS: FCS tải trọng

Hình 11: Cấu trúc khung GFP

2.2.3.4.5 Kết chuỗi ảo (Virtual Concatenation-VCAT)

23
Kết chuỗi ảo là một cơ chế cung cấp khả năng khai thác tải SONET/SDH
hiệu quả và mềm dẻo. Cơ chế này phá vỡ giới hạn do sự phân cấp tín hiệu
truyền dẫn đồng bộ SONET/SDH được thiết kế cho tải PDH (tốc độ kênh được
phân thành từng cấp thô STM-1, STM-4,...). Từ “ảo” ngụ ý nối xâu chuỗi các
tải trong SONET/SDH để cung cấp băng tần mềm dẻo phù hợp với kích thước
số liệu.

Ý tưởng này đã được thực hiện trong giải pháp PoS , tuy nhiên mới nó mới
chỉ dừng lại ở mức kết chuỗi tải ở mức luồng bậc cao tạo thành tuyến có dung
lượng phù hợp với giao diện của các bộ định tuyến.

Hình 12. Ví dụ kết chuỗi ảo trong hệ thống SDH

Các tải kết chuỗi trong mạng được xử lý như những tải riêng biệt và độc lập.
Do đó nhà khai thác mạng truyền tải có thể tự do thực hiện chức năng kết chuỗi
mà không sợ ảnh hưởng đến hệ thống đang sử dụng hiện tại. Hơn nữa, hệ thống
quản lý phần tử mạng (EMS)/Hệ thống quản lý mạng (NMS) ngày nay có thể
cung cấp dễ dàng chức năng này.

2.2.3.4.6 LCAS (Link Capacity Adjustment Scheme)

Như trình bày trên, kết chuỗi tải được thực hiện để tạo nên những tải có
dung lượng khác nhau. Mặc dù một số lượng tải kết chuỗi có thể đã được xác
định trước cho phần lớn ứng dụng nhưng thực tế chúng ta cũng cần phân phát
động một số tải cho một vài ứng dụng cụ thể. LACS được thiết kế để thực hiện
chức năng trên.

LCAS là một giao thức báo hiệu thực hiện trao đổi bản tin giữa hai điểm kết
cuối VC để xác định số lượng tải kết chuỗi. Ứng với yêu cầu của người sử
dụng, số lượng tải kết chuỗi có thể tăng/giảm phù hợp với kích thước lưu lượng
trao đổi. Đặc tính này rất hữu dụng với nhà khai thác để thích ứng băng tần
giữa các bộ định tuyến thay đổi theo thời gian, theo mùa...

Cơ chế hoạt động của LCAS dựa trên việc trao đổi gói điều khiển giữa bộ
phát và bộ thu. Mỗi gói điều khiển sẽ mô tả trạng thái của tuyến trong gói điều
khiển kế tiếp. Những thay đổi này được truyền đi tới phía thu để bộ thu có thể
chuyển tới cấu hình mới ngay khi nhận được nó. Gói điều khiển gồm một loạt
các trường dành cho những chức năng định trước và chứa thông tin truyền từ
bộ phát đến bộ thu cũng như thông tin từ bộ thu đến bộ phát.

Hướng đi:

24
• Trường chỉ thị đa khung (MFI)
• Trường chỉ thị dãy (SQ)
• Trường điều khiển (CTRL)
• Bit nhận dạng nhóm (GID)

Hướng về

• Trường trạng thái thành viên (MST)


• Bit chấp thuận tái dãy số (RS-Ack)

2.2.3.5 IP/Gigabit Ethernet cho WDM

Hiện nay, Ethernet chiếm tới 85% trong trong số những ứng dụng mạng
LAN. Chuẩn Gigabit Ethernet có thể sử dụng để mở rộng dung lượng LAN tiến
tới MAN và thậm chí cả đến cả WAN nhờ các Card đường truyền Gigabit trong
các bộ định tuyến IP; những Card này có giá thành rẻ hơn 5 lần so với Card
đường truyền cùng dung lượng sử dụng công nghệ SDH. Nhờ đó, Gigabit
Ethernet trở nên hấp dẫn trong môi trường Metro để truyền tải lưu lượng IP qua
các mạch vòng WDM hoặc thậm chí cho cả các tuyến WDM cự ly dài. Hơn thế
nữa, các cổng Ethernet 10 Gbit/s sẽ được chuẩn hoá trong tương lai gần.

Hình 13 biểu diễn ví dụ mạng IP dựa trên giao diện Gigabit Ethernet. Các
Card đường truyền Gigabit Ethernet hoặc chuyển mạch Ethernet Lớp 2 nhanh
được sử dụng cho các bộ định tuyến IP trong mạng.

Mạng Ethernet tốc độ bit thấp (ví dụ 10Base-T hoặc 100Base-T) sử dụng
kiểu truyền hoàn toàn song công, ở đây băng tần truyền dẫn hiệu dụng được
chia sẻ giữa tất cả người sử dụng và giữa hai hướng truyền dẫn. Để kiểm soát
sự truy nhập vào băng tần chia sẻ có thể sử dụng công nghệ CSMA-CD. Điều
này sẽ làm giới hạn kích thước vật lý của mạng vì thời gian chuyển tiếp không
được vượt quá “khe thời gian” có độ dài khung nhỏ nhất (chẳng hạn 512 bit đối
với 10Base-T và 100Base-T). Nếu tốc độ bit là 1Gb/s mà sử dụng độ dài khung
nhỏ nhất 512 bit thì mạng Ethernet chỉ đạt chừng 10m vì thế độ dài khung tối
thiểu trong trường hợp này được định nghĩa bằng 4096 bit cho Gigabit
Ethernet. Điều này hiện làm giới hạn kích thước mạng trong phạm vi 100m.
Tuy nhiên, kiểu hoàn toàn song công vẫn hấp dẫn trong môi trường Gigabit
Ethernet.

Khi Gigabit Ethernet (1000Base-X) sử dụng kiểu song công nó trở thành
một phương pháp tạo khung và bao gói đơn giản và tính năng CSMA-CD
không còn được sử dụng. Chuyển mạch Ethernet cũng được sử dụng để mở

25
rộng topo mạng thay thế cho các tuyến điểm - điểm.

Giao diện

Gigabit Ethernet

Giao diện

Gigabit Ethernet

Giao diện

Gigabit Ethernet

Chuyển mạch

Gigabit Ethernet

Giao diện

Gigabit Ethernet

Định tuyến

IP

Định tuyến

IP

OADM

OADM

OADM

OADM

GbE

GbE

26
Ví dụ: WDM 32λ

Hình 13: Truyền tải IP trên vòng ring WDM bằng khung Gigabit Ethernet

Cấu trúc khung Gigabit Ethernet biểu diễn trong Hình . Độ dài tải cực đại
của Gigabit Ethernet là 1500 byte nhưng có thể mở rộng tới 9000 byte (Khung
Jumbo) trong tương lai. Tuy nhiên, kích thước tải lớn hơn sẽ khó tương hợp với
các chuẩn Ethernet trước đây và hiện tại cũng chưa có chuẩn nào cho vấn đề
này.

Phần trống 12
Phần mào đầu 7
Phân định ranh giới bắt đầu 1
Địa chỉ đích 6
Địa chỉ nguồn 6
Độ dài khung 2
Trường điều khiển tuyến logic + tải .
tin
.
(độ dài tối đa 1500 byte)
Dãy kiểm tra khung 4
Tổng số mào đầu 38

Hình 14. Khung Gigabit Ethernet

Khung Ethernet được mã hoá trong sóng mang quang sử dụng mã 8B/10B.
Trong 8B/10B mỗi byte mã hoá sử dụng 10 bit nhằm để đảm bảo mật độ
chuyển tiếp phù hợp trong tính hiệu khôi phục đồng hồ. Do đó thông lượng đầu
ra 1Gb/s thì tốc độ đường truyền là 1,25Gb/s. Việc mã hoá cũng phải đảm bảo
chu kỳ trống được lấp đầy ký hiệu có mật độ chuyển tiếp phù hợp giữa trạng
thái 0 và 1 khi các gói không được phát đi nhằm đảm bảo khả năng khôi phục
đồng hồ.

Gigabit Ethernet cung cấp một số CoS như định nghĩa trong tiêu chuẩn
IEEE 802.1Q và 802.1p. Những tiêu chuẩn này dễ dàng cung cấp CoS qua
Ethernet bằng cách gắn thêm Thẻ cho các gói cùng chỉ thị ưu tiên hoặc cấp độ
dịch vụ mong muốn cho gói. Những Thẻ này cho phép tạo những ứng dụng liên

27
quan đến khả năng ưu tiên của gói cho các phần tử trong mạng. RSVP hoặc
DiffServ cũng được hỗ trợ bằng cách sắp xếp trong 802.1p lớp dịch vụ.

2.2.3.6 IP/SDL trực tiếp trên WDM

Tuyến số liệu đơn giản (SDL) là một phương pháp lập khung được Lucent
đề xuất. So với HDLC, khung SDL không có cờ phân ranh giới thay vì đó nó
sử dụng trường độ dài gói tại điểm bắt đầu khung. Điều này rất thuận lợi ở tốc
độ bit cao khi thực hiện đồng bộ (rất khó thực hiện đối với dãy cờ). Định dạng
SDL có thể đưa vào trong tải SDH cho truyền dẫn WDM hoặc thiết bị SDH.
Định dạng này cũng có thể được mã hoá trực tiếp trên các sóng mang quang:
SDL định rõ tính năng tối thiểu đủ để thực hiện điều này.

SDL sử dụng 4 byte mào đầu gồm độ dài gói như biểu diễn trong Hình 15.
Gói có thể dài tới 65535 byte. Các mã kiểm tra lỗi phụ (CRC-16 hoặc CRC-32)
có thể tuỳ lựa sử dụng cho gói và nó có thể bị thay thế sau mỗi gói. Tất cả các
bit trừ mào đầu được trộn theo bộ trộn x48. Các bộ trộn của phần phát và thu
được duy trì đồng bộ qua các gói đặc biệt truyền không thường xuyên.

Hình 15. Cấu trúc mào đầu SDL

SDL không có bất kỳ byte thêm nào dành cho các giao thức chuyển mạch
bảo vệ (giống như byte K1 và K2 của SDH). Sử dụng các CRC tải tuỳ lựa còn
cho phép giảm sát tỷ lệ lỗi bit.

2.2.4 Nghiên cứu các giao thức mới

2.2.4.1 RPR/SRP (Resilient Packet Ring/Spacial Reuse Protocol)[1]

Giao thức mạng vòng gói tự phục hồi RPR đã được IEEE tiêu chuẩn hoá
vào tháng 7 năm 2004. RPR là một giao thức truyền số liệu mới trên mạng
vòng gói diện đô thị (MAN) và mạng vòng diện rộng (WAN). Nhóm công tác
802.17 đã được đề xuất RPR tiêu chuẩn có các đặc điểm chủ yếu:

• Cung cấp 255 trạm trên một mạng vòng.


• Mạng vòng tối ưu có chu vi cực đại là 2000km.
• Cung cấp truyền đơn hướng, đa hướng và quảng bá.
• Đa dạng dịch vụ.
• Tăng độ rộng băng tần hữu dụng vượt xa các công nghê hiện tại.
• Topo tự động và trạm có khả năng cắm phích là chạy.
• Truyền khung chất lượng cao:

28
• Phục hồi dịch vụ nhỏ hơn 50 ms
• Không cho phép mất gói trong MAC.
• Có thể bảo vệ khi có sự cố tại nhiều hơn một điểm.
• Có các chức năng điều hành, quản lý và bảo dưỡng (OAM).

Công nghệ này sử dụng các bộ định tuyến IP trong cấu hình Ring kép (hình
16):

Hình 16: Mô hình của RPR/SRP

Mô hình lớp RPR và mối liên quan tới mô hình tham khảo kết nối hệ thống
mở (OSI) được minh hoạ tại hình 17.

Hình 17: Mối liên quan giữa mô hình RPR và mô hình tham khảo OSI

Phân lớp điều khiển truy nhập môi trường (MAC), phân lớp tuyến số liệu
MAC và các phân lớp trung gian được quy định trong mô hình này như là giao
diện dịch vụ MAC và giao diện dịch vụ vật lý PHY do các phân lớp cung cấp.

Trong RPR sử dụng một giao thức mới, đó là: SRP (Giao thức sử dụng lại
không gian). Mục đích chính của nó là tối ưu việc sử dụng băng tần.

