You are on page 1of 75

Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts0.

htm

Trang gốc Trang web BuddhaSasana Times (Unicode) font

THERAVĀDA
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

MỘT KỸ THUẬT SỐNG


Dựa theo các nguyên tắc tâm lý Phật giáo

Leonard A. Bullen
Minh Nguyệt dịch

Nguyên tác: A Technique of Living,


Wheel No. 226/230, Buddhist Publication Society,
Kandy, Sri Lanka, 1982

MỤC LỤC

[01] Lời giới thiệu


Lời mở đầu

Tháng thứ nhất

Thực hành thư giãn


Bài tập thực hành

Tháng thứ hai

Các nguyên tắc cơ bản của sự hiểu biết bản thân


Bài tập thực hành: Thực hành chánh niệm hướng vào bên
trong

Tháng thứ ba

Quá trình đánh giá lại


Bài tập thực hành: Thực hành chánh niệm toàn diện

Tháng thứ tư

Con đường tăng cường tỉnh giác


Bài tập thực hành: Quan sát hướng ngoại

Tháng thứ năm

Nguyên tắc chấp nhận


Bài tập thực hành: Bảng câu hỏi tự điều tra về sự chấp nhận
không oán giận

Tháng thứ sáu

1 of 2 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts0.htm

Tỉnh giác với các cảm xúc


Bài tập thực hành: Kiểm soát lòng khao khát

[02] Tháng thứ bảy

Các cơ chế của sự tự dối mình


Bài tập thực hành: Kiểm soát sự cáu kỉnh và oán giận

Tháng thứ tám

Giáo lý Đạo Phật về vô ngã


Phức cảm tự ti
Thực hành không tự khẳng định
Bài tập thực hành

Tháng thứ chín

Thực hành kiểm soát suy nghĩ


Bài tập thực hành: Chú ý trần trụi

Tháng thứ mười

Tu tập sự không dính mắc


Bài tập thực hành: Luyện tập sự không dính mắc cảm xúc

Tháng thứ mười một

Đạt đến sự bình an


Bài tập thực hành: Quán sát cảm xúc một cách bình thản

Tháng thứ mười hai

Thực hành sự hiểu biết rõ ràng


Bài tập thực hành: Nhận ra động cơ

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02

Chân thành cám ơn đạo hữu Minh Nguyệt đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 12-2007).

[Trở về trang Thư Mục]


last updated: 10-05-2009

2 of 2 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Trang gốc Trang web BuddhaSasana Times (Unicode) font

THERAVĀDA
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

MỘT KỸ THUẬT SỐNG


Dựa theo các nguyên tắc tâm lý Phật giáo

Leonard A. Bullen
Minh Nguyệt dịch

Nguyên tác: A Technique of Living,


Wheel No. 226/230, Buddhist Publication Society,
Kandy, Sri Lanka, 1982

[01]

Lời giới thiệu

Ông Leonard A. Bullen là một trong những vị cư sĩ tiền phong truyền bá đạo Phật tại Úc châu. Ông
sinh năm 1909, tốt nghiệp kiến trúc sư. Năm 1938, ông thành lập Nhóm Nghiên cứu Phật học tại
thành phố Melbourne, bang Victoria. Năm 1953, ông thành lập Hội Phật giáo Victoria. Ông là thành
viên Ban Quản trị của Liên hội Phật giáo Úc châu, và là đồng Chủ bút Tập san Từ Bi (Metta), tập san
Phật giáo lâu đời nhất của Úc. Ông qua đời năm 1984, hưởng thọ 75 tuổi.

Quyển "Một Kỹ Thuật Sống" là một trong ba tập sách của ông đã được Hội Xuất bản Phật giáo, Sri
Lanka, ấn hành trong thập niên 1980. Tập sách bao gồm những lời khuyên giản dị và thực tế, giúp
chúng ta thiết lập một chương trình thực hành tại nhà, từng bước một, để rèn luyện tâm ý, trong tiến
trình 12 tháng, mỗi tháng một đề mục. Đây là những bài tập cơ bản về chánh niệm, để hiểu biết bản
thân, thiết lập kỷ luật tự giác. Dựa vào những nguyên tắc trong đạo Phật, tác giả trình bày các hướng
dẫn qua kinh nghiệm sống của chính mình, để giúp chúng ta có được một đời sống có ý nghĩa, an vui
và hạnh phúc.

Chúng tôi rất hoan hỷ khi biết đạo hữu Minh Nguyệt phát tâm chuyển dịch tập sách sang tiếng Việt.
Chúng tôi thành tâm tán thán công đức của đạo hữu, và xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả.

Bình Anson
Tây Úc, tháng 7-2008

Lời mở đầu
Nhờ trải nghiệm mọi người đều biết đời sống là sự pha trộn của sung sướng và khổ cực, hạnh phúc và
bất hạnh, niềm vui và nỗi đau. Người thông minh và kẻ ngu đần, người tốt và kẻ xấu, người giàu và
người nghèo, tất cả đều nhận biết một mức độ khổ đau pha trộn trong hạnh phúc của họ.

Đúng là có những lúc chúng ta cảm thấy thoát khỏi những gánh nặng khổ đau. Có những lúc công
việc của chúng ta diễn tiến tốt, chúng ta có thể thực hiện các trách nhiệm một cách thoả đáng, có thể
hoàn thành các nghĩa vụ mà không gặp rắc rối. Nhưng cũng có những lúc mọi thứ diễn ra không tốt

1 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

lắm, chúng ta phải chịu đựng những mất mát dữ dội, liên tục thất vọng và những lúc ấy chúng ta cảm
thấy cần một phương pháp tinh thần đặc biệt để giải quyết những vấn đề của mình.

Trên thực tế, chúng ta cần phương pháp đặc biệt này ở mọi thời điểm, cả những thời điểm tốt cũng
như xấu. Chúng ta cần một phương pháp tiếp cận đặc biệt với thành công cũng như thất bại, với lợi
lộc cũng như mất mát, với hạnh phúc cũng như bất hạnh. Chúng ta cần một kỹ thuật để ứng xử những
lúc dế dàng cũng như những giai đoạn khó khăn.

Tóm lại, chúng ta cần một kỹ thuật sống. Có thể nói nhìn chung có bất kỳ một kỹ thuật nào đều tốt
hơn là không có kỹ thuật nào cả. Bất kỳ một phương pháp nào tiếp cận các vấn đề của cuộc sống
được cân nhắc cẩn thận đều tốt hơn là thái độ sống thụ động không suy nghĩ. Nhưng có lẽ kỹ thuật
hiệu quả nhất bao gồm sự hiểu biết đáng kể về cuộc sống, chánh niệm ngày càng tăng về những mục
tiêu và tiến trình tâm trí và một mức độ kỷ luật tự giác giữ cho tâm đi trên đường đã chọn.

Do vậy trong kỹ thuật kiểu này, ba từ quan trọng là hiểu biết, chánh niệm và kỷ luật tự giác.

Hiểu biết cuộc sống là vấn đề về sự thu nhận và đánh giá – bằng trí tuệ hay trực giác – cách mà sinh
vật sống hành động và phản ứng. Chánh niệm về các mục tiêu và tiến trình của chính tâm trí liên
quan đến sự tỉnh giác bên trong, một hình thức chú tâm hướng nội. Kỷ luật tự giác là nỗ lực liên tục
để suy nghĩ và hành động theo những đường hướng nhất định đã lựa chọn, là nỗ lực đòi hỏi rèn luyện
ý chí.

Trong ba yếu tố đó – hiểu biết, chánh niệm, kỷ luật tự giác – chánh niệm trở thành tâm điểm trong
phương pháp tự rèn luyện của Phật giáo.

Nếu bạn muốn áp dụng bất cứ một phương pháp phát triển tinh thần nào, dù tự nó như là một mục
tiêu hoặc một phương tiện để đạt được giá trị lớn hơn từ cuộc sống, thì ít nhất sự tu dưỡng chánh
niệm theo một hướng nào đó phải đóng vai trò quan trọng trong phương pháp ấy. Nói cách khác, bất
kỳ phương pháp luyện tâm nào đều phải bao gồm việc phát triển sức mạnh của sự chú tâm.

Như bạn biết từ những quan sát trực tiếp, sự chú tâm của bạn có thể bị hướng ra thế giới các đối
tượng bên ngoài hay hướng vào thế giới các tư tưởng bên trong. Phát triển chánh niệm có thể đem lại
sự tỉnh giác cao hơn về những gì xảy ra bên ngoài, song đó không phải là mục đích chính của nó, ít
nhất theo quan điểm Phật giáo. Mục tiêu chính yếu của nó là mang lại sự tỉnh giác cao hơn về những
gì đang xảy trong “dòng sống hiện hữu" mà bạn gọi là cái tôi riêng của bạn. Một số hình thái chánh
niệm nhằm làm cho bạn tỉnh giác hơn và hiểu biết hơn về những tiến trình tâm của chính bạn nói
chung; vì những tiến trình tâm này là những nhân tố quyết định cuộc đời bạn sẽ gặt hái được điều gì
hay không gặt hái được điều gì, xét về khía cạnh hạnh phúc lâu dài.

Vậy thì sự thực tập chánh niệm là tâm điểm của một phương pháp rèn luyện tinh thần, một phương
pháp luyện tâm hình thành nên cốt lõi của nhiều hình thức Phật giáo. Sự thực tập chánh niệm này
không nhằm giải quyết tổng thể học thuyết và thực tiễn Phật giáo , bởi vì chúng ta quan tâm nhiều
hơn đến một phương diện cụ thể của học thuyết và thực tiến ấy. Nhưng để phương diện cụ thể này
của Phật giáo khớp với toàn bộ giáo lý chung của đạo Phật, có lẽ sẽ thích hợp khi trình bày một cách
rất ngắn gọn những điểm chính của một hệ thống phương pháp rèn luyện tâm là Bát Chánh Đạo. Đây
là những chi nhánh của Con đường này:

1. CHÁNH KIẾN, hiểu biết về bản chất thật của mọi hiện hữu;

2 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

2. CHÁNH TƯ DUY, không suy nghĩ tham dục, sân và làm hại;

3. CHÁNH NGỮ, không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời hung ác, không
nói lời vô ích;

4. CHÁNH NGHIỆP, không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm;

5. CHÁNH MẠNG, nghề nghiệp không gây hại cho sinh vật sống có ý thức;

6. CHÁNH TINH TẤN, hay là sự rèn luyện ý chí;

7. CHÁNH NIỆM, sự hoàn thiện khả năng chú tâm;

8. CHÁNH ĐỊNH, sự trau dồi các trạng thái tâm cao hơn với ý định để hiểu biết trực tiếp
về Vô sanh, một thực tại tối hậu vượt ngoài thế giới tương đối này.

Chi phần đặc biệt trong Bát Chánh Đạo mà chúng ta quan tâm, như bạn có thể thấy, là bước thứ bảy,
chánh niệm; nhưng bước thứ nhất – chánh kiến, đặc biệt với ý nghĩa là sự tự hiểu biết và bước thứ
sáu, chánh tinh tấn hay rèn luyện ý chí cũng được quan tâm đặc biệt trong bối cảnh này.

Trong một số phương pháp phát triển tinh thần sự mở rộng phạm vi chú tâm là mục đích, còn trong
một số phương pháp khác, phạm vi đó được thu hẹp và nhờ thế tỉnh giác được tăng cường.

Phát triển tỉnh giác theo bề rộng và theo chiều sâu là những phương thức chánh niệm đối lập nhưng
bổ sung cho nhau và cả hai đều đòi hỏi phát triển khả năng tập trung bình thường. Chính nhờ rèn
luyện, định hướng và kiểm soát sự tập trung mà sự tỉnh giác có thể được mở rộng đến một phạm vi
rộng hơn, hoặc mặt khác được tăng cường để hạn chế vào một ý tưởng đơn lẻ.

Trong hai phương pháp trên, có lẽ tập trung chú ý vào một điểm đơn nhất có ý nghĩa quan trọng hơn
nhiều vì mọi sự phát triển tinh thần đều đòi hỏi một sự tỉnh giác sâu sắc.

Hãy so sánh ý thức lờ mờ, uể oải của trạng thái mơ ngủ với sự tỉnh giác sắc bén của trạng thái thức
bình thường. Trong giấc mơ, bạn cảm giác về thế giới bên ngoài nhưng diễn dịch sai chúng. Chân bạn
lạnh, có lẽ do chăn đắp bị tuột nhưng thay vì cảm nhận đúng cái lạnh bạn lại mơ thấy mình đang đi
chân đất trên một đường phố lạnh. Hoặc một con chó sủa ở gần và bạn mơ thấy đang bị một bầy sói
đói rượt đuổi. Chúng tôi được biết những sự diễn dịch sai này có liên quan chặt chẽ với những tích tụ
các cảm xúc đa dạng không được xả bỏ, các phức cảm phong phú bên trong bạn và các tác nhân kích
thích bên ngoài – chân lạnh và tiếng chó sủa – được sử dụng như là phương tiện để xả những chồng
chất cảm xúc đó hoặc để thể hiện những phức cảm của bạn, ít nhất là đến một mức độ nào đó.

Lúc thức, bạn không phạm sai lầm diễn dịch sai lệch thô thiển như lúc ngủ. Khi chăn tuột ra và chân
bạn bị lạnh, bạn sẽ cúi xuống và kéo chăn lại. Khi chó sủa, nó có thể gợi lại trong tâm trí bạn một câu
chuyện hồi nhỏ về một cậu bé bị đàn sói rượt đuổi; nhưng vì bạn tỉnh táo và không mơ màng nên sẽ
nhận ra âm thanh mà bạn vừa nghe đó không gì khác hơn tiếng chó sủa.

Trong trạng thái tỉnh, bạn không phạm sai lầm diễn dịch một cách thô thiển như trong khi ngủ, tuy thế
bạn vẫn diễn dịch sai lầm ở một mức độ, nhiều hay ít tuỳ thuộc vào mức độ các cảm xúc và phức
cảm tâm lý chi phối các tiến trình tư duy của bạn.

Trong khi sự tập trung năng lượng tâm vào một điểm đơn nhất là cần thiết trong một số tình huống,

3 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

việc phân tán và rải rộng sự chú tâm lại có giá trị trong một số tình huống khác và để phát triển tâm
nói chung, cần có khả năng đưa tâm vào một trong hai trạng thái đó dễ dàng như nhau.

Một ví dụ về phạm vi tỉnh giác hạn chế mà bạn biết rõ là tình huống chuông điện thoại reo ở phòng
khác trong khi bạn đang viết thư. Trong lúc đi trả lời điện thoại, bạn để cái bút ở đâu đó mà không
chú tâm đến việc làm nhỏ mọn này, sau đó khi quay lại lấy bút để viết tiếp, bạn rất vất vả tìm kiếm vì
không nhớ mình đã để bút ở đâu. Nếu bạn không đặc biệt nỗ lực chánh niệm thì một nhiệm vụ đơn
giản là chú ý vào cả hai việc đặt bút xuống và đi về phía điện thoại là quá nhiều đối với bạn, bởi vì
phạm vi tỉnh giác bình thường của bạn quá bị hạn chế để có thể nắm bắt được hai việc rất đơn giản
này cùng một lúc. Đây là một ví dụ rất rõ ràng về việc cần mở rộng phạm vi ý thức.

Trong tiến trình bình thường của đời sống thường ngày ít có hoặc không có thời gian để thực hành
phát triển tinh thần trừ khi những sự thực tập này được đan dệt trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên,
nếu thỉnh thoảng bạn tìm được thời gian để giảm nhịp độ của bất kỳ việc làm nào – có thể chỉ trong
vài phút, một giờ, hoặc một ngày, tuỳ vào hoàn cảnh – để bạn có thể chú tâm nhiều nhất vào việc làm
đó thì sự tỉnh giác cao hơn có chủ tâm này sẽ giúp bạn có được chánh niệm toàn diện trong những lúc
bận rộn hơn trong cuộc sống của bạn.

Trong những điều kiện lý tưởng, bạn có thể trở nên hoàn toàn tỉnh giác về những việc bạn đang làm
trong lúc thức bình thường. Tất nhiên, sự tỉnh táo liên lục này thường vượt ngoài khả năng của bạn.
Để trở nên tỉnh giác hoàn toàn về những gì bạn làm trong suốt những lúc thức là điều lớn hơn rất
nhiều so với những gì bình thường bạn có thể đạt được, và bạn càng cố gắng phát triển sự tỉnh giác
mở rộng này, bạn càng nhận rõ hơn sự thiếu hụt của mình.

Tuy nhiên, nếu những nỗ lực theo con đường chánh niệm của bạn không làm được gì hơn việc khiến
bạn ý thức rõ hơn về sự thiếu tỉnh giác của chính bạn, thì chúng cũng đang thực hiện được một mục
tiêu rất quan trọng. Bạn dần dần nhận ra bản chất tự động và máy móc của nhiều việc bạn làm, bạn
bắt đầu nhận thấy từ trước đến nay mình phần lớn đã bị nhiễm một lối sống để tư tưởng trôi dạt thiếu
suy nghĩ. Chỉ khi nào bạn bắt đầu ý thức được tất cả những điều này, bạn mới có thể bắt đầu nỗ lực
quyết tâm để thoát khỏi thái độ sống thụ động thiếu suy nghĩ đó.

Không nghi ngờ gì, trong đời sống bình thường bạn liên tục gặp các vấn đề. Có thể là bạn thiếu tiền,
hay trách nhiệm gia đình quá nặng nề đối với bạn, hoặc những người ở căn hộ trên gác quá ồn ào.

Tất nhiên, một triết lý nào đó có thể giúp giải quyết các vấn đề của bạn, nhưng chỉ đến một mức độ
nhất định, vì các vấn đề của bạn chủ yếu là mang tính thực tiễn chứ không phải mang tính triết lý. Để
có giá trị sử dụng thiết thực, một triết lý phải được xây dựng thành một đường lối hành động, và
đường lối hành động này phải được tổ chức để trở thành một kỹ thuật.

Bất kể triết lý của bạn như thế nào, đường lối hành động và phương pháp bạn phát triển từ triết lý đó
ra sao, có thể nói chắc rằng nó phải bao gồm không chỉ sự chánh niệm gia tăng, mà còn cả một hình
thức kỷ luật tự giác nào đó, mới có giá trị sử dụng thật sự. Thiếu kỷ luật tự giác thì không một sự tu
dưỡng tinh thần nào có thể thành công nhiều được.

Kỷ luật tự giác phải được sử dụng cùng với phát triển chánh niệm. Tất nhiên bạn hẳn nhận thấy kỷ
luật tự giác mình nó chỉ có giá trị hạn chế, nhưng nó đi cùng với sự tu tập tỉnh giác thì sẽ trở nên giá
trị hơn nhiều, như là một phần của kỹ thuật sống.

Kỷ luật tự giác là nỗ lực suy nghĩ và hành động theo những phương châm nào đó đã được xác quyết

4 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

trước và tránh suy nghĩ, hành động theo những đường hướng đối lập.

Có một sự phân biệt rõ ràng giữa kỷ luật tự giác và kỷ luật bị áp đặt từ bên ngoài. Bạn sẽ thấy một kỷ
luật được áp đặt lên bạn từ bên ngoài đôi khi làm nảy sinh sự kháng cự nơi bạn và bạn sẽ thường có
khuynh hướng bực tức oán giận nó. Điều này tất nhiên xảy ra khi kỷ luật khắt khe và nghiêm ngặt,
nhưng cũng có thể xảy ra khi kỷ luật dễ dãi và ôn hoà. Sự oán giận không chỉ phụ thuộc vào tính khắc
nghiệt của bản thân kỷ luật bạn phải tuân thủ, mà còn phụ thuộc vào việc bạn không tự nguyện tuân
thủ nó.

Do đó, nếu bạn bị bắt buộc phải phục tùng một kỷ luật nhẹ nào đó mà bạn không đồng ý, bạn sẽ cảm
thấy muốn chống đối và quả thật bạn có thể thực sự chống đối nó, mặc dù nếu nhìn nhận một cách
bình thản thì nó không khắc nghiệt. Mặt khác, nếu bạn tự nguyện và chủ tâm tuân thủ một kỷ luật rất
khắt khe – ví dụ, bạn chuẩn bị gia nhập một dòng tu hay tình nguyện tham gia quân đội – bạn sẽ có
khuynh hướng tuân thủ nó mà không kháng cự. Bạn có thể làm được như thế bởi vì khi tự nguyện và
chủ tâm chấp nhận những kỷ luật ấy, bạn sẽ chuyển hoá chúng ở một mức độ nào đó từ kỷ luật bên
ngoài thành kỷ luật tự giác.

Vì vậy một kỷ luật từ bên ngoài có thể trở thành một cơ duyên cho sự oán giận và chống đối hoặc trở
thành một phương tiện để phát triển những tài nguyên tinh thần của chính mình, tuỳ thuộc vào thái độ
của bạn đối với chúng.

Tuy nhiên, loại kỷ luật đó không thực sự là cái chúng ta quan tâm trong bài thảo luận này, và chúng
tôi nhắc tới nó chỉ để làm rõ sự khác biệt giữa kỷ luật được áp đặt từ bên ngoài và loại kỷ luật tự áp
đặt cho mình.

Bạn có thể chấp nhận một kỷ luật tự giác vì một số bất kỳ lý do nào. Bạn có thể bắt đầu ngày làm
việc rất sớm và kết thúc rất muộn để kiếm tiền. Bạn có thể thực hiện một chế độ ăn kiêng nghiêm
ngặt và chẳng ngon lành vì bạn muốn mảnh mai và hấp dẫn hơn. Hoặc bạn có thể thực hiện một chế
độ luyện tập khắt khe vì bạn muốn thắng trong cuộc đua đi bộ. Trong mỗi trường hợp trên, kỷ luật tự
giác tự nó không phải là mục đích – nó chỉ là một biện pháp để đạt mục đích.

Tuy nhiên, bất kể nó có ý nghĩa như vậy hay không, kỷ luật tự giác của bạn sẽ gặt hái được nhiều hơn
dự định đặt ra cho nó; nó làm được nhiều hơn là việc mang lại cho bạn nhiều tiền hơn, hay làm cơ thể
bạn mảnh mai, hoặc giúp bạn chiến thắng trong cuộc đua, bởi vì nó xây dựng nên trong chính tâm bạn
những phẩm chất giúp nâng cao năng lực sống hạnh phúc.

Nếu một kỷ luật do những người khác hay hoàn cảnh áp đặt lên bạn, những kỷ luật áp đặt từ bên
ngoài này nói chung thường liên quan đến những hành động bên ngoài hơn là đến những tiến trình
tâm dẫn tới những hành động đó. Mặt khác, những kỷ luật tự giác có thể liên quan đến những hành
động bên ngoài của bạn và tác động của chúng, hoặc có thể liên quan đến mong ước và cảm xúc có
ảnh hưởng đến những hành động bên ngoài của bạn: nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, các tiến
trình và động cơ tinh thần bên trong đều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, ít nhất là trong bối cảnh
đang nói đây.

Đồng thời, cần nhận thấy rằng bạn có thể kiểm soát mong ước và cảm xúc nhờ kiểm soát những biểu
lộ bên ngoài của chúng. Ví dụ, bạn có thể nhìn chằm chằm một cách thèm khát vào một thứ gì đó mà
bạn muốn nhưng không thể có được, và điều này có khuynh hướng làm tăng lòng mong ước cũng như
cảm giác thất vọng. Nhưng nếu bạn từ chối nhìn chằm chằm vào nó – nếu bạn chuyển cái nhìn khỏi
nó, mặc dù bạn không thể từ bỏ sự ham thích nó – bạn đang làm một việc dù rất nhỏ nhoi để kiểm
soát lòng mong ước và làm giảm bớt cảm giác thất vọng.

5 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Lại nữa, bạn có khuynh hướng lên giọng khi bực mình, giọng nói to hơn là kết quả của cảm giác bực
mình. Nhưng nếu bạn có ý chí nỗ lực để giữ giọng ở mức bình thường nghĩa là bạn đang làm một điều
để kiếm soát chính sự bực mình đó.

Điểm mấu chốt ở đây là những biểu hiện bên ngoài của uớc muốn và cảm xúc là phần không tách rời
của những mong ước và cảm xúc đó, nhờ ngăn chặn những ảnh hưởng bên ngoài của chúng mà bạn
đang giúp làm suy yếu những nguyên nhân bên trong, tất nhiên với điều kiện bạn làm điều đó trong
chánh niệm. Mặc dù đúng là những khát khao, cảm xúc này chủ yếu hoạt động từ bên trong biểu hiện
ra ngoài, nhưng cũng đúng là ở một chừng mực nào đó chúng tác động từ ngoài vào trong.

Bây giờ hãy cân nhắc cách áp dụng tốt nhất kỷ luật tự giác trong đời sống hàng ngày của các bạn. Có
lẽ vấn đề lớn nhất trong bất kỳ hình thức tu dưỡng tâm nào không phải là nắm vững những nguyên
tắc mà là áp dụng chúng như thế nào. Có phương pháp dựa trên các lý thuyết tâm lý, có phương pháp
khác dựa trên các khái niệm triết học hoặc tôn giáo; có phương pháp rõ ràng, có phương pháp mập
mờ và không dứt khoát; nhưng trong hầu hết các trường hợp người ta nhận thấy khó khăn chủ yếu
không phải ở việc nắm bắt các nguyên tắc, mà ở sự thực hành trong đời sống hàng ngày.

Nếu bạn có một cuộc sống quá bận rộn, với những nghĩa vụ và trách nhiệm đè nặng, bạn có thể cảm
thấy những nỗ lực phát triển tiềm năng tinh thần của bạn bị ngăn trở bởi những áp lực bên ngoài.
Nhưng nếu bạn có thể thoát khỏi những vấn đề và tâm trạng thất vọng đó một cách thần kỳ, thì bạn
cũng bị lấy mất những cơ hội tốt nhất để rèn luyện sự tỉnh giác, kỷ luật tự giác, và những phương
pháp tu dưỡng tâm khác. Triết lý và đường lối sống của bạn chẳng có giá trị gì nếu bạn không thể đan
dệt chúng thành tấm vải đời sống thường ngày của bạn. Tuy nhiên nếu tất cả chúng đòi hỏi nỗ lực
mạnh mẽ và yêu cầu bạn phải có kỷ luật tự giác ở một mức độ nào đó thì thực hiện điều này quả là
không dễ dàng.

Tuy nhiên, có một phương pháp nhờ đó bạn có thể áp dụng kỷ luật tự giác vào nếp sống hàng ngày và
nếu nó có tiêu tốn thời gian quý giá của bạn thì cũng chỉ chút ít.

Mặc dù vậy, ở đây tôi phải nói rõ là phương pháp kỷ luật tự giác mà tôi sắp trình bày với các bạn
không phải là phương pháp Phật giáo truyền thống; đó là phương pháp mà tôi đã tìm ra và áp dụng
cho chính cuộc đời tôi. Khi mới làm quen với những lý tưởng Phật giáo và những nguyên tắc tương
tự, tôi nhận thấy nói về những điều này khi cuộc sống suôn sẻ là rất dễ dàng, nhưng cũng rất khó
khăn để áp dụng chúng, hoặc thậm chí chỉ nhớ đến chúng khi các vấn đề nảy sinh. Vì lý do đó, tôi đã
tìm cách để biến triết lý của tôi thành một đường lối ứng xử và biến đường lối ứng xử này thành một
kỹ thuật. Kết quả là tôi phát triển một phương pháp tôi gọi là phương pháp kỷ luật tự giác tự thoả
thuận.

Khi sử dụng phương pháp này, bạn hãy chọn lấy một vài khuynh hướng có hại mà bạn muốn sửa đổi,
một số thói quen bạn muốn từ bỏ, hoặc một số thói quen bạn muốn hình thành, và đồng thời bạn hãy
chọn ra một vài niềm vui nhỏ mà bạn thường tự cho phép mình tận hưởng.

Sau đó bạn hãy tự lập với mình một loại thoả ước hay hợp đồng với hàm ý là ngay sau mỗi lần bạn
không kiểm soát được thói quen hay khuynh hướng có hại, bạn sẽ không cho phép bản thân được
hưởng niềm vui nhỏ mà bạn đã chọn lúc trước.

Lấy một ví dụ cụ thể, giả sử bạn là người đãng trí. Tất nhiên điều này đơn giản là thiếu sự chánh niệm
chung vì mặc dù những dạng riêng của chánh niệm tỉnh thức có những chức năng riêng biệt nào đó,
một sự chánh niệm chung là cần thiết cho một đời sống hiệu quả.

6 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Nếu bạn thiếu chánh niệm chung này, bạn sẽ thấy là bạn để thất lạc những thứ nhỏ như chìa khoá,
kính đọc sách hay bút chì. Bạn sẽ phải tìm kiếm ở tất cả các túi hay dốc hết túi xách tay ra để tìm vé
tàu hoả. Bạn cẩn thận viết số điện thoại của ai đó vào một mẩu giấy sau đó lại cẩu thả đánh mất.

Bạn rất giống nhiều người khác về điểm này. Hầu hết chúng ta đều thiếu chánh niệm chung và do vậy
xét về khía cạnh này, hầu hết chúng ta đều có lợi nhờ sự tự rèn luyện nào đó.

Tiếp theo chúng tôi giả sử bạn muốn sửa chữa khuynh hướng bất lợi này – sự thiếu chánh niệm
chung. Cũng giả sử bạn là người hút thuốc.

Vậy bạn sẽ tự thoả thuận với bản thân như sau: "Tôi quyết tâm rằng sau mỗi lần tôi sao lãng chánh
niệm trong những vấn đề nhỏ, tôi sẽ không hút thuốc trong ít nhất 2 tiếng đồng hồ tới.”

Bây giờ bạn sẽ thấy là đây không chỉ đơn giản là quyết tâm hình thành một thói quen mới; nó còn là
một điều gì hơn thế nữa. Nếu bạn hạ quyết tâm đơn giản mà không có một sự tước đoạt tự đặt cho
mình thì quyết tâm này sẽ khó đạt được, bởi vì hoặc là bạn sẽ quên nó, hoặc là rốt cuộc bạn sẽ nhanh
chóng cho rằng đãng trí không phải là một lỗi lầm tồi tệ, hoặc nhiều khả năng hơn là vì có quá nhiều
vấn đề khác cần bạn phải chú tâm.

Tuy nhiên, với một sự tước đoạt tự đặt cho bản thân, hợp đồng bạn tự ký với mình sẽ có nhiều sức
mạnh hơn hẳn một quyết tâm đơn giản, nhờ vào sự tự tước đoạt này.

Thoạt nhìn, sự tước đoạt này có vẻ như là một hình thức tự trừng phạt. Tuy nhiên, đây không phải là
chức năng của nó bởi vì không bao giờ nó được khắt khe tới mức bị cảm thấy là một hình phạt, và
nếu như nó bị cảm thấy là một hình phạt thì nó sẽ có xu hướng làm hỏng mục đích của chính nó.

Bạn phải coi việc tước đoạt này không phải là một hình phạt, mà đơn thuần chỉ là một sự trợ giúp cho
chánh niệm tỉnh thức, một sự giúp đỡ để đột phá thoát khỏi lối sống trôi dạt thiếu suy nghĩ và là một
công cụ tạo sức mạnh cho quyết tâm của bạn. Như vậy, không bao giờ được để nó trở thành tẻ nhạt
hay hạn chế quá đáng; nó phải luôn luôn linh hoạt và sẵn sàng được điểu chỉnh, vì một khi bạn làm
cho nó trở nên quá khó khăn, bạn sẽ có khuynh hướng vứt nó sang bên hoặc quên nó hoàn toàn.

Việc bạn cần thực hiện kỷ luật tự giác chung quy là để gây một áp lực nhẹ nhàng và tương đối liên
tục để khiến bạn phải tỉnh giác nhiều hơn nữa đối với những thói quen, mong ước và phản ứng với
các tình huống.

Để phương pháp kỷ luật tự thoả thuận có tác dụng, bạn phải bắt đầu bằng việc tạo nên một thói quen
mới. Thói quen mới này là dừng lại trong đầu mỗi khi bạn định tự cho phép mình thưởng thức một
niềm vui nhỏ, bất kể là điều gì mà bạn đã chọn làm cơ sở cho bản tự hợp đồng.

Nếu đó là việc hút thuốc, khi tay bạn chuẩn bị mở bao thuốc, đầu óc bạn phải học cách dừng lại để
cân nhắc xem bản tự hợp đồng có cho phép bạn hút thuốc vào lúc này hay không.

Nếu bạn đã tự đồng ý là sẽ uống trà hay cà phê không đường sau mỗi lần thiếu chánh niệm thì bạn sẽ
phải rèn luyện bản thân để suy nghĩ lại trước khi bạn định cầm túi đường.

Nếu bạn thích ăn sô-cô-la và đã lập thoả ước tự từ bỏ chúng sau mỗi lần đãng trí thì bạn sẽ phải hình
thành thói quen dừng lại để nghĩ lại trước khi ăn.

Trên thực tế, có thể bắt đầu một thói quen mới ngược lại một thói quen khác và do đó kiểm soát cả
hai nhiều hơn, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, sự tước đoạt này phải được xem chủ yếu là một sự

7 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

trợ giúp cho chánh niệm tỉnh thức và do đó phải linh hoạt. Có thể trong phương pháp kỷ luật tự giác
khác, bạn buộc phải nỗ lực tự áp đặt bản thân nhiều hơn; nhưng vì phương pháp mà chúng ta đang
thảo luận chủ yếu là nhằm xử lý những khuyết điểm nhỏ và có vẻ không quan trọng mà không ảnh
hưởng đến cuộc sống bận rộn hàng ngày , cho nên một phương pháp kỷ luật tự giác khắt khe và cứng
nhắc sẽ không phù hợp.

Nếu bạn tự quyết định áp dụng phương pháp trau dồi tâm này, tất nhiên bạn sẽ phải điều chỉnh chúng
thích ứng với những yêu cầu và cách sống của mình. Điều này có lẽ áp dụng riêng cho những sự tự từ
khước mà bạn sẽ sử dụng, và chúng sẽ tùy thuộc vào những điều bạn thích và không thích.

Có thể bạn không hút thuốc, cũng không dùng đường khi uống trà hay cà phê, không ăn kẹo sô-cô-la.
Nhưng bất kể đời sống của bạn có giản dị đến thế nào, hẳn phải có niềm vui nho nhỏ nào đó mà bạn
thích – hoặc thậm chí một vài hoạt động nhỏ nào đó bạn làm – đều đặn ở một mức độ nhất định; và
bất kể nó là gì, bạn có thể sử dụng nó làm cơ sở cho phương pháp kỷ luật tự giác tự thoả thuận này.

Ngược lại với việc tự tước đoạt, ý tưởng tự thưởng đôi khi cũng được xem là cơ sở cho phương pháp
rèn luyện tinh thần. Tuy nhiên, nói chung phương pháp tự thưởng cho bản thân không hiệu quả bằng
phương pháp tự tước đoạt.

Ví dụ, nếu bạn luôn luôn ăn bất kỳ thứ gì bạn thích vào bất cứ khi nào bạn muốn, nếu bạn lại tự
thưởng cho mình thứ gì đó bạn thích ăn thì bạn sẽ ăn quá nhiều. Hoặc nếu bạn đã hút thuốc bất kỳ khi
nào bạn cảm thấy thích, nếu tự thưởng thêm thuốc thì bạn sẽ hút thuốc khi bạn không thực sự muốn
hút, do đó bạn sẽ thực hiện được rất ít hoặc chẳng thực hiện được gì cả. Chỉ khi nào bạn đang hạn
chế việc ăn uống và hút thuốc thì biện pháp tự thưởng mới có hiệu quả.

Tuy vậy, đôi khi bạn có thể bù đắp cho việc tự tước đoạt bằng việc tự thưởng để cái này xoá bỏ cái
kia. Đời sống và hoàn cảnh của người này khác với những người khác, và một biện pháp không thành
công với người này lại có thể có tác dụng với người khác.

Những gì viết ở trên là lời giới thiệu chung về chánh niệm kết hợp với kỷ luật tự giác như một cơ sở
cho sự tu dưỡng tinh thần; và với cơ sở này, được củng cố bởi sự hiểu biết ngày càng tăng lên về
cuộc sống – về những cách mà những sinh vật sống hành động và phản ứng – bạn có thể đặt nền tảng
cho một kỹ thuật sống hiệu quả.

Để giúp bạn dựa vào nền tảng này, tôi đã thiết kế một khoá học kéo dài trong một năm. Nó bao gồm
một loạt bài, mỗi bài cho một tháng, về các khía cạnh tu dưỡng tâm khác nhau với những bài tập cơ
bản về chánh niệm, hiểu biết bản thân, hay kỷ luật tự giác. Khoá học này được gọi là "Một kỹ thuật
sống", và đây là phần giới thiệu về khoá học.

Phần lớn, nhưng không phải tất cả các bài thực hành này dựa trên các nguyên tắc tâm lý học Phật
giáo. Tuy nhiên những bài thực hành này không bao gồm những bài tập đòi hỏi nhiều thời gian, cũng
không phải là những nguyên tắc đòi hỏi phẩm chất sâu sắc đặc biệt.

Nếu bạn muốn thực tập thứ được gọi một cách lỏng lẻo là thiền hoặc nghiên cứu sâu hơn về các
nguyên tắc đạo Phật thì có rất nhiều cuốn sách về những chủ đề đó; nhưng những thực hành và
nghiên cứu đó không nằm trong phạm vi khoá học này. Tất cả những bài thực hành trong khoá học
này được thiết kế để dệt nên tấm vải đời sống hàng ngày.

8 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Mặc dù mỗi bài tập của khoá học kéo dài một tháng, hầu như chắc chắn bạn sẽ nhận thấy một tháng
là quá ngắn để tạo nó thành một thói quen vững chắc, và bạn có thể cần lặp lại những bài luyện này
vào năm sau. Trên thực tế, chẳng có lý do gì khiến bạn không tiếp tục thực hành tuần tự vô hạn định
những bài tập này trong chu kỳ một năm.

Tuy mỗi bài trong 12 bài tập được ấn định cho một tháng cụ thể, nhưng bạn có thể bắt đầu khoá học
bất kỳ thời gian nào trong năm.

Như đã nói ở trên, khi thực tập bất kỳ một phương pháp tự rèn luyện nào, vấn đề chính không phải là
hiểu các nguyên tắc mà là ứng dụng chúng vào thực hành; thậm chí khi bạn đã bắt đầu rồi vẫn luôn
có khả năng là bạn sẽ bỏ tập.

Nếu thực hành một mình, bạn có thể hay đánh mất sự hứng thú. Tuy nhiên nếu có một nhóm thảo
luận với 3 hoặc 4 người bạn có cùng mối quan tâm, cơ hội so sánh những ghi chép và thảo luận về sự
tiến bộ sẽ mang lại nguồn động viên tích cực để tiếp tục thực hành.

-ooOoo-

Tháng thứ nhất

Thực hành thư giãn

Người ta nói rằng cuộc sống này đã quá nặng nề, không thể làm nó nghiêm trọng hơn được nữa.
Chúng ta có thể nói rõ thêm rằng cuộc sống này đã quá nặng nề và quá bất như ý tới mức việc chống
lại và lo lắng căng thẳng về nó chỉ làm cho nó nặng nề hơn. Nói cách khác, sự căng thẳng làm tăng
thêm tính trầm trọng của mọi thứ.

Không phải tất cả mọi người đều đồng ý với quan điểm cho rằng cuộc sống này là quá nặng nề và bất
toại nguyện. Một số người tương đối thành công trong cuộc kiếm tìm liên tục những sự hài lòng cho
bản thân, họ cảm thấy đang có được nhiều hơn là tỉ lệ thông thường 50/50 giữa niềm vui và sự khó
chịu, được nghỉ ngơi nhiều hơn một chút so với nỗ lực, được hạnh phúc nhiều hơn buồn phiền một
chút. Đó là tất cả những điều họ trông đợi và họ khá hài lòng với nó.

Có những người nhận được thứ gì đó tồi hơn là tỷ lệ trung bình 50/50 giữa hạnh phúc và bất hạnh;
đời sống đem lại cho họ niềm vui ít hơn nỗi đau, và họ phải cho đi nhiều hơn nhận về. Họ phải nỗ lực
nhiều và được nghỉ ngơi ít, sự phiền muộn của họ lớn hơn hạnh phúc. Những nỗ lực không ngừng
nghỉ của họ để giành giật từ cuộc sống nhiều hơn cái nó có thể gặt hái về gây nên một tình trạng căng
thẳng chung làm cho cuộc sống trở nên trầm trọng hơn.

Trong chúng ta, số người bị căng thẳng lo lắng có vẻ nhiều hơn số người được thư giãn thoải mái,
nhưng ít người nhận ra được là họ căng thẳng thế nào và sự căng thẳng này đang phá hỏng những thứ
dành cho họ như thế nào.

Căng thẳng đã phát sinh như thế nào lúc ban đầu? Trước tiên, bạn phải nhận thấy căng thẳng là cần
thiết trong một số điều kiện nhất định. Nếu bạn đang ở trong tình huống nguy hiểm, phản ứng tự
nhiên là căng các cơ lên; toàn bộ cơ chế vật chất nơi bạn sẽ khởi động để chuẩn bị chạy trốn hoặc
đánh nhau. Những phản ứng này là công cụ để sinh tồn và quá trình làm căng các cơ bắp cùng với
những thay đổi vật chất trong toàn bộ cơ thể là cần thiết trong những điều kiện đặc biệt.

Nhưng đây chính là chỗ của tình trạng rắc rối. Bạn không thể hoàn toàn xả hết được căng thẳng; bạn

9 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

nhận thấy mình luôn luôn căng thẳng, kể cả khi không có lý do gì.

Do đó, bạn thấy rằng mặc dù sự căng thẳng hữu ích trong một số điều kiện nào đó, nhưng không cần
thiết trong suốt 24 giờ một ngày và 7 ngày một tuần.

Trước khi đi tiếp, chúng ta phải tự hỏi: căng thẳng nghĩa là gì? Chúng ta biết rằng khi nói đến sự căng
cơ, chúng ta đề cập đến tình trạng một số cơ bị co lại một phần và thần kinh điều khiển chúng sẵn
sàng làm cho chúng co rút hơn nữa khi có dấu hiệu khẩn cấp.

Nhưng căng thẳng tinh thần nghĩa là gì? Tâm trí chúng ta điều khiển các dây thần kinh dẫn đến các
cơ, cho nên nếu những dây thần kinh đó luôn ở trong tình trạng sẵn sàng là vì tâm trí chúng ta đang
hành xử như thể không ngừng chờ đón tình trạng khẩn cấp bất ngờ xảy ra.

Tâm trí bạn ở trong tình trạng cảnh giác là do sự lo lắng, oán giận hoặc muốn tự khẳng định. Trong
một số tình huống thì sự cảnh giác này là đáng khen ngợi và hữu ích, nhưng khi kéo dài thì nói chung
nó sẽ trở nên vô nghĩa, không có mục đích và – điều tồi tệ nhất – nằm ngoài sự kiểm soát trực tiếp
của ý thức. Nó được điều khiển từ tầng tâm trí không tiếp cận được với ý thức chứ không phải bởi
chức năng ý thức cao hơn của tâm trí bạn.

Những nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự căng thẳng bên trong bạn nằm ở thế giới bên ngoài, điều này
đúng; chúng ở nhu cầu mưu sinh, những nghĩa vụ gia đình, những nhu cầu buộc bạn phải cạnh tranh
để có uy tín; nhưng nguyên nhân thực sự lại ở chính bạn. Những nguyên nhân thực sự của sự căng
thẳng trước hết là ở sự lo lắng khi một điều gì đó bạn quý trọng đang bị đe doạ, thứ hai là ở sự oán
giận đối với những gì đe doạ thứ bạn quý trọng và lòng tự cao của bạn; và thứ ba là ở nhu cầu tự
khẳng định luôn thường trực trong cảm giác của bạn.

Hãy lần lượt xem xét ba nguyên nhân cơ bản dẫn đến căng thẳng này. Đầu tiên là sự lo lắng, điều này
nảy sinh khi bất kỳ một điều gì bạn quý trọng bị đe doạ. Bạn càng ao ước nhiều thứ thì bạn càng dễ bị
tổn thương bởi sự tấn công của lo lắng bồn chồn. Trong khi sự lo lắng bồn chồn liên quan đến nhiều
yếu tố cảm xúc khác nhau, mối quan tâm lo lắng đến hạnh phúc của bản thân hay của những người
gần gũi và những thứ bạn sở hữu là cơ sở chính của sự lo lắng. Theo tâm lý học Phật giáo thì mối
quan tâm lo lắng này xuất phát từ mong ước quá nhiều cho bản thân, nó không chỉ bao gồm những
biểu hiện mạnh mẽ của lòng khát khao như tham lam và keo kiệt mà bao gồm cả những hình thức
khác ít rõ ràng hơn.

Yếu tố tinh thần cơ bản thứ hai gây ra căng thẳng là lòng oán giận. Bởi vì trong suốt cuộc đời, một
người bình thường gặp phải quá nhiều sự bực mình và thất vọng, người ấy sinh ra ác cảm với những
thứ và những người có vẻ như đã gây ra chúng.

Theo quy luật chung, vì sự ác cảm này – biểu hiện nhẹ hay nặng- không được biểu hiện đầy đủ hoặc
giải quyết hoàn toàn nên vẫn bị kìm nén và nung nấu dưới dạng sự oán giận.

Nguyên nhân tinh thần cơ bản thứ ba dẫn đến căng thẳng là nhu cầu sai lầm mà bạn cảm thấy phải
liên tục tự khẳng định, giành và giữ uy tín, duy trì cảm giác tự cao thậm chí phải tự dối mình. Bạn có
thể dễ dàng nhìn thấy điều đó ở người khác khi nó thể hiện dưới những hình thức rõ ràng, nhưng lúc
nó tồn tại bên trong bản thân mình thì hiếm khi bạn ý thức được nó. Trong tâm lý học Phật giáo, điều
này được gọi là ảo tưởng (si) bởi vì cái tôi mà bạn luôn khẳng định đó là không thật có nếu hiểu theo
nghĩa rốt ráo tận cùng, và tất cả những khuynh hướng tự khẳng định (cũng như cảm giác tự tôn và tự
ti) đều là thành phần của sự ảo tưởng đã bén rễ sâu xa này.

Do đó chúng ta thấy rằng theo giáo lý của Đức Phật, tất cả bất hạnh tinh thần đều bắt nguồn từ mong

10 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

ước mình là trung tâm, từ ác cảm và ảo tưởng (tham, sân, si). Ở đây khi chúng ta đang xem xét chúng
như là những yếu tố gây ra căng thẳng, lòng mong ước (tham) được biểu hiện thành sự lo lắng, sự
ghét bỏ (sân) được biểu hiện thành sự oán giận, ảo tưởng (si) được biểu hiện thành sự tự khẳng định.

Vậy thì trước khi bạn tự hiểu được bản thân, bạn sẽ không ý thức được hoàn toàn những nguyên nhân
thật sự của những lo lắng của mình, bạn sẽ không ý thức được hoàn toàn sự oán giận trong lòng bạn,
và bạn cũng không thực sự hiểu mức độ tự khẳng định của chính bạn. Do đó, bạn không có khả năng
giải quyết đúng đắn sự căng thẳng không mong muốn.

Sự căng thẳng biểu lộ trong cơ thể cũng như trong tâm trí. Do đó, yêu cầu giải quyết vấn đề căng
thẳng không chỉ ở cấp độ cao của tâm trí mà cả ở cấp độ thấp hơn của cơ thể, đặc biệt là ở những cơ
bắp chịu sự điều khiển của ý chí.

Một bài tập trong Phật giáo có tên chánh niệm về các tư thế (niệm thân) có thể dễ dàng áp dụng để
thư giãn cơ thể. Căn bản của bài tập ứng dụng chánh niệm các tư thế này là chú ý đặc biệt đến các
nhóm cơ khác nhau của cơ thể, tìm kiếm sự căng thẳng không mong muốn ở các cơ bắp và thư giãn
chúng một cách có ý thức. Bạn có thể thực hành chánh niệm về các tư thế để thư giãn bất cứ khi nào
tâm trí không bị bận rộn bởi những mối quan tâm khác, nhưng có lẽ thời gian tốt nhất là mỗi buổi tối
trước khi đi ngủ.

Sau khi đã chọn một tư thế thoải mái, bạn hãy để trọng tâm ý thức di chuyển chầm chậm vài lần từ
bên này sang bên kia trán và lông mày của bạn, trong tâm giữ ý nghĩ là bạn muốn các cơ liên quan
thư giãn hoặc trở nên mềm mại chứ không căng thẳng. Bạn có thể tăng hiệu quả bằng cách nhẩm
thầm trong óc “thư giãn, thư giãn" trong quá trình thực hành.

Lúc đầu bạn có thể không nhận thấy sự căng thẳng trên trán hay lông mày vì có thể nó đã thành quen
nên bạn cảm thấy hoàn toàn bình thường. Thậm chí nếu như vậy, việc lặng lẽ áp dụng ý thức đối với
các cơ sẽ có tác dụng rất lớn dẫn đến xoá hết mọi căng thẳng tồn tại ở đó.

Sau đó bạn đưa tâm điểm ý thức di chuyển trên bề mặt và vòng quanh một mắt, xuyên qua mí mắt,
sau đó ra đằng sau con mắt nơi có rất nhiều cơ nhạy bén. Sau đó bạn chuyển chú ý sang mắt bên kia,
chuyển vòng quanh, ngang qua và đằng sau mắt.

Sự căng thẳng thường thấy rõ ở vùng miệng và hàm hơn ở bất kỳ nơi nào khác. Do đó khi bạn chuyển
tâm điểm ý thức sang vùng miệng và hàm, bạn có thể ý thức rõ ràng sự cẳng thẳng thể hiện ở hàm
răng cắn chặt và miệng mím chặt. Bạn dần dần tăng sự tỉnh thức đối với những cơ được quan tâm và
ý tưởng thư giãn mà bạn luôn giữ trong đầu sẽ khiến sự căng thẳng biến mất hoặc ít ra cũng giảm đi.

Bây giờ bạn hãy chú ý ở mức độ như vậy với lưỡi, thư giãn nó hết mức bạn có thể, khiến cho nó trở
nên càng mềm càng tốt. Có thể sẽ cần mất thời gian với miệng, hàm và lưỡi nhiều hơn với những bộ
phận khác của cơ thể.

Tiếp đó bạn có thể chuyển sự chú ý xuống cổ, di chuyển xoáy trôn ốc vòng quanh, lên và xuống vài
lần. Sau đó bạn làm tương tự với các cơ ở vai.

Từ vai bạn đưa tâm điểm ý thức xuống một cánh tay, xung quanh và dọc xuống cánh tay và tìm kiếm
những cơ bị căng thẳng. Khi bạn tiến đến bàn tay, tốt nhất là chú ý đến mu bàn tay và sau đó đến
từng ngón tay, cố gắng ý thức riêng từng thứ.

Sau đó bạn chuyển sự chú ý xuống đùi của cùng nửa người bên đó, xoáy xung quanh xuống đầu gối,
xuống bắp chân và bàn chân.

11 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Từ đó bạn có thể chuyển sang bàn chân bên kia, chuyển vòng tròn xung quanh lên bắp chân và đùi,
lên bàn tay. Phần lớn chúng ta không cần mất nhiều thời gian với các cơ ở chân và bàn chân vì sự
căng thẳng thường không xuất hiện nhiều ở những chỗ đó như ở các nhóm cơ khác.

Tuy nhiên với bàn tay thì khác vì ở đây có lẽ thường căng thẳng đáng kể. Hình thức cực đoạn của nó
có thể được thể hiện bằng bàn tay nắm chặt.

Do đó, sau khi trọng tâm của sự chú ý đã di chuyển một vòng xuống chân và lên chân bên kia, khi nó
tiến đến bàn tay bên kia, bạn nên khôn ngoan giảm tốc độ chuyển động của ý thức để tập trung vào
từng ngón tay riêng lẻ như lúc trước, tập trung vào mu bàn tay, cổ tay, di chuyển sự chú ý xoáy trôn
ốc xung quanh cánh tay lên vai.

Bây giờ bạn đã di chuyển được một vòng quanh cơ thể từ đầu xuống một bên cánh tay và một bên
chân, bàn chân và ngược lại từ bàn chân, chân và lên cánh tay bên kia. Vẫn còn cơ ngực và cơ bụng
chưa được thư giãn. Do đó bạn chuyển sự chú ý tập trung vào cảm giác ở phần trên của ngực, chuyển
sự chú ý qua ngực vòng qua sau lưng, rồi lại qua trước ngực, xoáy vòng tròn trôn ốc xuống dưới cho
đến khi tới cơ bụng.

Đến đây là hoàn thành bài tập cơ bản áp dụng chánh niệm về các tư thế để thư giãn cơ và thần kinh.
Bạn có thể thay đổi, rút ngắn hoặc kéo dài nó tuỳ theo nhu cầu và điều kiện của bạn, nhưng dù dưới
hình thức nào thì bài tập vừa được mô tả này là một cơ sở tốt để loại bỏ sự căng thẳng của cơ thể và
ở một mức độ nào đó cũng làm giảm căng thẳng thần kinh.

Ngoài đạo Phật ra bạn sẽ thấy rằng các phương pháp thư giãn của phương Đông và phương Tây đều
áp dụng những kỹ thuật về cơ bản giống với phương pháp này.

Thường thì nằm là hình thức tập được coi là tốt nhất, không nằm trên giường mà trên sàn nhà, nằm
ngửa trên mặt phẳng, cánh tay duỗi để thoải mái hai bên mình, vì sàn nhà cứng cho phép bạn nhận ra
những cơ bị căng dễ hơn là chiếc giường mềm. Lý do duy nhất mà phương pháp thư giãn cơ này được
mô tả tập trên giường chứ không trên sàn nhà là vì hầu hết chúng ta đều bận bịu cả ngày với những
thứ khác nên chỉ đến khi đi ngủ chúng ta mới có thời gian để tập.

Mặc dù việc áp dụng ý thức một cách có chánh niệm và có hệ thống đối với các cơ căng thẳng nhìn
chung có tác dụng làm thư giãn chúng, có thể không lâu sau đó chúng trở lại căng thẳng. Khi đó, việc
bạn phải làm là thực hiện một cách có ý thức những gì bạn đã làm bấy lâu này bằng tiềm thức. Bạn
phải làm căng các cơ một cách có chủ tâm và có ý thức để tiến trình căng cứng này có thể tiếp cận
được với ý thức và đưa nó ra khỏi lĩnh vực hoạt động của tiềm thức.

Do đó, bạn tiến hành làm căng cứng các cơ được quan tâm, đồng thời, chánh niệm cảm nhận cảm
giác căng cứng và sau đó từ từ giải toả sự căng cứng, luôn luôn chú ý đến cảm giác căng cứng giảm đi
và thư giãn tăng lên. Bằng cách thức đó, phương diện ý thức của tâm trí dần dần tiếp quản các chức
năng mà cho đến nay vẫn bị kiểm soát bởi tiềm thức.

Bắt đầu với trán và lông mày, bạn cố ý cau mày và thong thả thư giãn. Sau đó bạn cố ý mở to hai mắt
và không nhìn vào vật gì, rồi thong thả nhắm mắt lại và thả lỏng các cơ quanh mắt. Bạn xiết chặt răng
và sau đó từ từ thả lỏng quai hàm bằng cách chú tâm tới các cơ mặt của mình, đặc biệt các cơ xung
quanh miệng. Tương tự bạn kéo căng và thả lỏng lưỡi của mình. Khi tập tới cổ, bạn làm nó căng lên,

12 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

đưa đầu căng về phía trước, về phía sau, và từ bên này sang bên kia một chút, sau đó từ từ để nó trở
nên mềm mại tới mức có thể. Khi đó bạn uốn cong hai vai về phía trước, kéo căng về phía sau và sau
đó từ từ thả lỏng chúng. Và tiếp tục như thế với các nhóm cơ khác.

Có thể bạn phải tiến hành hoán đổi sự co cứng và thả lỏng một nhóm cơ như trên nhiều lần trong một
buổi tập trước khi nó trở nên có hiệu quả. Đôi khi, trong giai đoạn đầu học kỹ thuật thư giãn, tốt hơn
là thỉnh thoảng dành cả buổi tập cho một nhóm cơ duy nhất.

Trong phương pháp này, công cụ suy nghĩ thành tiếng thầm trong đầu rất hữu ích. Khi sử dụng công
cụ này, bạn nhắc đi nhắc lại thầm trong óc tên của bộ phận cơ thể có các cơ được chú tâm tới và
cũng nói thầm trong óc với mình khi co cứng cũng như khi thả lỏng chúng. Bạn có thể nói thầm trong
óc như thế này: "Quai hàm … căng … giãn. Má … căng … giãn. Miệng … căng … giãn." Quá trình
ngôn ngữ hóa này giúp ngăn giữ các dòng suy nghĩ không mong muốn ở lại bên ngoài.

Có một phương pháp (không có nguồn gốc Phật giáo) giúp giảm nhẹ sự căng thẳng tinh thần bằng
việc hình dung về các vật thể hoặc hình thù màu đen. Suy nghĩ về màu đen thường là cái gần nhất để
bạn có thể tiến đến không suy nghĩ về cái gì và do vậy tiến đến loại trừ những suy nghĩ phiền muộn
hoặc không mong muốn.

Không có gì khác nhau lắm về loại hình ảnh màu đen mà bạn mường tượng; bạn có thể tưởng tượng
một cái đĩa đen, và bạn có thể làm cho cái đĩa đó lớn dần lên, hoặc bạn có thể để nó thay đổi thành
hình bát giác, hình vuông, và hình tam giác. Hoặc nữa, bạn có thể tưởng tượng rằng bạn đang quét
sơn đen mọi vật trong phòng, hết lớp này đến lớp khác.

Chừng nào màu đen là ý tưởng nổi trội nhất thì quá trình đó sẽ giúp cho việc thư giãn tinh thần.

Bài tập thực hành

Trong giai đoạn này công việc của bạn bao gồm việc tạo thực hành thư giãn thành một thói quen.
Kiên quyết thực hành mỗi tuần ít nhất 4 lần; hoặc – nếu bạn cảm thấy có nhu cầu đặc biệt – mỗi ngày
một lần. Nếu có thể, tốt hơn hết bạn tập khi nằm trên sàn, nếu không bạn có thể điều chỉnh để tập khi
nằm trên giường trước khi ngủ buổi tối. Hãy thử dành 10 hoặc 20 phút cho mục đích này.

Hãy dùng phương pháp kỷ luật tự giác tự giao ước và bắt mình phải chịu một hình phạt nho nhỏ mỗi
khi không giữ được quyết tâm.

-ooOoo-

Tháng thứ hai

Các nguyên tắc cơ bản của sự hiểu biết bản thân

Chắc chắn bạn sẽ đồng ý rằng một trong những điều quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của
mình là sự hiểu biết bản thân. Bạn cũng sẽ đồng ý rằng đại đa số chúng ta hiểu về mình quá ít và do
đó cần một loại tập luyện nào đó để hiểu biết bản thân. Và hơn nữa, bạn sẽ nhận thấy rằng tất cả
chúng ta đều có xu hướng tự nhiên và cố hữu là tự dối mình.

Hình như mỗi chúng ta theo cách thường tình đều có “ý thức về bản ngã", một niềm tin không hợp lý
rằng ta là một bản ngã hoặc cái tôi riêng biệt, độc nhất và tách rời khỏi phần còn lại của đời sống.

13 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Trong một số trường hợp, bạn nhận thấy một người có ý thức về bản ngã mạnh mẽ tới mức anh ta
thấy cần thiết bằng mọi giá cảm nhận sự đúng đắn của mọi việc anh ta làm, mọi điều anh ta nói, cũng
như sự đúng đắn của mọi cái anh ta sở hữu. Khi anh ta có thể cảm thấy sự đúng đắn đó (và phần
nhiều đó là sự đúng đắn không thật), lúc ấy anh ta cảm thấy hợm hĩnh. Khi anh ta không thể cảm
nhận sự đúng đắn đó, anh ta cảm thấy thua kém và không xứng; và như vậy anh ta nhiễm các loại
khuynh hướng phức cảm và loạn thần kinh.

Vì nhu cầu sai lầm về cảm nhận sự đúng đắn không thật đó, anh ta phải liên tục tự dối mình theo
nhiều cách tinh vi khác nhau; anh ta phải nguỵ tạo với mình rằng các động cơ của anh ta là tốt hơn so
với thực tế và anh ta phải trấn áp tất cả mọi sự hiểu biết không mong muốn về bản thân và về mọi
điều thuộc về anh ta.

Tất cả cái đó chỉ nhằm giữ cho ý thức bản ngã của anh ta nguyên vẹn.

Mặt khác, lại có những người đã thành thực học được cách thừa nhận những khiếm khuyết của mình
và cũng thành thực đánh giá các đức hạnh của mình. Số ít người này đã có tiến bộ nhất định trong
việc tự hiểu biết bản thân.

Tuy nhiên, đại đa số chúng ta đứng ở đâu đó giữa hai thái cực ấy. Trong khi chúng ta không hoàn
toàn thoát khỏi sự tự dối mình, chúng ta vẫn chưa đạt tới sự hoàn toàn tự hiểu biết; vì vậy chúng ta
cần khai thác và thực hành một số loại kỹ thuật tâm lý học nhất định hướng tới tăng cường sự tự hiểu
biết.

Một trong những khó khăn mà chúng ta nhận thấy là chúng ta ấp ủ một số tình yêu thương và lòng
căm ghét phi lý; chúng ta bám lấy các thiên kiến cảm xúc và cố gắng để không mất các phức cảm của
mình. Bởi vì chúng ta đã lớn lên cùng với chúng, trở nên gắn bó với chúng. Bằng cách này hay cách
khác, những tình yêu thương và lòng căm ghét vô lý này, thiên kiến và phức cảm ấy hình như dựng
nên được một hàng rào ngăn cách với điều gì đó mà chúng ta không thích phải đối diện. Hàng rào đó
được gọi là "nỗi sợ được khai sáng”.

Nỗi sợ được khai sáng này được thấy ở mức độ lớn hay nhỏ trong tất cả chúng ta ngoại trừ một số ít
người đã đạt tới trình độ thành thực đáng kể với bản thân. Như vậy có lẽ là, cùng với đa số người
khác, bạn có xu hướng chống lại quá trình phân tích bản thân bởi vì nó đòi hỏi bạn buông bỏ các điều
sai trái được quí trọng đó. Bạn kháng cự quá trình thoát khỏi cái mạng rối rắm của sự dính mắc đó.

Tại sao lại như vậy? Tại sao bạn thích tự dối mình hơn tự hiểu biêt mình? Những điều vô lý đó không
chỉ đưa đến cho bạn hàng rào ngăn cách với các yếu tố tinh thần mà bạn không muốn đối diện, mà
chúng cũng mang lại cho bạn một kiểu tính cách cá nhân, một loại nét độc đáo giúp cho bạn hình
thành ý thức là mình khác biệt với những người khác.

Một lý do khác là bạn muốn giữ nguyên vẹn tất cả các khái niệm liên quan tới mọi điều bạn yêu mến.
Nếu bạn đưa bất kỳ một trong những khái niệm mang nặng cảm xúc của bạn ra cho sự phân tích bản
thân khảo sát kỹ lưỡng, bạn có thể phải sửa đổi nó, và khi sửa đổi có thể bạn cần phải nỗ lực. Sẽ thoải
mái hơn nhiều khi cứ để mọi thứ nguyên như vậy.

Với những điều bạn căm ghét hoặc không thích cũng gần như y hệt; nếu bạn đưa các khái niệm của
bạn về những điều ấy ra ánh sáng trong trẻo mạnh mẽ của sự tự vấn, có thể bạn phải chứng minh rằng
bạn sai, và từ bỏ hận thù và căm ghét đòi hỏi rất nhiều sự điều chỉnh. Lại nữa, cứ để mọi thứ nguyên
như hiện trạng thì dễ chịu hơn.

14 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Sự tự phân tích đôi khi có thế tạm thời rất đau đớn. Vậy thì giá trị của tất cả cái đó là gì? Nếu bạn có
thể thực là sung sướng khi không tự hiểu biết bản thân, vậy tại sao phải bận tâm?

Tất nhiên, điều này giống như nói rằng vì bạn hoàn toàn dễ chịu ở trong hang tối của mình, vậy tại
sao lại lo lắng xây ngôi nhà có các cửa sổ? Một khi tâm trí của bạn đã được xác lập vững chắc theo
thói quen, xu hướng chung của nhận thức trở nên kém nhạy bén và toàn bộ trạng thái tâm lý của bạn
trở nên kém thích ứng hơn. Nó có khuynh hướng trở nên lờ phờ và kháng lại sự thay đổi.

Khi đó bạn suy nghĩ xúc cảm hơn – nghĩa là, nhiều chủ quan hơn và ít khách quan hơn. Bạn trở nên
bối rối bởi ít nguyên do hơn, óc suy xét của bạn rất giống như bị sút kém, bạn thường hay bị mất tự
chủ hơn, và sự tự kiểm soát của bạn dễ bị sụp đổ. Tất cả xảy ra khi bạn thích thú tự không hiểu biết
hơn tự hiểu biết bản thân.

Vậy thì cái gì là cần để phá tan sự tự dối mình và tăng hiểu biết bản thân? Đạo Phật đưa ra nguyên lý
của chánh niệm.

Bạn sẽ nhận thấy nguyên lý chánh niệm này theo khái niệm thông thường của nó là khá đơn giản; về
cơ bản đây là việc phát triển hoặc trau dồi khả năng chú ý bình thường không đặc biệt; nó được áp
dụng cho nhiều lĩnh vực kinh nghiệm khác nhau, nhưng đặc biệt nó cần hướng vào nội tâm. Theo ý
nghĩa này, chánh niệm có thể được mô tả chủ yếu như tự quan sát mình.

Trong khi theo khái niệm thông thường, nó khá đơn giản là việc trau dồi sự chú ý thì các lĩnh vực trải
nghiệm mà bạn có thể áp dụng chánh niệm nhiều tới mức toàn bộ phạm vi hoạt động của chánh niệm
rất toàn diện.

Ví dụ, các hoạt động thông thường hàng ngày – như là các hoạt động thuộc công việc, đời sống gia
đình, và lúc rảnh rỗi – cung cấp một quy mô rộng rãi cho sự tăng cường tự hiểu biết. Còn về các hành
động thông thường của bạn, phương pháp Phật giáo nói rõ rằng bạn cần phải có sự hiểu biết rõ ràng
về các động cơ và mục đích của mình. Không có sự hiểu biết rõ ràng đó, bạn có thể cuốn vào dòng
trôi dạt thiếu suy nghĩ.

Tất nhiên, bạn biết các động cơ của mình đằng sau nhiều việc làm. Nhưng có thể với một số việc
khác thì bạn làm chỉ vì những người khác làm. Nếu vậy, khi tự vấn, bạn sẽ thấy rằng bạn làm những
việc đó phần lớn để được sự hoan nghênh của những người bạn giao kết. Tâm trí cảm thấy cần duy trì
cảm giác quan trọng và vượt trội và để giữ cho cảm giác quan trọng và vượt trội này nguyên vẹn, nó
phải tận dụng sự tự dối mình dưới các hình thức khác nhau. Và để khám phá những động cơ thực sự
của mình, bạn phải học cách xuyên thủng sự tự dối mình đó. Khi ấy, sự hiểu biểt rõ ràng về động cơ
là một trong những phương diện chính của sự tự hiểu biết.

Có thể là bạn có sự hiểu biết rõ ràng về động cơ chung trong cuộc sống của mình, về mục đích cuối
cùng của mình, hoặc có thể là bạn không có ý thức về mục đích và hoàn toàn chẳng có mục tiêu cuối
cùng; nhưng một ý thức nào đó về mục tiêu là cần thiết cho sự tiến bộ. Chánh niệm dưới hình thức tự
quan sát là một bước tiến trong quá trình đạt tới một mục đích trong cuộc sống và trở nên ý thức
được mục đích đó là gì.

Giống như toàn thể loài người nói chung, bạn kế thừa một mớ hỗn độn cảm xúc, một sự tăng trưởng
dồi dào và lộn xộn của lòng tham và sân hận tồn tại bên cạnh các thiên hướng cao thượng hơn. Cố
gắng tảng lờ các yếu tố xấu xa trong tâm trí là khuynh hướng tự nhiên – dù là tâm lý nghèo nàn- và
đây là cách nảy sinh của sự tự dối mình.

15 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Trong các giai đoạn đầu của nó, sự tự dối là sự từ chối thừa nhận các yếu tố xấu xa của tâm trí;
nhưng ở một giai đoạn tiến xa hơn, nó có thể trở thành sự bất lực hoàn toàn – hơn sự từ chối có ý
thức rất nhiều – trong việc nhìn nhận chúng. Đôi khi tâm lừa gạt chính mình để giữ nguyên vẹn cảm
giác về tính đúng đắn và ưu việt, và các thủ đoạn đó giúp cho việc che giấu các động cơ và mong
muốn thực của nó.

Đôi khi tâm bóp méo và làm biến dạng những ý nghĩa của các kinh nghiệm; nó tránh các ý nghĩ làm
nó khó chịu và phơi bày bản chất của nó ra ánh sáng bất lợi, và nó đánh lạc hướng sự chú ý của mình
từ các ý nghĩ không mong muốn sang các ý nghĩ mang các khía cạnh dễ chịu hơn cho nó.

Tâm lý học biết những thủ đoạn này như các cơ chế tinh thần, ví dụ như cơ chế tránh né, làm trệch
hướng, và cố định lại.

Một khía cạnh khác của sự tự quan sát có liên quan tới các cảm giác khi chúng được tiếp nhận thông
qua các giác quan khác nhau và khi chúng được nhận thức trong tâm đặc biệt về nội dung vui sướng
– khổ đau. Vấn đề về cảm giác trong mối liên quan với nội dung vui sướng – khổ đau của nó là sự
dính mắc bắt nguồn ở chính cấp độ này và sự dính mắc là nguyên nhân chủ yếu của bất hạnh. Tất cả
sự vật trên thế giới thay đổi; tất cả nảy sinh và mất đi; và bạn gắn bó với bất kỳ cái gì càng nhiều, bạn
càng đau khổ hơn khi mất nó. Vì thế, để kiểm soát sự dính mắc, bạn phải canh chừng trước cửa của
cảm giác. Khi bạn trở nên nhận thức có phê phán nhiều hơn đối với tất cả kinh nghiệm của mình ở
cấp độ cảm giác, bạn học được cách ngăn chặn sự kiểm soát của khoái lạc trong cảm giác này và của
đau đớn trong cảm giác khác. Nghĩa là, thay vì bị những khoái lạc và đau đớn kiểm soát, bạn học
được cách trải qua chúng mà không bị chúng quét đi. Khi bạn để cho những khoái lạc và đau đớn ở
cấp độ cảm giác chế ngự, đó chính là lúc bạn bị những xúc cảm dễ chịu và đau đớn quét đi; và lúc ấy
bạn bị vướng mắc hoàn toàn trong mạng lưới của sự dính mắc. Lúc đó bạn không thể lập luận khách
quan và quyết đoán thông minh.

Lúc ấy, bạn có thể thấy rằng đáng mong muốn tập luyện mình để giữ sự canh chừng có phê phán về
tất cả các kinh nghiệm của mình ở cấp độ cảm giác, và kịp thời đánh giá có phê phán niềm vui sướng
và những khổ đau ở cấp độ ấy. Khi đó, bạn có thể mở rộng sự tự quan sát khách quan đến các yếu tố
bắt đầu hình thành trạng thái tinh thần của bạn.

Theo học thuyết Phật giáo, có ba yếu tố tinh thần căn bản trì hoãn sự tiến bộ của tâm. Một trong các
yếu tố đó được gọi là mong muốn ích kỷ. Nó tồn tại dưới các hình thức khác nhau như lòng tham và
ham muốn chiếm hữu, và một mặt nó có thể dữ dội hoặc mặt khác nó ôn hoà và kín đáo. Yếu tố tiếp
theo là sự ác cảm mà ta thấy cả trong cái vỏ tức giận, căm thù, oán giận và cáu kỉnh. Và cái thứ ba
được gọi là ảo tưởng; nó cũng xuất hiện dưới các hình thức khác nhau, về nguyên tắc như là sự tự
khẳng định và sự tự dối mình.

Sự quan sát trạng thái tinh thần là một hình thức của chánh niệm mà mục tiêu của nó là soi chiếu ánh
sáng chói lọi của ý thức vào "những gốc rễ của cái xấu" đó, như chúng được gọi như thế, và vào tất
cả các yếu tố tinh thần bắt nguồn từ chúng và có quan hệ với chúng. Những yếu tố đó không chỉ bao
gồm tính đố kỵ, tự cao tự đại và keo kiệt mà còn cả tâm cứng nhắc, sự hối tiếc không lành mạnh, và
áy náy hoặc lo âu.

Khi nhờ tự xem xét bản thân, bạn trở nên nhận thức được các khuynh hướng có hại đó, dĩ nhiên bạn
có nhiều khả năng xử lý chúng hơn và bản thân sự nhận thức rõ rằng chúng tồn tại sẽ luôn hoạt động
như một yếu tố kiểm soát.

Tuy nhiên, điều đáng mong muốn là phát hiện và khám phá không những các yếu tố tinh thần bất lợi

16 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

và trì trệ của bạn mà còn cả những phẩm chất tốt nữa, bởi vì những cái đó cần được nuôi dưỡng và
phát triển như là các công cụ của tiến bộ.

Tiếp theo, bạn có thể thấy nguyên tắc chánh niệm có thể có ích đối với bạn theo nhiều cách khác
nhau; có thể giúp bạn tránh được các cạm bẫy do các khoái lạc và đau đớn của chính mình gài đặt
mình và có thể giúp bạn đánh giá sự tiến bộ của mình trong việc đập tan các yếu tố trì trệ trong tâm
và trong việc phát triển các yếu tố tiến bộ.

Mặc dù phát triển theo những đường hướng này chủ yếu là vấn đề tự quan sát, và trong khi đây là
điều quan trọng tột bậc, nó rất có thể được bổ sung bằng sự quan sát hướng ra bên ngoài. Nói một
cách khác, sự quan sát những người khác, cùng với sự hiểu biết thu được từ sự quan sát đó, có thể có
giá trị to lớn trong công việc tự quan sát bản thân.

Thật ra là điều này tác động hai chiều; khi bạn quan sát cách cư xử của bản thân mình và nghiên cứu
để biết rõ hơn các động cơ của chính mình, bạn thấy cách cư xử đó phản ánh ở những người khác, và
những động cơ của họ trở nên rõ rệt hơn đối với bạn. Cũng theo cách đó, khi bạn nghiên cứu để lý
giải cách cư xử của những người khác về mặt động cơ của họ (đôi khi chính họ không thấy), thì các
động cơ của chính bản thân bạn trở nên rõ rệt hơn đối với bạn.

Như vậy, bạn thấy rằng phương pháp tiếp cận Phật giáo đối với sự tự hiểu biết bản thân là bằng cách
chánh niệm, chủ yếu hướng vào bên trong và thứ đến hướng ra bên ngoài; hoặc nói cách khác bằng
cách quan sát có phê phán bản thân mình và quan sát một cách sâu sắc nhưng tử tế những người
khác.

Bài tập thực hành


Thực hành chánh niệm hướng vào bên trong
Trong khi người có tinh thần hướng ngoại hướng sự chú ý của mình chủ yếu vào thế giới xung quanh
bên ngoài, người hướng nội có xu hướng sao lãng sự quan sát khách quan này đối với thế giới bên
ngoài. Anh ta quan tâm không nhiều tới cái đang diễn ra mà tới các phản ứng xúc cảm của bản thân
anh ta cũng như những điều bản thân anh ta ưa và ghét về những gì đang diễn ra.

Hình thức hướng nội này mang theo nó suy nghĩ chủ quan, và khi bị dẫn tới cực đoan thì trở thành
bệnh lý. Việc suy nghĩ khách quan với sự đánh giá rõ ràng các sự vật và điều kiện trở nên không thể
được khi suy nghĩ xúc cảm loại này tiếp tục.

Bây giờ xét theo quan điểm này, có vẻ lạ lùng rằng Phật giáo khuyên bảo một thứ hướng nội – một
"sự quay vào bên trong" – một phần của kỹ thuật chánh niệm; nhưng nó là loại hướng nội hoàn toàn
khác hẳn. Nó là quá trình trong đó tâm được tập luyện để quay vào bên trong bản thân nó, nhưng
theo một cách khách quan thay vì theo cách xúc cảm của kiểu hướng nội kia.

Vì vậy, bài tập thực hành của bạn tháng này bao gồm sự định hình một thói quen tự quan sát khách
quan và không xúc cảm, tiếp nhận các tiến trình tâm như một tổng thể.

Trong các bài tập khác trong loạt bài này, bạn chọn ra các khuynh hướng trì trệ đặc biệt và quan sát
sự xuất hiện của chúng. Ví dụ, trong Tháng Thứ Ba bạn tìm sự đánh giá sai lầm, trong Tháng Thứ Sáu
tìm sự lo âu thái quá, và trong Tháng Thứ Bảy tìm tính dễ cáu và sự oán giận, còn trong Tháng Thứ
Tám bạn quan sát những khuynh hướng tự khẳng định.

17 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Tuy nhiên, trong tháng này công việc không phải là quan sát các yếu tố ngăn trở trì trệ cụ thể mà
đúng hơn là vấn đề quan sát một loại chủ quan của tư duy bị các thiên kiến và định kiến xúc cảm chi
phối. Nó là một quá trình thay thế loại hướng nội này bằng loại hướng nội khác, thay thế suy nghĩ xúc
cảm bằng sự tự phân tích.

Cho rằng bạn đang làm việc trên cơ sở tự giao ước, cuối mỗi ngày, hoặc vào thời gian thuận tiện, bạn
có thể nghĩ lại để xem các khuynh hướng hướng nội của bạn đã mang hình thái xây dựng và phân tích
hay chưa, hay là bạn đã tự cho phép bản thân trở nên bị xúc cảm chi phối. Khi đó bạn có thể làm cho
sự tự giao ước của mình có hiệu lực một cách thích hợp.

-ooOoo-

Tháng thứ ba

Quá trình đánh giá lại


Nếu hồi tưởng lại, chắc hẳn bạn sẽ thấy rằng nhiều giá trị hiện nay bạn dành cho các sự vật đã được
xác lập ít nhất một phần bởi các ảnh hưởng bên ngoài; ví dụ bởi cha mẹ, bởi thầy cô giáo, và bởi sách
vở bạn được đọc trong những năm trước đây. Thêm vào những cái đó là những cuộc tiêu khiển mà
bạn đã thưởng thức khi đó và cả bây giờ, những ý kiến của bạn bè và những tiếng kèn quảng cáo om
sòm dữ dội và liên tục. Như vậy rất ít suy nghĩ của bạn là thực sự của chính mình.

Do kết quả của tất cả điều đó, bạn bị chất nặng nhiều sự đánh giá sai lầm, những sự đánh giá không
phải của bản thân bạn bởi vì bạn đến với chúng không bằng quá trình suy nghĩ độc lập. Chúng có thể
là những sự đánh giá tốt theo nghĩa này hay nghĩa khác, hoặc chúng có thể không tốt, nhưng nó đã
được áp đặt cho bạn từ bên ngoài và không được phát triển bên trong bạn bởi tư duy của bản thân
bạn.

Để tìm hiểu sự đánh giá của bản thân bạn, và để thoát khỏi chúng ở nơi đáng mong muốn – dĩ nhiên
giả thiết rằng có sự cần thiết làm như thế – bạn cần nỗ lực chánh niệm một cách bền vững.