Chuyển tải gói linh hoạt (DPT) là công nghệ truyền dẫn được phát triển nhờ
các hệ thống Cisco đã đưa vào sử dụng giao thức điều khiển truy nhấp môi
trường (MAC) lớp 2 mới, được gọi là giao thức tái sử dụng không gian (SRP).
SRP có khả năng phát triển mạng vòng gói IP quang. Hình 18 là cấu trúc mạng
vòng kép truyền gói trên sợi quang có khả năng tái sử dụng không gian

Hình 18: Cấu trúc mạng vòng kép truyền gói trên sợi quang có khả
năng tái sử dụng không gian

SRP đã được IETF đề xuất. SRP thực chất là giao thức MAC
lớp 2 dành cho LAN, MAN và WAN. Các giao diện chuyển tải gói
linh hoạt được sử dụng để kết nối giao diện khách hàng MAC
với thiết bị SDH hoặc với các hệ thống DWDM hoặc các sợi dự
trữ, bởi vì SRP cung cấp giao diện SDH tiêu chuẩn.

Các mạng vòng DPT sợi quang kép có hướng truyền ngược
nhau. Cả sợi bên trong và sợi bên ngoài đều được sử dụng để
truyền các gói số liệu và các gói điều khiển. Có một vài loại gói
điều khiển, thí dụ như gói phát hiện topo, gói chuyển mạch bảo

29
vệ và gói điều khiển sử dụng độ rộng băng tần. Các gói điều
khiển của mạng vòng này được truyền trên mạng vòng kia.

SRP sử dụng cơ chế tước bỏ đích. Trong SRP, các gói số liệu
chỉ được truyền giữa nguồn và đích, tạo ra khả năng trao đổi
lưu lượng đồng thời trên các phần khác của mạng vòng. Vì vậy
được gọi là khả năng tái sử dụng không gian nhằm sử dụng có
hiệu quả độ rộng băng tần.

Trạm S3 trao đổi số liệu 1,5 Gbit/s với trạm S4. Tại thời điểm
đó, các trạm S2 và S5 có thể trao đổi số liệu với nhau lên tới 1
Gbit/s. Mặt khác, các trạm S0 và S1 có thể sử dụng hết 2,5
Gbit/s trên phần bên trái của mạng vòng. Như vậy số lượng
tổng của số liệu được trao đổi trong mạng vòng này là 5 Gbit/s.

2.2.4.2 DTM (Dynamic Transfer Mode)

Phương thức truyền tải gói đồng bộ động (TDM) là một kỹ thuật dùng để
khai thác hiệu quả dung lượng truyền dẫn, hỗ trợ lưu lượng băng rộng thời gian
thực và lưu lượng multicast. Nó khắc phục được các nhược điểm của chuyển
mạch kênh truyền thống trong khi đó lại nổi bật ở khả năng: cung cấp băng
thông linh hoạt và đáp ứng dịch vụ chất lượng phân biệt.

DTM là nỗ lực kết hợp những ưu điểm của cơ chế chuyển giao số liệu đồng
bộ và cận đồng bộ. Về cơ bản nó hoạt động giống như cơ chế ghép kênh theo
thời gian truyền thống (TDM) nghĩa là đảm bảo một lượng băng tần xác định
giữa các host và phần băng tần lớn dành cho chuyển giao số liệu linh động.
Ngoài ra, cơ chế DTM có điểm chung như cơ chế chuyển giao không đồng bộ
(như ATM) cho phép tái phẩn bổ băng tần giữa các host. Điều này nghĩa là
mạng có thể thích ứng với những thay đổi về lưu lượng và phân chia băng tần
giữa các host theo nhu cầu.

Các host nối vào mạng DTM thông tin với nhau qua các kênh (mạch). Một
kênh DTM là một tài nguyên linh động có thể thiết lập băng tần từ 512 kbit/s
theo bước lượng tử 512 kbit/s cho đến băng tần cực đại. Các kênh này hiện diện
trên môi trường vật lý nhờ cơ chế ghép kênh theo thời gian (TDM). Tổng dung
lượng được chia thành các khung 125 µs và tiếp tục chia nhỏ thành khe thời
gian 64 bit. Nhưng cấu trúc khung này tạo cho nó khả năng tương hợp với
SDH/SONET. Một số kiểu dành trước khe thời gian tương ứng với QoS khác
nhau theo yêu cầu của client, ví dụ như trễ không đổi, băng tần tối thiểu và nỗ
lực tối đa.

30
Để liên kết giữa các tuyến DTM khác nhau cần phải sử dụng chuyển mạch
DTM. Chuyển mạch trong DTM là kiểu đồng bộ, nghĩa là trễ chuyển mạch đối
với mọi kênh là như nhau. Các kênh DTM có bản chất quảng bá, nghĩa là bất
kỳ kênh nào tại bất kỳ thời điểm nào cũng có thể dùng cho kết nối giữa một
người gửi và nhiều người nhận. Do đó trên mạng có thể có nhiều nhóm quảng
bá đồng thời.

DTM phù hợp cho công nghệ mạng đường trục bởi vì nó có thông lượng bit
rất lớn. DTM được xem như một giải pháp thay thế cho ATM/SDH bởi vì phạm
vi hoạt động của nó từ Lớp 1 tới lớp 3 và có cả giao thức báo hiệu lẫn chuyển
mạch. DTM có thể hoạt động độc lập hoặc qua các ống SDH/SONET, mặc dù
sự xếp chồng này không có gì ưu điểm hơn DTM thuần tuý.

IP/DTM (IPOD) mang nhiều ưu điểm của SDH và ATM bởi vì kỹ thuật đơn
giản và khả năng hoạt động của nhiều kênh trên một giao diện. Các luồng IP có
thể sắp xếp trên các kênh DTM. Tuy nhiên, DTM không hiệu quả băng IP do
nó sử dụng các kênh có dung lượng tối thiểu là 512 kbit/s.

DTM đủ dung lượng để xử lý WDM. Ở đây giả thiết là một bước sóng
WDM sẽ mang một kênh DTM mà chỉ có thể thực hiện khi DTM hỗ trợ
phương thức truyền dẫn này.

Nhược điểm của DTM đó là số lượng nhà cung cấp quá ít (hiện có 3 nhà
cung cấp thiết bị Dynarc, Net Insight và Ericsson) tất cả đều ở Thuỵ Điển.
Ngoài ra những giải pháp của chúng cũng không tương hợp với nhau.

2.2.4.3 Sử dụng MPLS hỗ trợ chức năng định tuyến IP (IP-MPLS)[6]

MPLS là cơ chế truyền tải dữ liệu dạng chuyển gói (packet-switched).


Trong mô hình OSI, MPLS có thể xem như nằm giữa lớp 2 và lớp 3 …Vì vậy
MPLS có thể được xem như là giao thức thuộc lớp 2.5. MPLS được thiết kế để
thống nhất các loại dịch vụ chuyển tải dữ liệu cho cả mạng chuyển gói và
chuyển mạch, hỗ trợ cả IP, ATM, SONET, Ethernet…Do đó sử dụng MPLS sẽ
tiết kiệm được chi phí rất nhiều .

MPLS hoạt động dựa vào một header được chèn giữa 2 header của lớp 2 và
lớp 3 trong mô hình OSI gọi là label stack. Một layer stack gồm các thành phần
sau :

• 20 bit xác định nhãn (label)


• 3 bit xác định ưu tiên chất lượng dich vụ (QoS)

31
• 1 bit bottom xác định header này có phải là header cuối (trước
header IP) hay chưa, trong trường hợp sử dụng nhiều stack khi
truyền qua nhiều mạng.
• 8 bit xác định thời gian sống của gói tin MPLS ( TTL)

Hình 19: Định dạng MPLS

Nhãn xác định gói tin thuộc loại ứng dụng nào, từ đó xác định mức độ ưu
tiên của gói khi được truyền qua mạng .

Để xây dựng một mạng MPLS, các thiết bị cơ bản nhất cần sử dụng là LER
( Label Edge Router ) và LSR (Label Switch Router )

Ở đầu vào, Label Edge Router sẽ kiểm tra gói tin được đưa tới và quyết định
có đánh nhãn gói tin hat không. Việc đánh nhãn sẽ dựa vào một cơ sở dữ liệu
đặc biệt được lưu trong LER. Sau đó, một header MPLS sẽ được chèn vào. Gói
dữ liệu được chuyển đi.

Hình 20: LER gắn nhãn cho gói

Gói dữ liệu truyền đi sẽ lần lượt đi qua các LSR,các LSR sẽ không thêm vào
hay bớt đi nhãn nào, nó chỉ thay đổi các nhãn và chuyển gói tin đến LSR tiếp
theo, các LSR xác định việc đổi nhãn hay LSR tiếp theo dựa vào một bản dữ
liệu trong router. Nếu dữ liệu không chứa nhãn nào, nó sẽ hoạt động như một
router bình thường

Hình 21: Hoạt động của LSR

Do vậy, các đường dẫn sẽ được thiết lập giữa các LER và LSR. Những
đường dẫn này được gọi là Label switch paths (LSPs). Các đường dẫn này có
các đặc tính khác nhau mà dựa vào đó, ta có thể xác định được mức tải cao nhất
trong mạng, xác suất các gói tin bị hỏng…

Hình 22: Mô hình thể hiện LSPs

Ở đầu ra, LER sẽ tách header MPLS ra và gói dữ liệu sẽ được truyền đi một
cách bình thường .

32
• Ngoài ra MPLS cho phép xác định chế độ ưu tiên cho dữ liệu, thuật ngữ
mạng là FEC (Forward Equivalence Class ). Thực chất, việc xác định
mức độ ưu tiên cho dữ liệu là rất quan trọng. Do có những dữ liệu quan
trọng cần chất lượng mạng cao hơn. MPLS cho phép chọn mức độ ưu
tiên để cung cấp chất lượng mạng hợp lý cho các loại dữ liệu này .
• Việc xác định mức độ ưu tiên phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giao thức
truyền, cổng dịch vụ
• Sau đó, dựa vào mức độ FEC của gói thông tin đã được đánh nhãn mà
các loại đường truyền khác nhau có thể được thực hiện.

MPLS trong vai trò công nghệ đường trục phải được cung cấp dịch vụ thích
hợp cho lưu lượng mạng bao gồm bảo vệ lưu lượng mang trên LSP. Chuyển
mạch bảo vệ MPLS liên quan đến khả năng lớp MPLS khôi phục nhanh chóng
và hoàn toàn lưu lượng trước những thay đổi trạng thái của lớp MPLS. Thời
gian bảo vệ lớp MPLS phải so sánh được với thời gian bảo vệ của lớp SDH.

Cần phải tái định tuyến lớp MPLS do:

• Tái định tuyến trong lớp IP là rất chậm, nó được tính theo giây.
• Trong một số phần mạng lớp SDH và quang thường bị giới hạn trong
topo ring và không gồm bảo vệ mesh.Cơ chế bảo vệ của lớp mạng quang
và SDH có thể không đủ hiệu quả để bảo vệ cho hoạt động lớp cao hơn.
Điều này có nghĩa là khi cung cấp chức năng bảo vệ tuyến thì chúng
không dễ cung cấp bảo vệ luồng MPLS.

• MPLS cung cấp đặc tính hạt băng tần nhỏ cho bảo vệ và cho phép
thực hiện sự phân biệt giữa các kiểu lưu lượng được bảo vệ.
• Chuyển mạch bảo vệ cần được thiết kế sao cho cung cấp độ mềm
dẻo cho nhà khai thác mạng để họ có những giải pháp khác khi
quyết định kiểu bảo vệ gì cho LSP MPLS.

Các khả năng cơ bản của MPLS được liệt kê sau đây:

• Hỗ trợ liên kết điểm-điểm và multicast.


• Phân cấp định tuyến, hợp nhất VC và tăng cường khả năng mở
rộng.
• Định tuyến hiện.
• Hỗ trợ nhiều giao thức lớp mạng và giao thức lớp liên kết đồng
thời.
• Cung cấp khả năng điều khiển lưu lượng và QoS.
• Hỗ trợ truy nhập máy chủ và VPN.

33
Các ưu điểm của MPLS:

• Khả năng tích hợp các chức năng định tuyến, đánh địa chỉ, điều
khiển v.v... trong MPLS tránh được sự phức tạp trong NHRP,
MPoA, IPoA
• Khả năng mở rộng đơn giản.
• Tăng chất lượng mạng, có thể triển khai các chức năng định tuyến
mà các công nghệ trước không thể thực hiện được như định tuyến
hiện (explicit routing), điều khiển lặp v.v..
• Tích hợp giữa IP và ATM cho phép tận dụng toàn bộ các thiết bị
hiện tại trên mạng.
• Tách biệt đơn vị điều khiển với đơn vị chuyển mạch cho phép
MPLS hỗ trợ đồng thời MPLS và B-ISDN. Việc bổ sung các chức
năng mới sau khi triển khai mạng MPLS chỉ cần thay đổi phần
mềm điều khiển.

Các nhược điểm của MPLS:

• Hỗ trợ đồng thời nhiều giao thức sẽ gặp phải những vấn đề phúc
tạp trong kết nối.
• Khó hỗ trợ QoS xuyên suốt.
• Hợp nhất VC cần phải được nghiên cứu sâu hơn để giải quyết vấn
đề chèn gói tin khi trung nhãn (interleave).

2.2.5 Chuyển mạch kênh quang WDM

2.2.5.1 Kỹ thuật WDM

Nguyên tắc hoạt động của chuyển mạch kênh quang dựa trên nguyên lý
ghép kênh WDM, nghĩa là sử dụng các nguồn bước sóng được điều khiển và bộ
ghép kênh bước sóng để sắp xếp nhiều kênh trong phổ quang. Điểm hấp dẫn
nhất của chuyển mạch kênh WDM là sử dụng lượng băng tần rất lớn trong phổ
sợi quang.

2.2.5.2 Chuyển mạch kênh quang: Định tuyến bước sóng

Hệ thống chuyển mạch kênh truyền thống sử dụng trong mạng lõi quang
phải cần đến biến đổi quang điện. Từng kênh cơ sở riêng rẽ được tạo ra và định
tuyến trong miền điện. Thiết bị quang sử dụng để chuyển đổi và xếp những

34
kênh này vào trong phổ quang. Bộ biến đổi quang điện sử dụng công nghệ đắt
tiền và tiêu tốn nhiều năng lượng. Hơn nữa công nghệ này tương đối chậm so
với giải pháp toàn quang bởi vì mất thời gian xử lý tín hiệu điện.

Hiện nay công nghệ này chưa giải quyết được dịch vụ số chuyển mạch số
liệu với tốc độ bit 10 Gbit/s.

Giải pháp thay thế cho chuyển mạch điện là thực hiện xử lý tín hiệu trong
miền quang sử dụng công nghệ định tuyến bước sóng liên quan đến chuyển
mạch kênh WDM. Chuyển mạch kênh WDM gồm các bộ tách/ghép kênh liên
kết với nhau qua ma trận chuyển mạch quang.

Hình 23: Chuyển mạch điện sử dụng trong miền quang

Các bộ tách/ghép có trách nhiệm phân tách và kết hợp các kênh bước sóng
sao cho từng kênh riêng lẻ ở tuyến đầu vào được định tuyến tới tuyến đầu ra
mong muốn. Kỹ thuật này có ưu điểm trong việc tái sử dụng các bước sóng và
có khả năng chuyển mạch và tái cấu hình các luồng quang. Chuyển mạch kênh
WDM cũng cho phép lưu lượng bước sóng tạm thời chuyển qua hay xen/rẽ tại
các nút trung gian mà không qua biến đổi điện.

Hình 24: Hệ thống định tuyến bước sóng sử dụng ma trận chuyển mạch
quang

Trong mạng chuyển mạch kênh WDM, luồng quang trong sợi được gán cho
những bước sóng khác nhau. Nếu hai tập hợp lưu lượng đến có cùng bước sóng
thì không thể chia sẻ luồng quang sẵn có cho tuyến đầu ra do thiếu bước sóng,
mạng có thể xử lý theo 3 cách:

• Đưa ra sự ưu tiên cho một trong hai khối lưu lượng và thêm thời gian
trong hàng đợi, nói cách khác cần đến bộ nhớ trong nút chuyển mạch
• Phát chuyển một trong hai khối lưu lượng tới nút trung gian (ở đó đã có
bước sóng cho sử dụng)
• Biến đổi một trong những bước sóng xung đột thành bước sóng khác mà
chưa sử dụng.

Hai quá trình đầu chỉ có thể được thực hiện ở miền điện và sử dụng bộ đệm
tiêu thụ nguồn và thời gian. Giải pháp thứ ba dễ thực hiện và không cần bất cứ
quá trình biến đổi quang/điện nào.

2.2.6 Chuyển mạch gói quang.[2]

35
Chuyển mạch gói quang (OPS-Optical Packet Switching) đã được khẳng
định tính kinh tế sử dụng băng tần rất hiệu quả và khả năng hỗ trợ các dịch vụ
khác nhau. Khi công nghệ chuyển mạch quang cải thiện, chúng ta có thể thực
hiện mạng chuyển mạch quang dựa trên gói, khi đó các gói được chuyển mạch
và định tuyến độc lập qua mạng trong miền quang mà không cần biến đổi sang
điện tại mỗi nút. Như vậy chuyển mạch gói quang cho phép một mức độ cao
hơn việc ghép kênh thống kê trên các liên kết sợi quang và điều khiển chùm lưu
lượng tốt hơn chuyển mạch kênh.

Khả năng ứng dụng vào mạng Viễn thông Việt nam nằm trong xu hướng
phát triển mạng truyền tải tiến tới mạng toàn quang, chuyển mạch quang sẽ tiến
tới chuyển mạch gói quang hoàn toàn có thể thực hiện được trong tương lai khi
mà công nghệ phát triển cho phép thực hiện các kỹ thuật xử lý tín hiệu quang.

2.2.6.1Các kỹ thuật chuyển mạch gói quang.

Giải pháp chuyển mạch quang hứa hẹn nhất là chuyển mạch chùm quang và
chuyển mạch nhãn quang. Vấn đề mấu chốt của những kỹ thuật này nằm ở giải
pháp đệm và xử lý số liệu quang. Hiện giải pháp và công nghệ để giải quyết
vấn đề này chưa hoàn thiện. Mào đầu gói xử lý ở miền điện nhằm để điều khiển
hoạt động chuyển mạch.

Hình 25: Mô hình chung cho chuyển mạch gói quang

Vấn đề cần giải quyết trong kỹ thuật đệm quang

Ý tưởng cơ bản cho việc thực hiện đệm quang là sử dụng Dây trễ quang
(ODL) hoặc một số dạng đệm cục bộ để lưu một vài gói chen lấn cho đến khi
cổng đầu ra ở trạng thái sẵn sàng. Bộ đệm ODL nhìn chung sử dụng một dãy
các sợi trễ quang có độ dài khác nhau và chuyển mạch quang. Phần trước sẽ
hoạt động như bộ đệm quang thời gian ngắn trong khi phần sau sử dụng để điều
khiển và định tuyến các gói quang qua đường tương ứng. Mỗi vòng quang trễ
gói theo thời gian xác định. Bộ đếm giữ vết của số gói trong bộ đệm. Các gói
tới được ghi và định tuyến tới độ dài khả dụng. Thiết kế kiểu bộ đệm này rất
đơn giản. Tuy nhiên, thời gian nhớ này là rất ngắn do nó phải lưu các gói chen
lấn chỉ trong một thời gian giới hạn tương ứng với thời gian truyền sóng dọc
theo độ dài sợi trễ. Dung lượng nhớ phụ thuộc vào độ dài vật lý trong đường trễ
và bởi kích cỡ của nút chuyển mạch quang. Kiểu bộ đệm này thường lớn và
không có khả năng mở rộng.

Bộ đệm vòng sợi quang là giải pháp mềm dẻo để mở rộng sự nhớ này bằng
cách quay vòng gói trong vòng sợi cho đến khi xuất hiện khe thời gian mở. Vấn

36
đề cố hữu của phương pháp này là tín hiệu phải được khuếch đại trong suốt
những lần quay vòng đó. Điều này vừa làm tăng phát xạ tự phát và công suất
tiêu thụ (do sử dụng bộ khuếch đại).

Chuyển mạch chùm quang

Chùm quang bao gồm một số lượng gói thay đổi được kết hợp với nhau nhờ
một nhãn phụ hoặc gói điều khiển.

Trong chuyển mạch chùm quang, tải gói được gửi theo tuyến sau một lượng
trễ đã biết của mào đầu. Ý tưởng này cho phép nút chuyển mạch quang kế tiếp
một lượng thời gian để xử lý mào đầu vào thực thi quyết định chuyển mạch
trước khi tải số liệu tới. Theo cách này, các gói có thể đi từ lối vào tới lối ra qua
các luồng trong mạng chuyển mạch quang.

Hình 26: Kiến trúc chuyển mạch chùm quang

Kiến trúc của chuyển mạch chùm quang được trình bày trong Hình 26. Các
kênh bước sóng điều khiển λc được tách xuống/thêm vào sau bộ tách/ghép
WDM. Xử lý gói hoặc nhãn điều khiển và điều khiển chuyển mạch được thực
hiện trong miền điện. Quá trình biển đổi O/E và ngược được sử dụng ở đây.
Việc trao đổi nhãn cho phép thiết lập luồng chuyển mạch nhãn trên mạng
(chuyển mạch chùm kết nối định hướng). Phần lớn các giao thức chuyển mạch
chùm quang không cần đến tại các nút trung gian.

Chuyển mạch nhãn quang

Chuyển mạch nhãn quang là một trường hợp đặc biệt của chuyển mạch
chùm quang.

Trong chuyển mạch nhãn quang, toàn bộ gói (mào đầu và tải) được chuyển
mạch theo một luồng. Tải sẽ được chuyển đến bộ đệm chuyển mạch quang
(ODL) để giải phóng thời gian cho xử lý mào đầu và thực thi quyết định
chuyển mạch. Tải được lưu ở bộ đệm trong một thời gian cố định (trễ thời gian)
để thực hiện xử lý mào đầu. Giá trị trễ thời gian là riêng cho mỗi nút chuyển
mạch trung gian và có bản chất độc lập với luồng gói chuyển qua.

Chuyển mạch gói quang:

Chuyển mạch kênh là một phương pháp thông tin sử dụng để thiết lập cho
thông tin giữa 2 điểm. Số liệu được truyền trên cùng một tuyến và thông tin
truyền đi trong thời gian thực. Khác với chuyển mạch kênh, chuyển mạch gói

37
thực hiện truyền các gói số liệu độc lập. Mỗi gói đi từ một cổng tới một cổng
khác theo một đường nào đó. Các gói không thể gửi tới nút kế tiếp khi chưa
thực hiện thành công tại nút trước đó. Mỗi nút cần có các bộ đệm để tạm thời
lưu các gói. Mỗi nút trong chuyển mạch gói yêu cầu một hệ thống quản lý để
thông báo điều kiện truyền thông tin tới nút lân cận trong trường hợp số liệu
truyền bị lỗi.

Hình 27 là một ví dụ của nút chuyển mạch gói quang cơ bản. Một nút bao
gồm một chuyển mạch quang có khả năng cấu hình dựa trên gói. Khối chuyển
mạch tái cấu hình dựa trên thông tin tiêu đề của một gói. Tiêu đề gói được xử lý
bằng điện nó hoặc có thể mang trong băng cùng gói hoặc trên một kênh điều
khiển riêng. Phải mất một thời gian để tiêu đề và chuyển mạch thiết lập, các gói
có thể bị trễ bằng cách truyền qua đường trễ sợi quang.

Kiến trúc chuyển mạch gói quang :

Về nguyên tắc chuyển mạch gói toàn quang tổ chức dựa trên gói tiêu đề và
điều khiển được thực hiện trong miền quang, tuy nhiên phải trong nhiều năm
nữa mới thực hiện được. Trong thời điểm hiện nay chuyển mạch gói quang sử
dụng điều khiển điện tử để xử lý tiêu đề gói là thực tế hơn. Trong chuyển mạch
gói quang tiêu đề hoặc nhãn được đọc và so sánh với một bảng định tuyến. Tải
số liệu sau đó sẽ được định tuyến tới cổng ra tương ứng với một nhãn mới (trao
đổi nhãn). Điều quan trọng là tải tin được truyền trong suốt qua chuyển mạch.