Công việc đầu tiên của chánh niệm về khía cạnh này là làm cho bạn nhận thức được những đánh giá
sai lầm của mình, để giúp bạn nhận thức rõ cái gì là giá trị chân thực và cái gì là gánh nặng tinh thần
vô ích. Trong khi giữ vững việc nhận rõ những giá trị sai lầm, những sự đánh giá mới về sự vật có xu
hướng diễn ra như một quá trình tự nhiên.

Bạn sẽ đồng ý rằng cái mà bạn đánh giá cao nhất sẽ quyết định phần lớn cái bạn phấn đấu hăng hái
nhất và ngược lại, cái bạn phấn đấu hăng hái nhất là sự biểu lộ của cái mà bạn đánh giá cao nhất.

Cái tâm trẻ con đi tới niềm tin và ý kiến của nó bởi bắt chước những người khác, hoặc là bởi tác động
của quyền uy (và thường là quyền uy không đích thực), nhưng chỉ có cái tâm trưởng thành nhất mới
đánh giá sự vật bằng quá trình tư duy độc lập.

Cũng theo cách đó, trong khi tâm trẻ con hình thành các chuẩn mực giá trị của nó bằng những cân
nhắc nông cạn và tức thời, cái tâm trưởng thành nhìn nhận tất cả sự vật có tầm xa và đi sâu vào giá trị
tột cùng của sự vật, khác biệt với ấn tượng hiện thời của chúng.

Quá trình đánh giá lại là quá trình chậm chạp, vì đại đa số các lý tưởng của thế giới xung quanh ta
chạy ngược lại các giá trị thực mà chúng ta tìm kiếm.

Bạn sẽ thường nhận thấy rằng các ý kiến của những người xung quanh, nghĩa vụ của bạn đối với

18 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

những người phụ thuộc và nhu cầu thích ứng của bạn – ít nhất hướng ngoại – với các tiêu chuẩn của
những người khác, tất cả những điều đó hoạt động như những chướng ngại đối với quá trình nội tâm
chỉnh sửa thang giá trị của bạn. Bạn nhận thấy rằng bạn bị buộc phải tiêu phí thời gian bằng nhiều
cách cho những điều mà nếu phó mặc cho bạn chắc bạn sẽ cho rằng không quan trọng, trong khi đó
bạn có thể miễn cưỡng phải dành quá ít thời gian cho những điều có giá trị cơ bản to lớn hơn nhiều.

Bạn có thể thường bị dẫn giắt vào những lĩnh vực ít được biết đến và không có giá trị do nhu cầu kinh
tế hoặc sức ép xã hội; và thực tế đó nói chung bạn phải chấp nhận vì làm cho bạn thích nghi với thế
giới dễ hơn làm cho thế giới thích nghi với bạn. Cũng thường có một số hoạt động vô ích nào đó mà
bạn phải tiến hành để tìm kiếm sự kích thích hoặc nhằm cố gắng thoát ra khỏi sự buồn chán; và cũng
có những hoạt động, dù vô ích theo tiêu chuẩn cuối cùng, đôi khi có ích trong việc đem lại mục tiêu
tức thời. Nhưng khi các hoạt động và sở thích như vậy phát triển mất cân đối, chúng sẽ trì hoãn sự
tiến bộ của bạn đơn giản vì chúng tiêu thụ thời giờ và năng lượng.

Theo quan điểm Phật giáo, nhiều sự đánh giá sai lầm như thế nảy sinh từ lòng tham muốn, từ lòng
khát khao không ngừng về sự hài lòng cá nhân xuất phát từ vô minh. Với tham và vô minh nằm tại
gốc rễ của toàn bộ đời sống cá nhân, những sự đánh giá sai lầm là không thể tránh khỏi, và để đập tan
những sự đánh giá sai lầm ấy cần tấn công chúng ở cấp độ sâu hơn của tâm.

Mà theo ý nghĩa Phật giáo, vô minh cơ bản là không có khả năng hiểu biết bản chất thực sự của tồn
tại, hệt như mù loà không thuần tuý là sự không nhìn thấy mà là không có khả năng nhìn. Cái vô minh
cơ bản này rút cục được nhận ra là gốc rễ của tất cả khổ ải và toàn bộ con đường của Đức Phật là
một khoá tự tập luyện hướng tới hiểu biết, hiểu biết theo nghĩa đầy đủ nhất.

Nói cách khác, mục tiêu cuối cùng của con đường của Đức Phật là giác ngộ, là đập tan vô minh.

Một trong những đặc trưng của tồn tại, như giáo lý của Đức Phật nhấn mạnh là đặc tính vô thường.
Không cần tư duy sâu sắc để chỉ ra rằng tất cả sự vật nảy sinh, tồn tại dài hay ngắn, và cuối cùng
chấm dứt tồn tại; và tiếp tục nhắc lại điều này có vẻ là không cần thiết. Nhưng bạn có thực chấp nhận
sự thật về vô thường này không? Nó có tác động tới sự đánh giá sự vật của bạn không? Hay nó trượt
qua đầu bạn? Có lẽ bạn chấp nhận nó đến một mức độ nào đó, song để hiểu nó một cách đúng đắn rõ
ràng nói chung cần một cú sốc xúc cảm choáng váng dữ dội.

Tới mức độ mà bạn chấp nhận sự thật về vô thường, bạn từ bỏ một số giá trị vô ích nhất định bởi vì
bạn nhận thức rõ sự vô ích của chúng. Một điều đã được chỉ ra là bạn nắm một vốc nước càng chặt
thì nước lọt qua kẽ các ngón tay bạn càng nhiều bởi vì cách tốt nhất để giữ nước trong tay là giữ nó
một cách lỏng lẻo. Và cũng theo lối đó, cách tốt nhất để giữ một cái gì đó trong tâm là giữ nó một
cách lỏng lẻo. Như vậy dần dần bạn học được cách nắm sự vật lỏng lẻo hơn một chút; nhưng bạn tiếp
tục nắm một thời gian dài và như vậy tiếp tục mất.

Giá như bạn có thể ngừng nắm giữ, giá như bạn có thể từ bỏ lòng mong muốn cái nhất thời sẽ trở
thành cái vĩnh hằng, lúc đó bạn có thể hưởng niềm vui trong khi nó tồn tại và sẵn sàng đón nhận kinh
nghiệm tiếp theo khi nó tới, dù đó là một niềm hạnh phúc hoặc là một nỗi khổ đau. Theo một cách
tiếp cận cuộc sống, bạn tăng sự không thoả mãn của cuộc đời bằng cách tìm kiếm kéo dài những niềm
vui thích của mình, trong khi theo một cách khác, bạn để cho mình tự do thu nhận giá trị đầy đủ nhất
từ mỗi một trải nghiệm.

Bất kể trải nghiệm gì cuộc đời mang đến cho bạn, hoặc đắng cay hoặc ngọt ngào, đều có giá trị nhất
định nếu như bạn biết khéo léo sử dụng, và bạn chỉ có thể khéo léo sử dụng nó nếu bạn nhận lấy khi
nó đến và chấp nhận sự không hoàn hảo của nó.

19 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Giáo lý của Đức Phật chỉ ra rằng, trong đời người, mọi việc đều không hoàn hảo, mọi việc rút cục đều
bất toại nguyện. Không ở đâu trong lãnh vực đời người có thể tìm thấy hạnh phúc vĩnh cửu, và chỉ
bằng cách đạt tới "vô sinh", chỉ bằng cách vượt ra khỏi sự bó buộc của tính ích kỷ, mới có thể tìm
thấy sự tự do vĩnh cửu thoát khỏi khổ đau.

Điều kiện ngoại cảnh của bạn càng dễ chịu bao nhiêu, động cơ thúc đẩy nỗ lực tiến tới sự giác ngộ
cuối cùng càng ít bấy nhiêu. Bạn đệm lót các bức tường xà lim cuộc đời riêng của mình càng êm dịu
bao nhiêu, bạn càng ít cảm thấy những cú sốc và choáng váng của nó bấy nhiêu. Song tấm thảm bọc
dễ chịu này có giá trị đích thực nào không? Xà lim có tường lót đệm vẫn là xà lim, và tất cả đệm lót
không khi nào có thể đem cho bạn tự do.

Hơn thế, đệm lót rốt cuộc bị mài mòn, và câu hỏi nảy sinh là: điều gì đòi hỏi ít nỗ lực hơn – tiếp tục
bọc lót lại xà lim, hay đấu tranh tìm đường tới tự do? Có câu nói: "Người thông thái giành tự do bằng
một phần trăm của sự đau khổ mà người ngu đần chịu đựng khi theo đuổi sự giàu có".

Giáo pháp của Đức Phật khẳng định rằng không có giải thoát vĩnh viễn khỏi khổ đau và tính bất toại
nguyện trong vòng bó buộc của đời sống cá nhân và trong khi bạn kéo dài mãi mãi ảo tưởng về cái tôi
cá nhân, bạn đang kéo dài mãi mãi khổ đau.

Hơn nữa, giáo pháp của Đức Phật nhấn mạnh rằng bản ngã là một ảo giác và cuộc đời là một toàn thể
không thể chia cắt. Như vậy mỗi sự vật bạn thu được bởi sự mất mát của một người khác là không có
giá trị cuối cùng; sự thu được là nhất thời và rốt cuộc trở thành gánh nặng phải mang vác. Nếu bạn
thu được bằng cách cố ý tước đoạt cái gì đó của ai khác, cuối cùng bạn trở thành người tổn thất thật
sự. Mỗi sự đánh giá tự cho mình là trung tâm mang theo trong nó hạt giống của phiền não.

Dĩ nhiên, thường rất khó phát hiện sự đánh giá tự cho mình là trung tâm đằng sau những ước vọng và
hành động của bạn. Nếu bạn bị chi phối bởi một giá trị mang tính chiếm hữu, trong đó mục đích của
bạn là chiếm hữu ngày càng nhiều tài sản hoặc vật thể vật chất, yếu tố của bản ngã trong động cơ đó
là hoàn toàn hiển nhiên. Nhưng cùng một giá trị chiếm hữu đó có thể được ứng dụng một cách thật
dứt khoát song ít hiển nhiên trong sự dính mắc của bạn đối với con cái của mình dưới chiêu bài tình
yêu. Dưới vỏ bọc đó nó có thể gây nên nhiều bất hạnh hơn so với khi ứng dụng với các sự vật vật
chất.

Giá trị mang tính chiếm hữu này thường đứng sau lưng các vấn đề tình yêu bởi vì nhiều vấn đề về
tình yêu không liên quan nhiều lắm tới tình yêu theo nghĩa cao cả của nó như là liên quan tới lòng
ham muốn chiếm hữu, ít nhất là phần nào.

Vậy thì, đây là cái chúng ta có thể gọi là giá trị thẩm mỹ. Ở đây, khi áp dụng chánh niệm tự phân tích
sâu sắc, bạn có thể nhận thấy rằng sự quý trọng của bạn đối với nghệ thuật, âm nhạc, hoặc một trong
những thứ đẹp đẽ và ít trần tục hơn này thực sự là một phương tiện bênh vực cho sự tự kính mến
chính bản thân bạn. Không nghi ngờ gì sự quý trọng đối với những thứ tốt đẹp hơn này thực sự tồn
tại, nhưng những ưu điểm của nó thường mất đi khi nó được sử dụng như một phương tiện khẳng định
tính ưu việt của bản thân bạn.

Cũng có thể nói như thế về giá trị trí tuệ, trong đó tri thức khoa học, sự nắm bắt bằng trí tuệ một vấn
đề hay lòng yêu thích lập luận chẻ tóc làm tư, quá tỉ mỉ cung cấp một phương tiện cho sự tự khẳng
định mình.

Có thể cũng đúng như vậy với một giá trị tôn giáo hoặc một giá trị đạo đức cao cả – có thể có nhiều
cái tôi hiện diện dưới hình thức tự cho mình là đúng đắn.

20 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Thậm chí khi tính vị tha chiếm ưu thế trong một sự đánh giá quan trọng, vẫn có thể tìm thấy một yếu
tố của tư lợi dưới dạng mong muốn được hâm mộ hoặc cảm ơn, hoặc có thể dưới dạng một cảm nghĩ
về sự tự tán thưởng.

Vậy thì theo quan điểm Phật giáo, trong quá trình đánh giá lại, trước hết bạn phải chấp nhận một triết
lý nhấn mạnh các nguyên tắc cơ bản hơn là những điều hời hợt và đặt các hiệu quả cuối cùng cao
hơn hiệu quả tức thời. Khi đó bạn phải thừa nhận và ước định sự đánh giá có ảnh hưởng lớn của bản
thân bạn; và cuối cùng bạn phải tiến dần đến đưa vấn đề lợi ích ra khỏi tư lợi và hướng tới lợi ích của
toàn bộ cuộc đời.

Để thực hành từ bên trong hướng ra ngoài, bạn phải từng bước tiếp tục tác động tới việc đánh giá của
bạn đối với các sự vật nói chung. Điều này có nghĩa là bạn phải ngày càng nhận thức được các giá trị
giả dối của bạn, và với sự nhận thức được tăng lên đó, bạn phải dần dần từng nấc vất bỏ những giá trị
giả dối đó.

Khi đó bạn sẽ nhận thấy đúng lúc rằng nhiều sự vật trước đây khuấy động sự tức giận, oán giận, tính
ích kỷ và các cảm xúc thù nghịch khác, bây giờ sẽ không thể làm như thế nữa. Khi đó bạn sẽ chuyển
trọng tâm sự quan tâm của mình ra khỏi những sự vật thường khuấy động những cảm xúc gây trì trệ
đó và ra khỏi những cảm xúc trì hoãn sự tiến bộ của bạn.

Dĩ nhiên, nói chung đó sẽ là một quá trình lâu dài và liên tục và là một quá trình kéo theo nhiều sự
điều chỉnh lại các giá trị mà hiện nay bạn đặt lên các loại sự vật.

Bài tập thực hành


Thực hành chánh niệm toàn diện
Chúng ta có thể dùng các từ đồng nghĩa khác nhau để chỉ chánh niệm. Chúng ta có thể nói về nó như
sự nhận thức mở rộng và sự nhận thức tăng cường, như sự chú ý tăng lên, và theo một ý nghĩa nhất
định như sự hiện diện của tâm. Tương tự, sự thiếu chánh niệm có thể được nói đến như sự thiếu nhận
thức, thiếu chú ý, và vắng mặt của tâm.

Trong từ ngữ vừa nhắc tới – sự vắng mặt của tâm – từng người chúng ta có thể nhận ra sự thiếu chánh
niệm cả trong bản thân chúng ta và trong những người khác. Tạm thời bỏ qua bên các phương diện
sâu sắc hơn của chánh niệm, chúng ta hãy xem xét sự ứng dụng của nó đối với các vấn đề trần tục và
nông cạn hơn của đời sống thường ngày.

Bạn đã biết tình huống trong khi bạn viết một lá thư thì chuông điện thoại reo lên ở phòng bên. Trên
đường đi đến nghe điện thoại bạn bỏ bút xuống đâu đó – nhưng ở đâu? Khi quay trở lại viết thư bạn
không thể nhớ mình đã bỏ bút ở đâu, và bạn bị mất thời giờ để tìm kiếm. Bạn có thể cảm thấy rằng
kiểu đãng trí này không quan trọng ngoại trừ sự bực tức và phiền phức nó gây nên nhưng vấn đề là
nếu bạn có quá ít chánh niệm để theo dõi bạn bỏ bút của mình ở đâu ắt bạn cũng có quá ít chánh
niệm để tiến bộ nhiều trên con đường tự phát triển.

Bạn có thể suy nghĩ rằng cái thí dụ vừa đưa ra không thích hợp với bạn. Tuy nhiên, hầu như chắc
chắn bạn sẽ nhận thấy một số tình huống nhỏ trong đời sống của bản thân mình, trong đó bạn có thể
sử dụng sự hiện diện nhiều hơn của tâm một cách có lợi. Chánh niệm tăng lên này sẽ cho bạn hiệu
quả lớn hơn nhiều, nhưng đây chỉ là mục đích thứ yếu của nó, mục đích chủ yếu của nó là tăng cường
sự tỉnh thức bên trong bạn.

Vậy thì, trong khoảng một tháng hoặc lâu hơn, bạn hãy bắt tay vào triển khai một mức độ chánh niệm

21 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

toàn diện lớn hơn trong các hoạt động nhỏ thường lệ trong đời sống của mình. Sẽ có ích cho việc làm
đó nếu bạn giảm bớt tốc độ các hoạt động ấy bất kể khi nào bạn có thể và thực hiện chúng khoan thai
và chăm chú hơn, sự giảm tốc độ này sẽ giúp hình thành nên kiểu suy nghĩ và hành động nhiều chánh
niệm hơn mà – nếu được tiếp tục trong khoảng thời gian đủ dài – sẽ mở rộng và thâm nhập vào những
hoạt động khác, những hoạt động do sự cần thiết phải được tiến hành vội vã hơn.

Nếu bạn tăng cường tỉnh giác về các hoạt động của mình bằng cách nói thành lời thì sẽ giúp ích hơn.
Ví dụ, khi bạn bỏ cái bút xuống, bạn nói với mình "Ta bỏ bút trên đầu giá sách”. Hoặc khi mua vé xe
buýt và bỏ nó vào túi của mình, bạn nói "Cái vé ở trong túi bên tay trái ta". Hình thức nói thành lời
này hỗ trợ sự phát triển chung của chánh niệm toàn diện. Sẽ vô dụng nếu cố gắng ứng dụng điều đó
vào quá nhiều sự việc, nhưng nó đặc biệt có ích trong trường hợp một số ít các hoạt động nhỏ trong
đó bạn ngẫu nhiên bị đãng trí.

Có một cách theo đó bạn ứng dụng phương pháp tự giao ước để thực hiện sự rèn luyện này là ghi lại
trong óc mỗi lần bạn hành động một cách đãng trí. Ghi trong óc một điểm cho mỗi trường hợp đãng
trí, và khi bạn đạt tới một tổng số điểm, nói ví dụ, mười điểm, bạn biến hai mươi bốn giờ tiếp theo
thành một ngày kỷ luật.

Bạn sẽ cần xác định ngày kỷ luật cho mình nghĩa là gì. Có thể nghĩa là bạn sẽ chỉ hút một nửa số
thuốc lá bạn thường hút, hoặc nghĩa là bạn sẽ uống trà không có đường, hoặc nghĩa là bạn sẽ không
ăn bánh qui ngọt trong vòng hai mươi bốn giờ.

Bản chất chính xác của quy ước bạn tự giao kèo với mình là không quan trọng, với điều kiện là bạn
sử dụng nó để tăng cường mức độ tỉnh giác chung của bạn.

-ooOoo-

Tháng thứ tư

Con đường tăng cường tỉnh giác


Theo một số quan điểm nhất định có thể nói rằng sự tiến hoá của tâm một mặt bao gồm tăng cường
tỉnh giác, mặt khác là mở rộng tỉnh giác.

Hãy xem xét nó theo cách đó.. Trong một số trường hợp tỉnh giác cần được tăng cường chứ không
cần mở rộng. Nếu bạn đang tiến hành công việc khó khăn sửa chữa một bộ phận tinh vi của máy móc,
ví dụ như cái đồng hồ, ý thức của bạn cần được tập trung và bạn chỉ cần nhận thức được một vùng
giới hạn ấn tượng của cảm giác, chỉ bao gồm những gì liên quan đến công việc đang làm và loại trừ tất
cả những thứ khác. Điều đó có nghĩa là sự tỉnh giác của bạn cần được tăng cường chứ không phải là
mở rộng.

Trong những tình huống khác, ý thức của bạn cần được mở ra trên một vùng rất rộng của cảm giác.
Ví dụ nếu bạn đang lái xe trong tình trạng giao thông khó khăn, bạn rất cần ý thức được một phạm vi
rộng của cảm giác mà nói chung không tập trung vào bất cứ ấn tượng nào. Bạn cần ý thức được cái ô
tô ở phía trước, những người đi bộ qua đường, những xe cộ đang đi về phía bạn hay đang lao như tên
bắn ở những con phố cắt ngang và tất cả những thứ có thể mang lại rủi ro nguy hiểm. Bạn có thể có
một hành khách nói luôn miệng hoặc một lái xe ngồi ở phía sau, cũng có thể là một đứa trẻ hiếu động
trong xe.

Tất cả những yếu tố đó và đôi khi cả những yếu tố khác đòi hỏi bạn phải mở rộng sự chú ý ở một
không gian rộng của tỉnh giác: sự tỉnh giác của bạn phải được mở rộng chứ không tập trung. Nó cần

22 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

phải được tăng cường theo một nghĩa nào đó cũng như phải được mở rộng, trong đó bạn phải giữ một
mức độ tỉnh táo cao, nhưng đó không phải là sự chú ý sâu sắc vào một đối tượng hay một điểm nào
đó mà loại bỏ tất cả những thứ khác.

Mặc dù một số việc làm đòi hỏi ở bạn một mức độ tỉnh táo hay tỉnh giác, dưới hình thức tập trung sâu
hay tập trung mở rộng hoặc khuếch tán, có nhiều hoạt động khác bạn có thể thực hiện với một chút
tỉnh giác hoặc không có tỉnh giác. Những hoạt động này phần lớn là những việc bạn làm theo thói
quen.

Trong bất cứ thói quen nào, sự tỉnh giác của bạn có khuynh hướng chìm vào một mức độ thấp hơn và
vì điều này nên bạn ít để ý hoặc không nghĩ đến mục đích của hoạt động đó hoặc cái cách chính xác
bạn đang thực hiện nó. Nó mang một đặc tính máy móc.

Trong nhiều trường hợp, tính chất máy móc của một hoạt động theo thói quen là một điều tốt, nó cho
phép bạn tự do dành sự tỉnh giác cho những hoạt động quan trọng hơn. Đúng là nếu quá nhiều hoạt
động chung của bạn dựa trên thói quen, trong suy nghĩ và cả hành động, toàn bộ cuộc sống của bạn sẽ
có khuynh hướng chìm đi trong dòng trôi dạt không suy nghĩ, nhưng trong phạm vi của nó, thói quen
có một chức năng thực sự. Chức năng đó là để cho ý thức hay sự tỉnh giác được rảnh rang cho những
điều quan trọng hơn.

Khi bạn bắt đầu công việc xoá bỏ một thói quen xấu – một thói quen đưa lại những hậu quả bất lợi –
đầu tiên bạn phải nhận thấy rằng có lẽ bạn duy trì một vài thói quen, xấu và tốt, chủ yếu vì nó mang
lại sự thoả mãn nào đó; và điều này thường xuyên đúng, thậm chí nếu chúng cũng mang lại một bất
toại nguyện loại khác.

Trước khi bạn bắt đầu sử dụng phương pháp kỷ luật tự giác đối với một thói quen nào đó, có lẽ bạn
cũng nên cố gắng phân tích để xem liệu nó có mang lại sự toại nguyện nào không, sau đó tìm hiểu
xem bản chất của sự toại nguyện đó là gì, trong một số trường hợp sự toại nguyện không thể hiện rõ ở
bên ngoài. Nếu bạn thành công trong việc này, có thể cần tìm một cách khác để có được sự toại
nguyện tương tự.

Trong vấn đề này không thể làm gì hơn là nói chung chung. Điểm chính yếu ở đây là bạn có thể thấy
chỉ riêng kỷ luật tự giác thôi thì không phải lúc nào cũng đủ để xoá bỏ một thói quen xấu, trong nhiều
trường hợp cần phải phát triển chánh niệm về chính tâm bạn – những động cơ ẩn giấu, sự tham lam,
hận thù, ảo tưởng của tâm mới chỉ được thừa nhận một nửa – để có thể phát quang một cánh đồng mà
ở đó kỷ luật tự giác có thể hoạt động hiệu quả hơn.

Trong bất kỳ một hình thức rèn luyện tâm trí nào, nói chung thì cải thiện toàn diện hoạt động tâm trí
như là một tổng thể sẽ tốt hơn là cống hiến quá nhiều năng lực cho một đặc tính riêng biệt. Tất nhiên
có những ngoại lệ, ví dụ như thói quen đó là quá tệ đến mức cần nỗ lực tập trung.

Trong bất kỳ trường hợp nào, không một đặc điểm riêng lẻ nào có thể được xem xét đúng đắn chỉ
trong bản thân nó, mà phải được cân nhắc trong mối quan hệ hoặc như là một phần của tổng thể cấu
trúc tâm trí.

Nhiều hoạt động theo thói quen của bạn không có ý nghĩa đạo đức đặc biệt nào và chỉ đóng vai trò
nhỏ trong việc tăng cường hay làm yếu đi các chức năng của tâm trí.

Ví dụ khi lái xe, phản ứng quen thuộc đối với các tình huống trên đường – dấu hiệu giao thông, một

23 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

con chó lao qua đường và những tình huống kiểu như vậy – không có ý nghĩa đạo đức. Nhưng đôi khi
có thể bạn phản ứng theo thói quen đối với sự ách tắc giao thông bằng sự sốt ruột, hoặc có thể nổi
giận một cách không suy nghĩ đối với những người đi bộ một cách ngu ngốc qua đường mà không
nhìn gì cả. Nôn nóng và giận dữ là những phản ứng theo thói quen cần được xử lý, không chỉ vì chúng
mang bản chất bất lợi và trì trệ mà đơn giản còn vì chúng là những thói quen.

Còn những ví dụ về những phản ứng không chánh niệm hay phản ứng theo thói quen khác có lẽ cần
phải được sửa đổi, chủ yếu vì chúng là thói quen. Có một thói quen là phàn nàn về thời tiết, về việc
giá cả sinh hoạt tăng, về công việc những người khác làm hay không làm. Vấn đề ở đây là khi bạn
phàn nàn về những điều này có lẽ bạn làm vậy như một sự giải toả tự động hay máy móc cho những
cảm xúc chống đối của mình. Trong bối cảnh đang nói đây, khuyết điểm nằm chính ngay ở bản chất
máy móc hay quen thuộc của những sự phàn nàn này, việc bạn kêu ca có thể có lý, có thể không,
nhưng đó là vấn đề khác có ý nghĩa thứ yếu theo quan điểm chúng ta đang đề cập.

Tất nhiên bạn cần một loại giải toả nào đó đối với những cảm xúc này, nhưng những cách giải toả
theo thói quen không suy nghĩ sẽ là trì trệ bởi vì chúng đến trong sự không tỉnh thức và tâm trí bạn lúc
đó nằm trong lối mòn.

Điều cần phải làm là cố gắng phát triển tỉnh giác, một thái độ thận trọng đối với những phản ứng của
bản thân, bất kỳ khi nào tình huống cho phép, nỗ lực phản ứng theo cách trực tiếp đối ngược với cách
phản ứng máy móc cũ. Nếu bạn muốn cao giọng vì giận dữ thì hãy cố gắng nói một cách nhẹ nhàng.
Nếu bạn cảm thấy muốn quay đi không nói gì cả thì hãy cố gắng trả lời một cách nhã nhặn. Nếu bạn
cảm thấy muốn chửi bới hay làm gì khác thì hãy cố gắng phản ứng một cách tử tế.

Trong tất cả những tình huống như vậy, điều cần làm là phản ứng theo cách đối lập trực tiếp với
những phản ứng theo thói quen, máy móc tự động. Điều này sẽ giúp làm suy yếu và triệt tiêu những
yếu tố liên quan có hại về tinh thần và làm cho tâm trí trở nên sắc bén hơn.

Xây dựng những thói quen mới đòi hỏi sự tỉnh giác và chú tâm hơn nữa. Một thói quen đáng được
trau dồi là thói quen quan sát, và đây là chủ đề của bài tập thực hành trong thời kỳ này.

Bài tập thực hành


Quan sát hướng ngoại
Chánh niệm có rất nhiều khía cạnh. Có nghĩa là có rất nhiều thứ để bạn có thể hướng sự tập trung
hơn nữa vào và có nhiều phương hướng để bạn có thể trau dồi sự tỉnh giác cao hơn. Theo quan điểm
Phật giáo, giá trị quan trọng nhất của chánh niệm nằm ở chỗ hướng sự chú tâm vào bên trong, trau
dồi sự tỉnh giác thâm sâu về các hiện tượng thân và tâm tạo nên "dòng hiện hữu" của chính bản thân
bạn, cái tôi của chính bạn.

Tuy nhiên, xét từ quan điểm hiệu quả to lớn hơn trong đời sống hàng ngày, nói chung có nhiều cơ hội
để phát huy chánh niệm hơn đối với những đối tượng bên ngoài cũng như sự chú tâm hướng vào bên
trong. Một số trong chúng ta cần tu dưỡng một sự tỉnh giác thâm sâu không phải chỉ đối với trạng thái
tâm của bản thân ta mà còn đối với những thứ xung quanh ta.

Điều này đúng với những người thuộc loại hướng nội hơn là loại hướng ngoại. Nếu bản chất bạn là
người hướng ngoại, bạn sẽ có một khuynh hướng cố hữu là để ý đến những thứ xung quanh bạn và
những sự kiện đang diễn ra ở thế giới bên ngoài; bạn sẽ có một năng lực quan sát sắc bén cùng với
một trí nhớ lâu về những thứ như vậy.

Do đó, bạn có thể kết luận là bạn không cần phải tăng cường chánh niệm hướng ngoại. Sự thực tập

24 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

này mặc dù chủ yếu là hướng sự chú tâm đến những vật và sự kiện bên ngoài, nhưng nó không dừng
ở đó, nó còn có mục đích liên kết với sự quan sát bên trong. Nói cách khác, bạn có thể sử dụng năng
lực quan sát để lưu tâm đến những phản ứng xúc cảm của bản thân đối với những vật và sự việc xảy
ra quanh bạn cũng như là bản thân những vật và sự việc đó.

Mặt khác, nếu bạn có khuynh hướng hơi hướng nội và bạn cảm thấy cần phải phát triển năng lực
quan sát bên ngoài, bạn có thể cảm thấy là luyện tập chú tâm đối với những sự vật bên ngoài có thể
giúp bạn, không chỉ cho hiệu quả to lớn hơn trong cuộc sống hằng ngày mà còn cho một chuẩn mực
chánh niệm chung tốt hơn. Hoàn toàn có khả năng là sự chú tâm gia tăng đối với môi trường bên
ngoài sẽ tự phản ánh lại trong một sự tỉnh giác mạnh hơn – và do đó trong một sự kiểm soát mạnh mẽ
hơn – đối với những thiên kiến cảm xúc và những quan niệm sai lầm.

Để thực hành bài tập này, bạn quyết tâm quan sát chi tiết hơn, chú tâm hơn các đối tượng đa dạng
trong môi trường ngay xung quanh bạn. Nếu năng lực quan sát của bạn đã tốt rồi, mục tiêu cơ bản sẽ
là chú tâm đặc biệt đến những phản ứng cảm xúc đối với những sự vật, con người và sự kiện tác động
đến bạn.

Một vài điều sẽ kích thích tham vọng của bạn và khởi đầu một chuỗi suy nghĩ trong óc bạn. Một số
người sẽ làm bạn bực mình và khơi dậy lòng oán giận và những hình thức căm ghét khác. Và một số
sự kiện sẽ đem lại nơi bạn khuynh hướng tự khẳng định mình.

Theo tâm lý học Phật giáo thì có ba yếu tố tâm cơ bản làm trì trệ sự tiến bộ, đó là tham muốn ích kỷ,
lòng căm ghét, và sự tự khẳng định mình, và để giải quyết được chúng thì bước cơ bản là nhận thức
được chúng.

Nếu năng lực quan sát đã được phát triển tốt, bạn có thể chú ý chủ yếu đến phản ứng của bản thân.
Mặt khác, nếu năng lực quan sát chưa tốt như mong muốn, bạn nên sử dụng sự thực hành này để cải
thiện chúng. Trong trường hợp đó, bạn có thể lấy sự quan sát chi tiết những vấn đề bên ngoài làm
mục tiêu cơ bản cho bài tập.

Trong bất kỳ trường hợp nào, sẽ rất hữu ích nếu bất cứ khi nào có thể, bạn giảm nhịp độ những hoạt
động của bản thân để quan sát hay nhận biết sự vật một cách cẩn thận hơn. Có lẽ bạn sẽ không thể
làm được điều này trong hầu hết thời gian, nhưng nếu bạn bắt đầu chậm lại khi có thể, bạn sẽ thiết lập
thói quen quan sát tốt hơn được tiếp tục trong những giai đoạn vội vã hơn.

Có lẽ lúc đầu bạn sẽ làm được tốt khi giới hạn sự quan sát gia tăng trong một phạm vi nhỏ, ví dụ
những người mà bạn gặp trong công việc và hoạt động khác trong ngày. Vào thời điểm thuận tiện,
nhớ lại một vài người, màu tóc và mắt của họ, đặc điểm khuôn mặt và một số chi tiết quần áo họ mặc.
Hoặc nếu bạn thích điều này hơn, hãy chọn những ngôi nhà mà bạn đi qua trên đường đến ga xe lửa
và bắt đầu quan sát chúng chi tiết hơn, sau đó thử xem bạn có thể tự miêu tả chúng chi tiết không.

Sẽ bõ công nếu bạn thực hiện một chuyến đi bộ đặc biệt với mục đích cụ thể là quan sát những chi
tiết bạn thường bỏ qua.

Bản chất của bài thực tập này là sự quan sát trong sáng, nó không có ý là một hình thức rèn luyện trí
nhớ, mặc dù, tất nhiên trí nhớ sẽ được lợi. Có những phương pháp áp dụng các thủ thuật liên kết tâm
khác nhau; gieo vần và điệp âm, xây dựng những hình ảnh tâm trí sống động và đôi khi lố bịch như là
những phương cách trợ giúp cho rèn luyện trí nhớ; nhưng những mẹo này – hữu dụng và có ích –
không nên được áp dụng trong bài tập đang bàn ở đây. Trong bài thực hành này, bạn quan tâm đến sự
quan sát đơn thuần như bản thân nó là một mục đích chứ không phải là một trợ giúp cho trí nhớ.

25 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Áp dụng phương pháp kỷ luật tự giác tự giao ước trong sự thực hành này và khi bạn thấy mình đã lơ
đễnh bỏ qua một cơ hội để thuần tuý quan sát hãy tự phạt nhẹ bản thân.

-ooOoo-

Tháng thứ năm

Nguyên tắc chấp nhận

Cái mà chúng ta biết như là tầng ý thức của tâm con người chỉ là một phần rất nhỏ trong toàn bộ tâm
trí. Việc sử dụng chung chung khái niệm hai tầng tâm thức, được phân biệt là ý thức và tiềm thức, ngụ
ý là tâm trí có hai phần riêng biệt rạch ròi. Nhưng khái niệm này hoàn toàn không chính xác. Sẽ tốt
hơn nhiều nếu chúng ta so sánh toàn bộ tâm trí như một cái bảng đen trong một căn phòng tối với
nhiều câu từ được viết lên trên toàn bộ mặt bảng. Vì phòng tối nên bạn sẽ không thể nhìn thấy bất kỳ
một từ hay cụm từ nào cả. Tuy nhiên nếu bạn chiếu ánh sáng của một cái đèn pin vào trung tâm của
bảng đen, bạn có thể đọc được từ mà trung tâm chùm sáng đang chiếu rọi, và bạn cũng có thể nhìn
thấy những từ xung quanh vùng ánh sáng đèn pin chiếu, nơi mà ánh sáng yếu hơn.

Trung tâm của chùm ánh sáng đèn pin nơi mà ánh sáng mạnh nhất có thể được so sánh với sự ý thức
hoàn toàn, từ viết bằng phấn được chùm ánh sáng soi rọi giống như tâm điểm của ý thức. Những từ
nằm trong vùng ít sáng hơn bên cạnh vùng được soi sáng giống như những ý tưởng bên rìa ý thức, còn
những từ nằm ở phần còn lại của bảng đen thể hiện vô số những ý tưởng nằm trong tiềm thức.

Khi bạn di chuyển ánh sáng đèn pin đến những vùng khác nhau trên bảng đen, những từ, cụm từ khác
nhau sẽ xuất hiện giây lát trong trung tâm của chùm sáng, với những từ khác được chiếu sáng ít hơn ở
vùng biên của chùm sáng. Phần còn lại của bảng đen vẫn nằm trong bóng tối.

Cùng với cách như vậy, tâm điểm của ý thức di chuyển và đưa lần lượt từng tư tưởng lên bình diện ý
thức hoàn toàn, nói chung kèm với một số tư tưởng liên quan bên rìa ý thức. Những tư tưởng còn lại
luôn luôn nằm ở tiềm thức.

Nếu như cái bảng đen hoàn toàn không bị trở ngại gì, bạn có thể chiếu đèn pin vào bất cứ và tất cả
các từ hay cụm từ và đưa chúng vào tâm điểm của chùm sáng. Để minh hoạ, hãy tưởng tượng một số
vùng của cái bảng đen bị che khuất. Một cái tủ tài liệu cao đứng chắn trước một góc cùng một bảng
áp phích ở góc kia, trong khi trên những phần còn lại của bảng rất nhiều mảnh băng dính che lấp các
từ và cụm từ khác nhau. Bạn sẽ không thể dùng ánh sáng đèn pin để soi sáng các từ bị che lấp trừ khi
bạn có thể dời bỏ tủ tài liệu và bảng áp phích cũng như những mảng băng dính.

Cũng tương tự như vậy, trong tâm trí của một người bình thường có nhiều vùng không thể tiếp cận
được ánh sáng đèn pin của ý thức đầy đủ. Đó là những vùng qua năm tháng đã bị đóng lại bởi nỗi đau
và sợ hãi, sự căm thù, tội lỗi và những cảm giác thấp kém. Nói chung, để làm tan biến những vùng
này và khiến những tư tưởng bị che giấu có thể tiếp cận được với ý thức là một nhiệm vụ to lớn hơn
nhiều so với mức độ một người bình thường có thể hoàn thành trong đời anh ta.

Tuy nhiên, thậm chí nếu bạn không thể khám phá và loại bỏ tất cả nỗi sợ hãi, cảm giác tội lỗi và tự ti
đã đóng kín một số vùng trong tâm trí bạn cả trong tuổi ấu thơ và những năm tháng tiếp sau, ít nhất
bạn có thể cố gắng chấp nhận bản thân như bạn đang là, với sự thừa kế lòng ham muốn nguyên sơ và
những hận thù, sợ hãi và tham lam bạn đã thu được.

Sự chấp nhận này đòi hỏi chánh niệm liên tục vì đây là chìa khoá của sự tự hoàn thiện bản thân.

26 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Chánh niệm trong đạo Phật có rất nhiều hình thức, và hình thức có giá trị đặc biệt trên phương diện
đang bàn được gọi là chánh niệm của tâm trí. Đó là vấn đề rèn luyện bản thân để nhận thức được các
trạng thái cảm xúc vào mọi lúc và nhận ra chúng như chúng đang là. Nếu tại một thời điểm cụ thể,
trạng thái cảm xúc là bực mình, oán giận, hoặc ghen tỵ, ác ý, hay một yếu tố tâm ngăn trệ nào đó thì
sự nhìn nhận trung thực yếu tố này, thoát khỏi cảm giác tội lỗi hay nỗ lực kìm nén càng xa càng tốt,
trên thực tế là sự chấp nhận bản thân như bạn đang là.

Cũng cần phát triển sự nhận biết các phẩm chất tâm tiến bộ của bản thân như sự hào phóng, thiện chí
và sự nhận biết sâu sắc bản chất huyễn ảo của tự ngã, mà không có bất kỳ yếu tố tự hào cá nhân hay
tự mãn nào trong sự nhận biết đó.

Do đó sự nhận biết giản dị các yếu tố tâm trì trệ và tiến bộ khi chúng xuất hiện trong những giao tiếp
và hoạt động hàng ngày được xem là việc áp dụng đầu tiên nguyên tắc chấp nhận.