Hình 27: Kiến trúc một chuyển mạch gói quang

Phần tải và phần mào đầu gói sẽ được truyền trên cùng kênh bước sóng.
Chuyển mạch gói sẽ gồm những khối chức năng sau:

• Giao diện đầu vào quang: thực hiện cân chỉnh gói quang tới.
• Lõi chuyển mạch bước sóng và không gian quang: gồm các bộ đệm
quang (FDL) để giải quyết vấn đề chen lấn gói.
• Giao diện đầu ra quang: thực hiện việc chèn và ghi lại mào đầu quang
nếu yêu cầu 3R.
• Bộ xử lý phần mào đầu điện: thực hiện biến đổi quang/điện, điều khiển
đồng bộ (cân chỉnh gói tới bằng cách kiểm soát trễ), điều khiển chuyển
mạch/đệm và ghi lại mào đầu.
• Giao diện xen/rẽ điện: thực hiện biến đối O/E (hoặc E/O) và gửi gói
quang tới lõi chuyển mạch (hoặc giao diện số liệu) ở nút nguồn (hoặc ở
nút đích).
• Mục tiêu xây dựng mạng quang ngày nay là bổ sung khả năng thiết lập
động lớp truyền tải quang dựa trên các bộ nối chéo quang OXC (Optical

38
Cross Connect) với một kiến trúc và quản lý và điề khiển phù hợp. Trong
tương lai gần mạng OTN sẽ có khả năng hỗ trợ số lượng lớn dung lượng
lên tới 40 Gbit/s. Mô hình này được minh hoạ trên hình sau:

Hình 28: Mạng truyền tải quang

Hình 28 biểu thị cấu trúc OTN bao gồm các OXC được nối với nhau dưới
dạng mesh, mỗi sợi sử dụng rất nhiều bước sóng (hàng trăm bước sóng) , các
OXC có khả năng kết nối hang nghìn kênh bước sóng. Như vậy OTN sẽ cung
cấp luồng quang tới client như là các bộ định tuyến IP, các phần tử mạng
SONET/SDH và chuyển mạch ATM. Trên hình vẽ này chỉ ra liên kết giữa 2 bộ
định tuyến IP. Thêm vào đó một lớp điều khiển chuyển mạch cần để thiết lập
tuyến trên mạng và nó tương tác với bộ điều khiển OXC để khởi tạo chuyển
mạch trong OXC. Một kênh báo hiệu giữa các nút đảm bảo rằng mỗi OXC biết
được trạng thái tài nguyên mạng, các tuyến khả dụng….

Việc thiết lập mạng truyền tải quang động sẽ cho phép cung cấp nhanh các
tuyến dung lương cao, do vậy trong tương lai bước phát triển công nghệ cho
phép cung cấp số lượng lớn các kênh quang. Nếu được như vậy trong tương lai
chỉ cần chuyển mạch kênh quang là thoả mãn nhu cầu băng tần. Tuy nhiên
không phải là như vậy do lý do sau, ví dụ trong mạng OTN chỉ cần đưa ra tính
chất hạt tại mức bước sóng và nếu nguồn lưu lượng là chùm, dung lượng kênh
được sử dụng có thể sẽ xảy ra xung đột trên phạm vi mạng. Trong tương lai
OXC được phát triển cho mạng OTN có thể hỗ trợ cho lớp chuyển mạch gói
quang. Hình 28 mô tả mạng quang bao gồm OXC và chuyển mạch gói quang
OPS.

Hình 29: Chuyển mạch gói quang tại nút lõi và nút biên

Trên hình 29 chuyển mạch gói quang sử dụng trong nút lõi, các gói được
chuyển qua mạng tại chuyển mạch ở nút lõi ở đó tuyến được lựa chọn và tiêu
đề được trao đổi. Bằng cách này OPS sẽ tối ưu được tài nguyên mạng và tối ưu
được tổng dung lượng mạng như vậy sẽ làm giảm kích cỡ của OXC. Tạo các
nút chuyển mạch biên có giao diện với cả mạng truyền tải OTN và IP.

• Những vấn đề mà chuyển mạch quang đang gặp phải:


• Giới hạn kỹ thuật chính hiện đang gặp phải của những kỹ thuật này là sự
phân giải chen lấn giữa các gói và thiếu bộ đệm quang. Sự phân giải
chen lấn là cơ chế cần thiết để giải quyết sự xung đột điển hình khi nhiều
gói hiện diện trên cùng bước sóng được truyền từ các cổng đầu vào khác

39
nhau và đến cùng một cổng đầu ra ở tại cùng một thời điểm. Đây là vấn
đề chung của chuyển mạch gói và được biết dưới tên gọi nghẽn ngoài.
• Vấn đề này được giải quyết bằng cách đệm toàn bộ gói chen lấn loại trừ
gói đã được định tuyến tới cổng đầu ra. Một giải pháp hiệu quả là gửi
toàn bộ gói tới đích của chúng với khoảng thời gian có thể nhận biết.
• Phân giải chen lấn toàn quang có năng lực thực thi tốc độ cao nên đáp
ứng được các yêu cầu thông lượng lớn của mạng quang. Giải pháp này
được xem là một giải pháp mạnh để giải quyết vấn đề ngẽn ngoài với
lượng nhỏ bộ nhớ quang gồm định tuyến lệch và điều chỉnh bước sóng.

2.2.4.2.2 Định tuyến lệch

Phương pháp này phù hợp với chuyển mạch quang sử dụng một lượng nhỏ
bộ nhớ quang. Khi có xung đột, trước tiên gói sẽ được định tuyến tới cổng đầu
ra chính xác nếu không được, nó sẽ định tuyến đến bất kỳ cổng đầu ra khả dụng
nào. Kỹ thuật này áp dụng trong trường hợp mạng có thể cung cấp đường định
tuyến thay thế để gói vẫn có thể đến đích khi có sai hỏng đường định tuyến ở
một hoặc nhiều nút chuyển mạch. Mặc dù phương pháp này không đòi hỏi thực
hiện đệm gói song các gói đi lệch sẽ trải qua các tuyến dài hơn do đó trễ có thể
lớn hơn mức cho phép. Bên cạnh đó, nó cũng làm tăng khả năng nghẽn mạng
và trễ tín hiệu phụ.

2.2.7 Kết luận

Để truyền tải IP trên mạng quang cần phải thực hiện các chức năng mỗi lớp
ứng theo mô hình OSI. Các gói IP Lớp 3 sẽ được bao trong các khung Lớp 2,
các khung Lớp 2 sau đó sẽ được truyền dẫn không lỗi qua các tuyến truyền dẫn
quang Lớp 1.

Mặc dù có rất nhiều giải pháp để thực hiện việc truyền gói IP trên mạng
quang nhưng hầu như đều xoay quanh việc thích ứng những công nghệ đã được
làm chủ như ATM, SDH và Ethernet đảm nhiệm chức năng Lớp 2 và 1.

• Sử dụng ngăn giao thức ATM (IP/ATM):


• IP/ATM qua SONET/SDH: sử dụng ALL5/ATM bao gói IP và sau đó
sắp xếp vào tải SONET/SDH trước khi truyền trên bước sóng quang.
• IP/ATM trực tiếp trên WDM: sử dụng ALL5/ATM bao gói IP và truyền
trực tiếp trên bước sóng quang dựa trên tế bào.
• Thích ứng các giao thức sắp xếp gói IP vào tải SONET/SDH (DoS):
• Sử dụng giao thức LAPS để bao gói IP trước khi sắp xếp vào tải
SONET/SDH truyền trên các bước sóng quang,

40
• Sử dụng giao thức MAPOS để bao gói IP trước khi sắp xếp vào tải
SONET/SDH truyền trên bước sóng quang,
• Sử dụng giao thức GFP để bao gói IP trước khi sắp xếp vào tải
SONET/SDH truyền trên các bước sóng quang,
• Sử dụng giao thức POS để bao gói IP trước khi sắp xếp vào tải
SONET/SDH truyền trên bước sóng quang.
• Sử dụng khung Ethernet để bao gói IP, thích ứng giao tiếp vật lý phù hợp
với môi trường cáp sợi quang (PHY).

Các giải pháp mới được thiết kế để giải quyết vấn đề phức tạp khi sử dụng
những công nghệ cũ (ATM, SDH) cho chức năng Lớp 2 (chuyển mạch). Chúng
đều có đặc tính đơn giản trong kiến trúc nhưng lại chưa được làm chủ:

• Sử dụng khung DTM bao gói IP và truyền trực tiếp trên sợi quang hoặc
qua khung SONET/SDH.
• Sử dụng công nghệ RPR, các gói IP được bao trong khung IEEE 802
nhờ giao thức sắp xếp SRP.

MPLS là một trong những công nghệ được chú ý nhiều nhất hiện nay. Bản
thân MPLS không phải là giao thức tạo khung Lớp 2, nó hỗ trợ năng lực định
tuyến cho các bộ định tuyến IP thông qua việc gán nhãn. Nhờ đó công nghệ này
đem lại khả năng thiết kế lưu lượng mềm dẻo và hỗ trợ QoS/CoS cho lưu lượng
IP. Hỗ trợ MPLS được xem như một trong những tiêu chí để đánh giá kiến trúc
mạng truyền tải IP hiện nay.

Việc loại bỏ các lớp mạng trung gian trong kiến trúc mạng truyền tải IP gắn
liền với sự phát triển của công nghệ chuyển mạch quang. Sự mở rộng chức
năng của chuyển mạch quang tới lớp cao hơn sẽ tạo ra một kiến trúc mạng vô
cùng đơn giản, và đó cũng là mục tiêu hướng đến trong tương lai; kiến trúc
mạng chỉ gồm hai lớp: IP/quang. Hiện nay các sản phẩm chuyển mạch bước
sóng quang đã được thương mại hoá (OXC). Chuyển mạch chùm quang (OBS),
chuyển mạch gói quang (OPS) và chuyển mạch nhãn quang (OLS) đang trong
giai đoạn nghiên cứu phát triển. Vấn đề về công nghệ đang là rào cản chính
trong lĩnh vực này.

2.3 Phương thức điều khiển trong mạng truyền tải tích hợp IP over WDM

Tích hợp IP quang sẽ đòi hỏi những thay đổi trong lĩnh vực báo hiệu và điều
khiển. Sự khác biệt đáng kể về băng tần của gói IP, gói quang, kênh TDM,
bước sóng quang và sợi quang đã cho thấy điểm yếu của các giao thức đã và
đang được sử dụng (chỉ được thiết kế tối ưu cho chuyển mạch kênh hoặc gói).
Với những giao thức như vậy tài nguyên mạng sẽ không được khai thác hiệu

41
quả. Ở một khía cạnh khác, hiện có rất nhiều các nhà cung cấp thiết bị sử dụng
những giao thức độc quyền, do đó sẽ nảy sinh những vấn đề tương thích giữa
các hệ thống thiết bị.

Phần này sẽ nghiên cứu về những giải pháp báo hiệu và điều khiển hiện
đang được quan tâm đối với mạng IP quang. Qua đó sẽ làm rõ hai khái niệm về
G-MPLS và ASON liên quan trực tiếp đến kiến trúc mạng IP/quang và xem xét
khả năng ứng dụng cũng như vấn đề tiêu chuẩn hoá của chúng.

2.3.1 Quá trình phát triển mặt điều khiển

Các mạng theo phương thức chuyển mạch kênh như TDM và đường thuê
riêng thường có độ trễ thấp, độ thăng giáng trễ ít và tỷ lệ lỗi thấp. Do đó QoS
thường rất cao nhưng việc cung cấp băng tần cho các dịch vụ phải được thực
hiện trước nên thiếu tính linh động. Mạng chuyển mạch gói (như ATM, FR,
Ethernet và IP) linh hoạt hơn. Ví dụ, việc ghép kênh theo thống kê cho phép
phân bổ băng tần cho các dịch vụ linh động hơn. Tuy nhiên, tại mỗi nút trung
gian, mỗi gói thành phần của một bản tin đều được xử lý, độ trễ của mỗi gói tại
mỗi nút là khác nhau nên độ trễ lớn và gây nên độ thăng gián trễ rộng hơn, tỷ lệ
lỗi và QoS thấp hơn hoặc không thể đoán trước được.

Có nhiều cách để cải thiện QoS của các kỹ thuật chuyển mạch gói mà vẫn
giữ lại các ưu điểm của chúng. Chẳng hạn vào đầu thập kỷ 90 đã phát triển kỹ
thuật ATM, cho phép mạng truyền cả lưu lượng thoại, video và số liệu. ATM
dùng các gói có kích thước như nhau và nhỏ nên cải thiện được hiệu quả truyền
dẫn, duy trì QoS ở mức cao. Báo hiệu cho ATM là mở rộng của các giao thức
báo hiệu như Q.931 cho ISDN và SS7 cho báo hiệu kênh chung.