Sự chấp nhận con người hiện tại của bản thân phải được cân bằng bởi sự chấp nhận con người hiện
tại của những người khác.. Khi sự tự hiểu biết tăng lên thì sự hiểu biết của bạn về những người khác
cũng tăng lên. Mặc dù mọi người khác nhau ghê gớm về trình độ phát triển bản thân cũng như về
cách ứng xử với hoàn cảnh, bản năng cơ bản nhất và các cấu trúc cảm xúc của họ rất giống với của
bạn.

Nằm sâu dưới những vùng tâm trí mà ý thức tiếp cận, họ cũng có di sản riêng của lòng ham muốn
nguyên sơ, được truyền từ những tổ tiên tiền nhân loại và thượng cổ của họ. Thời thơ ấu họ cũng phải
chịu đựng ở những mức độ khác nhau sự ngược đãi và kiểm soát hà khắc của cha mẹ và họ cũng cần
sự cảm thông sâu sắc ở một mức độ nào đó.

Nhờ sự hiểu biết sâu sắc này về người khác, bạn học cách chấp nhận con người hiện tại của những
người khác, tuỳ mức độ bạn hiểu và chấp nhận họ (nhưng chỉ ở mức độ đó) bạn sẽ phản ứng với họ
mà không bực mình và oán giận.

Tất nhiên, có thể bạn không loại bỏ được hoàn toàn sự khó chịu và oán giận trong khi đối xử với
người khác, nhưng bạn có thể sử dụng những cơ hội đó để nhận ra và chấp nhận những nhược điểm
của bản thân và của họ. Với sự chấp nhận này, sự hoà hợp lớn hơn sẽ đến, cả bên trong lẫn bên
ngoài.

Do vậy, đây là hai lĩnh vực trong đời sống để thực tập nguyên tắc chấp nhận – cấu trúc tâm và cảm
xúc của bản thân và những phản ứng chất đầy cảm xúc của người khác. Có một lĩnh vực thứ ba áp
dụng nguyên tắc này, đó là cả thế giới pha trộn niềm vui sướng và nỗi buồn đau.

Nếu bạn trở thành một tù nhân, bạn có thể chấp nhận một trong ba thái độ đối với việc ở tù. Thứ
nhất, bạn có thể đạp tường, đấm chấn song cửa, sỉ vả người gác tù, và phản đối mọi phương diện của
nhà tù với sự cay đắng và oán giận. Kết quả là khiến cho sự ở tù của bạn trở nên nặng nề và đau buồn
hơn theo mọi cách và làm tăng chính những thứ bạn phản đối.

Một thái cực khác là bạn có thể cam chịu thụ động và ủ ê với một thái độ trì trệ, không hề nỗ lực để
tìm cách trốn thoát. Sự hờ hững của bạn chỉ làm phóng đại nỗi khốn khổ và oán giận trong bạn.

Cả hai thái độ cực đoan này đều có khuynh hướng làm tê liệt sức mạnh của bạn. Tuy nhiên, có thái
độ thứ ba mà bạn có thể chấp nhận: bạn có thể chấp nhận nhà tù như là một vấn đề cần phải giải

27 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

quyết, đánh giá nó một cách thực tế và rất chi tiết, tìm kiếm những khe hở, và luôn luôn cảnh giác và
sẵn sàng chớp lấy cơ hội thật sự đầu tiên để trốn thoát. Nói một cách lý tưởng, thái độ này không nên
có sự oán giận nào bên trong, vì sự oán giận và những trạng thái tâm tương tự sẽ gây ra những thiên
kiến cảm xúc và sẽ làm suy yếu óc xét đoán của bạn, rồi óc xét đoán sút kém đó sẽ dẫn đến những
hành động không thiết thực.

Sự chấp nhận thế giới như nó thực sự là phải bao gồm cả sự chấp nhận bản thân, tất cả những người
trong môi trường của bạn, tất cả những thứ có liên quan ảnh hưởng đến bạn theo bất cứ cách nào. Sự
chấp nhận tích cực không có nghĩa là cam chịu trì trệ. Nó có nghĩa là sự chấp nhận mọi thứ như
hiện trạng của chúng như là điểm bắt đầu trong một hành trình dài vất vả hướng đến tự do.

Thái độ chấp nhận về tinh thần này làm cho sự ứng phó với cuộc đời và sự chịu đựng một cách hiệu
quả những khó khăn trong môi trường cũng như những thứ khó khăn ngay chính trong tâm bạn dễ
dàng hơn.

Sự chấp nhận không oán giận mọi thứ như hiện trạng của chúng là vấn đề đối diện trực tiếp với mọi
thứ, là vấn đề học tập để kiểm soát nỗi lo âu, chiến thắng lòng oán giận và giữ cho sự tự khẳng định
mình được kiểm soát.

Với thái độ chấp nhận tích cực và không oán giận này, bạn học cách không làm căng thẳng hơn mức
cần thiết những tình thế bất lợi. Đây không phải là sự cam chịu thụ động, nó là sự chấp nhận tích cực
tất cả mọi vấn đề như là nguyên liệu thô mà từ đó bạn có thể xây dựng thành công. Nếu tất cả mọi
vấn đề đều được lấy đi khỏi bạn một cách kỳ diệu, bạn sẽ nhận thấy mình không có một nguyên liệu
thô nào và do đó sẽ không có cơ hội nào cho sự thành công.

Nguyên tắc chấp nhận không oán giận này cần phải thẩm sâu suốt cuộc đời; không thể thực hiện nó
trong một bài tập cụ thể hay một bài tập có công thức chính xác. Do đó, công việc thực tập trong giai
đoạn này chỉ là bước đầu tiên. Nó có mục đích giúp bạn hiểu biết sâu sắc về mức độ bạn oán giận
những vấn đề và khó khăn trong cuộc sống của bạn và những điều còn lại sẽ đến từ sự hiểu biết này.

Bài tập thực hành


Bảng câu hỏi tự điều tra về sự chấp nhận không oán giận
Để trả lời bảng câu hỏi điều tra sau đây, bạn có thể đọc từ đầu đến cuối tất cả câu hỏi và trả lời ngay
mỗi câu hỏi. Trong nhiều trường hợp một câu trả lời đã lập tức có sẵn trong đầu bạn nhưng nó không
nhất thiết đã là một câu trả lời chân thực, hoặc nó không có giá trị thực sự đối với bạn.

Mục tiêu của mỗi câu hỏi không nhắm nhiều đến việc đạt tới một câu trả lời để bắt đầu một dòng tư
duy, mục tiêu của nó là đem lại cho bạn một mức độ tự hiểu biết bản thân nào đó.

Hãy đọc từng câu hỏi một, sau đó nghĩ về nó trong những lúc rỗi rãi trong ngày; một dòng tư duy tiếp
theo đó sẽ có giá trị lớn hơn một câu trả lời nhanh gọn dứt khoát.

Kết quả là có thể những câu hỏi và những ý tưởng khác liên quan đến câu hỏi gốc theo một cách nào
đó sẽ xuất hiện trong đầu bạn. Những điều này cũng sẽ giúp ích cho quá trình tự hiểu biết bản thân.

Để bắt đầu những dòng suy nghĩ này, hãy tự hỏi bản thân những câu sau:

1. Tôi có oán giận những vấn đề và những khó khăn trong cuộc sống của tôi không?

2. Hoặc tôi có chấp nhận những vấn đề và khó khăn này như là nguyên liệu thô cho sự thành công
không?

28 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

3. Tôi có bực tức với việc bị người khác chi phối hay kiểm soát không?

4. Tôi có vô cùng ghen tỵ với những may mắn của người khác không?

5. Tôi có bực tức khi bị người khác lờ đi không?

6. Tôi có chấp nhận những vấn đề và khó khăn này với thái độ trì trệ, thua cuộc không?

7. Nếu có, điều đó có đem lại nỗi chua cay đau khổ bị kiềm chế một nửa và sự oán giận âm ỉ với
chúng không?

8. Tôi có khuynh hướng phẫn nộ với bất kỳ nhóm tôn giáo cụ thể nào không?

9. Hay với bất kỳ nhóm chủng tộc nào không?

10. Tôi có thái độ phòng thủ với cuộc sống và con người nói chung không?

11. Hay có một thái độ hung hăng không?

12. Hay có một thái độ nghi ngờ không?

13. Tôi có ấp ủ bất kỳ một sự hận thù hay mong muốn trả thù nào không?

14. Tôi có động cơ mãnh liệt dựa trên sự oán giận không?

15. Tôi có phản ứng lại sự phê bình bằng thái độ thù địch hay oán giận không?

Giả thiết là bạn đang áp dụng phương pháp kỷ luật tự giác tự giao ước, cứ vài ngày hãy nhìn lại xem
bạn có sử dụng bảng câu hỏi này liên tục trong một thái độ đủ sâu sắc không và nếu cảm thấy bạn
chưa làm như vậy, hãy tự tước đi niềm vui nho nhỏ nào đó của bạn.

-ooOoo-

Tháng thứ sáu

Tỉnh giác với các cảm xúc

Nếu bạn muốn kiểm soát một thứ gì đó – bất kể là gì – bạn biết về nó càng nhiều thì bạn càng có khả
năng kiểm soát nó tốt hơn. Nếu bạn muốn lái ô tô, trong điều kiện tốt bạn có thể điều khiển nó với
một chút kiến thức tối thiểu về hoạt động của ô tô; nhưng khi nó bị hỏng cách xa nơi có sự trợ giúp
hàng dặm thì bạn có kiến thức về cơ chế hoạt động của ô tô càng nhiều thì bạn càng có nhiều cơ hội
hơn để khởi động lại nó.

Điều này cũng đúng với các vấn đề cảm xúc của bạn. Bạn chỉ có thể đi một quãng rất ngắn trong
cuộc sống mà không gặp các vấn đề cảm xúc và mặc dù bạn không cần hiểu biết đặc biệt về chúng
khi mọi thứ diễn ra suôn sẻ, bạn thực sự cần tất cả những hiểu biết về mình có thể có khi bạn gặp một
giai đoạn gian khó.

Bạn có thể tưởng tượng một thợ cơ khí ô tô mà không hiểu biết rõ ràng về những gì diễn ra dưới cái
nắp đậy máy ô tô? Nhưng rất nhiều người trong số chúng ta không hiểu biết rõ về những gì diễn ra

29 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

dưới vỏ của chính mình.

Bạn càng hiểu biết về bản thân bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, và điều này đúng với cả sự hiểu biết
nhờ sự tự quan sát bản thân và hiểu biết thông qua sách vở. Kiến thức này bổ sung cho kiến thức kia;
và điều này đặc biệt đúng với sự hiểu biết về cảm xúc. Do đó, chúng ta hãy xem xét cảm xúc ở cấp
độ lý thuyết.

Các cảm xúc được đi kèm với những thay đổi thể chất nhất định hoặc có lẽ chúng ta nên nói rằng các
cảm xúc bao gồm nhận thức về những thay đổi thể chất xảy ra trong những điều kiện nhất định.

Để minh họa điểm này, hãy lấy ví dụ về điều kiện của sự sợ hãi. Khi bạn trở nên hoảng sợ, nó bắt đầu
với một ý nghĩ kinh khủng nào đó trong đầu bạn: ý nghĩ kinh khủng này là nguyên nhân của cảm giác
sợ hãi, và nó đi kèm với một dòng thần kinh trong những phần nào đó của não bạn.

Từ não, dòng thần kinh này sẽ đi đến tuyến thượng thận, và nó khiến tuyến này thải vào mạch máu
của bạn một chất được gọi là adrenin (hay ít chính xác hơn là adrenalin). Mạch máu sẽ chuyển chất
adrenin này vào các cơ quan khác nhau trong cơ thể bạn.

Chất adrenin có một ảnh hưởng rõ ràng đối với nhiều cơ quan trong cơ thể; khi đến gan nó khiến gan
tiết vào máu thêm một lượng đường, lượng đường này sẽ cung cấp thêm năng lượng cho các cơ mà
nó đến.

Kết quả tiếp theo của chất adrenin trong máu là tim bạn đập nhanh hơn, mắt bạn mở to hơn, và nếu
bạn bị thương, máu sẽ tự đóng cục lại dễ dàng hơn.

Bạn có thể thấy tất cả những thay đổi thể chất này có một giá trị rất rõ ràng trong cuộc đấu thể chất
thực sự hay bất cứ hoạt động nhanh nào của cơ bắp, ví dụ cung cấp thêm nhiên liệu cho cơ bắp, tim
đập và tuần hoàn máu nhanh hơn lại bổ sung nhiên liệu này và thải tro ra khỏi các tế bào; tất cả
những thứ này đều có giá trị đối với bạn nếu bạn đang chạy trốn hay đánh nhau, chạy hay leo núi.

Nhưng cũng có những phản ứng phụ. Ví dụ, tóc bạn có xu hướng dựng đứng. Tất nhiên điều này
không giúp gì bạn cả nhưng nó thực sự giúp đỡ những người họ hàng trước con người của bạn khi
điều này xảy ra với chúng. Nó giúp con mèo trông có vẻ to hơn và dữ tợn hơn và do đó kinh khủng
hơn đối với kẻ thù, nó giúp một con nhím vì lông nhím là vũ khí tự vệ thực sự.

Khi bạn dựng tóc gáy, bạn sẽ tự động phản ứng giống như những kẻ họ hàng trước con người này.
Nhưng ở trong bạn thì đây là một cơ chế lỗi thời.

Những thay đổi thể chất này không có giá trị sử dụng thật sự trừ khi cần phải hành động; nhưng đó
không phải là tất cả câu chuyện. Con người trong thế giới văn minh nói chung không giải quyết các
vấn đề của họ theo cách tổ tiên sống trong hang đá hay những người nguyên thuỷ làm bởi vì các vấn
đề và môi trường bên ngoài của họ đã khác. Tuy nhiên, những phản ứng vô tình của họ vẫn như vậy.

Trong hầu hết các trường hợp khi một người trở nên hoảng sợ, chiến đấu hay trốn chạy sẽ không giải
quyết được vấn đề bởi vì thường là không có một kẻ tấn công rõ ràng để đánh nhau và không có chỗ
nào để trốn chạy. Nhưng những thay đổi thể chất diễn ra vẫn như vậy.

Do đó những thay đổi thể chất trong khi sợ hãi thường không thích hợp; không chỉ có vậy, chúng
cũng thường xuyên là một điêù gây bối rối bởi vì có quá nhiều nhiên liệu được đưa vào mạch máu
của bạn mà không nhằm thực hiện một mục đích nào cả. Theo cách như vậy, bạn có thể có những rối
loạn khác nhau về thần kinh và thể xác, đó là kết quả của những rối loạn cảm xúc lặp đi lặp lại,
những rối loạn nảy sinh không chỉ từ sự sợ hãi mà còn từ sự bồn chồn lo lắng, ghen tỵ, oán hờn, tức

30 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

giận và cảm giác tự ti.

Nhưng câu chuyện chưa kết thúc ở đó. Trong một xáo trộn cảm xúc, để cho các cơ bắp hoạt động
hoàn toàn – như cơ chân để chạy, cơ tay để đánh nhau, v.v. – động mạch phục vụ hệ thống tiêu hoá
sẽ bị co lại nên chúng nhận được ít máu hơn. Để chuyển hướng nhiên liệu của mình sang các cơ khác,
các cơ của hệ thống tiêu hoá sẽ bị thiếu nhiên liệu và hậu quả là các hoạt động tiêu hoá bị đình trệ
một thời gian.

Những xáo trộn như vậy có thể kéo dài vài giờ và bạn có thể nhận thấy các rối loạn tiêu hoá dễ xuất
hiện như thế nào, chúng là kết quả của sự sợ hãi, bồn chồn lo lắng, ghen tỵ, oán hờn, tức giận và cảm
giác tự ti.

Các thí nghiệm đã chỉ ra rằng những cảm xúc tiêu cực tạo ra các chất độc trong hệ thống cơ thể, và
trong những điều kiện thái quá một số tế bào não có thể tạm thời hoặc vĩnh viễn bị tổn thương bởi
những cảm xúc căng thẳng.

Từ tất cả những điều trên bạn có thể thấy rằng một loại nguyên tắc cảm xúc là đáng mong muốn. Khi
một người xúc phạm bạn qua điện thoại thì những thay đổi thể chất do sợ hãi hay tức giận có thể đem
lại hữu ích nào? Tất nhiên là nó cho bạn thêm sức mạnh để quẳng cái điện thoại qua cửa sổ nhưng
điều này không giải quyết được vấn đề. Nếu một người đàn ông phải lòng một nữ diễn viên màn bạc,
tim anh ta sẽ đập nhanh hơn cho phép anh ta bắt đầu một cuộc săn tìm tình yêu cổ xưa thô sơ; nhưng
trong hoàn cảnh của nền văn minh hiện đại sự săn tìm này sẽ kết thúc hay bắt đầu ở đâu?

Có ba phương diện của vấn đề rèn luyện cảm xúc. Phương diện thứ nhất của quy tắc cảm xúc là xây
dựng thói quen tự quan sát những điều kiện cảm xúc của chính bản thân. Trong thuật ngữ Phật giáo,
điều này được gọi là sự quán sát tỉ mỉ các trạng thái tâm. Phương diện thứ hai liên quan đến việc kiểm
soát những biểu lộ cảm xúc khi chúng xuất hiện. Phương diện thứ ba là vấn đề xây dựng một tập hợp
mới các giá trị đại loại như nhiều tình huống trước kia đã tạo ra những phản ứng sợ hãi, tức giận, tự
khẳng định, v.v., giờ đây không tạo ra những phản ứng đó nữa, họăc ít nhất tạo ra những phản ứng đó
ở mức độ thấp hơn.

Không cần nói nhiều về việc phải kiểm soát những cảm xúc có tác động mạnh dẫn đến bất hoà bên
ngoài và cả xung đột bên trong; tác động của chúng trong hầu hết các trường hợp rõ ràng là đau khổ.
Sự căm thù chủng tộc, thành kiến tôn giáo, thiên kiến chính trị là gốc rễ của nhiều cuộc cãi vã giữa
các cá nhân và các dân tộc. Cảm giác yêu ghét lẫn lộn đối với những người thân trong gia đình, cũng
như những nỗi sợ vô lý, ám ảnh tội lỗi gây ra những rối loạn thần kinh chức năng và những sự bất
thường về tâm thần khác.

Đợi cho đến khi một vấn đề cảm xúc đạt tới mức độ nghiêm trọng mới giải quyết nó cũng giống như
là đợi dòng nước chảy nhỏ giọt trở thành dòng nước lũ cuồn cuộn. Phương pháp của đạo Phật là canh
phòng liên tục – áp dụng chánh niệm liên tục – trong khi một cảm xúc tiêu cực đang tồn tại như một
dòng nước nhỏ và đương đầu với nó ở giai đoạn này; vì khi nó đạt tới quy mô một dòng nước lũ cuồn
cuộn thì nhiều thiệt hại bên trong và bên ngoài đã xảy ra.

Cố gắng giải quyết các vấn đề cảm xúc lớn bằng bất kỳ hình thức kiểm soát đè nén nào sẽ dẫn những
nguyên nhân thực sự đi sang những hướng khác hoặc làm tăng thêm những ảnh hưởng bên ngoài, do
vậy kiểm soát cảm xúc đòi hỏi một cách nào đó tốt hơn bất cứ hình thức đối trị bề ngoài nào có thể
đem lại.

31 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Kiểm soát cảm xúc cần phải bắt đầu với điều mà Đạo Phật gọi là quán sát chi tiết trạng thái tâm. Đây
là vấn đề tự quán sát liên tục với quan điểm nhằm phát hiện ra sự có mặt của bất kỳ cảm xúc nào có
thể làm trì trệ sự tiến bộ của tâm hướng tới giác ngộ.

Việc nhận ra những cảm xúc làm ngăn trệ đó trong những dạng vi tế và kín đáo nhất của chúng rất
được coi trọng trong thực hành Phật giáo vì cần phải nhìn xem chúng có mặt vì cái gì trước khi chúng
phát triển lên một quy mô lớn hơn. Nhận biết là yếu tố cần thiết đầu tiên để kiểm soát.

Để kiểm soát các cảm xúc bạn phải biết là bạn đang kiểm soát cái gì và sự hiểu biết đó (ngoài khía
cạnh lý thuyết của nó) là công việc của chánh niệm. Nếu không có điều này thì những nỗ lực kiểm
soát chỉ bằng sức mạnh ý chí có thể suy thoái biến thành sự ức chế tai hại.

Ức chế là vấn đề đè nén những trạng thái tâm không mong muốn xuống dưới tầm chúng tiếp cận
được với ý thức. Mặt khác, công việc của chánh niệm là đem ánh sáng tròn đầy của sự tỉnh giác sắc
bén chiếu vào tất cả các trạng thái tâm, các trạng thái không mong muốn và các trạng thái khác, và
điều này rất trái ngược với ức chế.

Tất nhiên, có những trường hợp trong cuộc sống hàng ngày bạn phải dùng rất nhiều nỗ lực ý chí để
ngăn cảm xúc bột phát. Bạn phải đóng chặt cảm xúc mặc dù bạn biết rằng sự kiềm chế này gây nên
sự căng thẳng có hại về tâm và thân.

Những lúc khác bạn lại cảm thấy tuyệt đối cần thiết phải trút những cảm xúc tiêu cực ra ngoài, như
căm ghét, nhỏ nhen, hằn học mà bạn nhận biết. Bạn cảm thấy cần để cho những cảm xúc của bạn bộc
lộ ra bên ngoài bất kể hậu quả như thế nào.

Điều gì đúng và điều gì sai? Đúng và sai là những từ có tính quy ước, đôi khi nó làm mờ vấn đề thực
sự. Câu hỏi thực sự là điều nào về lâu dài sẽ ít có hại hơn? Bạn phải hoặc là kiểm soát bằng mọi giá –
và điều này theo một vài chuẩn mực là điều đúng để làm; hoặc là mặc kệ nó và để lối thoát cho
những cảm xúc sai trái của bạn.

Câu trả lời, ít nhất một phần, là bất kể bạn làm gì bạn phải làm với chánh niệm nhiều nhất có thể
trong tình huống đó. Nếu bạn phải buông ra và để các cảm xúc của bạn được bộc lộ, nếu bạn phải
nhường đường cho sự khó chịu, than thân, ghen tỵ hoặc bất cứ cảm xúc đó là gì, bạn nên ý thức nó
đầy đủ như bạn có thể và nhận ra bản chất của nó. Theo cách này, bạn sẽ kiểm soát nó ở mức độ nào
đó, nhưng một khi bạn tìm cách để biện hộ hay dối gạt bản thân về việc bạn đang làm thì bạn bắt đầu
đánh mất sự kiểm soát này.

Tất nhiên, bạn phải cân nhắc ảnh hướng của nó đến những người khác, và từ quan điểm này sự bột
phát cảm xúc thường là hoàn toàn sai trái. Từ một quan điểm – quan điểm về sự phát triển của bản
thân bạn – thì làm sai với chánh niệm tốt hơn là làm đúng mà thiếu chánh niệm; tỉnh giác hoàn toàn
với điều bạn đang làm và tại sao bạn làm vậy – mặc dù sai theo thói thường – thì tốt hơn là làm một
điều đúng theo quy ước mà mình không hiểu tại sao.

Khi những cảm xúc của bạn quá mạnh và bạn nhường đường cho sự bột phát cảm xúc, sự bột phát
này có thể được xem là một sự thất bại, nhưng vì bạn là người bình thường, không phải là siêu nhân,
những sự thất bại này thỉnh thoảng sẽ xảy ra. Nếu bạn rèn luyện bản thân trong chánh niệm – đặc biệt
là trong sự quán sát tỉ mỉ các trạng thái tâm – thì những thất bại sẽ càng ngày càng ít đi. Điều quan
trọng là tiến bộ đang diễn ra.

Bài tập thực hành

32 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts1.htm

Kiểm soát lòng khao khát


Trở nên căng thẳng trong những tình huống kích ứng thật dễ dàng, giữ được bình tĩnh không bối rối lo
âu thật khó khăn. Khó khăn bởi vì nó đòi hỏi sự rèn luyện bản thân, không phải chỉ ở mức độ thư giãn
cơ bắp mà còn ở cấp độ tinh thần. Các phương pháp thư giãn cơ bắp có giá trị to lớn trong việc mang
lại một trạng thái thư giãn nói chung của cả tâm và thân, bởi vì tâm và thân tương tác; nhưng sự thư
giãn cơ bắp cần được bổ sung bằng sự thư giãn tinh thần.

Do vậy hãy xem xét cách nào là tốt nhất để bạn có thể tiếp cận vấn đề căng thẳng ở cấp độ tâm thức.
Để làm được điều này tất nhiên bạn phải quay lại xa hơn chính sự căng thẳng, bạn phải trở lại những
yếu tố gây căng thẳng trong tâm; và những yếu tố này có thể được hiểu rộng như là lòng khát khao,
oán giận và tự khẳng định mình.

Ba yếu tố này nảy sinh từ cái mà đạo Phật gọi là ba gốc rễ của tâm bất thiện – sự ham muốn ích kỷ,
sự căm ghét và ảo tưởng. Từ ham muốn ích kỷ mà có lòng khát khao bồn chồn, từ căm ghét mà có
oán giận và từ ảo tưởng mà nảy sinh sự tự khẳng định mình. Trong ba yếu tố gây căng thẳng này –
lòng khát khao, oán giận và sự tự khẳng định mình – chúng ta hãy lấy một yếu tố làm cơ sở cho bài
tập trong chánh niệm.

Do vậy, trong vòng một tháng hoặc hơn, hãy đảm nhận giải quyết vấn đề lòng khao khát. Hãy tự thoả
thuận với mình là sau mỗi lần tự cho phép bản thân trở nên khát khao không chính đáng về bất kỳ
điều gì, bạn sẽ áp dụng một hình phạt nhỏ tự áp đặt cho mình.

Bạn tự quyết định bạn sử dụng hình phạt nào nhưng nên là một hình phạt nhẹ nhàng, hình phạt mà
bạn có thể tự áp đặt đối với bản thân mà không có chiều hướng vứt nó sang bên. Nếu thấy nó quá ư
khó chịu bạn sẽ cần giảm bớt cường độ của nó một chút; mặt khác nếu nó trở nên quá dễ dàng và
không hiệu quả, bạn sẽ cần làm cho nó cứng rắn hơn đến một mức độ nhất định.

Bạn phải nhận ra rằng lòng khát khao liên quan đến nhiều loại ham muốn (ích kỷ và những thứ khác),
đến sự dính mắc và sự sở hữu. Khi giải quyết vấn đề lòng khát khao là bạn cũng đang giải quyết các
yếu tố khác ở một mức độ nào đó.

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02

Chân thành cám ơn đạo hữu Minh Nguyệt đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 12-2007).

[Trở về trang Thư Mục]


last updated: 10-05-2009

33 of 33 4/22/2009 10:22 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Trang gốc Trang web BuddhaSasana Times (Unicode) font

THERAVĀDA
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

MỘT KỸ THUẬT SỐNG


Dựa theo các nguyên tắc tâm lý Phật giáo

Leonard A. Bullen
Minh Nguyệt dịch

Nguyên tác: A Technique of Living,


Wheel No. 226/230, Buddhist Publication Society,
Kandy, Sri Lanka, 1982

[02]

Tháng thứ bảy

Các cơ chế của sự tự dối mình

Trong tâm của mỗi con người bình thường đều có di sản của những ham muốn nguyên thuỷ được
truyền lại từ những tổ tiên trước khi có loài người và tổ tiên người sơ khai của nhân loại trong cuộc
đấu tranh sinh tồn của họ. Nhận ra những ham muốn nguyên sơ tồn tại trong bản thân là một trong
những bước đầu tiên bạn phải làm trong tiến trình đi lên trên con đường hiểu biết bản thân; khước từ
nhận ra chúng, chối bỏ nhìn nhận chúng như là những phần làm nên tâm bạn là xây lên ngay trong
tâm bạn một bức tường tự lừa dối mình.

Thuở đầu đời, vì những người khác phản đối những ham muốn nguyên sơ đó, bạn đã học cách che
đậy chúng và trong một số trường hợp xấu hổ vì chúng. Đầu tiên, bạn học từ chối thừa nhận chúng
với những người khác, rồi ở giai đoạn sau bạn từ chối – ít nhất là cố gắng từ chối thừa nhận chúng với
bản thân mình.

Một lý do của sự chối bỏ này là bạn muốn nghĩ tốt về bản thân, để bằng mọi giá giữ cho bản ngã của
mình không bị đụng chạm. Thật ngẫu nhiên, chính ý thức bản ngã này là tâm điểm của sự tự lừa dối
mình và cũng chính ý thức bản ngã này là tiêu điểm mà giáo lý của Đức Phật tập trung công kích.

Xét về các cơ chế mà tâm sử dụng trong nỗ lực tự lừa dối, sẽ hữu ích nếu chúng ta xem xét chúng về
khía cạnh cấu trúc và chức năng của não.

Theo một cách nào đó bạn có thể coi não là một hệ thống rất phức tạp gồm các đường dẫn nhỏ và
đường vòng theo đó năng lượng thần kinh di chuyển. Mỗi đường dẫn đó được gọi là một dây thần
kinh (neurogram). Khi năng lượng thần kinh di chuyển trong một đường dẫn cụ thể hay một dây thần
kinh nào đó, một ý tưởng tương ứng có khuynh hướng nảy sinh trong ý thức, khi năng lượng thần
kinh chạy sang một đường hay dây thần kinh khác, tư tưởng đầu tiên sẽ phai mờ và một ý tưởng khác
lại nảy sinh trong ý thức.

Nếu một trong những dây thần kinh ấy bị suy yếu hay bị hư hại thế nào đó, nếu còn có thể chuyên

1 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

chở năng lượng thần kinh, nó sẽ chỉ chuyên chở một cách khó khăn. Bạn có thể so sánh tình huống
này với một con đường với các ổ gà, ô tô chạy qua đó sẽ bị xóc và chao đảo. Bất cứ khi nào có thể,
người lái xe đều tránh con đường xóc, khó khăn và đau đớn đó.

Sự ví von này sẽ giúp bạn hiểu "cơ chế tránh né" của tâm, vì theo cách tương tự như vậy năng lượng
thần kinh sẽ tránh đi theo hay đi qua dây thần kinh đã trở thành khó khăn và đau đớn.

Không cần đến một biệt ngữ kỹ thuật hay sự đào tạo tâm lý học nào để nói rằng tất cả chúng ta đều
hay tránh né sự đau đớn và khó chịu. Tất nhiên, chúng ta hay tránh né cái được xác định là đau đớn
và khó chịu.

Hãy xem xét một ví dụ. Một đứa trẻ trải qua một kinh nghiệm hãi hùng, trải nghiệm đó thuộc loại gì
không phải là vấn đề quan trọng lắm, nhưng điều đó làm nó rất khiếp đảm. Khi điều đó đã qua đi một
thời gian, nó cố gắng không nghĩ tới nữa bởi vì khi nghĩ tới, nó lại trở nên sợ hãi. Điều này là hợp lý
và dễ hiểu, và tất cả những điều đó xảy ra ở cấp độ ý thức. Sau đó, nó trở thành tiềm thức.

Nhưng điều này không có nghĩa là đứa trẻ ngay lập tức xoá nhoà tất cả trí nhớ về trải nghiệm hãi
hùng đó; quá trìnhh này diễn ra từ từ theo quy luật, và lúc đầu việc đứa trẻ từ chối nghĩ về trải
nghiệm ấy không có hiệu quả. Tuy nhiên về sau, việc đó dần dần thành công và đồng thời trở thành
thói quen. Khi một hoạt động nào đó, thuộc tâm hay thân, trở thành thói quen, nó cũng trở nên ít có ý
thức hơn.

Do vậy cơ chế tránh né lúc đầu là có ý thức sau đó dần dần chìm xuống tầng tiềm thức.

Có những loại kinh nghiệm khác bên cạnh nỗi sợ hãi khởi đầu sự vận động cơ chế tránh né; ví dụ sự
khiếp sợ; kinh tởm, và nỗi đau thể chất. Mặc cảm tự ti cũng là một loại trải nghiệm, cảm giác tội lỗi
và vô giá trị cũng vậy. Không ai muốn cảm thấy mình thấp hèn, tội lỗi và vô giá trị, và tâm thức ở cả
cấp độ ý thức và tiềm thức đều có khuynh hướng tránh những cảm giác này.

Nhưng hãy quay trở lại ví dụ về người lái xe; nhận thấy con đường đầy ổ gà, khó đi và thậm chí gây
đau đớn, anh ta tránh nó; tuy nhiên anh ta vẫn mong muốn đến đích bằng cách nào đó và không từ bỏ
hành trình chỉ vì điều kiện con đường xấu. Anh ta tìm thấy một con đường khác cho dù đó là con
đường vòng dài và hành trình xa hơn.

Cũng giống như vậy, năng lượng thần kinh không chịu dừng hoạt động vì một dây thần kinh nào đó bị
ngăn trệ do bị đau, nó tìm ra một dây thần kinh khác cho nó đường đi dễ chịu. Khi điều này xảy ra
trong não bộ, trong tâm sẽ nảy sinh một ý tưởng thay thế, vì trong khi tâm từ chối cho phép ý tưởng
bị cái đau ngăn chặn phát sinh trong ý thức, nó chuyển hướng năng lượng của nó đến một ý tưởng dễ
chấp nhận hơn. Đây là cơ chế "làm trệch hướng".

Do cơ chế làm trệch hướng này, có những lúc bạn trải qua cảm xúc nhưng lại tự lừa dối về đối tượng
thực sự của nó. Vì lý do nào đó bạn không muốn gắn cảm xúc cụ thể này cho đối tượng riêng biệt đó.

Ví dụ một đứa trẻ vừa yêu vừa ghét mẹ nó. Cần phải thấy rằng trên thực tế tất cả mọi đứa trẻ đều có
những tình cảm lẫn lộn đối với cha mẹ chúng. Trên thực tế, nó có những thái độ lẫn lộn đối với nhiều
thứ quan trọng trong đời, có nghĩa là nó vừa yêu vừa ghét chúng. Nó yêu quý cha mẹ lúc này vì họ
chăm sóc nó và ghét họ lúc khác khi họ mắng chửi và trừng phạt nó; nhưng cả hai điều đối lập này
đều luôn tồn tại tiềm ẩn trong cấu trúc tâm thức của nó.

Trong khi sự biểu lộ tình cảm yêu quý của đứa trẻ được cha mẹ đón nhận thì sự biểu lộ lòng căm ghét
mang đến cho nó sự chê bai, chửi, đánh và có thể cả những bài thuyết giảng về tính xấu xa của việc

2 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

không yêu quý cha mẹ.

Trong trường hợp một đứa trẻ nhạy cảm, tất cả sự chê bai và thuyết giáo này sẽ đem lại một cảm giác
tội lỗi và đáng khinh và sau đó khi trở nên ý thức được sự căm ghét của mình, nó sẽ cố gắng kiềm
chế. Nhưng không có hiểu biết thực sự về cách mà tâm thức của mình hoạt động, những nỗ lực kiểm
soát những bột phát bản năng sẽ chỉ dẫn đến sự đè nén chúng.

Nhưng bất cứ yếu tố tinh thần nào bị đè nén đều không vì thế mà bị tiêu diệt, cảm xúc thù hận bị đè
nén sẽ phải tìm lối thoát. Vì tình cảm căm ghét của đứa trẻ không thể chĩa vào bà mẹ, nó phải chĩa
vào thứ gì khác, một thứ gì đó có vẻ ít gây ra sự phản đối chê bai của những người lớn. Ví dụ, đối
tượng thay thế này có thể là giáo viên ở trường của nó.

Do đó cảm xúc bị chê bai được chuyển từ đối tượng thật là người mẹ sang đối tượng thay thế là giáo
viên.

Bạn có thể dễ nhận thấy rằng cơ chế tránh né và cơ chế làm trệch hướng đi cùng với nhau. Năng
lượng thần kinh tránh đi trên đường dẫn của não hoặc dây thần kinh làm nảy sinh những tư tưởng và
cảm xúc tội lỗi, mặc cảm tự ti, vô giá trị, đau đớn, và nó được chuyển hướng sang những dây thần
kinh tránh những cảm giác khó chịu này. Và nếu những dây thần kinh này làm nảy sinh những tư
tưởng tự phụ, tự cao, hoặc tự đại, điều đó sẽ tốt hơn nhiều, hay ít ra nó có vẻ như vậy theo nghĩa
thiển cận.

Tương tự như nỗi đau và những cảm xúc khó chịu có thể phá huỷ một dây thần kinh, khoái lạc về thể
chất hay tình cảm có thể xoa dịu và cải thiện dây thần kinh khác và do đó tạo thuận lợi cho dòng
năng lượng thần kinh chảy qua nó.

Lại quay trở lại thí dụ về người lái xe, anh ta sẽ tránh một con đường chật hẹp đầy ổ gà và chuyển
hướng sang một con đường khác tốt hơn. Nhưng nếu có một con đường thứ ba đã được mở rộng, mặt
đường tốt và có khung cảnh đẹp, thú vị suốt chặng đường thì anh ta sẽ đi trên con đường đó bất cứ
khi nào có thể. Anh ta làm như vậy không phải lúc nào cũng vì nó dẫn đến một đích đặc biệt mà chỉ
vì sự vui thích đi trên con đường đó cùng với các quang cảnh và viễn cảnh của nó. Thậm chí anh ta
có thể làm vậy khi đáng lẽ anh ta nên đi đến nơi làm việc hoặc tập trung vào những trách vụ khác.

Cũng như vậy, năng lượng tinh thần sẽ chảy theo một dây thần kinh đem lại sự vui thích, mặc dù
không có mục đích nào khác ngoài niềm vui thích mà nó mang lại, và thậm chí nó chẳng giải quyết
vấn đề gì khác và không đưa lại một quyết định cụ thể nào. Điều này mô tả cơ chế "ngưng đọng”.

Ví dụ, nếu một đứa trẻ bị làm hư bởi sự nuông chiều, nếu bà mẹ quá chú ý đến sự thoải mái và vui
thích của nó, nếu bà ta che chở quá mức và khen ngợi con quá đáng, tất cả bằng cái giá sự phát triển
tính cách của đứa trẻ, thì năng lượng tinh thần của đứa trẻ sẽ trở nên gắn bó với hình ảnh tinh thần
của bà mẹ.

Ở đây bạn có ba cơ chế tinh thần cơ bản – né tránh, gây ra bởi một dây thần kinh nào đó bị ngăn trệ
vì đau đớn; trệch hướng, tuỳ thuộc vào dây thần kinh thay thế; và sự ngưng đọng phát sinh từ một
dây thần kinh được tạo thuận lợi quá mức.

Nếu bạn chấp nhận ý tưởng rằng cùng với nhân loại nói chung, tâm bạn tận dụng những phương thức
tự lừa dối khác nhau, bạn sẽ thấy những cơ chế đó là gốc rễ của nhiều sự tự lừa dối này và chính

3 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

những dây thần kinh bị ngăn trệ vì đau giải thích cho sự chống đối rất tự nhiên đôi lúc nổi lên khi
trong quá trình tự hiểu biết bản thân bạn buộc phải đối diện với những khía cạnh ít dịu ngọt trong tâm
trí bạn.

Sự phản kháng này xuất hiện khi ai đó chất vấn sự đúng đắn hay giá trị của sự tự dối mình mà bạn
hằng quý trọng. Sự phản kháng đó xuất hiện trên bề mặt như là sự khó chịu, sợ hãi, hoặc một loại thái
độ tinh thần không hợp lý nào đó. Chức năng của nó – nếu bạn có thể gọi nó là chức năng- là giữ cho
sự tự dối lừa được nguyên vẹn.

Cho đến khi bạn có thể vượt qua sự phản kháng này và đối diện với mọi sự tự lừa dối mình thì bạn
vẫn bất lực với chúng; chúng ngự trị tư duy của bạn, và đây là một trong những khó khăn lớn nhất
trong việc tự hiểu bản thân.

Bài tập thực hành


Kiểm soát sự cáu kỉnh và oán giận
Ít người trong chúng ta hoàn toàn vượt qua được khuynh hướng nói hoặc phản ứng một cách cáu gắt
trong những tình huống khó khăn, cũng không nhiều người trong chúng ta thoát khỏi được khuynh
hướng nuôi dưỡng sự oán giận ở mức độ nào đó. Sự oán giận này nói chung liên quan đến những tổn
thương và sự bất công nho nhỏ do người khác gây ra trên thực tế hoặc đôi khi trong tưởng tượng.

Để phục vụ những mục đích hiện tại, hãy giả thiết bạn nằm trong số đông xét về khía cạnh này. Trong
một tháng hoặc hơn, hãy giải quyết những khuynh hướng cáu gắt và oán giận của bản thân bạn, dù
chúng chỉ là nhẹ nhàng thế nào, và sử dụng chúng làm cơ sở cho bài tập chánh niệm.

Trong nhịp độ bình thường nhưng không tự nhiên của cuộc sống thật khó có thể duy trì một điều kiện
yên bình trong tất cả mọi hoàn cảnh, vì thường có quá nhiều những sự bực mình nho nhỏ trong nếp
sống hàng ngày và hậu quả là tâm trí quá thường xuyên bị khuấy động dẫn đến tình trạng giận dữ. Sự
giận dữ này không cần phải là một cơn thịnh nộ hay điên tiết; rất thường là bạn chỉ hơi giận dữ và bạn
không nhận ra trong tiến trình bình thường một ngày sự giận dữ của bạn bị khuấy động nhẹ thường
xuyên như thế nào.

Do đó bài thực tập này là vấn đề quan sát bạn một cách có phê phán và thản nhiên với ý định nhận ra
cơn giận của bạn bị khuấy động nhẹ lên thường xuyên như thế nào và trong những hoàn cảnh nào.
Trong bài luyện này, bạn không quan tâm đến sự bộc lộ của những cơn giận lớn đôi khi xuất hiện mà
bạn hoàn toàn ý thức được; chính những sự khó chịu nhỏ xảy ra không thường xuyên, những cáu
kỉnh lặt vặt nên là đối tượng của tỉnh giác gia tăng trong cuộc sống hàng ngày vì một khi những hình
thái giận nho nhỏ đó được kiểm soát tốt thành một thói quen, thì những cơn giận biểu lộ lớn sẽ được
kiểm soát dễ dàng hơn.

Rất cần nhấn mạnh ở đây rằng kiểm soát không có nghĩa là kìm nén, vì sự kìm nén một suy nghĩ chứa
đầy cảm xúc có nghĩa là nó bị nén xuống dưới tầm nó có thể tiếp cận được với ý thức. Một quá trình
như vậy rất đối lập với quá trình chánh niệm mà theo một nghĩa nào đó chánh niệm là tiến trình mở
rộng phạm vi của ý thức.

Nếu bạn có thể xây dựng được thói quen luôn luôn quán sát bình thản với sự tôn trọng các trạng thái
tâm của bạn, bạn có thể ngày càng tăng được sự kiểm soát các phản ứng với thế giới bên ngoài và dần
dần sẽ tìm thấy một mức độ cân bằng và bình yên lớn hơn.

4 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Để có được một ý thức chi tiết hơn về các chức năng và nội dung của tâm trí bạn, một phần của quá
trình này là làm quen với những thành phần khó chịu hơn của nó, những yếu tố làm trì trệ cản trở
tâm. Nếu bạn trở nên quen thuộc hơn với sự căm ghét, nỗi sợ hãi, ghen tị ẩn giấu trong tâm bạn, bạn
sẽ hiểu biết rõ ràng hơn làm thế nào để giải quyết chúng.

Hãy lập một giao ước với bản thân, một nghị quyết – thoả ước, với hiệu lực là bạn sẽ tự bắt mình chịu
một hình phạt nhỏ ngay sau mỗi lần bạn phản ứng một cách cáu kỉnh hay nuôi dưỡng những ý nghĩ
oán giận.

-ooOoo-

Tháng thứ tám

Giáo lý Đạo Phật về Vô ngã


Sự tự khẳng định, sự khẳng định về các quyền và đặc quyền riêng của một người, về tầm quan trọng
của một con người, và về sự tồn tại riêng biệt và cá thể của một con người: đây là một trong những
cách thức cơ bản của phản ứng bản năng đối với nhiều tình huống trong cuộc sống. Nó là một trong
những yếu tố hàng đầu trong cuộc tìm kiếm sự hài lòng cá nhân.

Đó là cuộc kiếm tìm không bao giờ kết thúc, cuộc tìm kiếm cho sự hài lòng cá nhân; vì mỗi sự thoả
mãn đạt được chỉ là nhất thời, và sớm hay muộn cuộc tìm kiếm phải bắt đầu lại. Theo giáo lý đạo
Phật, kiếm tìm hạnh phúc bằng cách tự khẳng định là cách chắc chắn nhất để mãi mãi kéo dài nỗi
buồn khổ và những yếu tố bất toại nguyện trong đời sống cá nhân, vì hạnh phúc vĩnh viễn chỉ có thể
tìm được nhờ phá mà thoát khỏi niềm tin sai lầm về một cái tôi tách biệt ra khỏi đời sống như một
tổng thể.

Đặc điểm khác biệt nhất của đạo Phật là giáo lý dạy rằng cốt lõi thâm sâu nhất của sự tồn tại cá thể
không phải là một cái tôi hay một cái ngã cố định không thay đổi mà là một dòng năng lượng nhất
thời và liên tục thay đổi. Điều này, nếu được theo đuổi đến cùng, sẽ dẫn đến cách xử sự không khẳng
định thay cho tự khẳng định, và do đó sự không khẳng định cần phải được tu dưỡng trong cuộc tìm
kiếm hạnh phúc tối thượng.

Một trong những đặc điểm cơ bản của thế giới xung quanh ta là hoàn toàn vắng mặt sự vĩnh cửu (vô
thường). Một vài thứ có thể tồn tại lâu và đúng là có vẻ ít thay đổi trong nhiều năm; nhưng không có
gì là tồn tại mãi mãi hiểu theo bất kỳ một nghĩa chân thật nào. Bạn sẽ nhận thấy rằng dễ thừa nhận sự
vô thường theo cách hời hợt; nhưng bạn cũng sẽ nhận thấy rất khó chấp nhận sự thật đó với tất cả
những hàm ý của nó.

Chúng ta sống trong một thế giới của vô thường, nhưng cùng lúc chúng ta lại cố gắng né tránh sự vô
thường này bằng cách khiến những thứ mà ta mong ước tồn tại lâu dài hết khả năng của ta. Khi trở
nên già, chúng ta cố gắng duy trì một vẻ bề ngoài trẻ trung nào đó. Trong khi thừa nhận sự thực về vô
thường, chúng ta thấy nó thật khó chịu và từ chối chấp nhận nó. Chúng ta thành công trong việc chối
bỏ nó ở chừng mực nào, thì chúng ta đang lừa dối bản thân ở chính chừng mực đó.

Tất nhiên, chúng ta biết là phải chấp nhận nỗi khổ, nỗi buồn đau nào đó, pha trộn với hạnh phúc
trong vòng sinh tử này; nhưng vì không biết đến sự tồn tại nào khác, chúng ta không có sự lựa chọn
nào khác mà phải tiếp tục tìm kiếm hạnh phúc bằng cách làm hài lòng những mong ước của mình.

5 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Chúng ta nghĩ rằng đây là cách duy nhất để chúng ta có thể đạt được hạnh phúc; và ở đây một lần
nữa chúng ta lại lừa dối mình.

Trong nỗ lực ngăn chặn sự vô thường luôn bao bọc xung quanh ta và trong cuộc đấu tranh kiếm tìm
hạnh phúc trong một thế giới pha trộn cả niềm vui lẫn nỗi đau, nhiều lúc chúng ta bị buộc phải tự
khẳng định bản thân và hành động xuất phát từ lợi ích bản thân mà không biết rằng xét cho cùng, sự
tự khẳng định mình là kẻ thù tinh quái của hạnh phúc. Ở đây chúng ta lại một lần nữa tự lừa dối mình.

Như vậy chúng ta đang lừa dối bản thân theo ba cách chính. Khi tìm kiếm sự thường hằng trong một
thế giới cơ bản là vô thường, chúng ta đang làm giảm chứ không phải là làm tăng thêm niềm hạnh
phúc. Khi tìm kiếm hạnh phúc trong vòng sinh tử, chúng ta đang nhìn theo một hướng sai. Và khi tự
khẳng định mình, chúng ta đang làm chính cái việc khiến hạnh phúc tròn đầy trở nên không thể.

Do đó, giáo lý của Đức Phật tuyên bố rằng trên thực tế chúng ta phải hiểu và hoàn toàn chấp nhận ba
đặc tính cơ bản của hiện hữu, đó là:

1- Sự thật là tất cả mọi thứ trong vũ trụ tương đối này là vô thường;

2- Sự thật là tất cả mọi thứ trong vũ trụ tương đối này luôn ở trong tình trạng bất an, một tình trạng
mà trong đó tất cả chúng hữu tình có thể phải chịu đau khổ; và

3- Sự thật là không một sinh vật nào có một cái tôi, linh hồn hay tự ngã cố định, không thay đổi, vĩnh
hằng.

Bạn sẽ thấy là ba đặc điểm cơ bản này của thế giới tương đối – vô thường, khổ, và vô ngã – có tầm
quan trọng cơ bản trong đạo Phật.

Đặc tính đầu tiên, vô thường được nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại, vì sự dính mắc của chúng ta vào
những thứ vô thường đã giam hãm chúng ta trong vòng quay luân hồi sinh tử.

Đặc tính thứ hai, khổ, là điểm khởi đầu của đạo Phật, vì con đường của đức Phật chủ yếu nói về khổ
và chấm dứt khổ. Xét về những nguyên tắc cơ bản, tất cả mọi phần tử của thế giới này đều ở trong
tình trạng bối rối, và ở tất cả chúng hữu tình, những cấp độ bối rối lo âu lớn hơn trở thành những mức
độ khổ đau khác nhau. Một số mức độ bối rối thấp hơn được biết đến như là niềm vui, và sự khác
nhau giữa niềm vui và nỗi khổ nằm ở mức độ của sự bối rối.

Đặc tính thứ ba, vô ngã, là tâm điểm của toàn bộ giáo lý của đức Phật, là thành tố trung tâm của toàn
bộ giáo lý. Bạn không thể hiểu giáo lý của đức Phật nếu bạn không hiểu ý nghĩa của vô ngã ngay từ
đầu. Không phải là vấn đề quá lớn nếu bạn quên những chi tiết nhỏ trong quy luật tác động và phản
ứng hoặc những sự tinh vi huyền ảo trong siêu hình học Phật giáo, nhưng sẽ là vấn đề nếu bạn không
nắm bắt được ý nghĩa của vô ngã. Tất cả mọi thứ đều tập trung ở điểm này và không hiểu nó thì nhiều
thứ trong đạo Phật có thể không có ý nghĩa gì nữa.

Trong thực hành con đường của đức Phật, tầm quan trọng của thuyết vô ngã này thậm chí còn quan
trọng và có ý nghĩa sống còn hơn. Nếu bạn muốn thực hành đạo Phật, khác với việc biến nó thành
một trò chơi trong nhà như cờ vua, bạn phải tập trung chú ý vào việc đánh bại khái niệm tự ngã của
bạn và nhận ra sự dối lừa của nó.

Đi theo những nề nếp đạo đức bên ngoài chỉ là bước khởi đầu của sự tu tập. Những tập quán truyền
thống của đạo Phật được thực hiện ở phương Đông là đúng theo thông lệ ở khu vực của họ, nhưng
những tập quán đó được du nhập vào phương Tây có lẽ chỉ mang lại những lợi ích phụ mà làm suy
yếu sự tấn công vào khái niệm về cái tôi. Nói về đạo Phật cho đến đau quai hàm có thể khiến những

6 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

người khác giác ngộ, nhưng nó thường chủ yếu chỉ làm chức năng phương tiện của sự khẳng định cái
tôi. Không gì trong những điều sau đây – đạo đức nông cạn, sự tuân thủ các tập quán, và nói về đạo
Phật – có giá trị rốt ráo nếu nó không đưa đến nỗ lực xoá bỏ ảo tưởng về cái tôi.

Lý do mà giáo lý về vô ngã có tầm quan trọng cực kỳ như vậy là vì niềm tin về một cái tôi riêng lẻ
vĩnh hằng là điểm chính yếu nhất trong cái vô minh căn bản mà theo đạo Phật nó được xem là nguồn
gốc của mọi khổ đau; vì khi nào ảo tưởng về cái tôi được phá vỡ dứt khoát thì cái vô minh căn bản ấy
cũng được diệt trừ.

Vấn đề vô ngã thực sự là một trường hợp cụ thể của vô thường; bởi vì điều đó có nghĩa là một chúng
sinh không sở hữu một linh hồn vĩnh hằng hoặc một linh hồn không thay đổi ở trung tâm tồn tại của
mình, mà bao gồm một dòng sống vô thường và luôn thay đổi, không bao giờ y nguyên trong hai thời
điểm kế tiếp. Theo điều này thì không có một hạt nhân cứng tại trung tâm tồn tại của một chúng sinh,
không có một linh hồn vĩnh cửu, không có một cái tôi cố định hoặc không thay đổi được. Theo nghĩa
này, cái tôi không tồn tại.

Tuy nhiên, nói rằng cái tôi không tồn tại một cách thẳng thừng và trơn toẹt như vậy không thể hiện
được một bức tranh chân thực. Sẽ hay hơn nhiều khi nói rằng cái tôi không tồn tại theo cách chúng ta
nghĩ nó tồn tại. Cái tôi không tồn tại như một thực thể không biến đổi, nhưng nó thực sự tồn tại như
một dòng sống biến động hoặc biến đổi thất thường, như một dòng hiện hữu luôn thay đổi.

Theo khái niệm của đạo Phật về sự vật thì chúng sinh được mô tả như là "một tiến trình giống lửa,
cháy nhờ một sức mạnh đặc biệt riêng cho nó". Hãy đặc biệt lưu ý thuật ngữ “một tiến trình giống
lửa": điều này thể hiện rất chính xác ý tưởng đó, vì bạn sẽ nhận thấy rằng giáo lý của Đức Phật nhắc
đi nhắc lại khẳng định bản chất năng động của tồn tại không có một thực thể tĩnh tại ở bất kỳ đâu.

Tiến trình giống lửa này (là phương pháp tiếp cận gần nhất với cái tôi hay linh hồn mà bạn luôn tìm
thấy trong đạo Phật) là một dòng chảy sống. Trong con người, nó thể hiện bằng ngũ uẩn. Đầu tiên, nó
xây dựng nên xung quanh mình một cơ thể vật chất (sắc uẩn). Thứ nhì, nhờ vào cơ thể vật chất ấy nó
kinh nghiệm tồn tại dưới dạng thọ lạc, thọ không lạc không khổ và thọ khổ (thọ uẩn). Thứ ba, nó kinh
nghiệm được sự tồn tại dưới dạng tri giác (tưởng uẩn). Thứ tư, nó phản ứng lại những trải nghiệm ấy
nhờ những khuynh hướng ý chí, hay các yếu tố quyết định, nhờ đó nó phân loại các cảm thọ và nhận
thức và nó quyết định đường lối hành động (hành uẩn). Và thứ năm, có một khả năng nhận thức cơ
bản hoạt động như ý thức và cũng hoạt động ở tầng tiềm thức (thức uẩn).

Nói cách khác, tiến trình giống lửa mà chúng ta gọi là một dòng này bao gồm vô số các thành tố cả
vật chất lẫn tinh thần; những thành tố này được sắp xếp thành năm nhóm nhằm mục đích phân tích
con người cá thể. Năm nhóm thành tố vừa được chúng ta đề cập ngắn gọn có thể được mô tả đầy đủ
hơn theo cách sau.

Nhóm thành tố thứ nhất – cơ thể. Bạn với tư cách một con người cá thể bao gồm tâm trí và cơ thể;
diễn đạt tổng quát, có thể nói cơ thể bạn là một tập hợp các thành tố vật chất giúp tạo nên dòng đời
của bạn, cái được gọi là cái tôi của bạn.

Nhóm thành tố thứ hai – các cảm thọ. Bạn nhận thức thế giới xung quanh bằng năm giác quan của cơ
thể và cũng bằng những tư tưởng bạn tạo nên từ những ấn tượng giác quan đó. Khi nhận thức được
về một tác nhân kích thích như vậy – nghĩa là về một đối tượng của giác quan hoặc một ý tưởng –
bạn kinh nghiệm được nhận thức dễ chịu, hoặc nhận thức khó chịu, hay nhận thức trung tính không
dễ chịu cũng không khó chịu về nó. Đặc tính này của nhận thức được gọi là cảm thọ, tất cả các cảm
thọ dễ chịu, trung tính và khó chịu đều được bao gồm trong nhóm thành tố thứ hai này.

7 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Nhóm thành tố thứ ba – tri giác (tưởng uẩn). Trong tâm lý học Phật giáo có sáu loại tri giác nhận thức
khác nhau. Đó là (1) nhãn tưởng, (2) nhĩ tưởng, (3) tỹ tưởng, (4) thiệt tưởng, (5) thân xúc tưởng
(hoặc sử dụng thuật ngữ thần kinh học, tri giác xúc giác của cơ thể bao gồm tri giác về thân nhiệt và
tiếp xúc), và (6) ý tưởng. Từ được dịch là tri giác bao gồm cả sự nhận biết và khả năng nhận biết, xác
định và so sánh sự khác biệt và giống nhau giữa các yếu tố kích thích.

Nhóm thành tố thứ tư – các yếu tố quyết định (hành uẩn). Hai nhóm thành tố trước (cảm thọ và tri
giác) bao gồm các yếu tố tâm hơi thụ động. Điều đó có nghĩa là các cảm thọ và tri giác là những hình
thái nhận thức xuất hiện liên quan đến việc tiếp nhận các tác nhân kích thích đang đến. Ngược lại,
nhóm thứ tư bao gồm các thành tố mang bản chất chủ động hay năng động. Chúng tập trung vào ý chí
hoặc quyết tâm, và quyết định các hành động của con người; và vì lý do đó chúng ta có thể gọi chúng
là các yếu tố quyết định.

Có năm mươi yếu tố quyết định (hành uẩn) thường được liệt kê và tôi không có ý định làm bạn chán
bởi việc thảo luận tất cả những yếu tố này. Tuy nhiên, tôi sẽ nêu ra vài yếu tố.

Đầu tiên là nhận thức tiếp xúc (xúc), sự xúc chạm hay gặp gỡ ban đầu của một đối tượng giác quan
hay đối tượng tâm trí (cảnh) với giác quan (căn) và sự nhận biết (thức).

Yếu tố tiếp theo được đề cập ở đây là ý chí hay quyết tâm (tư / cetana). Yếu tố này nổi trội hơn tất cả
các yếu tố quyết định khác và đến một mức độ nào đó nó kiểm soát các hoạt động của các yếu tố
quyết định kia, do đó ảnh hưởng đến các khuynh hướng của tư duy, ngôn ngữ và hành động.

Tiếp theo có một điểm nổi bật, nhờ đó tâm trí được tập trung trong một thời gian vào một đối tượng
cảm giác hay ý tưởng (tâm sở nhất hành). Sức sống của tâm là yếu tố tiếp theo và gần như song hành
mặc dù không giống hệt với năng lượng thần kinh (tâm sở mạng căn). Tiếp theo là sự chú ý, khả năng
tâm đưa đối tượng cảm giác hay tư tưởng tới tâm điểm của ý thức (tác ý / manasikara).

Năm tâm sở tôi vừa nêu trên có mặt trong tất cả các hình thái của thức, cùng với thọ và tưởng (tức tri
giác), cả thảy làm nên bảy yếu tố tinh thần chung (hay còn gọi là tâm sở biến hành - ND).

Các yếu tố khác trong nhóm các yếu tố quyết định là sự đính áp (tâm sở tầm) (sự gắn ghép ban đầu
của ý thức khi một ấn tượng mới nhập tâm); suy luận là khả năng tìm kiếm trong tâm thức sự nhận
dạng và những liên tưởng đến một ấn tượng mới nhập (tâm sở tứ); nỗ lực tinh thần (tâm sở tinh tấn);
thích thú (tâm sở hỷ); ý muốn (tâm sở dục); và tính quyết định hoặc khả năng quyết định giữa hai
hướng hành động (tâm sở thắng giải).

Không có yếu tố nào trong những yếu tố quyết định đã nêu trên mang tính đạo đức hoặc phi đạo đức.
Tuy nhiên, những yếu tố còn lại trong nhóm thành tố này có liên hệ đến các tính chất đó, và chúng
được phân loại thành 25 yếu tố quyết định mang tính thiện (tâm sở thiện) và 14 yếu tố mang tính bất
thiện (tâm sở bất thiện).

Trong các yếu tố quyết định mang tính thiện có tính hào phóng (tâm sở vô tham), thiện chí (tâm sở vô
sân), không si mê (tâm sở trí tuệ); các yếu tố quyết định mang tính bất thiện bao gồm tính tham lam
(tâm sở tham), ác ý (tâm sở sân), ảo tưởng (tâm sở si), giáo điều (tâm sở tà kiến), ghen tỵ (tâm sở tật),
và lo lắng bồn chồn (tâm sở hối). Một yếu tố quyết định khác được gọi chung là tự phụ (tâm sở ngã
mạn), trên thực tế giống khái niệm phức cảm tự ti của phương Tây.

Chắc chắn bạn sẽ thấy một số yếu tố có thể khá tương đương với các khái niệm bản năng trong tâm
lý học Phương Tây, những ham muốn và cảm xúc nảy sinh cùng với hoạt động của những bản năng

8 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

này và, những thói quen tư duy được xây dựng nên từ sự lặp lại thường xuyên các suy nghĩ.

Nhóm thành tố thứ năm – khả năng nhận thức cơ bản (thức uẩn): Trong tâm lý học Phật giáo thì tâm
trí – cả trong hình thái ý thức đầy đủ và các chức năng tiềm thức của nó – là một hình thái của năng
lượng, cùng một ý nghĩa như ánh sáng và điện là các hình thái của năng lượng; và thiếu sự có mặt của
hình thái năng lượng đặc biệt này thì các nhóm thành tố tâm khác không thể xuất hiện.

Khả năng nhận thức cơ bản hoạt động theo con đường sáu nhánh thông qua các giác quan khác nhau.
Thứ nhất, nó hoạt động như nhận thức về thị giác khi nó thực hiện chức năng nhờ mắt và nhận biết
hình ảnh toàn bộ. Thứ hai như nhận thức về thính giác nhờ tai và nhận biết âm thanh; thứ ba như
nhận thức về khứu giác nhờ cảm giác mùi; thứ tư như nhận thức về vị giác nhờ gai nếm ở lưỡi và nơi
khác nữa; thứ năm là nhận thức về thân nhờ rất nhiều cơ quan đầu mút cảm giác về sự tiếp xúc, nhiệt
độ, và các giác quan cảm xúc khác của thân thể, và thứ sáu là ý thức về tâm – sự nhận thức các tư
tưởng – nhờ các cơ quan của tâm.

Tất cả các trạng thái tâm được xem như mang một mức độ nhận thức, kể cả những trạng thái tâm có
vẻ như vô thức; nhưng nhận thức trong những trạng thái được gọi là vô thức và tiềm thức có cường
độ quá thấp để có thể ghi vào trí nhớ, và do đó sau này người ta không thể nhớ lại.

Sự phân tích con người thành năm nhóm thành tố (ngũ uẩn) như vậy đối với bạn có vẻ khô khan và
hơi mang nặng tính kỹ thuật và có lẽ khá vô nghĩa. Nhưng nó có nghĩa và ý nghĩa là nó liên quan trực
tiếp tới giáo lý về vô ngã. Ý nghĩa là mỗi trong các nhóm thành tố là vô thường, biến động thất
thường, và luôn luôn thay đổi; và trong vô số những thành tố của một tồn tại cá nhân không thể tìm
thấy cái gì mang một bản chất cố định và thường hằng.

Nhóm thành tố thứ nhất – thân, thay đổi trong suốt thời gian, nhanh hay chậm, lớn lên hay bé đi, kiệt
sức hay tự hồi phục, ấm lên hay lạnh đi, hoặc thay đổi theo cách nào đó.

Bốn nhóm thành tố thuộc tâm cũng qua nhanh như vậy, hay có khi nhanh hơn. Cảm thọ khởi lên và
mất đi từng phút từng phút, và tri giác cũng sinh diệt tương tự như vậy; trong khi đó các yếu tố quyết
định bị quy định hoặc lệ thuộc vào cảm thọ và tri giác cũng thay đổi theo. Khả năng nhận thức cơ
bản, hoạt động như ý thức, liên tục thay đổi từng sát-na, cũng vô thường như tất cả những thành tố
khác.

Do vậy, bạn có thể thấy mục đích của sự phân tích về tồn tại cá thể này là chỉ ra rằng không ở đâu có
thể có một cái tôi hay một linh hồn bất diệt. Một ngọn sóng dâng lên trên đại dương của sự trở thành,
và bạn là ngọn sóng đó; một ngọn sóng khác xuất hiện ở gần, và tôi là ngọn sóng đó; trong khi đó tất
cả xung quanh chúng ta là những ngọn sóng khác, những sinh vật khác, những con người, những con
kiến, những con voi, những con mèo và những con chó.

Sớm hay muộn, mỗi ngọn sóng sẽ hoà vào đại dương của sự trở thành; nhưng những lực bao gồm cả
con sóng đó khiến cho một ngọn sóng mới xuất hiện ở một nơi nào đó. Con sóng mới không y hệt con
sóng cũ, nhưng cũng không hoàn toàn khác nhau; có một sự tiếp nối, nhưng không có một cá thể cố
định không thay đổi. Cũng như vậy, khi một sinh vật chết đi, một ít năng lực nào đó của dòng sống
khiến một sinh vật mới ra đời. Sinh vật mới không đồng nhất với sinh vật cũ, nhưng nó không hoàn
toàn khác sinh vật cũ; có một sự tiếp nối, nhưng không có một thực thể cố định.

Vì tiêu điểm của đạo Phật là sự nhận ra cái tôi (ngã) là một ảo tưởng, mục đích cuối cùng đương
nhiên là phá vỡ ảo tưởng. Mục đích cuối cùng này là đạt đến Vô sinh, là hạnh phúc tột bực vượt ra
ngoài hạnh phúc bình thường của đời sống cá nhân. Theo một nghĩa thì nó là sự tiêu diệt, nhưng chỉ là
sự huỷ diệt thứ hư ảo. Vô sinh là trạng thái vượt ra ngoài ngôn ngữ và ra ngoài tư duy, nó xảy đến

9 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

không ngờ khi ảo tưởng về bản ngã bị tiêu diệt; bởi vì nó là thế giới của vô thường và đau khổ đã bị
nhận ra là hư ảo khi được đo lường theo khái niệm tối hậu.

Vậy thì bây giờ đâu là tầm quan trọng của vô ngã liên quan đến chừng mực đời sống hàng ngày của
bạn? Tầm quan trọng của nó là ở chỗ cái tôi mà bạn nuôi dưỡng âu yếm đến thế, cái ngã mà bạn thích
bành trướng và ghét phải rút lui là một sự ảo tưởng và là nguyên nhân tột cùng dẫn tới đau khổ của
bạn. Mỗi hành động bạn thực hiện nhân danh cái tôi ảo tưởng chỉ là để đổ rất nhiều năng lượng xuống
cống. Một khi bạn nhận ra được sự thật về vô ngã ấy, một khi bạn học được cách thường trực ý thức
được nó và rèn luyện cách cư xử phù hợp, nó nhất thiết phải thay đổi phong cách sống của bạn và
khiến bạn có thể dũng cảm chịu đựng được những sự cự tuyệt, thờ ơ, chối từ mà thế giới này đôi lúc
chất chồng lên bạn.

Học thuyết vô ngã có thể được tóm tắt súc tích như sau:

"Các bạn, những kẻ nô lệ của cái tôi, những kẻ làm lụng quần quật từ sáng tới tối để hầu hạ cái tôi,
những kẻ sống trong nỗi sợ hãi không ngớt về sinh, già, bệnh, chết, nhận được một tin tốt lành là
ông chủ tàn bạo của bạn không tồn tại."

Phức cảm tự ti

Bạn có thể thấy thú vị khi xem xét khái niệm của phương Tây về phức cảm tự ti dưới ánh sáng giáo lý
của đạo Phật về vô ngã. Bạn sẽ nhớ lại khi thảo luận về các thành tố của hiện hữu cá thể mà chúng ta
gọi là các yếu tố quyết định – những yếu tố tinh thần chủ động hay năng động – chúng ta đã đề cập
đến một yếu tố được gọi chung là tính ngã mạn. Theo giáo lý của đức Phật, yếu tố quyết định này có
ba loại.

Thứ nhất là sự ngã mạn khiến một người nghĩ rằng "Tôi kém cỏi hơn người kia", hình thái thứ hai của
ngã mạn khiến phát sinh tư tưởng "Tôi bằng người kia", và thứ ba là loại ngã mạn khiến người ta nghĩ
rằng "Tôi hơn người kia".

Từ điều này thấy rõ ngã mạn hiểu theo cách này có nghĩa là một yếu tố tâm không chỉ khiến một
người cảm thấy hơn người khác (cái nghĩa thường được gán cho từ này) mà nó gợi cho người ta quan
tâm đến sự kém, ngang bằng, vượt trội của bản thân so với người khác.

Do đó, bạn có thể thấy ý nghĩa này của ngã mạn rất tương đồng với ý tưởng của phương Tây về phức
cảm tự ti nảy sinh từ mối quan tâm vị kỷ và không lành mạnh của riêng một người tới sự kém hơn,
ngang bằng và tốt hơn so với những người khác.

Hãy xem xét vấn đề phức cảm tự ti này từ quan điểm của tư duy phương Tây.

Tất cả chúng ta đều biết sẽ cảm thấy như thế nào khi bị loại ra ngoài một cuộc đàm luận. Tất cả
chúng ta đều biết sẽ cảm thấy thế nào khi những người khác trong nhóm nói về những điều mà chúng
ta chẳng biết gì cả, và nó tệ hơn như thế nào khi họ nói về chúng gần như thể chúng ta hoàn toàn
không có mặt ở đó. Không ai – bạn hay tôi hoặc bất kỳ người bình thường nào thích bị phớt lờ.

Bị phớt lờ khi chúng ta muốn được thừa nhận có nghĩa là cảm thấy thấp kém.

Tất cả chúng ta cũng đều biết cảm giác e dè ngượng ngập một cách đau đớn là thế nào. Không nghi
ngờ gì, bạn có thể nhớ lại tình huống người ta trông chờ bạn nói một điều gì đó hoặc làm một cái gì đó
khi mọi sự chú ý tập trung vào bạn: bạn ngập ngừng và ấp úng mà không biết rõ phải nói hoặc làm gì.

10 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Do đó, bị chú ý quá nhiều khi bạn cảm thấy không ngang tầm với hoàn cảnh, có nghĩa là cảm thấy
thấp kém.

Như thế, điều này có nghĩa là có những tình huống mà bạn hoan nghênh sự chú ý, vì bạn biết mình có
thể xử lý thoả đáng tình huống trong tầm tay. Do đó bạn có thể cảm thấy hơi tự cao. Và có thể nói là
có những lúc bạn không thích bị đưa vào tâm điểm mà muốn đứng ngoài rìa vấn đề.

Đôi khi sự chú ý bộc lộ sự yếu kém của bạn và bạn bực bội vì nó mang lại cho bạn cảm giác tự ti; lúc
khác sự chú ý lại phô bày những điểm tốt của bạn, nên bạn hoan nghênh nó; nó khiến bạn cảm thấy
nổi trội và quan trọng.

Cảm giác tự cao và tự ti tuỳ thuộc nhiều vào việc những người khác có tán thưởng bạn hay không,
hoặc ít nhất là có chấp nhận những gì bạn nói và làm không.

Không nghi ngờ gì là suốt cuộc đời bạn đã có những trải nghiệm, trong đó bạn cảm thấy tự ti và tất cả
những trải nghiệm ấy đã được xây dựng dần thành một cấu trúc tâm phức tạp được biết khái quát là
phức cảm tự ti.

Tất cả chúng ta, những con người bình thường đều có một loại phức cảm tự ti nào đó. Phức cảm của
bạn có thể mạnh mẽ hoặc chỉ nhẹ nhàng; nó có thể mạnh tới mức ngự trị bạn, hoặc bạn có thể đã nắm
được cách hiểu và kiểm soát nó; nhưng trừ phi tình cờ bạn là siêu nhân, bạn hẳn phải có một loại
phức cảm tự ti nào đó. Đó là một phần của bộ thiết bị chuẩn trong tâm trí con người và nó đã có giá
trị tiến hoá đặc biệt trong quá khứ.

Bạn ít khi nghe thấy người ta nhắc đến phức cảm tự tôn. Tại sao? Thực tế là phức cảm tự tôn – bề
ngoài có vẻ như ngược hẳn lại – cũng giống hệt phức cảm tự ti. Muốn cảm thấy trội hơn cũng khá
giống với việc không thích cảm giác thấp kém và cơ chế tâm của phức cảm này cũng giống cơ chế
tâm của phức cảm kia.

Hãy xem xét ý nghĩa của thuật ngữ phức cảm tự ti. Ngoài ý nghĩa tâm lý học, một phức hợp là một số
những thứ được kết hợp lại với nhau theo một cách để tất cả chúng có thể hoạt động như một đơn vị.
Theo nghĩa này, bạn có thể gọi một cái máy khâu là một phức hợp vì nó bao gồm một số bộ phận
được gắn kết với nhau để hoạt động như một đơn vị; tất nhiên bạn không thể gọi chính những bộ
phận này là một phức hợp nếu chúng được chồng thành một đống.

Theo nghĩa tâm lý học thì bạn có thể coi một phức cảm nghĩa là một số các tư tưởng được tập hợp lại
với nhau để chúng có thể thực hiện chức năng như một đơn vị.

Một phức cảm như vậy có thể liên quan đến bản năng hung hăng và khuấy động cảm giác giận dữ.
Một phức cảm khác – hay bất cứ tư tưởng nào hình thành nên một phần của nó – có thể khiến bản
năng trốn chạy hoạt động và do đó sinh ra một hình thức sợ hãi nào đó; phức cảm như vậy được gọi
là nỗi ám ảnh.

Còn một phức cảm khác có thể khuyến khích bản năng tự khẳng định và mang theo nó cảm giác tự
cao và tự đại, hay nếu bị ngăn trở thì mang lại cảm giác tự ti.

Bản năng riêng mà một phức cảm liên quan đến – ví dụ như sự hung hăng, trốn chạy, tự khẳng định –
là yếu tố liên kết và điều phối trong phức cảm đó.

Khi bạn khẳng định bản thân theo một cách nào đó và bị cản trở, hay khi bạn gắng thử thể hiện sự
vượt trội và thất bại, tự nhiên bạn sẽ cảm thấy tự ti, và mỗi thất bại bạn phải chịu sẽ để lại vết tích

11 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

trong kho ký ức của bạn.

Toàn bộ những vết tích của những nỗ lực tự khẳng định mình bị ngăn trở đó tạo nên phức cảm tự ti
của bạn. Phức cảm tự ti không giống như cảm giác tự ti, vì đây là cảm giác nảy sinh khi một phức
cảm bị kích động và sau đó bị ngăn trở.

Mặt khác, khi phức cảm tự ti của bạn bị kích động biến thành hành động và hành động này thành
công thì bạn có cảm giác nổi trội.

Tại sao phức cảm tự ti lại quan trọng như vậy? Trong quá trình tiến hoá của con người từ tổ tiên trước
loài người, chúng ta có thể thấy cá thể với những bản năng hung hăng và tự khẳng định mạnh mẽ nhất
sẽ là những người có nhiều khả năng sống sót nhất trong những hoàn cảnh khó khăn. Trong một cuộc
chiến đấu, ai kém hung hăng rất có thể bị diệt vong. Trong một cuộc tranh giành thức ăn, những ai
thiếu tự khẳng định rất có thể bị đói, suy nhược và chết.

Hung hăng và tự khẳng định là hai bản năng liên quan chặt chẽ với nhau; chức năng chính của hung
hăng là đánh bại một kẻ thù hoặc một đối thủ, chức năng của tự khẳng định (một phần) là hăm doạ kẻ
thù hoặc đối thủ. Sự tự khẳng định còn có một khía cạnh khác, vì chúng ta thấy nó hoạt động dưới
hình thức tự khoe khi đi tán tỉnh.

Do đó bạn có thể thấy sự tự khẳng định có một giá trị sống còn không chỉ trên lĩnh vực tồn tại của cá
thể, mà còn cả trên lĩnh vực tồn tại của chủng tộc.

Vì bản năng tự khẳng định của bạn quá quan trọng nên phức cảm tự ti cũng quan trọng, và do đó, nó
lại có ảnh hưởng sâu xa đến toàn bộ cuộc sống của bạn.

Thực hành không tự khẳng định

Nếu bạn thấy phức cảm tự ti có ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của mình và nếu bạn quyết định giải
quyết nó bằng một hình thức luyện tâm nào đó, thì có một kỹ thuật Phật giáo cổ xưa có thể ứng dụng
trực tiếp vào việc này.

Một nguyên tắc vận hành cơ bản của tâm lý học Phật giáo là cố gắng luôn nhìn nhận mọi sự như nó
thực sự là, luôn hành động để có sự nhận thức rõ ràng như là sự đối nghịch với sự tự lừa dối mình hay
ảo tưởng. Kỹ thuật sử dụng cho sự nhận thức rõ ràng này là chánh niệm, và một khía cạnh của chánh
niệm được gọi là niệm chi tiết trạng thái tâm.

Niệm chi tiết trạng thái tâm nhằm làm tăng sự tự hiểu biết, đặc biệt là về đặc tính xúc cảm của các
trạng thái tâm khác nhau.

Ở đây không nói về một kiến thức lý thuyết về những gì diễn ra trong tâm trí con người nói chung,
mặc dù kiến thức lý thuyết này đôi khi rất hữu ích; mà nói về sự nhận biết chi tiết và trực tiếp những
gì diễn ra trong tâm trí của chính bạn.

Nó là sự nhận biết sắc bén đặc tính xúc cảm của mỗi trạng thái tâm như và khi nó xuất hiện, và ở một
mức độ nào đó cả trong khi nó được hồi tưởng. Nó là một hình thức tự quan sát nhằm phá vỡ sự tự
lừa dối và giữ cho dòng ý thức không bị vướng vào ảo tưởng.

Kỹ thuật này bao gồm sự hình thành một thói quen mới, thói quen chú tâm một cách trần trụi. Để ý
thuật ngữ này – "sự chú ý trần trụi", nó có nghĩa là sự chú tâm bị lột bỏ tất cả những sự gợi ý cảm xúc
và những dòng tư tưởng ngầm, sự chú ý không mắc thiên kiến, không mắc định kiến và không tự lừa
dối bản thân.

12 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Chỉ đơn thuần bằng sự chú ý trần trụi bạn mới có thể thấy mọi sự như chúng thực sự là, bởi vì cảm
xúc làm mờ và tô màu nhận thức của bạn.

Hình thành thói quen mới này là không dễ. Tâm bạn, như bạn biết, thích chạy trên những đường mòn
sâu cũ, và cần có sự kiên trì quan sát tự thân và trung thực với bản thân để phá vỡ những đường mòn
ấy.

Không có cách nào dễ dàng và không có con đường nào nhanh chóng để hình thành được thói quen
chú tâm trần trụi, nhưng có một sự chỉ dẫn quý giá liên quan đến vấn đề phức cảm tự ti. Đó là: mỗi
khi bạn cảm thấy mình quan trọng hay vượt trội, bạn nên cố gắng để nhận ra nó chỉ là một bản năng
xưa cũ ngự trị trí tuệ mình. Khi trí tuệ của bạn có thể thống trị bản năng nguyên sơ, bạn sẽ có thể tiến
tốt trên con đường này – không phải tới cảm giác tự cao giỏi hơn – mà tới sự vượt trội thực sự.