Trong khi đó, mạng IP đã được triển khai rộng rãi để hỗ trợ các ứng dụng
theo phương thức gói. IP là giao thức lớp 3, xử lý và định tuyến các gói để tạo
các dịch vụ datagram, phi kết nối. các IP Router hoạt động theo kiểu ‘hop-by-
hop”.

Nhận thấy tính hấp dẫn của phương thức điều khiển thiết kế lưu lượng và để
đơn giản hoá các khái niệm định tuyến gói như chuyển mạch nhãn, IETF đã
phát triển kỹ thuật chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS vào năm 1996.
MPLS sử dụng giao thức thiết lập đường RSVP và giao thức phân phối nhãn để
tạo các đường chuyển mạch nhãn LSP giữa điểm vào và ra của mạng, gán nhãn
cho các gói. MPLS được thiết kế để thiết lập các đường chuyển mạch nhãn
trong các mạng dịch vụ gói (IP, ATM, FR) trên nền mạng quang. Sự phát triển
rầm rộ của sợi quang và WDM đã cho thấy một cơ chế tương tự có thể được sử
dụng để thiết lập các luồng quang dưới lớp con WDM.

42
Các thiết kế mạng số liệu ban đầu có khả năng tận dụng các giao thức báo
hiệu do ITU chuẩn hoá (Q.931, Q.2931) và của ATM Forum (PNNI).

Bước đầu tiên trong quá trình này là vào năm 1998 đã phát triển MPλS.
Mục đích của nó là để xác định tập các giao thức dựa trên MPLS để điều khiển
các thiết bị WDM nhằm cung cấp các luồng quang chuyển mạch bước sóng
trong mạng quang.

Hình dưới mô tả quá trình phát triển các giao thức báo hiệu và định tuyến
cũng như mối quan hệ giữa chúng.

L3 (Packet)

IP

L2 (data Link)

ATM

MPLS

PNNI

(Q.2931)

Q.931/SS7

MPλS

OSRP

GMPLS

43
ASON

Kiểu mạng Giao thức báo hiệu và định tuyến

Năm 1980s 1996 1998 1998 2000 2001

L1(Physical)

TDM/ISDN

SONET/SDH

DWDM

Hình 30. Quá trình phát triển các giao thức báo hiệu, định tuyến

Điều rõ ràng là cơ chế điều khiển cần phải bao gồm cả quá trình hồi phục và
khả năng cung cấp không chỉ cho lớp WDM mà cho cả lớp SONET/TDM và
lớp sợi quang phía dưới. Do đó, vào khoảng năm 2000, IETF đã mở rộng
MPλS thành GMPLS. Quá trình mở rộng này mang đến một số cải tiến như:
mở rộng nhãn cho cả các khe TDM, truyền hai chiều, tăng cường khả năng báo
hiệu, kết hợp các khả năng định tuyến (khám phá topo mạng và topo dịch vụ).

Năm 2000 ban Viễn thông của ITU và ANSI T1X1 cũng bắt đầu nghiên cứu
về mạng quang chuyển mạch tự động ASON, là một bộ phận của mạng truyền
tải chuyển mạch tự động ASTN.

2.3.2 G-MPLS[11]

2.3.2.1 Giới thiệu

Với sự bùng nổ nhu cầu lưu lượng trong những năm gần đây, mạng quang
được xem là giải pháp hữu hiệu để đáp ứng nhu cầu. Các hệ thống SDH, WDM
và các thiết bị đấu nối chéo OXC cũng phát triển mạnh mẽ nhằm tăng dung
lượng và phạm vi mạng. Mảng điều khiển quang được thiết kế nhằm đơn giản
hoá, tăng tính đáp ứng và mềm dẻo trong việc cung cấp các phương tiện trong
mạng quang. MPLS đã trở thành mô hình định tuyến mới cho mạng IP. G-

44
MPLS là sự mở rộng của MPLS nhằm hướng tới mảng điều khiển quang cho
mạng quang.

IETF và OIF đã phát triển tiêu chuẩn G-MPLS để đảm bảo sự phối hợp giữa
các lớp mạng khác nhau. Hiện tại lớp truyền tải (lớp quang) và lớp số liệu (điển
hình là Lớp 2 và/hoặc IP) tách hẳn nhau và hoạt động độc lập nhau. G-MPLS
tập hợp các tiêu chuẩn với một giao thức báo hiệu chung cho phép phối hợp
hoạt động, trao đổi thông tin giữa lớp truyền tải và lớp số liệu. Nó mở rộng khả
năng định tuyến lớp số liệu đến mạng quang. G-MPLS có thể cho phép mạng
truyền tải và mạng số liệu hoạt động như một mạng đồng nhất.

GMPLS được phát triển trong nỗ lực nhằm làm đơn giản hoá và bỏ bớt mô
hình mạng bốn lớp hiện tại. GMPLS loại bỏ các chức năng chồng chéo giữa các
lớp bằng cách thu hẹp các lớp mạng. Nó không phải là một giao thức đơn hay
tập không đổi các giao thức, mà đó là phương thức để kết hợp nhiều kỹ thuật
trên cùng một kiến trúc đơn và quản lý chúng với một tập đơn các giao thức
quản lý.

Nhiều công ty hiện đang triển khai mạng GMPLS để đơn giản việc quản lý
mạng và tạo ra một mặt điều khiển tập trung. Điều này cho phép tạo ra nhiều
dịch vụ hơn cho khách hàng trong khi đó giá thành hoạt động lại thấp.

GMPLS cũng hứa hẹn sẽ mang lại chất lượng dịch vụ tốt hơn và thiết kế lưu
lượng trên internet, một xu hướng hiện tại và cũng là mục tiêu chính của bất cứ
nhà cung cấp dịch vụ nào.

2.3.2.2 Hoạt động và nền tảng của MPLS

MPLS đã mở rộng bộ giao thức IP nhằm cải thiện quá trình phát chuyển của
các Router. Đối với các Router, khi nhận được một gói tin phải qua quá trình
phân tích địa chỉ và tìm kiếm tuyến khá phức tạp để xác định trạm kế tiếp bằng
cách kiểm tra địa chỉ đích trong header của gói. MPLS đã đơn giản thủ tục này
bằng cách dựa vào một nhãn đơn giản khi phát chuyển. MPLS còn có khả năng
đặt các lưu lượng IP trên các đường xác định trước qua mạng. Bằng cách này
MPLS tạo ra sự bảo đảm về băng tần và các đặc tính dịch vụ khác cho mỗi ứng
dụng cụ thể của User (người sử dụng). Với mỗi dịch vụ cụ thể, một bảng lớp
phát chuyển tương đương (FEC) biểu diễn một nhóm các dòng lưu lượng có
cùng yêu cầu về xử lý lưu lượng được tạo ra. Một nhãn đặc biệt sau đó được
dùng để gán cho một FEC. Tại lối vào mạng MPLS, các gói IP đến được được
kiểm tra và gán một “nhãn” bởi router nhãn ở biên mạng (LER). Các gói đã
được gán nhãn sau đó được phát chuyển dọc theo một LSP và tại đây các
Router chuyển mạch nhãn (LSR) dựa vào trường nhãn trong gói để đưa ra

45
quyết định chuyển mạch. LSR không cần kiểm tra tiêu đề IP của gói để tìm
trạm kế tiếp. Nó đơn giản chỉ bỏ nhãn hiện tại và đưa vào một nhãn mới cho
trạm kế tiếp. Cơ sở thông tin nhãn tạo ra các nhãn mới (để chèn vào gói) và một
giao diện ra (dựa vào nhãn vào trên giao diện vào).

Báo hiệu để thiết lập LSP xử lý lưu lượng được thực hiện nhờ sử dụng giao
thức phân phối nhãn trên mỗi nút MPLS. Có một số giao thức phân phối nhãn
khác nhau trong đó hai giao thức phổ biến nhất là RSVP- xử lý lưu lượng
(RSVP-TE) và CR-LDR. RSVP-TE là phiên bản mở rộng của RSVP để phân
phối các nhãn và tạo khả năng xử lý lưu lượng. CD-LDP được thiết kế riêng
cho mục đích này.

MPLS gồm cả các mở rộng của các giao thức định tuyến trạng thái tuyến IP
hiện tại, các mở rộng MPLS đối với OSPF và IS-IS cho phép các nút không chỉ
trao đổi các thông tin về topo mạng mà những thông tin về tài nguyên và thậm
chí về chính sách cũng được trao đổi. Thuật toán định tuyến dựa trên các ràng
buộc sử dụng các thông tin này để tính toán các đường tối ưu cho các LSP và
cho phép thực hiện các quyết định về quá trình xử lý lưu lượng phức tạp một
cách tự động khi chọn tuyến qua mạng.

2.3.2.3 Quá trình phát triển MPLS đến GMPLS

IETF đã mở rộng bộ giao thức MPLS để có khả năng hỗ trợ cả các thiết bị
chuyển mạch theo thời gian, bước sóng và không gian qua G-MPLS. Điều này
cho phép mạng dựa trên G-MPLS xác định và cung cấp đường tối ưu dựa trên
các yêu cầu lưu lượng của user (người sử dụng). Một số cấu trúc G-MPLS
được chỉ ra như ở bảng sau:

Bảng 3. Một số cấu trúc của G-MPLS

Miền Loại lưu Lược đồ phát Thiết bị điển Thuật ngữ


Chuyển lượng chuyển hình
mạch
Nhãn như phần ghép
Gói, cell IP, ATM thêm vào header, kết IP Router, ATM Khả năng
nối kênh ảo (VCC) switch chuyển mạch
gói (PSC)
Khe thời gian trong Hệ thống kết
Thời gian TDM/SONET chu kỳ lặp lại nối chéo số Khả năng TDM

46
DCS, ADM
Khả năng
Bước sóng Trong suốt Lambda DWDM chuyển mạch
Lambda (LSC)
Không Trong suốt Quang, đường OXC Khả năng
gian vật lý Chuyển mạch
sợi (FSC)

Khác biệt giữa MPLS và GMPLS

G-MPLS được mở rộng từ MPLS, tuy nhiên trong khi MPLS hoạt động
trong mảng số liệu thì G-MPLS được ứng dụng trong mảng điều khiển, thực
hiện quản lý kết nối cho mảng số liệu gồm cả chuyển mạch gói, chuyển mạch
kênh (như TDM, chuyển mạch bước sóng và chuyển mạch sợi).

Một điểm khác nữa giữa MPLS và G-MPLS là MPLS yêu cầu luồng chuyển
mạch nhãn (LSP) thiết lập giữa các bộ định tuyến biên, trong khi đó G-MPLS
mở rộng khái niệm LSP, LSP trong G-MPLS có thể thiết lập giữa bất kỳ kiểu
bộ định tuyến chuyển mạch nhãn như nhau nào ở biên mạng. Chẳng hạn, có thể
thiết lập LSP giữa các bộ ghép kênh ADM SDH tạo nên TDM LSP hoặc có thể
thiết lập giữa hai hệ thống chuyển mạch để tạo nên LSC LSP hoặc giữa các hệ
thống nối chéo chuyển mạch sợi để tạo nên FSC LSP.

2.3.2.4 Bộ giao thức G-MPLS

Sự phát triển MPLS thành G-MPLS đã mở rộng giao thức báo hiệu (RSVP-
TE, CR-LDP) và giao thức định tuyến (OSPF-TE, IS-IS-TE). Các mở rộng này
gồm các đặc tính mạng quang và TDM/SONET. Giao thức quản lý tuyến là một
giao thức mới để quản lý và bảo dưỡng mặt điều khiển và mặt số liệu giữa hai
nút lân cận. LMP là giao thức dựa trên IP bao gồm cả các mở rộng đối với
RSVP-TE và CR-LDP.

Bảng sau tóm tắt các giao thức và các mở rộng của G-MPLS:

Bảng 4. Các giao thức và các mở rộng của GMPLS

Giao thức định tuyến dùng cho việc khám phá một cách tự
động về topo mạng, hiển thị các tài nguyên khả dụng. Một số
Định OSPF- tăng cường chímh gồm:
tuyến TE,

47
IS-IS- - Cho biết loại bảo vệ tuyến (1+1, 1:1, không bảo vệ).
TE
- Nhận và thông báo các liên kết không có địa chỉ IP-ID link.

- Giao diện ID vào, ra.

- Khám phá tuyến khác nhau cho dự phòng.


Giao thức báo hiệu dùng cho quá trình thiết lập các LSP mang
lưu lượng. Các tăng cường chính gồm:
RSVP- - Trao đổi nhãn, bao gồm cả các mạng không phải chuyển
Báo hiệu TE mạch gói.
CR- - Thiết lập các LSP 2 hướng.
LDP
- Báo hiệu để thiết lập đường dự phòng.

- Thúc đẩy việc gán nhãn thông qua các nhãn được đề xuất.

- Hỗ trợ chuyển mạch băng tần- tập các bước sóng gần nhau
được chuyển mạch với nhau.
Quản lý kênh điều khiển: được thiết lập bởi các tham số tuyến
và đảm bảo sự an toàn cho cả tuyến.
Quản lý LMP Kiểm tra việc kết nối tuyến: Đảm bảo kết nối vật lý tuyến
tuyến giữa các nút lân cận, sử dụng một PING - như bản tin kiểm
tra.

Liên hệ các đặc tính tuyến: Xác định các đặc tính tuyến của
các nút gần kề

Cô lập lỗi: Cô lập các lỗi đơn hoặc lõi kép trong miền quang

Trong ngăn xếp, giao thức định tuyến IS-IS-TE tương tự với OSPF-TE
nhưng thay vì dùng IP, giao thức mạng phi kết nối (CLNP) sử dụng để mang
các thông tin IS-IS-TE.

Hình 31 mô tả ngăn xếp bộ giao thức G-MPLS:

48
LMP
RSVP-TE

CR-LDP

BGP

UDP

OSPF-TE

TCP

IP

PPP/Lớp thích ứng

SONET

Chuyển mạch bước sóng


MAC/GE

ATM

Chuyển tiếp khung

Sợi Quang

Hình 31. Ngăn xếp giao thức G-MPLS

2.3.2.5 Mục tiêu và các chức năng mặt điều khiển GMPLS

49
Mặt điều khiển GMPLS trước hết để giải quyết vấn đề quản lý kết nối, bao
gồm cả các dịch vụ kết nối theo kiểu gói và kênh, các khía cạnh của quá trình
quản lý tính toán, quản lý thực hiện, an toàn và quản lý chính sách. Mặt điều
khiển GMPLS cơ bản là một mặt điều khiển kết nối phân tán dựa trên IP. Điều
này không loại trừ việc sử dụng GMPLS kết hợp với các giải pháp khác như hệ
thống mạng quản lý tập trung. Sau đây xem xét một số chức năng mức cao và
các yêu cầu dịch vụ của GMPLS.

• Tự động hoạt động: Mặt điều khiển bao gồm các chức năng quản lý phân
tán và các giao diện cần thiết cho quá trình quản lý kết nối tự động trong
mạng. Một trong các mục tiêu cơ bản của mặt điều khiển là các hoạt
động tự động. Mặt điều khiển phân tán GMPLS có thể cung cấp các khả
năng điều khiển mạng tăng cường và giảm các hoạt động phức tạp, tốn
nhiều thời gian không cần thiết. Đồng thời nó cũng thuận tiện cho việc
phối hợp hoạt động và kết hợp giữa mạng với các kỹ thuật mặt số liệu
khác.
• Tối ưu việc lựa chọn đường: Việc lựa chọn các tuyến trong mảng điều
khiển bởi GMPLS có thể được tối ưu hoá để đảm bảo tính hiệu quả, sử
dụng tài nguyên mạng hiệu quả và các thực hiện thoả mãn yêu cầu khác.
• Phục hồi nhanh các đường số liệu: Việc phục hồi này có thể được thực
hiện nhờ lựa chọn tuyến trước lúc xảy ra sự cố (offline) hoặc được tính
toán đường ngay thời điểm có sự cố (online). Việc tính toán online và cơ
chế phục hồi phân tán sẽ mang lại thời gian hồi phục nhanh hơn so với
phương pháp hiện tại của NMS tập trung. Khi các sự cố mạng xảy ra
đồng thời thì vấn đề hồi phục sẽ trở nên phức tạp. Để đảm bảo các yêu
cầu về hồi phục số liệu, mặt điều khiển DCN phải được thiết kế tin cậy.
• Xử lý cảnh báo: Các cảnh báo liên quan đến mặt điều khiển do chính các
thực thể quản lý phải được thông báo cho mặt điều khiển. Việc xử lý
cảnh báo phụ thuộc vào mặt quản lý.
• Đặc trưng hơn, GMPLS dựa trên mặt điều khiển phân tán bao quanh các
mạng truyền tải đa lớp cần đáp ứng được các yêu cầu sau:
• Tính khả mở: Quá trình thực hiện của mặt điều khiển không nên phụ
thuộc nhiều vào kích thước mạng dùng GMPLS (chẳng hạn số nút, số
liên kết vật lý, ...). Mặt điều khiển cần duy trì độ thực hiện ổn định càng
nhiều càng tốt so với kích thước mạng.
• Tính mềm dẻo: Mặt điều khiển phải có độ mềm dẻo về mặt chức năng và
cung cấp các điều kiện hoạt động về cấu hình.

2.3.2.6 Kiến trúc các thành phần của mặt điều khiển GMPLS

2.3.2.6.1 Yêu cầu của mặt điều khiển

50
Mặt điều khiển và mặt số liệu hoạt động đảm bảo độ tin cậy là vấn đề sống
còn đối với mạng quang. Mặt điều khiển phải được thiết kế sao cho khi xảy ra
các sự cố thì các kết nối cũng không bị ảnh hưởng. Và ngay cả khi các kết nối
bị hỏng trong trường hợp mặt số liệu có sự cố thì mặt điều khiển cũng phải có
khả năng định tuyến lại. Nhìn chung mặt điều khiển GMPLS cần:

• Có khả năng đáp ứng cho tất cả các mạng chuyển mạch gói và mạng
chuyển mạch kênh như IP, ATM, OTN, SONET/SDH.
• Đủ linh hoạt để thích nghi với các kịch bản mạng khác nhau (các mô
hình kinh doanh của các nhà cung cấp dịch vụ). Mục tiêu này đạt được
bằng cách chia mặt điều khiển thành các thành phần chức năng khác
nhau. Mỗi thành phần có thể yêu cầu nhiều công cụ cho các kịch bản
mạng khác nhau. Mỗi công cụ cần có khả năng cấu hình và mở rộng.
Điều này cho phép các nhà cung cấp thiết bị và các nhà cung cấp dịch vụ
quyết định sắp xếp logic các thành phần này, và cũng cho phép nhà cung
cấp dịch vụ thực hiện các chính sách cũng như vấn đề an toàn mạng.

Về mặt chức năng, mặt điều khiển GMPLS có thể chia thành các thành phần
như: Khám phá tài nguyên lân cận và quản lý kết nối, định tuyến, báo hiệu. Mặt
điều khiển GMPLS cần một mạng trao đổi số liệu để tạo các bản tin điều khiển.
Nó có các giao diện cho mặt quản lý và phần tử mạng như bộ điều khiển hệ
thống, cơ cấu chuyển mạch.

2.3.2.6.2 Mạng thông tin số liệu hỗ trợ mặt điều khiển GMPLS

Mặt điều khiển GMPLS bao gồm các bộ điều khiển phân tán để trao đổi và
phối hợp với nhau nhằm hoàn tất các hoạt động kết nối. Mạng thông tin số liệu
(DCN) cần thiết để trao đổi các bản tin điều khiển giữa các bộ điều khiển. Đối
với mạng IP truyền thống, không có mặt điều khiển riêng vì điều khiển và lưu
lượng số liệu User dùng chung một mạng. Đối với các mạng mạch, cần một
mạng số liệu độc lập vì một chuyển mạch kênh điển hình không xử lý lưu
lượng User trong mặt truyền tải của nó. Để mặt điều khiển GMPLS có khả
năng đáp ứng các mạng mạch, khái niệm DCN phải được giới thiệu. DCN hỗ
trợ mặt điều khiển GMPLS có thể sử dụng các loại môi trường vật lý:

• Lưu lượng điều khiển có thể được truyền qua một kênh thông tin trong
số các liên kết mạch mang số liệu giữa các LSR. Chẳng hạn môi trường
có thể là các byte tiêu đề SONET/SDH hoặc OTN.
• Lưu lượng điều khiển có thể được truyền qua kênh thông tin riêng, chia
sẻ cùng liên kết vật lý với các kênh số liệu. Chẳng hạn, môi trường có
thể là bước sóng riêng, một STS-1 hoặc một DS-1.

51
• Lưu lượng điều khiển có thể truyền qua một liên kết thông tin riêng giữa
các LSR, riêng biệt so với các liên kết mang số liệu. Chẳng hạn môi
trường có thể là một LAN riêng biệt hoặc một liên kết điểm-điểm.

Các yêu cầu mặt điều khiển GMPLS đối với DCN

Các hoạt động của mặt điều khiển GMPLS phụ thuộc nhiều vào DCN khi
trao đổi các bản tin điều khiển. Do đó, DCN phải đáp ứng các yêu cầu sau:

• DCN hỗ trợ mặt điều khiển GMPLS cũng phải hỗ trợ IP.
• DCN phải cung cấp thông tin (trực tiếp hoặc gián tiếp) giữa bất kỳ hai
LSR nào cần trao đổi lưu lượng điều khiển.
• DCN phải an toàn: Yêu cầu này xuất phát từ hai khía cạnh định tuyến và
báo hiệu. Thực tế, thông tin định tuyến được trao đổi qua mặt điều khiển
là đặc trưng của nhà cung cấp dịch vụ. Nhà cung cấp dịch vụ không
muốn tiết lộ các thông tin trong mạng ra ngoài biên mạng của họ, thậm
chí cho chính các khách hàng của họ. Trong khi đó, mạng mặt điều khiển
phải ngăn chặn tất cả tấn công của các dịch vụ kết nối.
• DCN phải tin cậy và cung cấp khả năng chịu đựng lỗi. DCN là hệ thống
truyền tải cho các bản tin mặt điều khiển GMPLS. Nếu DCN lỗi, không
bản tin GMPLS nào được trao đổi giữa các bộ điều khiển GMPLS. Độ
tin cậy của DCN phải được đảm bảo ngay cả khi mạng truyền tải dịch vụ
có các lỗi nặng xảy ra.
• DCN phải hỗ trợ chức năng ưu tiên phát chuyển bản tin. Quá trình thực
hiện tổng thể của mặt điều khiển GMPLS phụ thuộc nhiều vào việc
truyền tải các bản tin điều khiển của chúng. Các hoạt động nhạy cảm với
thời gian như chuyển mạch bảo vệ cần đảm bảo QoS ở mức cơ bản. Hơn
nữa, việc truyền các bản tin cần được đảm bảo hoặc khôi phục nhanh
chóng ngay cả khi mạng có sự cố.
• DCN cần có khả năng mở rộng, nâng cấp: Độ thực hiện của DCN không
nên phụ thuộc vào kích cỡ mạng vì mặt điều khiển hỗ trợ mạng có thể
được mở rộng khi triển khai mạng mới.
• Việc phối hợp hoạt động DCN mặt điều khiển là bước đầu tiên để hướng
đến tích hợp mặt điều khiển. Nhu cầu cần có một kiến trúc DCN mặt
điều khiển chung và ngăn xếp giao thức để mặt điều khiển của các mạng
khác nhau có thể thông tin với nhau.