Khi bạn học cách áp dụng niệm chi tiết trạng thái tâm, bạn sẽ nhận thấy phần đóng góp của bản năng
tự khẳng định vào cuộc sống của chính bạn. Bạn sẽ thấy mặc dù khuynh hướng khẳng định bản thân
mang tính di truyền có một giá trị sống còn trong những tình huống cổ xưa thì trong những điều kiện
của nền văn minh hiện đại, khuynh hướng này đôi khi lại có hại hơn là có lợi.

Bạn đã thấy rằng khi bản năng tự khẳng định bị kích động, nó sẽ khiến bạn làm một việc gì đó, và nếu
hoạt động này thành công bạn sẽ có xu hướng cảm thấy hợm hĩnh hoặc tự cao tự đại. Nhưng mặt
khác khi hành động tự khẳng định bản thân này bị ngăn trở hoặc không thành công, bạn cảm thấy tự
ti.

Không biết bao nhiêu lần trong đời, những nỗ lực tự khẳng định bản thân của bạn bị thất bại; không
biết bao nhiêu lần sự tự cao tự đại của bạn bị thách thức, và hậu quả là bạn cảm thấy tự ti và không
đủ khả năng đối mặt với thách thức.

Bây giờ với quá nhiều cuộc tấn công vào sự tự cao của bạn, những nỗ lực của bạn phần lớn được
khuyến khích bởi khuynh hướng tự khẳng định bản thân; nhưng động cơ này phần lớn là thuộc tiềm
thức.

Nhiều nỗ lực của bạn đối với thế giới rộng lớn bên ngoài là những cố gắng – thuộc ý thức cũng như
tiềm thức – nhằm làm môi trường bên ngoài hợp với những mong muốn riêng của bạn; nhưng những
con người ở thế giới rộng lớn bên ngoài có những sự tự khẳng định riêng của họ, cũng mang tính chất
tự cho mình là trung tâm như của bạn, và nói chung là mạnh mẽ hơn rất nhiều.

Kết cục là sự xung đột và thường thường là thua cuộc. Một yếu tố khác lại được thêm vào phức cảm
tự ti của bạn; một dấu vết nữa trong kho trí nhớ, cảm giác đau đớn phải bị đè nén đến cấp độ ý thức
không tiếp cận được.

Kết quả là, một mặt bạn sẽ trở nên rụt rè, nhút nhát hơn, hoặc mặt khác bạn sẽ trở nên khoa trương
hơn và tự khẳng định hơn. Sẽ có những ảnh hưởng nhất định nào đó đến phong cách sống chung của
bạn, luôn hướng về thái cực này hoặc thái cực khác, trừ phi từ rất sớm trong đời bạn đã học được
cách xử lý toàn bộ tình huống.

Chắc chắn có những dịp mà sự tự khẳng định của bạn tập trung xung quanh thành công hoặc thất bại
của người khác. Có thể đứa con trai nhỏ của bạn xếp thứ nhất ở trường hoặc mất việc làm đầu tiên vì
làm việc không hiệu quả, và vì thế bạn chia sẻ thành công hay thất bại của nó; nhưng trong những
trường hợp như vậy, cảm giác tự cao hoặc tự ti của bạn khởi sinh vì một thứ gì đó thuộc về bạn bị
liên luỵ và nó là phần mở rộng của cái ngã của bạn.

13 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Chính là cái tôi của bạn cảm thấy tự cao và thích thú nó, và cũng chính là cái tôi của bạn cảm thấy tự
ti và tìm kiếm cách này hay cách khác để cảm thấy vượt trội.

Bây giờ chính xác là tầm quan trọng của cái tôi đối với cái tôi là cái mà bạn phải phá vỡ nếu bạn
muốn giải quyết thoả đáng vấn đề phức cảm tự ti, và vì lý do này bạn phải nhận ra rằng để giũ sạch
cảm giác tự ti bạn cũng phải giũ sạch cảm giác tự cao. Để thoát khỏi cảm giác tự ti bạn phải thoát
khỏi cảm giác tự cao.

Do đó, bạn sẽ thấy lời dạy cổ xưa của Phật giáo về vô ngã rất hợp thời nay; vì niềm tin bám rễ sâu về
tầm quan trọng của cái tôi riêng của một người đi liền với sự khẳng định vượt trội bám rễ sâu tương
tự.

Như tôi đã nói, nếu bạn muốn hiểu đạo Phật thì việc hiểu giáo lý vô ngã là quan trọng. Mặt khác, bạn
tin vào học thuyết ấy hay không, chỉ vì nó là một phần của toàn bộ giáo lý thì điều đó hơi ít quan
trọng hơn. Hoàn toàn không cần thiết tin vào bất cứ một điều gì một cách không phê phán hoặc chấp
nhận bất kỳ một điều gì mà không xem xét thấu đáo. Điều thực sự quan trọng là nhận ra rằng bạn
không bao giờ có thể đạt được bất kỳ hạnh phúc lâu dài nào nhờ tự khẳng định mình.

Tối thiểu cũng cần hiểu và chấp nhận thực tế là sự tự khẳng định thái quá gây ra xung đột với những
người khác và xung đột ngay trong tâm trí bạn.

Như thế thì trên cơ sở này, sự tự rèn luyện về việc này là vấn đề nỗ lực giữ cho tất cả những hành
động của bạn tránh khỏi sự tự khẳng định mình càng xa càng tốt.

Bạn bắt đầu bằng việc tự quán sát, vì tự quán sát bản thân là then chốt của tự rèn luyện. Bạn bắt đầu
bằng cách quan sát có phê phán những phản ứng với những sự việc và tình huống bên ngoài với mục
đích xem bạn tự khẳng định cái tôi lúc nào và như thế nào; sự tự quán sát này phải trở thành thói
quen và liên tục. Bạn phải học để bật ngọn đèn pha tỉnh thức soi rọi mỗi một hành động và phản ứng
của bạn.

Sự tỉnh thức ngày càng tăng này, sự chú tâm hướng nội này giúp bạn khám phá ra các cơ chế tâm của
chính bạn, ví dụ cơ chế tâm của sự duy lý và ức chế được thúc đẩy bởi sự không sẵn lòng đối diện với
những điều trong tâm bạn.

Sau đó khi bạn hiểu bản thân hơn, bạn sẽ bắt đầu nhìn thấy những khuynh hướng tự khẳng định của
mình như chúng thực sự là. Bạn sẽ bắt đầu nhìn thấy mình đẩy bản thân nổi bật lên trong những tình
huống cho cơ hội tự cao và chùn lại trước một nhiệm vụ khi nó làm nảy sinh cảm giác tự ti.

Tỉnh giác và sự hiểu biết bản thân tăng lên này sẽ hoạt động như cái phanh hãm khi bạn tìm kiếm cảm
giác tự tôn và sẽ khích lệ bạn hành động khi bạn chùn lại vì nỗi sợ hãi của cảm giác tự ti. Ưu việt và
thấp hèn hơn theo ý nghĩa chủ quan – đó là những cảm giác tự tôn và tự ti – sẽ dần dần biến mất và
cũng dần dần được thay bằng sự ưu việt thật sự. Và sự ưu việt thật sự này sẽ hoàn toàn khác biệt với
sự tự tôn giả tạo của các cảm xúc.

Khi việc tự quan sát bản thân tiếp tục, bạn có thể thấy áp dụng một áp lực kỷ luật nào đó lên bản thân
là hữu ích; và áp lực tự kỷ luật này sẽ hoạt động theo ba hướng chính.

Đầu tiên là trong suy nghĩ. Ví dụ bạn có thể bực mình vì điều gì đó nghe được, hoặc vì bạn đã bị bỏ ra
ngoài lề câu chuyện, hoặc vì những phẩm chất tốt đẹp của bạn đã không được thừa nhận. Bạn có thể
hay suy nghĩ ủ ê, nghiền ngẫm một cách ngu xuẩn về bất cứ điều gì đã làm tổn thương bạn, day đi day
lại sự việc đó. Do đó bạn phóng đại tầm quan trọng của nó, bạn phóng đại cảm giác tự ti của chính

14 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

mình và bạn phóng đại mong muốn tìm một cảm giác tự tôn để thay thế nó.

Thứ hai là trong lời nói. Bạn có thể là một người nói hay đến mức thành một người nghe tồi, bạn có
thể cắt ngang cuộc nói chuyện của những người khác để nói. Lời nói của bạn có thể toàn về bản thân:
ví dụ, khi đàm luận về vườn tược, bạn ba hoa về cái vườn của bạn; hay nếu ai đó nói là bị đau lưng,
bạn bắt đầu cho thấy rằng chứng đau lưng của bạn gây đau đớn và tê liệt hơn ở những người khác. Vì
vậy bạn hay thổi phồng cái ngã của bạn bằng không khí nóng như quả khinh khí cầu.

Và thứ ba là trong hành động. Có lẽ bạn có thể thấy mình khuỳnh khuỷu tay lên phía trước vì thích
được mọi người chú ý đến, hoặc chùn lại vì hồi hộp run sợ; cả hai thái cực đó đều do cái ngã được
quá quí trọng.

Dù thể hiện trong suy nghĩ, lời nói hay hành động, sự tự khẳng định bản thân là nguồn bất hạnh tiềm
tàng theo cách này hay cách khác. Nó bỏ ngỏ bạn cho những cảm giác tổn thương hay hạ thấp. Nếu
bạn luôn hành động hướng tới chánh niệm tỉnh giác ngày càng tinh tiến hơn đối với mọi hình thức mà
khuynh hướng tự khẳng định của bạn thể hiện, kết hợp với nỗ lực liên tục để kiểm soát chúng như và
khi chúng xuất hiện, bạn sẽ đạt được một trạng thái tâm bình an và cân bằng trong đó không có chỗ
cho cảm giác tự tôn và tự ti.

Và khi những khuynh hướng tự khẳng định này biến mất, những xung đột bên trong và bên ngoài là
hậu quả của chúng cũng biến mất.

Bài tập thực hành

Nếu bạn muốn đưa những điều vừa nói trên vào cơ sở thực hành, tôi gợi ý là bạn nên đề ra cho mình
một thời gian ít nhất một tháng – hoặc tốt hơn là một thời gian ba tháng hay dài hơn – trong thời gian
đó bắt đầu khám phá và ý thức ngày càng rõ hơn về những cách thức mà khuynh hướng tự khẳng
định của bạn tìm được cách thể hiện nó – đôi khi sự thể hiện chỉ trong ý nghĩ, đôi khi qua lời nói và
lúc khác là bằng hành động.

Chính trong công việc hàng ngày, trong cuộc sống gia đình, trong các mối giao tiếp xã hội với những
người khác, ảo tưởng về cái tôi gây ra tác hại và do đó, ngay chính trong đời sống hàng ngày đó, bạn
phải thực hiện những bước sửa chữa đầu tiên.

Khi những khuynh hướng tự khẳng định mình được kiềm chế bởi sự hiểu biết và ý chí của chính bản
thân bạn, đó là điều tốt; khi chúng bị kiềm chế bởi sự sợ hãi hay do người khác hăm doạ, điều đó
không tốt lắm. Như thế bạn hoàn toàn không thực hành theo nguyên tắc không khẳng định mình.

Tuy nhiên điều cơ bản trong bài tập này là chánh niệm. Nếu bạn có thể quan sát những khuynh hướng
tự khẳng định mình như chúng là và khi chúng xuất hiện thì càng hay, nhưng khi không làm được
điều đó, bạn có thể nhận ra chúng trong hồi ức; điều chính yếu ở đây là nhận thức được chúng theo
cách này hay cách khác.

Hãy áp dụng bài tập này trên cơ sở kỷ luật tự giác; hãy tự giao ước với bản thân để tự bắt bạn chịu
hình phạt nhẹ bất kỳ khi nào bạn tự khẳng định mình một cách không hợp lý, không chỉ trong hành
động và lời nói mà cả trong suy nghĩ.

Yếu tố kỷ luật tự giác này là một yếu tố quan trọng. Bạn sẽ thấy rằng nếu bạn chỉ thuần tuý quyết
tâm sửa chữa thói quen tự khẳng định mình, nhiều khả năng bạn sẽ quên quyết tâm của bạn sau một
thời gian. Tuy nhiên, nếu bạn tự thoả thuận với bản thân và bất kỳ khi nào bạn thấy mình khẳng định
tầm quan trọng của bản thân một cách không thích đáng, bạn sẽ không hút thuốc trong vài giờ hoặc

15 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

uống cà phê ít đường hơn thì có nhiều khả năng bạn duy trì quyết định của mình hơn.

Theo cách này, bạn sẽ áp dụng nguyên tắc kỷ luật tự giác song song với nguyên tắc chánh niệm.

-ooOoo-

Tháng thứ chín

Thực hành kiểm soát suy nghĩ

Trong hầu hết các cộng đồng, những suy nghĩ của một người bình thường bị chi phối bởi suy nghĩ của
số đông những người bình thường khác, và điều này xảy ra ngay từ thời thơ ấu cho đến khi già. Người
bình thường chỉ suy nghĩ độc lập bởi bản thân anh ta ở một mức độ giới hạn nào đó.

Khi còn nhỏ bạn học tập phần lớn nhờ sử dụng các giác quan; bạn nhìn mọi thứ, nghe âm thanh, ngửi
mùi và nếm vị, sờ mó và cầm đồ vật, và qua đó bạn trải nghiệm cảm giác đau và dễ chịu thể chất. Do
đó nhờ tiếp xúc trực tiếp đầu tiên của các giác quan mà bạn làm quen với những yếu tố cơ bản của
kinh nghiệm.

Khi khám phá thế giới bằng các giác quan, bạn nhận thấy có những thứ mang lại sự hài lòng hay dễ
chịu, bạn coi thứ đó là tốt, và tương tự khi bạn gặp điều gì gây đau đớn, bạn coi nó là xấu xa. Ở giai
đoạn này tốt và xấu đồng nghĩa với dễ chịu và đau đớn.

Nhưng những người lớn tuổi hơn bạn nhanh chóng làm phức tạp hoá vấn đề với bạn bằng cách rầy la
bạn khi bạn thích thú những sự dễ chịu và bắt bạn phải làm những điều được gọi là tốt, mặc dù không
dễ chịu. Khi bạn học ngôn ngữ của những người lớn tuổi hơn, những khái niệm cụ thể của bạn về tốt
và xấu trở nên càng lẫn lộn hơn với những khái niệm trừu tượng về đúng và sai, trong khi tính đúng
đắn và tính sai quấy của mọi thứ được xác định bởi sự tán thành hay không tán thành của những
người khác.

Do vậy ngay từ đầu, những suy nghĩ của bạn đã bị chi phối phần lớn bởi suy nghĩ của những người
khác về bạn, được chuyển cho bạn bởi sự tán thành hay sự phản đối của họ.

Có những ảnh hưởng bên ngoài khác làm định hình suy nghĩ của bạn khi bạn lớn tuổi dần, nhưng
phần lớn tác động của những yếu tố ảnh hưởng này – mặc dầu ít rõ ràng hơn – đi theo những kiểu
mẫu đã định hình từ thời thơ ấu.

Bạn có khuynh hướng tán thành những thứ được những người mà bạn yêu quý và ngưỡng mộ tán
thành và phê phán những thứ liên quan đến những người mà bạn không thích.

Trong giai đoạn hiện tại của cuộc đời, bất kể là nó như thế nào, phần lớn là bạn vẫn đi theo những
kiểu mẫu thời thơ ấu. Đôi khi, hình như là bạn có thể tin tưởng vào một điều gì đó vì nó làm bạn dễ
chịu khi tin nó, và không phải vì lý trí của bạn ủng hộ nó. Hoặc bạn tin nó vì mọi người xung quanh
bạn tin nó, hoặc vì hồi trước bố mẹ bạn dạy bạn tin nó.

Đối với những đầu óc ngây thơ, quyền uy tạo nên cơ sở duy nhất cho niềm tin; nhưng thậm chí nếu
đầu óc bạn chín chắn hơn có lẽ nó vẫn duy trì những niềm tin xưa cũ và xây dựng những niềm tin mới
dựa trên những cơ sở không đủ vững, chủ yếu bởi vì bạn chưa bao giờ được yêu cầu áp dụng chức
năng phê phán của sức mạnh lập luận của mình đối với những vấn đề liên quan đó. Bạn cứ chấp nhận
nó như vậy.

Có một yếu tố rất mạnh mẽ trong đời sống hiện đại luôn tác động vào tư duy của bạn, hay có lẽ là sự

16 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

thiếu tư duy của bạn. Những kiểu mẫu và lối suy nghĩ của bạn bị tác động ở mức độ lớn bởi sự om
sòm không ngớt của các quảng cáo. Nó sử dụng các phương tiện ầm ĩ và tinh vi để duy trì những ham
muốn thoả thích giác quan và cả cảm giác tự cao của bạn ở cường độ cao nhất.

Bạn có thể nhận thấy việc phát triển một kỹ thuật kiểm soát suy nghĩ có tầm quan trọng sống còn. Về
khía cạnh này, tâm lý học Phật giáo đưa ra một phương pháp gọi là chú ý trần trụi.

Đây là một trong những hình thức chánh niệm quan trọng nhất. Trong sự chú tâm trần trụi, sự chú ý
bị lột bỏ tất cả các thiên kiến cảm xúc, thành kiến, tự khoe khoang và những liên tưởng. Sự chú ý
không mang cảm xúc này là thiết yếu để thấy mọi thứ như chúng thật sự là, bởi vì những thiên kiến
cảm xúc, thành kiến và những liên tưởng không được kiểm soát sẽ đưa đến những nhận thức sai lệch
hay méo mó.

Do đó chú ý trần trụi nghĩa là sự tỉnh giác thông suốt, trần trụi của một nhận thức mà không có bất kỳ
phản ứng nào đối với nó dưới hình thức hành động, lời nói hay bình luận trong tâm.

Nếu bạn đã từng phải xem xét những nhận thức bình thường hàng ngày của mình, bạn có thể thấy là
chúng thường bị làm lộn xộn, rối loạn bởi tư tưởng ở đâu đó và nó mơ hồ hoặc bị bóp méo.

Đôi khi những sự xuyên tạc bóp méo này gây ra hiểu nhầm, xung đột và xích mích. Bạn có thể thấy là
nếu bạn áp dụng nguyên tắc chú ý trần trụi trong suy nghĩ hàng ngày của mình, bạn có thể giảm bớt
sự hiểu lầm thỉnh thoảng xảy ra, cùng với những xung đột và bất hoà đi theo nó.

Chỉ đến khi bạn biết rõ được sự hoạt động của tâm mình thì bạn mới có thể nhận ra được những thiên
kiến cảm xúc mạnh mẽ của bạn thực sự rộng và sâu đến mức nào. Thực tế, chúng quá rộng và sâu
đến mức nếu không có sự tự rèn luyện đặc biệt thì không thể nào nhận thấy được một đối tượng của
giác quan, không thể hình thành một ý tưởng rõ ràng về một tình huống hoặc nhớ lại một sự kiện mà
không có sự bóp méo nào đó.

Trong rừng rậm những tư tưởng bị cảm xúc bóp méo chiếm một phần lớn tâm trí con người bình
thường, có những khu vực nguy hiểm, và khi những khu vực này bị kích thích sẽ làm nảy sinh tư duy
bất hợp lý, tâm trạng xấu và đánh giá sai lầm. Bất kỳ trạng thái nào nói trên đều có thể gây ra sự cãi
lộn, nỗi đau lòng khi chúng xâm phạm vào những mối liên hệ của bạn với những người khác.

Và điều quan trọng là cần nhận ra sự thực là theo quy luật bạn không thể nhìn thấy những khu vực
nguy hiểm trong tâm bạn, vì những mớ lộn xộn của những tầng cảm xúc dưới thấp khiến chúng không
tiếp cận được tới ý thức. Cho đến khi ánh sáng của ý thức đầy đủ có thể được mang đến chiếu rọi vào
chúng để nhận diện chúng và dọn sạch chúng đi, chúng sẽ vẫn là những khu vực nguy hiểm.

Rất nhiều thứ trong tầng dưới thấp này được gieo trồng từ thời thơ ấu và trước đó, nếu bạn thực sự
muốn biết rõ chi tiết tâm của chính mình theo nghĩa đầy đủ nhất, bạn phải học cách phá vỡ những
liên hệ cảm xúc sai lầm đã được hình thành từ rất sớm trong đời. Có thể nhiều phức cảm được chôn
giấu đang tồn tại trong tâm trí bạn và là gốc rễ của những ứng xử bất hợp lý, những cái yêu và ghét
không lý giải nổi, những nỗi sợ hãi và oán giận của bạn.

Tôi không có ý định thảo luận về những phương pháp phân tích bản thân hay các phương cách tiếp
cận các phức cảm bị chôn giấu. Đây là lĩnh vực của chuyên gia và bất kỳ một nỗ lực nào nhằm tiến
vào những khu vực nguy hiểm của tâm bằng cách tấn công trực diện có thể làm nảy sinh nhiều vấn đề
hơn là giải quyết chúng.

Sự thực hành chú ý trần trụi, ít nhất theo nghĩa mà chúng ta đang đề cập ở đây, không phát động một

17 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

cuộc tấn công trực tiếp hoặc trực diện vào những vấn đề như vậy; nó hoạt động nhờ thiết lập một nền
tảng chắc chắn trong sự quán sát và nhận thức về hiện tại và dọn sạch những thiên kiến và thành kiến
đó; và sau đó khi những kinh nghiệm hiện tại này được làm cho trong sạch, quá trình dọn dẹp này sẽ
mở rộng về phía sau, nghĩa là về quá khứ. Nói cách khác, khi những kinh nghiệm hiện tại của bạn dần
dần bị lột trần khỏi những búi cảm xúc lộn xộn làm trì trệ, sự tỉnh giác đã tăng lên sẽ mở rộng đến
những mẫu hình trí nhớ về những trải nghiệm cảm xúc trước đó.

Ngược lại sự tấn công trực diện khi tiếp cận một phức cảm quá nhạy cảm trên thực tế chắc chắn sẽ
thất bại, ảnh hưởng dần dần và tinh tế của sự chú ý trần trụi thấm qua vào những lớp thấp hơn của
tâm trí – những lớp mà bình thường không tiếp cận được với ý thức – và dọn sạch chúng ở chính tầng
lớp của chúng.

Tuy nhiên cần biết rằng đây không phải là công việc của vài tuần, hay vài tháng hay vài năm; nó phải
được xem như một quá trình ít nhất là hàng thập kỷ; trên thực tế nó là công việc cả đời.

Có một điểm thú vị khác trong việc áp dụng sự chú ý trần trụi đối với rừng rậm những tầng cây thấp
cảm xúc được gọi là tâm trí con người. Khi bạn áp dụng kỹ thuật chú ý trần trụi đối với những trải
nghiệm hiện tại – khi bạn nỗ lực duy trì sự quán sát và nhận thức hiện tại không vướng các thiên kiến,
định kiến và những cảm xúc không thích hợp – bản thân tâm bạn cũng thay đổi. Nó giống như lau
một cái gương tích đầy những đốm và vết bẩn; khi bạn tiến bước trên quá trình làm sạch, bạn sẽ thấy
sự phản chiếu trở nên chân thực hơn và rõ ràng hơn. Cũng theo cách như vậy, khi bạn dần dần làm
sạch khả năng nhận thức của tâm trí bạn, bạn làm cho nó có khả năng nhìn vào chính nó rõ ràng hơn
và do đó tiến vào những tầng sâu hơn.

Vấn đề chú ý trần trụi này là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong Bát Chánh Đạo, cốt tuỷ của Phật
giáo. Để làm rõ điểm này, hãy lướt qua tám bước đó.

Chánh kiến là bước thứ nhất. Theo một nghĩa thì đó là sự hiểu biết có trí tuệ về giáo lý của Đức Phật;
theo một nghĩa khác nó là sự hiểu biết về bản chất thật của hiện hữu; còn theo một nghĩa khác nữa nó
trở thành trí tuệ thấy biết trực tiếp về thực tại tuyệt đối vượt ra ngoài mọi sự.

Bước thứ hai, chánh tư duy, là một trong những phương diện tâm lý đặc trưng của Đạo (Con đường),
vì nó bao hàm việc kiểm soát các tiến trình tâm. Tiếp theo tuần tự là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, cả ba yếu tố tóm tắt thành các khía cạnh đạo đức của Đạo Phật.

Tiếp đến là bước thứ sáu, chánh tinh tấn, đó là sự luyện tập ý chí, là một phần cơ bản trong tâm lý
học Phật giáo. Bước thứ bảy, chánh niệm, cũng mang tính tâm lý vì nó bao gồm quá trình hoàn thiện
khả năng chú tâm bình thường. Bước cuối cùng trong tám bước, chánh định, đưa chúng ta vượt ra
ngoài tâm lý học bình thường đến sự tu dưỡng khả năng siêu việt của tâm.

Chính bước thứ hai trong Bát Chánh Đạo, bước được gọi là chánh tư duy mà hiện giờ chúng ta đang
quan tâm trước tiên. Chánh tư duy thường được miêu tả là tư duy không có những ham muốn giác
quan không được kiểm soát, không mang ác ý, ác tâm.

Ở một mức độ rộng lớn, các tiến trình tâm đòi hỏi phải sử dụng ngôn từ, không chỉ để thể hiện tư duy
mà còn để hình thành chúng; và do đó việc kiểm soát các tiến trình tâm này có thể được hỗ trợ bằng
việc sử dụng chức năng diễn đạt thành lời của tâm.

Tuy nhiên, trước khi bàn đến tư duy được diễn đạt thành lời, sẽ thật thú vị khi xem xét tâm lý học

18 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Phật giáo phải nói gì về bản chất của tư duy theo nghĩa rộng, và sau đó chúng ta có thể thảo luận về
loại tư duy sử dụng ngôn từ như là công cụ của nó.

Giáo lý của Đức Phật mô tả tư duy (theo nghĩa là tiến trình chung của nhận thức) như là một tiến
trình có ý thức, một tiến trình nhờ đó các yếu tố kích thích khác nhau tác động đến ý thức.

Tất nhiên, tư duy bao giờ cũng phải có ý thức. Không có cái gì là tư duy không có ý thức cả; và mặc
dù chúng ta có thể nói về những tiến trình tâm tiềm thức, những tiến trình này không thể được gọi
một cách đúng đắn là tư duy.

Cũng như tư duy phải có ý thức, bất kỳ một loại nhận thức nào đều phải có một tác nhân kích thích
hay một đối tượng. Tác nhân kích thích này có thể đến từ bên ngoài nhờ một trong năm giác quan của
cơ thể (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, và xúc giác), nó có thể đến từ chính trong tâm dưới
hình thức một tư tưởng hay một hình ảnh tâm.

Vì vậy, nếu không có yếu tố kích thích (cảnh) (không có âm thanh, không có mùi, không có hồi ức,
không có đối tượng nào khác của giác quan hay của tâm), sẽ không thể có sự nhận thức.

Trong những điều kiện như vậy, trạng thái tâm chiếm ưu thế được tâm lý học Phật giáo gọi là luồng
tâm hộ kiếp; chính nó là dạng năng lượng tâm mang lại cho cơ thể sự sống, và nếu không có năng
lượng tâm này thì cơ thể không thể sống được.

Nó có thể được hình dung như một dòng chảy ngầm của đời sống tâm mà từ đó sự nhận biết đầy đủ
phát sinh. Trong những tài liệu về Phật giáo bằng tiếng Anh nó thường được gọi là tâm tiềm thức:
nhưng để tránh nhầm lẫn với khái niệm của phương Tây, tốt hơn là dùng thuật ngữ luồng tâm hộ kiếp.

Luồng tâm hộ kiếp có thể được minh hoạ bởi dòng nước chảy yên lặng và đều đều; và khi dòng nước
này bị quấy động, sóng sẽ nổi lên trên mặt nước. Tương tự như vậy, khi luồng hộ kiếp bị khuấy động
bởi các tác nhân kích thích (dù là đối tượng giác quan bên ngoài hay đối tượng của tâm bên trong),
nhận thức sẽ nảy sinh, giống như sóng nổi lên trên bề mặt nước.

Luồng tâm hộ kiếp này là nền tảng cơ bản của đời sống cá thể và không có luồng tâm hộ kiếp này thì
đời sống vật chất cá thể không thể tồn tại. Những ấn tượng là kết quả của tất cả các trải nghiệm trước
đây được tích trữ trong nó; những điều này đôi khi đi vào ý thức dưới dạng trí nhớ.

Luồng hộ kiếp này không sở hữu một ý chí nào của chính nó, vì ý chí chỉ thuộc về sự nhận biết;
nhưng những tiến trình tâm tiềm thức diễn ra trong nó bị điều khiển bởi những thói quen đã được hình
thành do hoạt động mang ý chí có nhận thức trong quá khứ.

Trong lúc thức tỉnh táo bình thường, sự nhận thức dường như hoàn toàn liên tục, nhưng giáo lý của
Đức Phật dạy rằng nó không giống như nó có vẻ là vì đời sống thức, tỉnh táo bình thường bao gồm
các giai đoạn nhận thức thay đổi qua lại nhanh chóng với các giai đoạn tiềm thức.

Nếu chúng ta nhìn vào một cái đèn điện được bật tắt nhiều lần trong mỗi giây, nó sẽ xuất hiện như là
một ánh sáng hoàn toàn liên tục, nhưng ngược lại thực sự là có sự thay đổi qua lại nhanh chóng giữa
ánh sáng và bóng tối. Cũng theo cách như vậy, cái có vẻ như là sự nhận thức liên tục thực ra là sự
thay đổi qua lại nhanh chóng của các trạng thái có nhận thức và tiềm thức.

Mỗi trạng thái tâm kéo dài trong một phần rất nhỏ không thể nào quan niệm được của một giây
(sát-na) và sau đó biến mất, để được nối tiếp ngay lập tức bằng trạng thái tâm tiếp theo. Khi biến mất,
mỗi trạng thái tâm truyền năng lượng của nó sang trạng thái tiếp theo, do đó mà trạng thái tâm tiếp
sau ở mức độ nào đó là tương tự như những tâm tiền thân. Nhưng trạng thái tâm mới này không nhất

19 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

thiết giống với trạng thái tâm trước nó về tất cả mọi khía cạnh, vì tác nhân kích thích mới bên ngoài
có thể đã nảy sinh.

Do đó bất kỳ trạng thái tâm nào cũng bao gồm năng lượng của những trạng thái tâm trước nó, đôi khi
cộng thêm một mức độ thay đổi nhất định.

Trong đời sống tỉnh táo, nhận thức nảy sinh từ luồng tâm hộ kiếp và chìm trở lại điều kiện tiềm thức
hàng triệu lần trong một giây, và sự kế tiếp nhanh chóng này của các trạng thái thay đổi qua lại đưa
đến ảo tưởng về nhận thức liên tục. Đơn vị thời gian được sử dụng để mô tả các tiến trình nhận thức
được gọi là khoảnh khắc tư duy (sát-na); hàng triệu khoảnh khắc tư duy sẽ làm nên một giây.

Khi tâm trí đang ở trạng thái tiềm thức và một yếu tố kích thích mạnh xuất hiện, sự nhận thức đầy đủ
có thể nảy sinh, và tiến trình nảy sinh của nó có thể chiếm thời gian mười bảy sát na.

Dưới đây là đoạn miêu tả tiến trình đề cập từng sát na một:

Sát na 1: Luồng tâm hộ kiếp chảy đều đều dưới tầng nhận thức và một tác nhân kích thích mạnh bỗng
nhiên xuất hiện.

Sát na 2: Luồng tâm hộ kiếp này bị kích thích hoặc bị khuấy động.

Sát na 3: Tâm hướng về tác nhân kích thích hay đối tượng.

(Giai đoạn này được gọi là hướng tâm, nhưng không được hiểu là sự chú ý vì sự nhận biết trong tâm
chưa xuất hiện).

Sát na 4: Lúc này sự nhận biết đối tượng của giác quan nảy sinh, nhưng đây chỉ là cảm giác và không
có gì hơn, vì nó mới chỉ xuất hiện tại giác quan của cơ thể; nó vẫn chưa được nhận thức trong tâm.

Sát na 5: Vào sát na này sự kích thích được truyền qua những dây thần kinh đến hệ thống thần kinh
trung ương và được nhận biết trong tâm. Chức năng này được gọi là tiếp thu, ít hay nhiều nằm dưới
sự kiểm soát của ý chí, và nếu nó không nảy sinh, sự nhận biết thêm về đối tượng không thể xảy ra.
Trong trường hợp tác nhân yếu, thì tác nhân đó có thể bị cắt đứt bởi ý chí (ý nghiệp, sức mạnh của
tâm ý); nhưng trong trường hợp tác nhân mạnh thì nó thường không thể nằm ngoài tầm nhận biết của
tâm trí.

Sát na 6: Trong giai đoạn tiếp theo, diễn ra chức năng gọi là thẩm tra. Thẩm tra theo cách hiểu thông
thường là một quá trình diễn ra trong một khoảng thời gian, do đó chúng ta không cho rằng toàn bộ
tiến trình điều tra bản chất của đối tượng cảm giác diễn ra trong một sát na. Nó có nghĩa là trong bất
kỳ một giai đoạn nhận thức nào kiểu như thế này, năng lượng tâm tìm kiếm để kết nối đối tượng giác
quan mới với những ấn tượng đang tồn tại do những kích thích giác quan trước đây để lại. Trong mỗi
giai đoạn tiếp theo của nhận thức, tiến trình ngắn ngủi này lại được nhắc lại.

Sát na 7: Tiếp theo hoạt động của sát na trước đó (giai đoạn thẩm tra), một sự liên kết ở mức độ nào
đó với những ấn tượng do sự kích thích giác quan tương tự trước đó được thực hiện và vì có sự kết
nối này, tâm trí có thể bắt đầu phân loại đối tượng giác quan cụ thể. Ở đây tiến trình này lại được lặp
lại trong mỗi quá trình nhận thức cho đến khi sự phân loại kết thúc.

Các sát na từ 8 đến 14: Trong 7 sát na kế tiếp, tâm trí quyết định thích hay không thích đối tượng,
một thái độ thiện hoặc bất thiện. Giai đoạn này trong thời kỳ nhận thức được gọi là tốc hành; xét về
khía cạnh tâm thì đây là phần tích cực chủ động nhất của tiến trình, và ở mức độ nào đó nó chịu sự
kiểm soát của ý chí (ý nghiệp, sức mạnh của tâm ý). Trong 7 sát na tốc hành này, các lực phản ứng

20 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

phát sinh trong cấu trúc tâm, và trong mỗi sát na riêng lẻ sinh ra một loại lực phản ứng cá biệt riêng
của nó.

Sát na 15 và 16: Trong thời gian của 2 sát na này, rốt cục tiến trình được ghi sâu hoặc lưu vào tâm trí,
hay nói cách khác nó chuyển sang kho trí nhớ.

Sát na 17: Trong sát na cuối cùng, quá trình nhận thức đầy đủ dừng lại ở đây, sau đó toàn bộ tiến trình
nhận thức có thể được lặp đi lặp lại trong khi tác nhân kích thích còn diễn ra.

Mô tả trên đây thích hợp với một tác nhân kích thích giác quan mạnh, nhưng nếu tác nhân kích thích
rất yếu thì không có gì hơn là một sự xáo trộn nhẹ trong luồng tâm hộ kiếp.

Khi tác nhân kích thích không phải là đối tượng giác quan mà là đối tượng tâm dưới dạng một ý tưởng
hay hồi ức, tiến trình này hơi khác một chút; nhưng ảnh hưởng của các sát na tốc hành nói chung vẫn
như vậy. Các giai đoạn ý thức và vô thức thay đổi qua lại với tần số lớn tới mức có một sự ảo tưởng
về ý thức liên tục.

Vì từ tư duy được sử dụng trong bước thứ hai của Bát Chánh Đạo – bước được gọi là chánh tư duy –
ý nghĩa của nó bị giới hạn ở một mức độ lớn trong cái được gọi là chức năng diễn đạt thành lời của
tâm trí. Chúng ta thực hiện một phần lớn tư duy bằng phương tiện lời nói, vì ngôn từ là biểu tượng
của tư tưởng, trong khi đó tư tưởng đến lượt nó lại là đại diện tinh thần cho các sự vật, ý kiến, quá
trình và những khái niệm trừu tượng.

Trong khi một tư tưởng về một thứ phức tạp cần phải là phức tạp, nhìn chung nó có thể được cô đúc
lại trong một từ đơn giản; do đó suy nghĩ bằng các tư tưởng (không có ngôn từ) có thể lúng túng và
vất vả, suy nghĩ bằng ngôn từ nhanh hơn và dễ hơn nhiều.

Do đó kiểm soát tư duy phần lớn có nghĩa là kiểm soát chức năng diễn đạt thành lời của tâm, chức
năng “lời nói bên trong" nhờ đó chúng ta thầm sử dụng ngôn từ để xem xét một vấn đề, suy luận về
nó, ra quyết định, và vạch ra đường lối hành động.

Tiếp theo, chúng ta có thể thấy chúng ta sử dụng ngôn từ không chỉ để bày tỏ suy nghĩ mà còn để
hình thành suy nghĩ. Trong khi không thể nói là tất cả mọi suy nghĩ của chúng ta đều sử dụng dạng nói
không thành lời, hoặc suy nghĩ dưới dạng diễn đạt thành lời, chúng ta phải nhận thấy rằng một phần
lớn suy nghĩ của chúng ta sử dụng hình thức này.

Thế thì rõ ràng là nếu những ngôn từ chúng ta lựa chọn để hình thành suy nghĩ của mình không thể
hiện chính xác những tư tưởng chúng định biểu đạt, tư duy của chúng ta sẽ lỏng lẻo và không chính
xác, thế nên bất cứ khuynh hướng tự dối mình nào mà chúng ta đang sở hữu đều sẽ bị nổi bật lên.

Ít người trong chúng ta thoát khỏi khuynh hướng tự dối mình nào đó dù là nhẹ đi chăng nữa. Mặc dù
nói chung chúng ta ý thức được những dạng cực đoan của ham muốn giác quan, ác ý, và độc ác khi
chúng xuất hiện trong cái vỏ của chúng ta, không phải lúc nào chúng ta cũng ý thức được những đặc
tính có hại này khi chúng xuất hiện dưới dạng nhẹ và kín đáo.

Do đó, khi chúng ta cho phép một trong những đặc tính có hại ấy hoạt động trong tâm trí theo cách
nhỏ nhặt, chúng ta có thể hay che đậy nó, biện bạch cho nó, và không hề nỗ lực để giải quyết nó.
Chúng ta cảm thấy nó quá tầm thường không đáng để lo lắng.

Nhưng những hoạt động nhỏ nhặt hàng ngày của một yếu tố tâm độc hại dưới dạng thứ yếu sẽ từng

21 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

bước được tăng cường và do đó đặt nền tảng cho sự xuất hiện mạnh mẽ của nó vào một thời gian sau,
khi xảy ra một sự khủng hoảng.

Vì vậy trong việc tu dưỡng bước thứ hai của Bát Chánh Đạo, điều cơ bản là quan sát tất cả những
biểu hiện nhỏ nhặt hàng ngày của những ham muốn cảm giác, ác tâm, và sự tàn nhẫn, và nhận ra
chúng dưới nhiều hình thức nhẹ nhàng và kín đáo. Đợi đến khi chúng xuất hiện dưới những hình thức
cực đoan thì gần như vô dụng, vì lúc đó chúng quá mạnh không thể xử lý một cách hiệu quả.

Chừng nào chúng ta còn cho phép tư duy của mình lờ mờ, nhạt nhoà, chúng ta sẽ không nhận ra được
những hình thức nhỏ hơn của những đặc tính có hại. Mặt khác, nếu chúng ta diễn đạt những suy nghĩ
thành lời chính xác, chắc chắn chúng ta sẽ khám phá ra được những đặc tính này và sau đó có thể
giải quyết chúng dễ dàng hơn.