Tách riêng mặt điều khiển và mặt truyền tải

Mặt điều khiển GMPLS không nên có bất cứ giả định nào về loại môi
trường vật lý sử dụng cho DCN của nó, mà cần hàm ý rằng mặt điều khiển
GMPLS và mặt truyền tải của nó cần phải tách nhau ra, ít nhất cũng về mặt

52
logic. Điều này ảnh hưởng đến thiết kế mặt điều khiển GMPLS ở một số khía
cạnh:

• DCN mặt điều khiển có thể có một topo vật lý khác so với mạng truyền
tải của nó.
• Việc khám phá tài nguyên lân cận mặt điều khiển có thể cần phải phụ
thuộc các cơ chế khác với việc khám phá lân cận dựa trên DCN.
• Giao diện điều khiển và truyền tải có thể được tách riêng nhau. Do đó,
hai mặt điều khiển gần nhau không yêu cầu phải có một kênh điều khiển
trực tiếp miễn là chúng trao đổi được với nhau qua DCN.
• Điều này hàm ý rằng việc định tuyến các bản tin mặt điều khiển trong
DCN mặt điều khiển được tách về mặt logic so với định tuyến các LSP
trong mặt truyền tải.
• Khả năng hoạt động của mặt điều khiển và mặt truyền tải cần duy trì độc
lập nhau. Điều này yêu cầu tách biệt giữa các thông báo và các mã trạng
thái cho mặt điều khiển và mặt truyền tải. Trong trường hợp sự cố mặt
điều khiển (chẳng hạn lỗi kênh thông tin hoặc lỗi thực thể điều khiển),
các hoạt động kết nối LSP mạch mới có thể không được chấp nhận
nhưng các kết nối đã tồn tại sẽ không bị hỏng.
• Các bản tin báo hiệu không nhất thiết truyền dọc theo đường số liệu. Vì
thế một số khái niệm cơ bản trong MPLS cần định nghĩa lại trong một
phạm vi lớn hơn.
• Cả báo hiệu dựa trên IP và các giao thức định tuyến cần phải được tăng
cường để phù hợp với sự thay đổi này.

2.3.2.7 Báo hiệu trong GMPLS

Báo hiệu là một trong các chức năng quan trọng của mặt điều khiển
GMPLS. Các chức năng cơ bản bao gồm: Tạo LSP, loại bỏ LSP, thay đổi LSP,
thông báo lỗi LSP, xử lý lỗi LSP, khôi phục LSP. Để tạo ra giao thức báo hiệu
mặt điều khiển GMPLS hiệu quả và tin cậy, cần tuân thủ một số nguyên tắc cơ
bản.

2.3.2.7.1 Các chức năng cơ bản

Mặt điều khiển GMPLS giả sử hỗ trợ các mạng IP và mạng truyền tải.
GMPLS cần thừa hưởng những giao thức báo hiệu của MPLS, chẳng hạn như
tạo LSP, xoá LSP,... Ngoài ra, giao thức báo hiệu GMPLS còn một số yêu cầu
khác. Vì mạng truyền tải mang lượng băng tần khổng lồ và hỗ trợ nhiều ứng
dụng, một sự cố về mạng như đứt cáp sẽ gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. Việc
phát hiện lỗi và khôi phục LSP nhanh trở thành yêu cầu cơ bản đối với mạng
truyền tải. Tóm lại, báo hiệu mặt điều khiển GMPLS cần hỗ trợ:

53
• Tạo LSP
• Xoá LSP
• Thay đổi LSP
• Khôi phục LSP
• Xử lý loại bỏ LSP

Tạo LSP

Hoạt động tạo LSP bắt đầu khi nút GMPLS đầu vào nhận một yêu cầu LSP.
Nút này thường thực hiện các quá trình cấp phép chính gồm điều khiển tiếp
nhận và kiểm tra tài nguyên. Nếu cấp phép được xác nhận, nút GMPLS vào cần
chọn một đường cho LSP với các thông tin có thể và bắt đầu quá trình. Một bản
tin tạo LSP sẽ chuyển từ nút vào và di chuyển dọc theo đường được chọn.
Trong mạng truyền tải, một bản tin xác nhận được yêu cầu từ nút ra đến nút
vào. Đối với LSP hai hướng, bản tin bắt tay ba hướng sẽ cung cấp trong giao
thức báo hiệu để thực hiện cả hai phía của quá trình thiết lập LSP.

Trong khi tạo LSP, tài nguyên có thể được cấp phát trước hoặc sau khi toàn
bộ đường đã được đăng ký trước.

Xoá LSP

Khi LSP không cần nữa hoặc LSP mà mạng đã loại bỏ, tài nguyên do các
LSP này sở hữu cần được giải phóng. Một bản tin yêu cầu xoá được tạo ra
trong giao thức báo hiệu. Hoạt động xoá có thể bắt đầu từ một nút GMPLS bất
kỳ, báo hiệu xoá cần được thiết kế sao cho xử lý được ba trường hợp.

Trong mạng truyền tải, LSP được xoá từng phần sẽ gây phức tạp. Trong khi
xoá LSP, một nút GMPLS lỗi dọc theo LSP sẽ dẫn đến không hoàn thành được
việc xoá LSP. Một bản tin xác nhận xoá do nút đề xuất xoá yêu cầu để đảm bảo
đã hoàn tất thủ tục xoá. Trong hoạt động xoá, có thể xuất hiện các tình trạng
chạy đua giữa bản tin yêu cầu xoá và việc cấp phát lại tài nguyên. Dựa vào tình
trạng này, các cảnh báo có thể xuất hiện tại các nút dọc theo LSP. Để hỗ trợ một
môi trường như vậy, cần một cơ chế để cho phép hoặc không các cảnh báo kết
hợp với LSP trước để cấp phát lại tài nguyên.

Có hai giải pháp để tránh tình trạng này:

• Các nút dọc theo đường sẽ thông báo cơ cấu LSP, gần như tín hiệu ASP
SONET.
• Các nút dọc theo đường sẽ được khai báo nhờ một phần trong bản tin
xoá. Sau khi xác nhận, chúng sẽ cấp phát lại tài nguyên.

54
Thay đổi LSP

Một LSP có thể yêu cầu được thay đổi các đặc tính của nó, chẳng hạn như
băng tần. Yêu cầu cơ bản của việc thay đổi LSP được gọi là “thay đổi trước khi
không đáp ứng được” (made - before – break). Giao thức báo hiệu cần được
thiết kế để hỗ trợ chức năng này. Một giải pháp thực hiện được có thể bao hàm
việc chia sẽ tài nguyên giữa LSP cũ và LSP mới.

2.3.2.7.2 Hỗ trợ phục hồi

Phục hồi nhanh các sự cố mạng là một khía cạnh rất quan trọng của mạng
truyền tải hiện tại và tương lai. Các nhà cung cấp mạng truyền tải yêu cầu khả
năng phục hồi nhanh để đảm bảo độ tin cậy và tính sẵn sàng cho các kết nối của
khách hàng. Việc chọn chính sách phục hồi cần có sự cân bằng giữa việc sử
dụng tài nguyên mạng và thời gian gián đoạn dịch vụ. Các sơ đồ phục hồi khác
nhau hoạt động với sự cân bằng khác nhau giữa các yêu cầu dung lượng dư và
thời gian ngắt dịch vụ. Lược đồ phục hồi GMPLS cần bao gồm ít nhất là bảo vệ
tuyến, bảo vệ đường riêng, khôi phục đường dùng chung, định tuyến lại động.

2.3.2.7.3 Hỗ trợ xử lý loại trừ

Các mức khác nhau của việc loại trừ có thể xuất hiện trong mạng GMPLS ở
cả mặt số liệu và mặt điều khiển. Một số loại trừ cần xem xét trong thiết kế báo
hiệu GMPLS gồm:

• Nút vào, nút trung gian, nút ra có thể từ chối việc tạo LSP. Nếu tài
nguyên được cấp phát trước khi xác nhận LSP, việc từ chối tạo thành
LSP có thể phải cấp phát lại những tài nguyên này.
• Một nút phát hiện sự cố của thủ tục phục hồi, việc loại trừ này sẽ dẫn
đến phục hồi tuyến LSP.
• Nếu một quá trình phục hồi LSP lỗi, vì các lý do như mặt điều khiển
GMPLS dọc theo đường hồi phục có sự cố hoặc thiếu tài nguyên dọc
theo đường hồi phục. Điều này có thể dẫn đến cấp phát lại các tài
nguyên đã được cấp phát từng phần cho LSP hồi phục này ngay để
những tài nguyên này được dùng cho việc khởi tạo và khôi phục các LSP
khác.

Một quá trình xoá LSP bị lỗi do lỗi mặt điều khiển dọc theo đường LSP.

2.3.2.7.4 Phối hợp báo hiệu

55
Tất cả các bản tin báo hiệu không tồn tại độc lập. Những chức năng và hoạt
động cần được phối hợp với nhau. Nếu không một bản tin báo hiệu có thể làm
cho một bản tin báo hiệu khác không được xử lý đúng.

Báo hiệu GMPLS cần phân biệt giữa thiết lập đường hoạt động và thiết lập
đường phục hồi. Báo hiệu MPLS có thể thiết lập 2 LSP tách riêng liên kết/nút
cùng lúc cho mỗi yêu cầu. Lưu lượng số liệu có thể được chia vào các LSP
hoặc chuyển vào một đường. Một đường khác được sử dụng chỉ khi đường đầu
tiên bị lỗi. Điều này có tính khả thi vì LSP thứ hai không chiếm băng tần nếu
không có số liệu phát trong đường này. Trong mạng truyền tải, vấn đề lại khác.
Để sử dụng hiệu quả băng tần, đường hồi phục có thể cần được thiết lập sau khi
đường dịch vụ bị lỗi. Đường hồi phục được tính toán trước hoặc ngay lúc đó.
Một điểm khác nữa giữa thiết lập đường hoạt động và đường phục hồi là vấn đề
trễ thời gian. Cụ thể là thiết lập đường hồi phục yêu cầu trễ thời gian lâu hơn.
GMPLS cần có khả năng hỗ trợ cả các LSP đơn hướng và LSP hai hướng. Các
mạng viễn thông truyền thống điển hình là hai hướng. Các nghiên cứu gần đây
cho thấy lưu lượng số liệu trên Internet là không đối xứng. Các LSP đơn hướng
cho lưu lượng số liệu là hợp lý hơn. Mặc dù các dịch vụ dùng cả LSP đơn
hướng và đa hướng hiện nay chưa xác định, giao thức báo hiệu GMPLS cần
phải chuẩn bị để hỗ trợ cả các ứng dụng trong cùng một cấu trúc. Điều này tạo
ra sự tranh giành nhau giữa LSP đơn hướng và LSP hai hướng cũng như giữa
các LSP hai hướng từ hai hướng khác nhau.

Hoạt động xoá LSP và quá trình hồi phục nhanh LSP có thể phối hợp tốt với
nhau. Mặt điều khiển GMPLS là một hệ thống phân tán. Hoạt động của một nút
sẽ không làm cho nút khác khó hiểu.

Mặt điều khiển GMPLS có thể xảy ra sự cố. Sau khi khôi phục, giao thức
báo hiệu sẽ thiết kế một số cơ chế để đồng bộ các cơ sở thông tin quản lý LSP
và các tài nguyên liên kết với tài nguyên lân cận của chúng. Trong thời gian
mặt điều khiển bị lỗi, LSP có thể bị xoá bỏ và tài nguyên liên kết được cập
nhật. Hai giải pháp thực hiện có thể là:

• Sử dụng bản tin thẩm vấn lân cận để đồng bộ hoá cơ sở thông tin của nó.
• Sử dụng bản tin làm mới LSP để đồng bộ cơ sở thông tin của nó.

2.3.2.8 Các lợi ích của G-MPLS

G-MPLS mang lại nhiều lợi ích nổi bật, thể hiện cụ thể trong các vấn đề
sau:

• Thiết kế lưu lượng qua lớp

56
• Tích hợp việc khôi phục và bảo vệ
• Cung cấp dịch vụ nhanh chóng
• Tăng lợi nhuận
• Cho phép thực hiện các quá trình linh hoạt, tự động và có tính mềm dẻo
cao trong môi trường mạng quang tĩnh.
• Các tiêu chuẩn mở: G-MPLS có thể hoạt động trong môi trường đa nhà
cung cấp thiết bị, đa lớp và đa nhà khai thác.
• Các mạng đồng nhất: Các mạng quang và mạng số liệu có thể được giám
sát, quản lý, bảo dưỡng như một mạng đơn sử dụng một hệ thống quản
lý đơn.
• Xử lý các sự cố và bảo dưỡng: Nhà cung cấp dịch vụ nhanh chóng cô lập
và xử lý các sự cố về mạng nhờ các cảnh báo tự động của hệ thống quản
lý cũng như các sự cố giữa mạng truyền tải và mạng số liệu.

2.3.2.9 Các vấn đề còn tồn tại của GMPLS

Bên cạnh những ưu điểm vượt trội của GMPLS mang lại so với các phương
thức điều khiển hiện tại, nó cũng bộc lộ một số vấn đề cần dược bổ sung như:

• An toàn: Định tuyến IP truyền thống kiểm tra nội dụng header của gói
nhận được để xác định trạm kế tiếp. Bước này tuy mất thời gian nhưng
cho phép thiết lập được các firewall, vì các thông tin cần thiết trong tiêu
đề gói như địa chỉ đích, địa chỉ nguồn là không đổi trong cả quá trình.
Ngược lại, các nhãn MPLS/GMPLS được sử dụng để thúc đẩy quá trình
phát chuyển và chỉ có giá trị trong nội bộ, chẳng hạn nhãn được hiểu và
sử dụng chỉ trong các thiết bị GMPLS. Những nhãn này không thể được
dùng để điều khiển truy nhập hoặc cho mục đích bảo mật mạng. Chỉ một
cách để thiết lập bảo mật trong mạng GMPLS là bắt buộc bảo mật truy
nhập trong thời gian thiết lập kết nối, như các mạng hướng kết nối khác.
• Vấn đề phối hợp hoạt động: Sự thành công của GMPLS phụ thuộc vào
khả năng thông tin với nhiều cơ sở hạ tầng mạng hiện tại như ATM, FR.
Phối hợp hoạt động với mạng ATM và FR sẽ cho phép truyền tải các
thông tin mặt số liệu và điều khiển được trao đổi giữa hai mạng giống
nhau (ví dụ hai mạng ATM) thông qua một mạng khác (ví dụ GMPLS).
Việc thực hiện chức năng phối hợp hoạt động giữa những mạng này gặp
một số vấn đề:

• Phối hợp ở mặt điều khiển là rất phức tạp vì mỗi mạng sử dụng
một tập các giao thức khác nhau (ví dụ định tuyến, giao diện
mạng đến mạng riêng (PNNI) trong mạng ATM so với giao diện
OSPF-TE trong mạng GMPLS).

57
• Chuyển mạch GMPLS có thể dựa trên gói, TDM, bước sóng, sợi,
băng tần. Điều này tạo ra một vài kết hợp trong việc phối hợp mặt
số liệu giữa mạng GMPLS và mạng ATM hoặc mạng FR.

Một số diễn đàn công nghiệp hiện đang thực hiện một số vấn đề cụ thể về
phối hợp hoạt động giữa các mạng (ví dụ MPLS Forum, ATM Forum, ...). Các
giải pháp thực tế phải giúp nhà quản lý mạng quản lý cả mạng MPLS và mạng
truyền thống. Những giải pháp này hiện tại vẫn chưa được xác định.

• Sự cân bằng mạng: Khi các tài nguyên mới được gỡ bỏ hoặc thêm vào
mạng GMPLS, tập các thông tin điều khiển được trao đổi lớn hơn đối
với mạng IP truyền thống.GMPLS sử dụng mô hình thiết kế lưu lượng
bao gồm giới thiệu một số tham số lưu lượng, kết hợp với các liên kết số
liệu, định tuyến dựa trên các ràng buộc thực hiện, LSP,...Vấn đề này tuy
chưa được kiểm nghiệm tuy nhiên về mặt lý thuyết mạng
MPLS/GMPLS sẽ cần thời gian tương quan lớn hơn so với một mạng IP
truyền thống khi mạng bị sự cố.
• Hệ thống quản lý mạng: Tham số quan trọng nhất trong việc quản lý một
mạng IP truyền thống, ví dụ mạng Internet là địa chỉ đến. Ngược lại, hệ
thống quản lý mạng GMPLS cần lưu vết của hàng nghìn (thậm chí hàng
triệu) LSP cho trạng thái hoạt động của chúng, các đường định tuyến,
thiết kế lưu lượng,... Điều này dẫn đến hệ thống quản lý mạng GMPLS
phức tạp hơn so với mạng Internet truyền thống.

2.3.3 Mạng chuyển mạch quang tự động (ASON)[9]

2.3.3.1 Khái niệm

ASON được Study Group 15 của ITU-T, ban tiêu chuẩn về viễn thông của
ITU-T phát triển.

ASON là một kiến trúc xác định các thành phần trong mặt điều khiển quang và
các tương tác giữa các thành phần này. Nó cũng xác định những tương tác sẽ
xuất hiện giữa các thiết bị của các nhà sản xuất khác nhau, từ đó yêu cầu các
giao thức chuẩn.

Cũng như hầu hết các dự án khác của ITU, ASON được phát triển theo kiểu
từ trên xuống dưới top-down, bắt đầu bằng danh sách các yêu cầu, tiếp đến là
kiến trúc lớp cao rồi đến kiến trúc các thành phần đơn.

ASON được đề xuất như một bước tiến của quá trình quản lý kết nối mạng
quang. Nó có thể cung cấp:

58
• Mở rộng dịch vụ mới một cách nhanh chóng.
• Khả năng hỗ trợ SLA lớn hơn
• Đáp ứng một cách nhanh chóng đối với lưu lượng và các sự cố mạng
động.
• Hỗ trợ các kiến trúc mạng bất kỳ
• Cho phép điều khiển băng thông bởi người sử dụng hoặc bởi lớp trên
(chẳng hạn lớp IP).
• Có thể được sử dụng cùng với kết nối ảo, động trong SDH.

2.3.3.2 Mô hình ASON

ASON là mô hình tham chiếu nên không thể được thực hiện một cách trực
tiếp. Kiến trúc ASON được trình bày như hình 26.

ASON gồm 3 mặt tách biệt trong mạng:

• Mặt truyền tải quang: Cung cấp các chức năng cần thiết cho việc truyền
tải các tín hiệu lớp khách, tạo ra khả năng kết nối chéo các thông tin đặc
thù của các kênh quang.
• Mặt điều khiển ASON: Cung cấp các chức năng cần thiết cho việc thiết
lập các kết nối end - to- end cho các tín hiệu lớp khách với các đặc tính
do khách hàng yêu cầu trong giai đoạn thiết lập.
• Mặt quản lý mạng: Thực hiện chức năng quản lý liên quan đến mặt
truyền tải và mặt điều khiển.
• Bên cạnh đó, ASON cũng bao gồm các giao diện sau:
• Giao diện người sử dụng-mạng UNI: ASON UNI hoạt động giữa lớp
client quang và mạng, mang báo hiệu giữa user và mạng báo hiệu
ASON. ASON UNI cho phép client ASON thực hiện một số chức năng:

• Khởi tạo kết nối


• Xoá kết nối
• Thay đổi (sửa kết nối)
• Thẩm vấn trạng thái

• Một số chức năng có thể được cấu hình tự động hoặc bằng tay tại giao
diện này như: đăng ký client, phân giải địa chỉ, khám phá dịch vụ và nút
lân cận.

• Giao diện trong nút tới nút (I-NNI): I-NNI định nghĩa giao diện giữa các
phần tử mạng báo hiệu như OCC trong mạng quang, mang các bản tin
báo hiệu giữa các bộ điều khiển kết nối quang ASON và giới hạn việc sử

59
dụng trong một miền đơn (nhà khai thác hoặc mạng con). Hai nhiệm vụ
của I-NNI là định tuyến và báo hiệu.
• Giao diện ngoài nút tới nút E-NNI: E-NNI định nghĩa giao tiếp giữa các
mảng điều khiển ASON trong các vùng quản lý khác nhau, mang thông
tin báo hiệu giữa các vùng ASON tách biệt.
• So với I-NNI, E-NNI có một số khác biệt như:
• Không chứa các thông tin về topo mạng
• Không bao gồm việc điều khiển tài nguyên ở đây.
• Giao diện điều khiển kết nối ASON CCI: CCI định nghĩa giao diện giữa
các phần tử báo hiệu ASON (OCC) và phần tử mạng truyền tải.
• Giao diện quản lý mạng ASON: NNI-A/T: Giao diện quản lý mạng giữa
TMN và mặt điều khiển hoặc mặt truyền tải.

Các yêu cầu chung của ASON

Trong bất cứ trường hợp nào thì mảng điều khiển cũng phải được thiết kế có
độ tin cậy cao, có khả năng mở rộng và hiệu quả. Hơn thế nữa, nó phải cho
phép nhà cung cấp điều khiển tốt hơn để thiết lập kênh một cách nhanh chóng
và chính xác. Về cơ bản mảng điều khiển này cần thực hiện:

• Phục vụ cho nhiều công nghệ mạng truyền tải (như SDH, OTN, PXC)
• Đủ linh hoạt để thích ứng nhiều kịch bản mạng khác nhau.
• Mảng điều khiển ASON có một số thành phần chung như khám phá tài
nguyên, tách thông tin trạng thái, thành phần quản lý luồng và lựa chọn
luồng. Các modul chức năng bao gồm:

• Khám phá tài nguyên


• Kết thông tin trạng thái
• Lựa chọn luồng
• Quản lý luồng.

2.3.3.3 Các chức năng của ASON

ASON được xây dựng dựa trên mô hình xếp chồng, do đó có thể cung cấp
nhiều dịch vụ Och khác nhau cho các lớp dịch vụ khách như dịch vụ Och cố
định, dịch vụ Och chuyển mạch tự động,...

2.3.3.3.1 Chức năng mạng lõi ASON

Chức năng mạng lõi ASON chủ yếu liên quan đến chuyển mạch các kênh
quang (chứa các bước sóng) trong mạng.

60
Các chức năng này chủ yếu được hỗ trợ bởi quá trình báo hiệu giữa các nút
mạng qua giao diện NNI. Các chức năng này bao gồm:

• Khám phá topo mạng (hoặc khám phá tài nguyên): Nhờ có chức năng
này mà các giao thức định tuyến có đủ thông tin về cấu hình mạng (và
tài nguyên mạng) cho việc tính toán tuyến. Cụ thể bao gồm việc nhận
biết các yếu tố mạng được kết nối với nhau về mặt vật lý như thế nào.
Thông tin này được trao đổi qua NNI và được lưu trong cơ sở dữ liệu
của mỗi phần tử mạng.
• Định tuyến quang: Cho phép tìm một đường quang từ nút nguồn tới nút
đích với một số ràng buộc cụ thể. Do vậy phải có các thông tin về cấu
hình mạng và các ràng buộc yêu cầu.
• Báo hiệu: gồm tập các chức năng liên quan đến mạng báo hiệu (hoặc các
kênh điều khiển) cho phép trao đổi các bản tin báo hiệu và quản lý qua
các giao diện giữa các NE, giữa NMS và NE hoặc giữa ASON và lớp
khách.
• Bảo vệ/khôi phục end-to-end: nhằm khôi phục kết nối quang end-to-end
do sự cố gây ra, gồm tách lỗi, huỷ bỏ đường, định tuyến quang, chức
năng thiết lập đường sử dụng để thực hiện việc bảo vệ và khôi phục end-
to-end một cách tự động.
• Cấp phát tự động các kênh quang (Och): Chức năng này cho phép cung
cấp các kênh Och end-to-end một cách tự động, gồm:

• Kênh do NMS hoặc client yêu cầu qua UNI


• Tính toán tuyến
• Thiết lập kênh quang: giành trước tài nguyên, cấu hình các
đấu nối chéo.

• Quản lý các nút và liên kết: Quản lý nút nhằm quản lý một số đặc tính
của nút như trạng thái cổng, khả năng chuyển mạch. Quản lý liên kết
bao gồm quản lý các đặc tính như trạng thái liên kết, khả năng liên kết.
Thông tin cần thiết cho việc quản lý được lưu trong cơ sở thông tin quản
lý nội bộ.

• Chính sách: đây là các chức năng cho phép quản lý dựa trên các chính
sách để triển khai trong một số lĩnh vực khác nhau như QoS, bảo mật,
quản lý dịch vụ và sử dụng tài nguyên mạng. Chức năng này cần cho
việc xử lý và điều khiển quá trình truyền thông tin qua các giao diện
(UNI, NNI) và một số hoạt động phía khách hàng.
• CAC (Connection Admission Control): CAC có thể thực hiện tại mạng
lõi.

61
2.3.3.3.2 Chức năng biên của ASON

Mô hình đường biên mạng

Các nút ở biên mạng không chỉ là điểm vào, ra của các dòng lưu lượng mà
còn là điểm kết cuối của các đường quang (hoặc kênh quang). Lưu lượng lớp
khách xuất phát từ các thiết bị biên như bộ định tuyến IP, chuyển mạch ATM,
kết nối chéo SDH, thiết bị Frame Relay và được đưa đến nút biên mạng (nút
biên vào).

Lưu lượng giữa các nút lõi được mang bởi các kênh quang (

62

You might also like