Điều này đưa chúng ta đến việc dùng phương pháp lời nói như là công cụ kiểm soát suy nghĩ. Một
cách diễn đạt dùng từ cẩn thận hoặc được lựa chọn tốt, được thầm lặp lại, có thể hoạt động như một
kiểu trợ giúp máy móc để hướng tư duy theo một luồng cụ thể, hay như một lựa chọn khác là hướng
tư duy ra khỏi những đối tượng tâm không phù hợp hoặc không mong muốn.

Nếu chúng ta đang đau khổ vì cảm giác sâu sắc về mất mát – ví dụ sau khi mất người thân – có thể
hữu ích nếu sử dụng một cụm từ như thế này:

"Bản chất rất tự nhiên của mọi sự vật là đến một lúc nào đó chúng ta phải xa lìa tất cả những thứ thân
yêu; và mong mỏi sự quay trở về của những thứ đã qua chỉ kéo dài thêm nỗi đau buồn của mình mà
thôi."

Tất nhiên, vấn đề chính ở đây là nhớ sử dụng phương pháp này khi nó là cần thiết nhất, vì vào những
lúc đó chúng ta nói chung bị ngập tràn bởi cảm giác mất mát; nhưng đây là vấn đề xây dựng thói quen
chánh niệm mà bản thân nó là một phần chính yếu trong luyện tâm của đạo Phật.

Một cách lý tưởng, chúng ta không nên đợi đến lúc sự mất mát dữ dội xảy ra mới rèn luyện sự không
dính mắc. Một khía cạnh của chánh tư duy là nó được đặc trưng bởi tâm không dính mắc vào đối
tượng, con người, kinh nghiệm, trí nhớ và những dự kiến đem lại cảm giác dễ chịu.

Vì đời sống bình thường phần lớn xoay quanh những thứ như vậy, chúng ta thông thường bị vướng
vào mạng lưới dính mắc, và việc thoát ra khỏi mạng lưới này thường nằm ngoài khả năng của chúng
ta.

Do đó khi một mất mát dữ dội xảy ra thì sử dụng mọi sự trợ giúp là rất quan trọng – ví dụ sự trợ giúp
tạo ra bởi sự lặp lại trong tâm một công thức nào đó – để điều chỉnh theo hoàn cảnh mới.

Vậy thì chúng ta phải thừa nhận là trông chờ những người bình thường như chúng ta, những người
phải sống đời sống bình thường trong những môi trường cũng bình thường như vậy, suy nghĩ thoát
được tất cả mọi ham muốn thuộc cảm giác là quá nhiều. Có lẽ xem xét khái niệm ham muốn cảm giác
nghĩa là gì sẽ giúp chúng ta hiểu được vấn đề.

Nói vắn tắt, ham muốn thuộc giác quan là suy nghĩ chất đầy mong muốn thoả thích bằng sáu giác
quan, cụ thể là bằng những ấn tượng của các đối tượng hình ảnh, bằng âm thanh, mùi, vị, ấn tượng
xúc giác, và bằng sự phản chiếu của tâm lên bất kỳ cảm giác trên.

Các ham muốn giác quan bao gồm mong muốn được nhìn thấy bình minh, ánh đèn của một thị trấn

22 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

qua một thung lũng, giấy dán tường được thiết kế đẹp, hoặc nhìn thoáng qua một gương mặt yêu dấu;
tất cả là những thứ thuộc hình ảnh. Nhiều ham muốn thuộc về âm thanh, ham muốn nghe một đoạn
nhạc hoặc thậm chí một hợp âm, tiếng suối chảy trên núi, hay giọng nói của một người yêu quý. Có
những ham muốn được thưởng thức những thứ nước hoa dễ chịu, mùi vị và cảm giác thân thể như sự
ấm áp dễ chịu, và có ham muốn hồi tưởng lại bất kỳ một sự thoả thích giác quan vật chất nào trong
quá khứ hoặc trông chờ chúng.

Thế thì thoát khỏi tất cả những hình thức ham muốn giác quan này có vẻ như thoát khỏi tất cả các
dạng động cơ thông thường; điều này đúng đến một mức độ nào đó. Động cơ thông thường được dựa
trên một loại ham muốn thoả thích giác quan hay tinh thần nào đó, và nếu không có viễn cảnh vui thú
thì phần lớn hoạt động của chúng ta sẽ đi đến chỗ dừng lại.

Tất nhiên tất cả là như vậy; nhưng Bát Chánh Đạo không phải là con đường đi đến đời sống thông
thường với những vui thú bình thường, mà đi đến sự Giải thoát, một địa hạt nằm ngoài và vượt ra
khỏi thế giới tương đối mà chúng ta thường biết đến; và sự dính mắc vào những vui thú giác quan và
tinh thần trở thành một rào cản đối với ai nhắm mục tiêu vượt lên hơn thế giới tương đối này.

Tuy nhiên, những ai trong chúng ta chưa cảm thấy sẵn sàng đi theo mục tiêu cao cả đó, thì việc kiểm
soát ham muốn thoả thích giác quan ở một mức độ nào đó là cần thiết nếu chúng ta muốn thu được từ
cuộc sống những giá trị trọn vẹn nhất. Mặc dù việc áp dụng có giới hạn sự kiểm soát cảm giác như thế
có thể không đòi hỏi từ bỏ hoàn toàn những khoái lạc giác quan, chắc hẳn nó làm cho sự không dính
mắc ở mức độ nào đó trở thành có một giá trị nhất định; và sự không dính mắc, thay vì làm giảm, lại
làm tăng niềm vui của cuộc sống nhờ cắt bỏ những khuynh hướng tham lam hay làm hư hại những
niềm vui đó.

Đôi khi chúng ta được khuyên nên tỉnh giác với hiện tại và không nên sống trong quá khứ. Thoạt nhìn
đây có vẻ là một lời khuyên tốt thiết thực; nhưng khi chúng ta thử thực hành nó thì chúng ta thường
thành công đến mức nào?

Chúng ta được dạy là: "Hãy giết chết mọi ký ức về trải nghiệm quá khứ. Đừng nhìn lại phía sau,
không bạn sẽ bị lạc." Nhưng nếu chúng ta tuân theo chính xác những điều này – giả thiết rằng có thể
– tiến trình bình thường của tư duy sẽ chấm dứt.

Chúng ta cũng được bảo rằng “quá khứ không được kiểm soát tương lai, trong tương lai mỗi phút giây
là một sự sinh mới". Nhưng nếu chúng ta tuân theo điều này từng chữ một, chúng ta sẽ không thể
cộng đủ hoá đơn tạp phẩm tuần tới vì chúng ta không cho phép quá khứ (hồi mà chúng ta học tính
toán) ảnh hưởng đến việc mua sắm cho gia đình trong tương lai của ta.

Có phải điều này nghĩa là lời khuyên đó vô dụng? Không, nó có nghĩa là chúng ta đã hiểu sai nó. Nó
thực sự nghĩa là chúng ta nên chấp nhận quá khứ với những mất mát và sai lầm, nỗi đau buồn và sự
tan vỡ, niềm vui sướng và thích thú. Chúng ta phải chấp nhận thực tế là niềm vui sướng và thích thú
trong quá khứ phải đi tới chỗ kết thúc vào một lúc nào đó – đây là điều cố hữu trong chính bản chất
của vũ trụ này và nếu chúng ta nhìn lại chúng và mong muốn chúng trở lại, thì tất cả điều chúng ta
làm là làm hỏng giây phút hiện tại này.

Nếu chúng ta nhìn lại một sự kiện vui vẻ trong quá khứ và từ đó có được niềm vui vốn có trong một
hồi ức hay ký ức vui vẻ, mà không mong nó quay trở lại, thì ký ức – vì lúc này chúng ta đang sống
trong hiện tại, nên ký ức vui vẻ đó là một ký ức chứ không phải một sự kiện – là một phần của chính
hiện tại này. Như là một sự kiện thì nó là một phần của quá khứ, nhưng như là một ký ức xuất hiện
trong ý thức chúng ta vào thời điểm hiện tại thì trên thực tế nó là trải nghiệm hiện tại của chúng ta.

23 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Như là một ký ức, chúng ta có thể thưởng thức nó mà không làm hư hỏng hiện tại này; nhưng nếu
chúng ta mong muốn nó trở lại hoặc muốn nó lặp lại thì chúng ta đang chia lìa chính mình với hiện tại
và cố gắng ném chúng ta trở về quá khứ mà trong thời khắc này là không tồn tại.

Chẳng có gì để nói nhiều hơn được nữa về vấn đề chánh tư duy kiểu như vậy, cái được gọi là sự giải
phóng khỏi những ham muốn giác quan.

Một khía cạnh khác của chánh tư duy là giải phóng khỏi ác tâm, hoặc nói một cách tích cực, là tư duy
mang đặc điểm thiện chí. Đôi khi thậm chí một người điềm đạm nhất trong chúng ta cũng trở nên bực
bội vì những người bạn; và mặc dù thường thì sự bực bội này bay biến khi nguyên do gây ra nó trôi
qua, đôi lúc nó để lại tàn dư của sự oán giận hay ác tâm cần được xử lý đặc biệt.

Dễ dàng thấy rằng một cái tâm không thể nào phát triển được/tiến bộ được nếu nó bị đầu độc bởi ác ý
hoặc sự căm ghét, hay bất kỳ một yếu tố tâm liên quan nào như sự hận thù, bực bội và giận giữ.

Lại nữa, chánh tư duy là tư duy không có sự hung ác. Mặc dù sự hung ác thường nảy sinh từ sự căm
ghét hay giận dữ, nhiều sự hung ác tàn bạo cũng nảy sinh do sự lãnh đạm với sự đau khổ của người
khác hoặc vì sự ích kỷ. Do đó, chánh tư duy không chỉ bao gồm sự vắng mặt của sự căm ghét chủ ý
và chủ động, mà còn gồm sự vắng mặt của sự lãnh đạm vô ý và thụ động đối với những đau khổ của
người khác.

Bước thứ hai của Bát Chánh Đạo – chánh tư duy – phải dựa trên bước thứ nhất, chánh kiến; bởi vì
cần nhận ra chánh tư duy là chánh tư duy và tà tư duy là tà tư duy. Nếu không có tâm trí tập trung
được xây dựng nên nhờ chánh niệm, không thể có chánh tư duy theo nghĩa đầy đủ nhất của nó. Vì
vậy, bạn có thể thấy là bước thứ hai trong Bát Chánh Đạo phải được thực hiện song song với nhiều
bước khác, và mỗi bước không thể tách rời khỏi các bước khác.

Cụ thể, việc thực hành chánh tư duy phải được thực hiện cùng với việc thực hành chú ý trần trụi, vì
nếu không có sự thực hành chú ý trần trụi – một khía cạnh của chánh niệm – tất cả các tiến trình tư
duy sẽ có khuynh hướng trở nên rối loạn bởi cảm xúc.

Bài tập thực hành


Chú ý trần trụi
Trong những hoàn cảnh lý tưởng, nếu bạn muốn thiết lập những mẫu hình tâm của sự chú ý trần trụi
dưới dạng hoàn chỉnh, bạn nên gác lại một bên tất cả các trách nhiệm và sở thích trong một thời gian
vài tuần lễ và dành trọn bản thân cho một khoá nghiêm ngặt tự rèn luyện. Trong những điều kiện như
vậy, bạn sẽ tránh tất cả chỉ trừ những thứ thiết yếu tối thiểu nhất trong công việc chân tay và bạn sẽ
gác lại một bên càng nhiều càng tốt các việc viết và đọc, thậm chí việc nói.

Nhưng những điều kiện lý tưởng này nằm ngoài khả năng của hầu hết chúng ta. Trừ phi bạn có được
điều kiện may mắn, có lẽ là bạn không thể tìm được đủ thời gian và thoát khỏi các trách nhiệm để
nghiêm ngặt thực hành chánh niệm tới mức không làm các hoạt động khác trong một thời gian dài.
Thế thì làm thế nào để bạn thực hành chú ý trần trụi?

Cái gì bạn không thể làm trọn vẹn thì phải làm từng phần. Vì bạn không thể tự đặt mình vào hoàn
cảnh lý tưởng, bạn phải sử dụng những hoạt động hàng ngày làm cơ sở cho sự phát triển tinh thần; và
trên thực tế, thì đối với mục đích này có lẽ những hoạt động hàng ngày đó thực sự lại lý tưởng hơn là

24 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

một đời sống ẩn dật.

Để tạo nên những kiểu mẫu tâm của sự chú ý trần trụi, bạn phải giảm tốc độ một số hoạt động. Khởi
đầu bạn có thể chọn một hoạt động xác định để bạn có thể thực hiện một cách chậm hơn bình thường
mà vô hại cho những thứ khác. Nếu bạn phải bắt chuyến tàu 8:17 mỗi sáng, rõ ràng là bạn không thể
chậm lại trong công việc cụ thể đó. Nếu bạn là bà nội trợ có các con phải chăm sóc thì bạn khó mà
làm chậm lại các công việc vặt liên quan đến việc đón chúng từ trường về. Lại nữa, nếu bạn là người
bán vé xe buýt, bạn không thể sử dụng thời gian đi lại cao điểm để bắt đầu bài thực hành chú ý trần
trụi.

Tuy nhiên, hẳn phải có hoạt động thường ngày nào đó mà bạn có thể sử dụng làm cơ sở để thiết lập
sự thực hành. Phải có một số thời gian ngắn khi mức độ khẩn cấp thúc bách của công việc giảm bớt
một chút.

Có lẽ những người làm ở văn phòng có thể thư giãn ở tiệm cà phê trong giờ ăn trưa, hay bà nội trợ có
thể ngừng việc vài phút khi bọn trẻ đã được đưa đến trường, trong khi người bán vé xe buýt có vài
phút ở bến xe đầu mối khi anh ta có thể hút thuốc lá.

Trong mỗi trường hợp đó, có cơ hội để bắt đầu gây dựng sự chú ý trần trụi, thậm chí theo một cách
khiêm tốn. Nhân viên văn phòng thường có thể giảm nhịp độ hoạt động trong thời gian nghỉ trưa và
quan sát một cách chánh niệm sức nặng của thìa và dĩa trong tay anh ta, có thể nhai chậm lại và quán
sát vị của thức ăn, và có thể quán sát màu sắc và hình dáng cái chén và đĩa của mình. Và quan trọng
hơn, vào lúc này anh ta có thể theo dõi trạng thái các cơ nói chung của mình, cảm nhận xem các cơ
đang căng cứng hay thư giãn.

Cũng tương tự như vậy, người nội trợ có thể chủ tâm thong thả hơn khi pha một chén trà cho mình để
chú tâm hoàn toàn vào nó. Lúc đó cô ta trở nên ý thức rõ hơn hơi nước đang bay lên từ cái ấm, thứ tự
các động tác cơ khi cô pha trà, nâng chén lên môi, nhấm nháp và nuốt trà, vân vân. Khi thực tập
trong sự chú ý này, cô sẽ trở nên nhận biết rõ hơn các chi tiết mà bình thường không nhận thấy. Bản
thân những chi tiết này không quan trọng; vấn đề là chúng có thể đem đến cơ hội để tăng chánh niệm.

Lại nữa, khi người bán vé xe buýt hút thuốc trong vài phút nghỉ ngơi ở bến xe đầu mối, anh ta có thể
áp dụng sự chú tâm hơn đến cảm giác về điếu thuốc giữa hai môi, đến mùi và đến sự xuất hiện của
làn khói bay lên từ đầu điếu thuốc rực sáng.

Rõ ràng những nỗ lực nhỏ bé để thực hiện sự chú ý trần trụi này chỉ có giá trị rất nhỏ nếu chúng kết
thúc nơi chúng bắt đầu. Việc nắm bắt một cơ hội nhỏ bé xảy ra thường xuyên hoặc đều đặn để thực
hành chánh niệm và kiên định áp dụng sự chú ý trần trụi có giá trị ở chỗ nó giúp thiết lập một nền
tảng vững chắc. Một khi nền tảng này đã tồn tại, sẽ khá dễ dàng để mở rộng sự thực hành đối với
những thứ nhỏ nhặt khác trong ngày. Tuy nhiên, để thay bằng một ví von khác, nó chỉ là cái đầu
mỏng của cái nêm, nếu cái nêm không được đặt đúng hướng, nó có rất ít hiệu quả.

Do đó cách bạn thực hành sự chú ý trần trụi nên là lựa chọn một sự việc nhỏ bé nào đó mà bạn làm
tương đối thường xuyên và bạn có thể làm nó một cách chậm hơn và trong chánh niệm hơn bình
thường. Bạn nên quyết tâm chú ý hơn vào hoạt động nhỏ này trong một thời gian; và làm điều này mà
không mong chờ kết quả, mà chỉ thuần tuý là một bài tập trong chánh niệm.

Tất nhiên, bạn sẽ nhận thấy việc đề ra một quyết tâm mơ hồ là khi một cơ hội xuất hiện bạn sẽ hành
động chậm lại và áp dụng chánh niệm gia tăng, sẽ chỉ có ích lợi nhỏ. Bạn sẽ cần phải cụ thể hơn, và
bạn cần tăng cường quyết tâm của mình bằng một hình thức phạt tự áp cho bản thân. Do đó, hãy
quyết tâm cụ thể là trong một thời kỳ hoặc ít nhất là một tháng bạn sẽ dành thời gian gấp hai lần bình

25 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

thường cho một nhiệm vụ nhỏ nào đó, ví dụ việc cởi giầy mỗi tối trước khi đi ngủ. Nếu bạn lơ đãng
hoặc quên giảm nhịp độ làm việc này, quên chánh niệm gia tăng đối với nó, bạn có thể tự bắt mình
chịu hình phạt nhỏ vào ngày hôm sau.

Tiếp sau đó, bạn nên tìm một hoạt động khác và dùng nó vào cùng mục đích trên, thực hiện nó với
nhịp độ chậm hơn, nhận biết sắc bén và nhiều hơn về nó. Một khi giai đoạn khởi đầu đã được thiết
lập, nó sẽ dễ dàng hơn một chút khi chú tâm hơn vào các hoạt động khác mà không cần làm chúng
chậm lại nhiều.

Mặc dù bài tập này chủ yếu liên quan đến những hoạt động thân thể hơn là hoạt động tinh thần, bạn
sẽ thấy rằng nó sẽ hữu ích trong kế hoạch tự quan sát chung của bạn, và bằng cách này sẽ tăng cường
hiệu quả của những bài thực hành khác.

-ooOoo-

Tháng thứ mười

Tu tập sự không dính mắc

Khi nhìn vào tổng thể cuộc sống, bạn sẽ đồng ý nó là sự pha trộn của đau khổ và vui sướng, nỗ lực và
nghỉ ngơi, bất toại nguyện và thoả mãn. Tất nhiên, bạn muốn sự pha trộn này theo tỉ lệ khác, bạn
muốn bớt nỗi đau và tăng niềm vui; bạn muốn bớt đi một chút nỗ lực và được tăng một chút nghỉ
ngơi, và bạn muốn ít bất toại nguyện hơn và được thoả mãn nhiều hơn.

Nhưng bạn hẳn nhận ra là nếu không có nỗi đau và nỗi buồn nào đó trong cuộc sống, sẽ không có
động cơ nào cho sự nỗ lực; và nếu không có nỗ lực, bạn không thể tiến bộ. Nếu không có sự không
thoả mãn, cuộc sống của bạn sẽ trở nên quá tĩnh tại để có thể có giá trị cơ bản nào đó. Người ta đã
nói rằng:

Bánh mì cay đắng là thức ăn nhờ đó con người lớn lên hết tầm vóc của mình.

Theo quan điểm Phật giáo, giải thoát khỏi khổ đau chỉ có thể đạt được nhờ vượt hơn sự tồn tại cá thể
và nhờ đạt đến trạng thái vượt ra ngoài ngôn từ và suy nghĩ, trạng thái mà đôi khi được gọi là Vô
duyên sinh hay Sự giải thoát. "Vô sinh" này là một trạng thái mà tất cả dấu vết của tham, sân, si đã bị
diệt trừ, và trong trạng thái này không có khổ đau nào. Đạt được “Vô sinh” này là mục tiêu tối
thượng của đạo Phật.

Tuy nhiên, trong khi cái tôi riêng rẽ vẫn tồn tại – trong khi ý thức cá nhân với sự tách biệt của nó với
cuộc sống chung vẫn tồn tại – khổ đau ở một mức độ nào đó là không thể tránh được. Dầu vậy, có
thể làm giảm tác động của nó nhờ tu tập sự không dính mắc, hay nói cách khác nhờ ngày càng giảm
dần sự dính mắc vào những khoái lạc của cuộc sống.

Có một phương pháp thực hành Phật giáo bao gồm việc trở nên tỉnh giác, càng trọn vẹn càng tốt, về
những cảm giác vui thú và khó chịu như và khi chúng nảy sinh và cùng lúc đó quan sát chúng một
cách càng bình thản càng tốt. Tất nhiên mục đích của sự chú ý được tăng lên này là để đánh giá rõ
ràng hơn những niềm vui thú và sự khó chịu của cuộc sống và nhờ đó tránh bị chúng áp đảo.

Nếu không có thái độ tinh thần bình thản không dính mắc này, đôi khi bạn hay bị ngập chìm quá sâu
trong những niềm vui thú, và lúc khác lại dao động sang thái cực đối lập và ngập chìm trong nỗi buồn
và nỗi đau. Có lẽ có những lúc bạn đắm mình trong những cảm xúc và để chúng hoàn toàn chi phối
bạn.

26 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Do đó, mục tiêu là học đứng xa bên ngoài những trải nghiệm của mình cả về hạnh phúc lẫn buồn đau
và học quan sát chúng một cách bình thản, không bị chúng nhấn chìm. Bạn cần học làm điều này khi
hồi tưởng về những kinh nghiệm của quá khứ và, cố gắng làm như vậy cả với những trải nghiệm hiện
tại ngay khi nó đến với bạn; cũng bằng một cách như vậy, bạn phải học dự đoán những kinh nghiệm
tương lai mà không có cảm xúc thái quá. Khi bạn biết được sự vô ích của việc tham lam những thứ
trong hiện tại và khao khát những thứ trong quá khứ và tương lai, thì tâm trí bạn phát triển được tính
linh hoạt cao hơn nhiều.

Bất kỳ cái gì mà bạn lệ thuộc để mưu cầu hạnh phúc đều là đối tượng của sự dính mắc, là cột trụ để
tựa vào; và bất cứ khi nào bạn tựa vào bất kỳ cái cột trụ nào, bạn đang tự mở cơ hội cho sự đau buồn.
Bất kỳ lúc nào cũng có khả năng một vài cột dựa của bạn bị đánh bật, vì cuộc sống có một khuynh
hướng khó chịu là rút đi những chỗ dựa ra khỏi bạn.

Tuổi trẻ của bạn biến mất theo thời gian; có thể bạn mất một người thân yêu, và những hoàn cảnh cũ
bên ngoài quen thuộc trong thế giới cá nhân riêng của bạn nhường chỗ cho những hoàn cảnh bên
ngoài mới và lạ. Nếu tâm trí bạn không đủ linh hoạt để theo kịp những mất mát và thay đổi khi những
cột tựa của bạn bị đánh bật, thì hậu quả là bạn chịu đựng khổ đau càng nhiều hơn.

Tuy nhiên, tựu chung khi nhìn lại, bạn có thể nhận thấy bạn xoay sở để theo kịp những thay đổi và sự
vô thường của cuộc sống bằng cách đổi chỗ dựa này lấy chỗ dựa khác, do đó xét về lâu dài bạn
không khá hơn mấy; bạn vẫn phụ thuộc vào những chỗ dựa nào đó.

Và điều này không chỉ đúng với thế giới bên ngoài của các đối tượng giác quan mà còn đúng với thế
giới bên trong của các đối tượng tâm trí vì sự dính mắc vào ký ức quá khứ và dự tính tương lai cũng
là một sự bó buộc mạnh mẽ như sự dính mắc vào những thứ bên ngoài trong hiện tại.

Có một câu nói trong đạo Phật đại khái thế này:

Đau buồn đến từ sự dính mắc, sợ hãi đến từ sự dính mắc. Người không bị dính mắc không biết đến
đau buồn và sợ hãi.

Bạn dính mắc vào thứ mà bạn yêu quý càng mạnh bao nhiêu thì bạn càng hạnh phúc nhiều bấy nhiêu
khi hoàn cảnh cho phép bạn hưởng nó; nhưng khi nó bị giật khỏi tay bạn thì khổ đau của bạn cũng to
lớn như hạnh phúc của bạn lúc trước.

Nếu bạn khao khát mạnh mẽ một thứ gì đó, nó sẽ trở thành đối tượng của sự dính mắc. Đương nhiên
bạn dính chặt vào đối tượng của sự dính mắc, bạn ôm chặt chúng và bám chặt chúng. Khi chúng rời
xa bạn, bạn mong mỏi chúng trở về. Nhưng xét về lâu dài, tất cả những gì mà sự níu chắc, ôm chặt,
bám chặt, hoặc mong mỏi đó mang đến cho bạn là khiến cho nỗi đau buồn mất mát càng lớn hơn
nhiều.

Theo tâm lý học Phật giáo hiển nhiên là một lúc nào đó bạn sẽ phải xa lìa mọi thứ gần gũi nhất và
thân yêu nhất với bạn, và bạn dính mắc vào những thứ yêu quý gần gũi này càng mãnh liệt bao nhiêu,
thì nỗi đau chia lìa khi nó đến càng khó chịu bấy nhiêu.

Một khi sự ôm chấp dính mắc phi đạo đức đã được thiết lập thì không thể nào phá bỏ nó bằng triết lý,
và sức mạnh của sự dính mắc phụ thuộc vào sức mạnh của lòng ham muốn đối với thứ đã bị mất. Một
khi lòng khát khao về thứ đã bị mất đó đã giành được một nền tảng vững chắc, nó không thể bị trục ra
bằng lý luận, và lòng khát khao ham muốn này chỉ có thể nảy sinh khi bạn tự cho phép mình bị thống
trị bởi những cảm giác vui thích và khó chịu.

27 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Đây là quan điểm của Phật giáo về sự dính mắc và những yếu tố liên quan đến nó, quan điểm có thể
được diễn đạt dưới một hình thức đơn giản hoá như thế này:

Sự dính mắc phụ thuộc vào lòng ham muốn; lòng ham muốn phụ thuộc vào cảm giác vui thích và
khó chịu; và cảm giác vui thích và khó chịu phụ thuộc vào sự tiếp xúc của các giác quan với thế giới
bên ngoài.

Trong đời sống bình thường không thể giải quyết vấn đề dính mắc bằng cách cắt đứt sự tiếp xúc của
các giác quan với thế giới các đối tượng cảm giác bên ngoài, và cũng tương tự không thể ngăn chặn
sự vui sướng và khó chịu phát sinh một khi có sự tiếp xúc này. Điều đó có nghĩa là nếu chuỗi "nảy
sinh phụ thuộc" này (hay ít chính xác hơn là chuỗi nhân và quả này) bị đứt đoạn một chút, nó phải bị
đứt đoạn tại mắt xích vui thích hoặc khó chịu. Chuỗi đau buồn phải bị tấn công ở giai đoạn thích và
không thích, ưa muốn và ghét bỏ, hấp dẫn và ghê tởm.

Vậy thì toàn bộ điều này thoạt nhìn có vẻ là bạn phải từ bỏ mọi thứ mang lại hạnh phúc hoặc vui
sướng; nhưng hoàn toàn không phải ý như vậy. Nó thực sự có nghĩa là bạn phải học để độc lập với
những cảm giác vui sướng và khó chịu càng nhiều càng tốt, và không bị chúng điều khiển. Nó có
nghĩa là trí tuệ chứ không phải là những phức cảm cảm xúc, hay những điều thích và không thích vô
lý của bạn phải kiểm soát cuộc sống của bạn; và do đó điều cơ bản (ít nhất trong kỹ thuật Phật giáo)
là trở nên tỉnh giác biết rõ càng trọn vẹn càng tốt về tất cả những thứ đang diễn ra trong tâm trí bạn.

Trong kỹ thuật này, chánh niệm liên tục tăng lên đối với tất cả các cảm giác vui thích và khó chịu khi
chúng xuất hiện là cực kỳ quan trọng. Do đó, trước hết, điều cốt yếu là biết rõ hoàn toàn về giá trị và
ý nghĩa thực sự của những cảm giác vui sướng để ngăn chặn chúng tạo ra những thiên kiến và định
kiến cảm xúc.

Tất nhiên, điều nói trên cũng được áp dụng với các cảm giác khó chịu vì nếu không được kiểm soát
tốt chúng cũng có khuynh hướng làm nảy sinh những thiên kiến và định kiến cảm xúc. Ác cảm, cũng
y như lòng mong ước, làm nảy sinh sự thèm muốn và dính mắc, và bạn bị trói buộc vào những thứ
bạn ghét cũng nhiều như vào những thứ bạn khát khao.

Nếu bạn có thể đạt được dù chỉ một phần sự không dính mắc, nếu bạn có thể làm giảm dù chỉ phần
nào sự bám dính vào những thứ đang bó buộc bạn, thì bạn tự do hơn để thưởng thức chúng mà không
dính mắc, và cũng vì lý do đó cảm giác mất mát của bạn sẽ ít hơn khi những thứ đó ra đi.

Một tâm trí hoàn toàn lanh lợi có thể đánh giá một cách khách quan mỗi kinh nghiệm như và khi nó
xảy ra; nhưng đối với đa số chúng ta sự quan sát bản thân bình thản này không thể được thực hiện tại
thời điểm đó mà chỉ có thể được thực hiện khi hồi tưởng. Nhưng bất kể là bạn thực hiện điều đó vào
đúng lúc trải nghiệm hay sau đó, điều chính yếu là ngăn những niềm vui thích và sự khó chịu đó kiểm
soát bạn.

Một khi một khối cảm xúc mạnh mẽ mang bản chất vui sướng hoặc khó chịu trở nên dính mắc vào
một tư tưởng, khối cảm xúc ấy có thể dễ dàng tuột khỏi tay và gây ra mọi loại xáo trộn bên trong và
xung đột bên ngoài. Chỉ bằng cách gia tăng chánh niệm bạn mới có thể giải phóng tâm trí khỏi những
ràng buộc cảm xúc sai lầm và khỏi những hậu quả của nó là sự xáo trộn và xung đột.

Do đó, tu tập sự không dính mắc nhằm mục đích thoát khỏi sự ngự trị của cảm xúc, khỏi sự thống trị
của niềm vui thích và sự khó chịu; nó nhằm thoát khỏi sự dính mắc vào những thứ bên ngoài, khỏi ký
ức và tiên đoán, khỏi những nỗi khát khao và sự căm ghét, và thoát khỏi ngay cả bản thân lòng mong
ước không dính mắc.

28 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Bài tập thực hành


Luyện tập sự không dính mắc cảm xúc
Trong tâm trí con người có nhiều điểm mù – những điểm mù mà đôi khi là nguyên nhân và đôi khi là
kết quả của những định kiến và thiên kiến cảm xúc – và vì những điểm đó, tâm trí không có khả năng
nhìn thấy chính nó như nó thực sự là. Những điềm mù như vậy ngăn cản chúng ta nhận thấy quy mô
và các nhánh của sự dính mắc sai lầm của mình, và bất kỳ phương tiện nào mà chúng ta có thể sử
dụng để giảm bớt chúng đều là một biện pháp hỗ trợ cho hoạt động của chánh niệm hướng vào nội
tâm.

Bản câu hỏi dưới đây được dự định làm một công cụ như vậy và trợ giúp bạn trong quá trình khám
phá và đánh giá sự dính mắc của chính bản thân.

Khi trả lời những câu hỏi này, bạn có thể nhận thấy câu trả lời thứ nhất xuất hiện trong đầu có thể
chính xác hoặc không chính xác. Do vậy, bạn nên đọc toàn bộ bản câu hỏi khoảng 6 lần trong tháng,
cho phép nó bắt đầu một chuỗi suy nghĩ hơn là cố gắng lập tức đưa ra những câu trả lời dứt khoát.

Theo quy luật, câu hỏi khó trả lời sẽ có giá trị với bạn nhiều hơn câu hỏi dễ trả lời. Giá trị thực sự của
câu trả lời không nằm ở chính nó, mà nằm ở chỗ tự quán sát hay chánh niệm đã được áp dụng để đưa
ra nó.

Không cần phải cố gắng làm cho các câu trả lời của bạn nhất quán ở bất kỳ khía cạnh nào. Bạn cần
nhận thấy là thông thường bạn có những thái độ lẫn lộn đối với nhiều thứ quan trọng trong cuộc sống,
ví dụ, bạn có thể vừa yêu vừa ghét cùng một người ở những thời điểm khác nhau, hoặc bạn có thể
cảm thấy bị hấp dẫn bởi một khía cạnh của cái gì đó và khó chịu bởi khía cạnh khác của nó.

Với những thái độ lẫn lộn kiểu như vậy, có thể một trong hai cảm xúc trái ngược đã bị đè nén, nhưng
từ một vùng nào đó trong tâm trí bạn mà ý thức không đến được, nó tiếp tục ảnh hưởng đến đời sống
tinh thần của bạn.

Không thể nào tách rời đối tượng dính mắc ra khỏi cảm giác của bạn về sự sở hữu, về những sự đánh
giá, về sự tự khẳng định bản thân, hay nhiều khía cạnh đa dạng khác của đời sống tinh thần của bạn.
Vì vậy, những câu hỏi dưới đây không nhằm mục đích xác định các đối tượng cụ thể của sự dính mắc,
mà nhằm giúp bạn phát triển sự tỉnh giác lớn hơn nữa về nội dung tâm bạn; và trong quá trình đó, các
đối tượng dính mắc cụ thể – có lẽ những dính mắc đặt sai chỗ – có thể nổi lên.

Dưới đây là các câu hỏi:

1. Tôi có đồng ý với tuyên bố này không? "Đau buồn đến từ sự dính mắc, sợ hãi đến từ sự dính mắc.
Ai thoát khỏi sự dính mắc không biết đến đau buồn hay sợ hãi."

2. Tôi có dính mắc quá mức vào sở hữu vật chất nói chung không, hay nói cách khác tôi có thái độ
chiếm hữu với chúng không?

3. Tôi có ý muốn sở hữu người khác, ví dụ gia đình, con cái, bạn bè tôi không?

4. Tôi có khát khao một loại quyền lực nào đó không phải để có thể đạt được điều gì nhờ quyền lực
đó, mà thuần tuý để có quyền lực hay không?

5. Tôi có bất kỳ một sự dính mắc nào can thiệp vào sự bình an tinh thần và cảm xúc của mình không?

29 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

6. Tôi có ích kỷ hay tự cho mình là trung tâm trong bất kỳ phạm vi nào của cuộc sống không?

7. Tôi có bị chi phối bởi những thiên kiến và định kiến cảm xúc nhiều hơn một người bình thường bị
không?

8. Tôi có thích chi phối bạn bè, con cái và những người khác không?

9. Tôi có bực bội khi bị những người khác chi phối không?

10. Tôi có quá dính mắc – một cách cứng nhắc hoặc quá không linh hoạt – vào những niềm tin và ý
kiến của mình trong bất cứ phạm vi tư duy nào không?

11. Tôi có bị ngăn giữ lại theo bất kỳ cách nào bởi sự dính mắc quá mức hoặc sai chỗ với thứ nào đó
hay ai đó không?

12. Tôi có thích người khác ngưỡng mộ một vài trong những thứ tôi sở hữu mà tôi dính mắc vào
không?

Bất cứ hình thức quán sát bình thản nào – dù là hướng vào nội tâm hay hướng ra thế giới sự kiện bên
ngoài – đều là công cụ hỗ trợ cho sự tu tập không dính mắc. Bạn có thể cố gắng áp dụng nguyên tắc
quán sát thản nhiên vào các mối quan hệ của bạn với những người khác, như là một bài tập cụ thể
trong chánh niệm.

Đôi khi bạn hiểu nhầm điều người khác nói hay làm, có lẽ vì bạn tình cờ đang tuyệt vọng hoặc bực
mình vì một điều gì hoàn toàn khác. Trong trường hợp đó, bạn đã tô màu hoàn toàn sai chủ ý của
người khác. Hoặc có thể bạn hiểu sai một câu hỏi, và đưa ra một câu trả lời mà đúng hơn cho một câu
hỏi hoàn toàn khác.

Do vậy, trong bài tập thực hành này và trong sự giao tiếp hàng ngày với người khác, bạn hãy bắt đầu
quán sát một cách bình thản, không thành kiến những chủ ý của người khác, không bị tô vẽ bởi những
cảm xúc hoặc thành kiến của bản thân mình. Bạn sẽ thường nhận ra rằng chủ ý thật sự hoàn toàn
khác với sự diễn dịch ban đầu của bạn về nó.

Bạn có thể thấy cần luyện tập bản thân để không ngắt lời người khác mà không có lý do xác đáng. Ít
người là người biết lắng nghe, và bạn có thể là một trong số ít đó; nếu bạn không phải người như vậy
– nếu bạn chỉ nghe một nửa điều người khác đang nói, và bạn hay ngắt lời bằng những vấn đề thứ yếu
không liên quan – thì bạn cần tự học nghe càng nhiều càng tốt, không cho phép các liên tưởng cảm
xúc của mình can thiệp.

Để biết lắng nghe cần nỗ lực, vì biết lắng nghe có nghĩa là nghe tất cả những điều được nói ra và hiểu
chúng càng đúng càng tốt. Trong quá trình lắng nghe bạn sẽ học xác định chính xác những từ và ý
tưởng mang nặng cảm xúc nảy sinh, những từ và tư tưởng phát huy những thiên kiến và định kiến của
chính bạn. Nhờ xác định chính xác những từ và tư tưởng như vậy, những thiên kiến và định kiến của
bạn sẽ không thể hoạt động từ cấp độ tiềm thức trong tâm bạn được nữa, và tới chừng đó bạn sẽ thu
được nhiều kiến thức hơn và sẽ kiểm soát được các tiến trình tâm của chính bạn.

Như thế, việc thực hành lắng nghe một cách bình thản, ở mức độ lớn, bao gồm sự nghe thận trọng và
chăm chú, đi đôi với nỗ lực giữ cho bản thân thoát khỏi những phản ứng mang cảm xúc.

30 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Giả thiết là bạn đang áp dụng phương pháp tự thoả thuận kỷ luật tự giác, hãy nhìn lại vài ngày qua
xem bạn có sử dụng bản câu hỏi một cách nhất quán và đủ sâu sắc hay chưa, và xem bạn đã thực
hành lắng nghe bình thản đủ mức hay chưa. Nếu bạn cảm thấy chưa làm được như vậy, hãy tự tước
bỏ một vài vui thích nho nhỏ nào đó.

-ooOoo-

Tháng thứ mười một

Đạt đến sự bình an

Trong lịch sử tiến hoá, con người đã đạt vị trí thống trị trong thế giới của mình nhờ có trí tuệ; dầu vậy
con người vẫn bị chi phối phần lớn bởi bản năng và cảm xúc của mình. Động cơ ban đầu của con
người xuất phát từ sự ham muốn bảo tồn cái tôi và bảo tồn nòi giống thôi thúc đấu tranh, trốn chạy,
giao phối, v.v.; trí tuệ của nó đã hoạt động, ít nhất là một phần, bằng cách hướng nó đến nơi mà bản
năng đã thúc đẩy nó đi. Tuy nhiên, thiếu bản năng và xúc cảm, con người sẽ không bao giờ sống sót.
Người ta đã nói rằng:

Nếu người ta hoàn toàn hiểu rằng các cảm xúc là các ông chủ còn trí tuệ là đầy tớ, thì có vẻ sẽ có ít
kết quả nhờ cải thiện kẻ đầy tớ trong khi ông chủ vẫn không được cải thiện. Cải thiện kẻ đầy tớ chỉ
mang lại cho các ông chủ nhiều khả năng đạt mục đích hơn. (Herbert Spencer)

Rồi thì những thôi thúc nguyên sơ này đã phục vụ một mục đích trong sự tiến hoá của con người,
nhưng nhìn chung chúng phù hợp với những điều kiện nguyên sơ; chúng đã được mở ra trong những
điều kiện nguyên thuỷ, và trên nhiều khía cạnh chúng không còn phù hợp với những hoàn cảnh của
xã hội văn minh. Do đó, để loài người tiến bộ hơn nữa và để thực hiện những tiềm năng của con
người, hiện nay có vẻ những động cơ của con người phải được chuyển hoá và làm cho tinh khiết.

Cho đến nay sự phát triển mang tính chất chủng tộc hơn là tính chất cá nhân; tức là loài người nói
chung đã phát triển hay tiến hoá, và trong hầu hết các trường hợp, cá nhân chỉ đơn giản là một đơn vị
trong một chủng tộc đang tiến hoá. Tuy nhiên, bây giờ hoá ra nhiều con người cá thể đã đạt đến điểm
tại đó sự phát triển của họ trên con đường tiến hoá phần lớn nằm trong sự kiếm soát của chính họ.

Do vậy, có vẻ như một số trong chúng ta đã đạt đến điểm mà tại đó sự tiến hoá lên nữa có thể được
thúc đẩy một cách có ý thức và mang tính cá thể, chứ không phải là được thúc đẩy một cách vô ý
thức và mang tính chủng tộc.

Tuy nhiên, những thôi thúc ban sơ vẫn còn lại với chúng ta, vẫn là những bộ phận không tách rời
trong cấu trúc tâm ta; và theo cách này hay cách khác chúng chịu trách nhiệm về một phần rất lớn
cho các quá trình tư duy mang thiên kiến cảm xúc và về nhiều thái độ tinh thần bị bóp méo của chúng
ta. Chúng nằm ở gốc rễ của nhiều sự xáo trộn bên trong và sự xung đột với người khác. Theo cách
này, những thôi thúc ban sơ – từng là những yếu tố cơ bản trong giai đoạn đầu tiến hoá – bây giờ (ở
một mức độ nào đó) lại là những yếu tố làm chậm sự tiến bộ. Chúng có thể trở thành chướng ngại cho
việc đạt đến bình an.

Giáo lý của Đức Phật nhấn mạnh nhiều tâm kiết sử và triền cái bên trong ngăn cản tâm hoạt động
đúng chức năng, và do đó đứng chặn trên con đường đến sự bình an. Trong số những yếu tố gây trì trệ
cản trở có sự hoài nghi, cảm giác về tự ngã riêng biệt, ác tâm; những yếu tố này và những yếu tố khác

31 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

được coi là những yếu tố làm ô nhiễm, tê liệt tâm.

Hãy xem xét những chướng ngại hay những yếu tố gây trì trệ này từng cái một, bắt đầu từ thái độ
hoài nghi. Theo quan điểm Phật giáo, hoài nghi là một trạng thái cứng nhắc của tâm, và trạng thái này
không tốt hơn gì trạng thái ngược lại là cả tin. Trạng thái trung lập ở giữa hai thái cực hoài nghi và cả
tin là trạng thái linh hoạt của tâm, một trạng thái sẵn sàng xem xét những tư tưởng mới hoặc lạ và
đánh giá nó mà không xét đoán trước.

Sự hoài nghi hoặc sự cứng nhắc của tâm là một chướng ngại cho sự bình an vì nó là sự từ chối xem
xét và đánh giá những tư tưởng mới mà không xét đoán trước bằng cảm tính. Trong nhiều trường hợp,
cảm xúc chi phối có thể là cảm giác tự tôn, hoặc một loại sợ hãi nào đó hay một yếu tố của sự oán
giận nào đó với nguồn của những tư tưởng mới đó; nhưng trừ khi trí tuệ không có khả năng nắm bắt
được những ý tưởng mới, sự cứng nhắc là do sự thống trị của cảm xúc loại này hay loại khác.

Quan niệm và sự tự phụ về cái tôi là một chướng ngại khác cho sự bình an. Theo giáo lý của Đức
Phật cái tôi là một ảo tưởng. Có câu nói rằng:

Cái tôi là một nhãn hiệu không có gì được gắn vào cả.

Bạn có thể đồng ý hoặc không đồng ý với sự suy xét trên lý thuyết "giáo lý về vô ngã", như nó được
gọi vậy; điều đó không quan trọng ở bước này. Điều quan trọng là thái độ bên trong của chính bạn,
những cảm giác của chính bạn về nó. Khi bạn cảm thông với những nỗi đau của những người khác
(và cả những vui sướng của họ) tới chừng mực nào, thì bạn đã phá vỡ được chướng ngại đó, ảo tưởng
về cái tôi tới chừng mực ấy.

Khi đã tiến bộ hơn, trọng tâm được chuyển chậm rãi và từng bước khỏi những mối quan tâm tập
trung vào cái tôi sang sự hạnh phúc thịnh vượng của cuộc sống nói chung; và chừng nào sự ôm chấp
chặt cứng về cái tôi trung tâm được nới lỏng ra, chừng ấy sự bình an nội tâm bắt đầu thay thế sự lo
lắng, oán giận và sự tự khẳng định mình.

Sự bình an nội tâm có thể chưa biểu lộ ra ngoài dưới hình thức ứng xử hoàn toàn điềm đạm và trầm
tĩnh: đầu tiên nó được cảm nhận như là một trung tâm phẳng lặng, mặc dù vẫn còn nhiều náo động
xung quanh nó, và thiết lập trung tâm phẳng lặng này là bước đầu tiên để đạt đến sự bình an. Có thể
diễn đạt nó theo cách sau:

Giác ngộ là một điểm phẳng lặng ở trung tâm của sự náo động, giống như cái trục là một điểm tĩnh
tại ở trung tâm của một bánh xe đang chuyển động.

Một chướng ngại khác đối với sự bình an là ác tâm, nó bao gồm tất cả các cấp độ của sự ác tâm, từ sự
oán giận nhẹ nhất và gần như không nhận thấy được đến cợn thịnh nộ điên cuồng nhất. Mặc dù có lẽ
bạn nghĩ về nó như là ác tâm hướng đến những người mà bạn không thích, bạn phải nhận thấy rằng ác
tâm đối với những vấn đề và hoàn cảnh của bạn có thể là một chướng ngại lớn đối với sự bình an
cũng giống như ác tâm đối với những người khác.

Do đó điều thiết yếu là phải tiếp cận tất cả các vấn đề của bạn với thái độ thiện chí, và phá tan tất cả
những sự oán giận đối với chúng. Điều này thích hợp với những hoá đơn mà bạn phải trả và những
việc lặt vặt khó chịu mà bạn phải làm, cũng rất thích hợp với những người đã làm hại hoặc cản trở
bạn theo cách nào đó, và cũng tương tự như vậy với những thứ bâng quơ đã gây trì trệ và lo lắng cho
bạn.

Một thái độ tinh thần không kháng cự những thứ khó khăn trong cuộc sống sẽ hữu ích về khía cạnh

32 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

này; nhưng điều đó không có nghĩa là bạn phải chấm dứt phản kháng về mặt vật chất nếu bạn cảm
thấy chúng sai. Một thái độ tinh thần không chống đối không có nghĩa là chấm dứt nỗ lực để cải
thiện; nó có nghĩa là phá tan lo lắng bồn chồn, lòng oán giận và sự tự khẳng định mình mà là nguyên
nhân cơ bản của sự căng thẳng tinh thần.

Là một thái độ tinh thần, sự không kháng cự phải được áp dụng đối với bất cứ điều gì và mọi điều xảy
đến trong đời bạn – đối với những người bạn gặp, đối với công việc bạn phải làm, đối với những vấn
đề bạn phải giải quyết. Nếu bạn cưỡng lại công việc hàng ngày, nếu bạn thấy nó quá tẻ nhạt, không
đòi hỏi kỹ năng cần đến tài năng của bạn, quá giống như là lao dịch, thì sự phản kháng này sẽ gây ra
sự mệt nhọc lớn hơn – và như thế nó sẽ tạo thành một vòng luẩn quẩn.

Cuộc sống mang lại cho bạn nhiều cơ hội để học hỏi, nhưng những cơ hội này thường được nguỵ
trang như là sự cực nhọc vất vả. Có câu nói rằng:

Công việc cực nhọc là cần thiết để gọi ra những kho báu của tâm trí cũng như việc cày bừa để trồng
trọt những kho báu của trái đất. (Margaret Fuller)

Vậy nếu khi làm một điều gì đó tẻ nhạt, bạn có thể nhận ra là nó có thể cho phép bạn gọi ra được
những kho báu của tâm trí bạn, thì thái độ không phản kháng sẽ nảy sinh. Nếu khi giao tiếp, làm việc
với một người bạn không thích, bạn có thể sử dụng cơ hội đó để phát triển thiện chí, thì bằng cách đó
bạn sẽ tiến một bước về phía bình an. Và nếu trong một tình huống khó khăn, thậm chí đau đớn, bạn
quyết tâm học tất cả những điều tình huống đó có để dạy bạn, thì bạn sẽ học được bí quyết của sự
thành đạt to lớn. Bí quyết của sự thành đạt to lớn này là yêu quý bất kỳ thứ gì mà bạn ghét.

Do vậy với sự linh hoạt to lớn hơn của tâm trí chứ không phải sự hoài nghi cứng nhắc, với sự hiểu
biết về bản chất ảo của cái tôi, và với khả năng đang lớn lên để yêu quý bất kỳ thứ gì mà bạn ghét bỏ,
bạn đã có một sự bắt đầu tốt đẹp. Bạn đã bắt đầu – ít nhất là trên lý thuyết – phá tan một số chướng
ngại chính yếu đối với sự bình an.

Tất nhiên còn có những chướng ngại khác nữa. Có sự tự cao, là sự đánh giá quá cao một cái tôi riêng
biệt – đánh giá quá cao một ảo tưởng, theo học thuyết của Đức Phật. Có sự đố kỵ và bỏn xẻn, cũng
xuất phát phần lớn từ sự ảo tưởng về cái tôi; và có sự bối rối là trạng thái bị rối tung lên do sự bồn
chồn lo lắng, oán giận và sự tự khẳng định mình.

Theo kỹ thuật Phật giáo, bây giờ bạn có thể giải quyết tất thảy những chướng ngại đối với sự bình an
này nhờ chánh niệm kết hợp với kỷ luật tự giác. Chánh niệm ở đây có nghĩa là quán sát bản thân một
cách bình thản; nó có nghĩa là sự thừa nhận trung thực các yếu tố tâm gây trì trệ trong bất kỳ vỏ bọc
nào mà nó xuất hiện. Kỷ luật tự giác bao gồm sự nỗ lực nhẹ nhàng nhưng bền bỉ để kiểm soát mà
không đè nén chúng một cách có hại.

Tất thẩy cái đó tự quy về vấn đề hình thành những thói quen và kiểu tư duy mới và phá tan những
thói và kiểu cũ.

Nhiệm vụ này có thể trở nên dễ dàng hơn và cụ thể hơn nếu bạn chọn một trong các yếu tố tinh thần
của bạn tách hẳn khỏi những yếu tố khác và lấy nó làm đối tượng quan sát trong một thời gian.

Ví dụ, có thể trong đời sống hàng ngày nhiều cơ hội xuất hiện khiến bạn trở nên bối rối, xôn xao;
những tình huống khủng hoảng nhẹ thỉnh thoảng lại xuất hiện. Nếu bạn luyện tập cho mình để không
dễ dàng bị bối rối – không bị hoảng loạn – thì các phán xét của bạn sẽ chính xác hơn, các quyết định
của bạn sẽ sáng suốt hơn, và cuộc sống của bạn sẽ hài hoà hơn.

33 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

Để bắt đầu, trước hết bạn phải hình thành thói quen quan sát bản thân thật kỹ lưỡng để phát hiện ra
khi nào và trong những điều kiện nào bạn hay trở nên bối rối. Có thể bạn đang phục vụ sau quầy
trong cửa hàng trong thời gian cao điểm với một khách hàng nôn nóng đang làm mọi thứ trở nên khó
khăn; có thể bạn đang lái xe khi động cơ chết máy ở chỗ giao đường bận rộn; hoặc có thể bạn đang
trông nom một đứa trẻ quấy phá. Trong những hoàn cảnh như vậy, bạn hay trở nên rối loạn hơn là
bạn nhận thấy.

Trước hết, bạn cần nhận thức thực tế này, và với sự tỉnh giác được gia tăng, sự cải thiện dần dần sẽ
xuất hiện. Sự cải thiện tự nhiên này khi đó có thể được trợ giúp, nếu cần, bởi nỗ lực rõ ràng của kỷ
luật tự giác.

Do vậy, đạt đến sự bình an không phải là vấn đề tìm những hoàn cảnh lý tưởng hay tìm tự do khỏi
những sự xáo trộn bên ngoài: nó là vấn đề khám phá ra những chướng ngại tinh thần bên trong đối với
sự bình an (từng cái một) nhờ sự quán sát bình thản, và là vấn đề loại bỏ chúng (từng cái một) nhờ nỗ
lực kỷ luật tự giác nhẹ nhàng nhưng bền bỉ.

Bài tập thực hành


Quán sát cảm xúc một cách bình thản
Trở nên hơi bối rối trong một sự khủng hoảng nhẹ có vẻ – và nói chung – chỉ là một thất bại nhỏ. Sự
giận dữ nhẹ với những tình huống gây bực bội, hơi lo lắng và tự kiêu ở mức độ hạn chế cũng vậy. Tất
cả đều là những thất bại bình thường và nhỏ, dù chúng không phải là những trạng thái lý tưởng của
tâm trí.

Nếu một trong những yếu tố tâm thứ yếu này được cho trở nên quá mức, nó sẽ trở thành bệnh lý. Một
trong những nhiệm vụ chính của chánh niệm là mang lại ý thức chính xác và rõ ràng về các trạng thái
cảm xúc khi chúng còn nhẹ và chưa rõ ràng, vì ở giai đoạn này chúng còn dễ bị kiểm soát hơn là khi
chúng tiến đến mức độ bệnh hoạn.

Ở bất kỳ giai đoạn nào, không chỉ trong những hình thức cực đoan, những yếu tố tâm này là những
chướng ngại đạt đến sự bình an. Ở bất kỳ giai đoạn nào, chúng cũng cần bị đặt dưới sự quán sát chặt
chẽ.

Do vậy, trong thời gian ít nhất một tháng, hãy quán sát bản thân chặt chẽ với hy vọng khám phá các
yếu tố cảm xúc trong bản thân bạn đã ngăn cản bạn đạt đến sự bình an. Sự tự quán sát này sẽ giúp
bạn hiểu và do đó kiểm soát những yếu tố cảm xúc đang hoạt động chống lại sự bình an.

Vài lần trong tháng đó, bạn nên quyết định là trong thời gian hai hoặc ba ngày, hoặc thậm chí trong
một ngày, bạn sẽ ghi nhận lại trong trí óc tất cả những cảm xúc mà bạn trải qua trong thời gian đó.
Bạn có thể xem nó như là các thời kỳ thí nghiệm trong đó bạn cố thử giữ một thái độ tinh thần quán
sát thuần tuý, ít nhất là đến mức điều kiện cho phép.

Như là một công cụ trợ giúp cho sự quán sát bình thản, sẽ có ích khi xác định và đặt tên, nếu có thể,
mỗi trạng thái xúc cảm khi nó xuất hiện, hoặc nếu không thể thì làm như vậy khi hồi tưởng lại. Nếu
bạn có thể ngừng lại, quán sát bản thân một cách có phê phán, và nói với mình rằng "Tôi đang trở nên
ghen tị" hay "Tôi đang trở nên xáo động” thì điều này sẽ giúp giữ các cảm xúc lại cho bạn xem xét. Ý
tưởng của việc làm này là ghi nhận sự kiện rõ ràng trong tâm bạn mà không trở nên bị lúng lúng bối
rối bởi sự kiện và cũng không cảm thấy tội lỗi về nó hoặc không bào chữa bản thân vì nó. Quá trình

34 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

đơn giản của việc đặt tên rõ ràng cho trạng thái tâm này đôi khi sẽ giúp bạn xử lý trạng thái đó.

Tất nhiên, không nhất thiết như vậy trong trường hợp các cảm xúc mạnh mẽ, nhưng giá trị lớn nhất
của nó là nhận ra những cảm xúc nhẹ mà mức độ quan trọng của nó có thể lớn hơn nhiều khi thoạt
nhìn ban đầu.

Trong cuộc sống gia đình, trong công việc và trong các mối quan hệ xã hội với những người khác, bạn
buộc phải phản ứng bằng lời nói và hành động dưới hình thức nào đó, nhưng trong thời kỳ thí nghiệm
này bạn phải cố gắng làm cho những phản ứng này thoát được những thiên kiến cảm xúc càng nhiều
càng tốt.

Nhưng những phản ứng tư duy nội tâm là quan trọng hơn nhiều so với những phản ứng bên ngoài của
lời nói và hành động. Bạn phải quán sát dòng suy nghĩ để xem chúng chứa đựng bao nhiêu cảm xúc
không đúng chỗ, không phù hợp và quá mức, chúng bị lệch lạc bởi những định kiến bao nhiêu, và
chúng thể hiện bao nhiêu xung đột nội tâm.

Sự quán sát bản thân, ngày càng trở nên bình thản, sẽ mang lại cho bạn sự hài hoà hơn nhiều trong
tâm. Bạn sẽ có khuynh hướng phản ứng lại mọi thứ với ít cảm xúc quá độ và sai chỗ hơn, và do vậy
với ít xung đột tinh thần hơn và ít hiểu lầm hơn. Sự hài hoà lớn hơn trong các mối quan hệ của bạn
với những người khác tự nó sẽ đền đáp nỗ lực chánh niệm đã được đòi hỏi.

Giả thiết là bạn đang thực hiện phương pháp tự thoả thuận kỷ luật tự giác, bạn có thể tự buộc mình
chịu một hình phạt nhỏ mỗi khi bạn trở nên lơ là lỏng lẻo trong việc tự quán sát này.

-ooOoo-

Tháng thứ mười hai

Thực hành sự thấy biết trong sáng

Để xây dựng một phương pháp tiếp cận hiệu quả với những vấn đề của cuộc sống, một trong những
yếu tố cơ bản hàng đầu là đạt đến một sự thấy biết trong sáng về điều mà bạn thực sự cần ở cuộc
sống. Bạn có thể đơn giản hoá – hoặc quá đơn giản hoá – câu trả lời cho câu hỏi này bằng cách nói
rằng tất cả những thứ tôi cần là hạnh phúc. Mặt khác, bạn có thể liệt kê một đống những hy vọng và
tham vọng có thể rối rắm và mâu thuẫn với nhau tới mức bạn sẽ cần phải thực hiện một quá trình tự
phân tích bản thân dài dòng trước khi bạn có thể phân loại chúng.

Một loại câu trả lời nửa chừng giữa quá đơn giản và quá phức tạp là cái thực sự được mong muốn.
Nếu không có sự hiểu biết thật rõ ràng về mục tiêu trung tâm của bạn trong cuộc sống là gì – nghĩa là
nếu không có sự thấy biết trong sáng về động cơ, như được gọi trong tâm lý Phật giáo – sẽ có một
khuynh hướng bị chìm trong lối sống thụ động thiếu suy nghĩ; và một khi đã bị mắc kẹt trong dòng
trôi dạt thiếu suy nghĩ, cả cuộc sống của bạn sẽ thiếu điểm trọng tâm.

Biết được bạn muốn gì là rất quan trọng. Biết được tại sao bạn muốn cũng rất quan trọng. Nếu bạn
hiểu trên lý thuyết bản chất những mong ước của mình, nguồn gốc của chúng trong những bản năng
và những cảm xúc liên quan đến chúng thì nó sẽ giúp bạn hiểu được bạn muốn gì và tại sao bạn
muốn.

Để hiểu được những cảm xúc và khát vọng của mình, trước tiên bạn phải hiểu những bản năng của
bạn. Những bản năng này là những khuynh hướng cố hữu hành động theo những cách cụ thể trong
những tình huống cụ thể. Bản thân những bản năng này nằm dưới tầng trí năng – có nghĩa là, nằm

35 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

dưới tầng của những quá trình lập luận có ý thức – và già hơn nhiều so với trí năng (theo nghĩa tiến
hoá) nên chúng mạnh hơn rất nhiều.

Trong khi bản năng là thuộc tiềm thức, cảm xúc và mong muốn của bạn là có ý thức – đôi khi quá có
ý thức. Trên thực tế những cảm xúc và khát khao của bạn được dâng từ những bản năng lên ý thức.
Một bản năng giống như một núi lửa; nó tồn tại phần lớn dưới mặt đất, nhưng khi nó hoạt động nó
phun trào dung nham và khói lên trên. Cũng theo cách như vậy, bản năng tồn tại dưới tầng ý thức
nhưng khi nó hoạt động nó phun trào những cảm xúc và khát khao lên trên tầng ý thức.

Tiếp theo, bạn có thể thấy cảm xúc và khát khao được phun trào lên bình diện ý thức từ những bản
năng; nhưng một cảm xúc không giống y như một khát khao. Một cảm xúc là một hình thái tương đối
mập mờ và lan tràn của nhận thức ở tầng cảm thọ thể xác, trong khi một khát khao là một hình thái
nhận thức ở tầng cao hơn, ở tầm tư tưởng.

Trên thực tế, các khát khao là một loại tư tưởng; chúng là các tư tưởng về những hành động mà bạn
muốn thực hiện hoặc là các tư tưởng về những cảm thọ mà bạn muốn trải qua.

Do đó hễ bạn tức giận thì bạn có ý tưởng đấm vào một cái gì đó; điều này có thể được gọi là một ý
tưởng vận động, ý tưởng về hoạt động cơ bắp, và chúng bị đánh thức bởi bản năng hung hăng.

Lại nữa, nếu bạn đói, tư tưởng cảm giác về thức ăn nảy sinh trong tâm trí bạn, được tiếp năng lượng
hoặc đánh thức bởi khuynh hướng cố hữu là ăn khi cơ thể đòi hỏi thức ăn.

Có lẽ sự phân loại thành ước muốn vận động và ước muốn cảm thọ – thành ước muốn để hành động
và ước muốn được trải nghiệm – là quá đơn giản hoá; có lẽ tất cả các ước muốn đều bao gồm các tư
tưởng vận động và các tư tưởng cảm thọ; nhưng điểm chính yếu trong ngữ cảnh hiện thời là ước
muốn tồn tại ở tầng tạo thành tư tưởng của tâm trí trong khi cảm xúc tồn tại ở tầng nhận thức thể xác
bị khuếch tán.

Hãy nhìn chúng theo cách này: khi một trong những bản năng của bạn hoạt động, cơ thể bạn tự động
chuẩn bị sẵn sàng cho những hoạt động thích hợp bằng một loạt các thay đổi. Bạn trở nên nhận thức
về những thay đổi thể xác, và nhận thức lan tràn về chúng tạo nên một cảm xúc.

Cùng lúc đó, một tư tưởng cụ thể về việc thực hiện hành động nào đó hoặc trải qua một kinh nghiệm
có thể nảy sinh trong tâm trí bạn; điều này cũng là kết quả của bản năng đã bị đánh thức. Tư tưởng
này được nạp cảm xúc – có nghĩa là nó được tiếp sinh lực bởi năng lượng của bản năng – và như thế
nó trở thành một ước muốn.

Trong đời sống thấp dưới loài người, tất cả các hành động chủ yếu mang tính bản năng, và bất cứ trí
tuệ nào tồn tại đều được hướng về việc tìm cách thoả mãn những xúi giục thuộc bản năng.

Trong đời sống loài người tình hình này về cơ bản không khác trong đời sống thấp dưới loài người
nhưng nó phức tạp hơn rất nhiều. Đại đa số hoạt động được thúc đẩy chủ yếu trước hết bởi bản năng,
thể hiện trên ý thức bằng cảm xúc và ước muốn. Trí năng hoạt động chủ yếu bằng việc tìm các cách –
các cách thường thường rất xảo quyệt – làm vừa lòng những ước muốn và đem lại những cảm xúc dễ
chịu. Điều này có nghĩa là trí tuệ hoạt động chủ yếu bằng việc tìm các cách thoả mãn bản năng. Bản
năng giống như động cơ của một con tàu trong khi trí năng giống như bánh lái.

Rất ít hoạt động, nếu có chăng, được thúc đẩy chủ yếu bởi trí năng, và động cơ trí tuệ là thứ yếu sau
động cơ bản năng.

Do vậy các suy nghĩ của bạn, các niềm tin của bạn, các ý kiến của bạn và cả các kế hoạch của bạn –

36 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

tất cả phần lớn bị quy định bởi cái cách bạn cảm giác, cái bạn ưa và ghét, điều bạn muốn làm, và điều
bạn muốn tránh.

Do vậy bạn thấy hầu hết suy nghĩ của bạn là suy nghĩ mang cảm xúc, và rất ít trong số suy nghĩ của
bạn là suy nghĩ khách quan hoặc bình thản.

Trong suy nghĩ mang cảm xúc, các sự việc và điều quan sát được bị bóp méo và tô vẽ sai lầm bởi
những mong ước, thiên kiến và định kiến. Mặt khác, trong suy nghĩ bình thản – thật ít có-cùng những
sự kiện như vậy được nhìn nhận một cách rõ ràng và cùng những điều quan sát ấy không bị mang
thiên kiến và không mang các ước muốn và định kiến, không có sự tô vẽ sai lầm.

Trong suy nghĩ mang cảm xúc, bạn có khuynh hướng tin vào một điều vì nó làm bạn dễ chịu khi tin
vào nó hoặc chối bỏ một tư tưởng vì nó làm bạn khó chịu. Trong suy nghĩ khách quan, bạn chấp nhận
một ý tưởng nếu nó hợp lý bất kể nó làm bạn dễ chịu hay khó chịu, và bạn từ chối một ý tưởng bất kể
bạn thích nó biết chừng nào, nếu nó không thể đưa ra lý do; hoặc ít ra bạn chỉ tạm chấp nhận nó trong
một tinh thần thử nghiệm.

Đúng là một trong những yếu tố chính yếu mang lại cho con người nguyên thuỷ sự ưu việt so với
những đối thủ và kẻ thù tiền nhân loại là trí tuệ của nó, là khả năng sử dụng tư duy như là những công
cụ để lập luận, và sử dụng những từ đơn giản như là những biểu tượng tốc ký, gọi là thế, cho những tư
tưởng phức tạp.

Cùng lúc, điều quan trọng là nhận ra rằng khi tương phản với cảm xúc và khát khao, trí tuệ xuất hiện
như một lực lượng tương đối yếu kém và đôi khi không hiệu quả. Cảm xúc và khát khao được dâng
lên tầng ý thức từ những sức mạnh bản năng khủng khiếp, và thậm chí trí tuệ mạnh mẽ nhất có thể tự
thấy bất lực khi đối diện với đối phương như vậy.

Do vậy kiểm soát một nỗi khát khao chỉ bằng nỗ lực ý chí đơn giản thường rất khó khăn, đôi khi là
không thể, và có những lúc là có thể có hại.

Là khó khăn khi khát khao là một cái gì nhiều hơn một thứ hời hợt. Là không thể khi khát khao làm
một phương tiện thoả mãn một bản năng đầy sức mạnh. Và có thể có hại khi khát khao làm một
phương tiện thoả mãn một bản năng đã từng từ chối những phương tiện thoả mãn khác. Điều này đặc
biệt đúng khi có một cảm giác tội lỗi hay một cảm giác xấu hổ hoạt động như một sức mạnh trấn áp.

Chính đó là lúc sự tự hiểu biết một cách rộng lớn và sâu sắc trở nên cần thiết để hiểu và kiểm soát
những khát khao của bạn; nhưng bạn không thể xử lý thoả đáng những khát khao mạnh mẽ trừ khi
bạn tự luyện tập để giải quyết những mong ước nhỏ thỉnh thoảng nảy sinh trong đời sống hàng ngày
của bạn.

Mặc dù một số hình thức luyện tâm của Phật giáo có thể được thực hiện tốt nhất trong môi trường
yên tĩnh và hẻo lánh, các hình thức luyện tập khác có thể được đan dệt trong các mối quan tâm hàng
ngày và do vậy có thể làm thành một phần không thể thiếu của những mối quan tâm này. Thực hành
sự thấy biết trong sáng là một trong những hình thức loại thứ hai này, vì nó có phạm vi rộng lớn để áp
dụng trong đời sống bận rộn hàng ngày.

Mặc dù thuật ngữ thấy biết trong sáng là khá sáng sủa, cần thảo luận một lát xem nó có nghĩa là gì xét
về sự tu tập tinh thần Phật giáo. Trong việc áp dụng thuật ngữ này lần đầu, sự thấy biết trong sángcó

37 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

nghĩa là hiểu biết sáng tỏ về động cơ hay mục đích của một hành động.

Nói cách khác, bất kể bạn đang làm việc gì, bạn nên hiểu một cách rõ ràng tại sao bạn làm như vậy.
Thay vì có một ý tưởng mơ hồ hoặc mờ nhạt về điều mà bạn trông chờ đạt được bằng việc đó, bạn
nên cố gắng có một ý tưởng rõ ràng về mục tiêu của việc bạn làm, có nghĩa là một ý tưởng rõ ràng về
những khát khao thúc đẩy bạn thực hiện hành động đó.

Thứ đến, khi động cơ về một hành động đã được làm rõ trong tâm trí, bạn nên có một ý tưởng cũng rõ
ràng như vậy về việc hành động đó có thực sự phù hợp với mục đích của nó hay không. Giáo lý của
Đức Phật chỉ ra sự cần thiết không chỉ phải có sự thấy biết trong sáng về động cơ của một hành động
mà còn phải có sự thấy biết trong sáng về tính phù hợp của hành động đối với mục tiêu của nó.

Thứ ba, cần hấp thụ yếu tố thấy biết trong sáng này vào mỗi hành động. Nói cách khác, toàn bộ cuộc
sống của một con người, bao gồm mọi hoạt động và mọi trải nghiệm là lãnh địa của chánh niệm, và do
vậy, nhờ việc mở rộng phạm vi của sự chánh niệm này vào trong mỗi hoạt động và mỗi kinh nghiệm,
toàn bộ cuộc sống sẽ trở thành nền tảng cho sự trau dồi tâm.

Cuối cùng, có một hình thái của chánh niệm được gọi là thấy biết trong sáng về sự không si mê. Hàm
ý đầy đủ của thấy biết trong sáng về sự không si mê này liên quan đến giáo lý cơ bản của Phật giáo
rằng một cái tôi riêng biệt chỉ là một ảo tưởng; do vậy sự thấy biết trong sáng về sự không si mê là sự
tỉnh giác sắc bén xuyên thủng sự tự lừa dối mình và thâm nhập thẳng xuyên qua sự ảo tưởng về cái
tôi đến sự thực về sự tồn tại của một con người.

Bây giờ chúng ta hãy trở lại loại thấy biết trong sáng đầu tiên, thấy biết trong sáng về động cơ. Khi
bạn áp dụng điều này đối với toàn bộ đời sống của mình, đối với những hy vọng và khát khao của
bạn, đối với tất cả những kế hoạch và nỗ lực của bạn, giả định trước là bạn có mục tiêu cơ bản nhất
định trong cuộc sống. Tuy nhiên, bạn có thể không có một động cơ toàn diện trong cuộc sống; bạn có
thể bị mắc kẹt vào dòng trôi dạt không suy nghĩ, và nếu như vậy thì việc đầu tiên cần làm là trở nên ý
thức được về điều này, và nếu có thể thì xác định một cái đại loại như động cơ toàn diện.

Tuy nhiên giả thiết bạn có một động cơ hay mục tiêu như vậy trong cuộc sống, một điều đáng mong
muốn vì một đời sống hiệu quả là bạn suy nghĩ về những hành động của mình xét về mặt tổng thể để
xem chúng có phù hợp với trọng tâm cuộc sống của bạn hay không hoặc là chúng dẫn bạn đến với tất
cả các loại vấn đề phụ không mang lại lợi ích gì cả hay không.

Tất nhiên, điều này không có ý nói là bạn không thể có các vấn đề phụ; các vấn đề đó là không thể
tránh khỏi trong đời sống bình thường. Có nhiều điều bạn phải làm hoàn toàn trái ngược với mục tiêu
trung tâm của bạn, những điều nếu để tự bạn thì bạn sẽ không bao giờ thậm chí nghĩ đến việc tiến
hành chúng; nhưng vì nhu cầu kiếm sống hoặc vì trách nhiệm và nghĩa vụ đối với những người khác
mà bạn phải làm những điều đó.

Trong hoàn cảnh đó nếu bạn để cho nhu cầu làm những việc đó dần dần gây nên sự oán giận và bực
bội, chắc chắn chúng sẽ đưa bạn đi trệch mục tiêu trọng tâm của bạn, nhưng ngược lại nếu bạn sử
dụng chúng như những cơ hội để phát triển sự kiên nhẫn và khoan dung, bạn sẽ mang chúng đi theo
mục tiêu trọng tâm của bạn.

Do vậy, nhờ sự thấy biết trong sáng rằng mỗi kinh nghiệm đều là lãnh địa của sự chánh niệm, bạn có
thể tận dụng tốt nhất những hoạt động mà nếu không có chánh niệm thì sẽ không có ích.

Mặc dù có thể không dễ dàng xác định được mục tiêu tột cùng của cuộc sống, bạn vẫn có thể xác
định khái quát những mục tiêu trước mắt trong những hoạt động hàng ngày của bạn. Bạn biết tại sao

38 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

bạn luôn phải bắt một chuyến tàu nhất định mỗi buổi sáng đi làm; bạn biết tại sao bạn đi làm; và bạn
biết tại sao bạn phải kiếm tiền. Bạn cũng biết tại sao bạn mua những thứ cần thiết cho cuộc sống, và
có lẽ bạn biết tại sao bạn lại mua một vài thứ xa xỉ.

Những thứ xa xỉ đó có thực sự làm cho cuộc sống của bạn thích thú hơn hay không? Vài thứ thì có
mang lại thích thú; còn những thứ khác làm cho cuộc sống trở nên khó khăn hơn. Có lẽ đó là những
thứ xa xỉ mà bạn phải mua vì giá trị thanh thế của chúng, có thể vì các hàng xóm của bạn có chúng,
hoặc vì trong giới xã hội của mình bạn được trông chờ có chúng. Nhưng những thứ xa xỉ này có thể
trở thành những thứ bắt buộc phiền toái, và vì phải trả tiền mua và bảo trì, chúng sẽ tốn kém nhiều
hơn là ích lợi.

Đây là nơi mà sự thấy biết trong sáng về vô si xuất hiện trên bức tranh này. Bạn bị thúc đẩy bởi sự tự
khẳng định mình vì nỗi khát khao thanh thế và sự tán đồng ở mức độ nào?

Có lẽ sau khi đã tìm được câu trả lời cho những câu hỏi này, và đã thấy chúng không đến nỗi quá hão
huyền, bạn nhận thấy mình phải tiếp tục làm những điều không có giá trị cơ bản. Vì những nghĩa vụ
gia đình, hoặc vì trách nhiệm với những người khác, hoặc vì việc kinh doanh bắt buộc, bạn phải tiếp
tục làm những điều không tương ứng với mục tiêu cơ bản trong cuộc sống của bạn. Bạn đã áp dụng
nguyên tắc thấy biết trong sángvề tính phù hợp và thấy rằng một số hành động nhất định là hoàn toàn
không phù hợp với mục tiêu cuối cùng của chúng; nhưng những tình huống như vậy thường là không
tránh khỏi.

Nhưng ít nhất là bạn không lừa dối bản thân. Chính khi nào bạn làm những điều không cần thiết một
cách thiếu chánh niệm – những hành động không tương ứng với mục tiêu trung tâm của bạn – thì bạn
chìm trong dòng trôi vô định không suy nghĩ. Do vậy, điều quan trọng là thoát khỏi dòng trôi dạt vô
định thiếu suy nghĩ, và chìa khoá cho sự tự do này là sự thấy biết trong sáng – sự thấy biết trong sáng
về mục tiêu của mỗi hành động và tính phù hợp của nó, sự thấy biết trong sáng rằng mỗi hành động
đều là lãnh địa của sự chánh niệm và sự thấy biết trong sáng về sự không si mê.

Đây là sự thực hành thấy biết trong sáng trong Phật giáo, dưới rất nhiều hình thức đa dạng của nó.

Bài tập thực hành


Nhận ra động cơ
Trên con đường đi tới tự hiểu biết bản thân, bạn sẽ thấy đạt được sự thấy biết trong sáng về động cơ
thực của các hành động của bạn có một tầm quan trọng to lớn. Chính trong phạm vi hoạt động của
động cơ mà có lẽ tâm trí con người thấy cơ hội lớn nhất để tự lừa dối mình, và hậu quả là nỗi băn
khoăn cho mình là trung tâm, sự oán giận và tự khẳng định mình thường là nền tảng của những hành
động mà trên bề mặt có vẻ mang động cơ cao thượng hơn và ít ích kỷ hơn.

Do vậy bài tập thực hành cho bạn trong thời kỳ này bao gồm sự cố gắng liên tục để trở nên có nhận
thức một cách phê phán về những động cơ cơ bản đằng sau những hoạt động hàng ngày của bạn. Một
hành động đối với bạn và người khác có vẻ hào phóng, đầy thiện chí, và không mang tư lợi, khi tự
xem xét có thể chứng tỏ là bị thúc đẩy bởi sự lo lắng ích kỷ, sự oán giận hoặc sự tự khẳng định mình
dưới hình thức nào đó; và nhận ra động cơ đích thực là một phần cốt yếu của sự tự hiểu biết bản
thân.

Bài tập nỗ lực liên tục để trở nên nhận thức có phê phán về những động cơ này, như bạn có thể thấy,
là thiết yếu; nhưng nỗ lực liên tục này có thể có khuynh hướng trở nên bị mất tác dụng bởi áp lực của
những mối quan tâm hàng ngày. Đây chính là chỗ mà phương pháp tự thoả thuận kỷ luật tự giác sẽ
chứng tỏ là hữu ích nhất. Để áp dụng nó, mỗi ngày trong thời gian một tháng, bạn sẽ nhìn lại những

39 of 40 4/22/2009 10:23 PM
Mot ky thuat song - Minh Nguyet http://budsas.110mb.com/uni/u-mkts/mkts2.htm

hoạt động chính trong ngày và xem xét có phê phán những động cơ khác nhau của mình. Khi bạn
không làm được điều này, hãy tự bắt mình chịu một hình phạt nhỏ.

-ooOoo-

VỀ HỘI XUẤT BẢN PHẬT GIÁO

Hội Xuất Bản Phật Giáo – Pali Text Society (thành lập năm 1958) xuất bản những tác phẩm đích
thực về nhiều phương diện khác nhau của giáo lý Đạo Phật và ứng dụng thực tiễn giáo lý đó vào
trong cuộc sống. Nhiều cuốn sách nhỏ bằng Anh ngữ, tổng quát cũng như chuyên sâu, dưới dạng tập
san "Pháp Luân" (Wheel Series) bao gồm những chủ đề như:

- Giáo lý Phật giáo, triết học và văn hoá thiền Phật giáo;

- Các bản dịch từ kinh văn thiêng liêng của Phật giáo;

- Những bài chuyên luận khác về một số khía cạnh cụ thể của đạo Phật khi so sánh với những tín
ngưỡng và thái độ chung của phương Tây hoặc các khái niệm của tôn giáo phương Tây.

Nếu quý độc giả quan tâm, có thể gửi thư đến chúng tôi để lấy thư mục cụ thể hơn và miễn phí:

The Hon. Secretary,


BUDDHIST PUBLICATION SOCIETY
P. O. Box 61, Kandy, Sri Lanka
http://www.bps.lk/

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02

Chân thành cám ơn đạo hữu Minh Nguyệt đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 12-2007).

[Trở về trang Thư Mục]


last updated: 10-05-2009

40 of 40 4/22/2009 10:23 PM

You might also like