You are on page 1of 8

BÀI 1: MÔI TRƯỜNG VÀ CÁC NHÂN TỐ SINH THÁI

I-Khái niệm môi trường và các nhân tố sinh thái:


Mỗi sinh vật đều cần có nơi sinh sống : cá bơi trong nước, chim bay lượn trên
không, hươu, nai sống trong rừng... Cỏ cây là nguồn thức ăn của hươu nai, là nhân
tố tác động trực tiếp đến cuộc sống của chúng. Tuy nhiên, mọi sinh vật và các hiện
tượng tự nhiên khác diễn ra trong rừng (hổ, báo, nắng mưa, bão,lũ...) cũng ít nhiều
trực tiếp hay gián tiếp tác động đến cuộc sống của chúng. Rừng là môi trường
sống của hươu, nai ; cỏ cây, nắng, mưa, hổ, báo... là các nhân tố sinh thái trong
môi trường.
Vậy "Môi trường bao gồm tất cả những gì bao quanh sinh vật, tất cả các yếu tố vô
sinh vá hữu sinh có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự sống, phát triển và
sinh sản của sinh vật".
Có bốn loại môi trường phổ biến : môi trường đất, môi trường nước, môi trường
không khí và môi trường sinh vật.
“Nhân tố sinh thái là các yếu tố vô sinh và hữu sinh, có tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp lên sự sống, phát triển và sinh sản của sinh vật”.
Có ba nhóm nhân tố sinh thái :
- Nhân tố vô sinh, bao gồm tất cả các yếu tố không sống của thiên nhiên có ảnh
hưởng đến cơ thể sinh vật như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm v.v...
- Nhân tố hũu sinh, bao gồm mọi tác động của các sinh vật khác lên cơ thể sinh
vật.
- Nhân tố con nguời, bao gồm mọi tác động trực tiếp hay gián tiếp của con người
lên cơ thể sinh vật.
II-Ảnh hưởng của nhân tố sinh thái lên cơ thể sinh vật:
1) Ảnh hưởng của các nhân tố vô sinh:
a. Nhiệt độ:
Nhiệt độ ảnh hưởng thường xuyên tới các hoạt động sống của sinh vật.
Thực vật và các động vật biến nhiệt như ếch
nhái, bò sát phụ thuộc trực tiếp vào nhiệt độ môi
trường. Nhiệt độ môi trường tăng hay giảm thì
nhiệt độ cơ thể của chúng cũng tăng, giảm theo.
Động vật đẳng nhiệt như chim và thú do có
khả năng điều hòa và giữ được thân nhiệt ổn định
nên có thể phát tán và sinh sống khắp nơi. Ví dụ, ở vùng băng giá Cực Bắc (lạnh
tới - 40o C) vẫn có loài cáo cực (thân nhiệt 38oC) và gà gô trắng (thân nhiệt 43oC)
sinh sống.
Các loài sinh vật phản ứng khác nhau với nhiệt độ.
Ví dụ, cá rô phi ở nước ta chết ở nhiệt độ dưới 5,6oC và trên 42oC và phát triển
thuận lợi nhất ở 30oC. Nhiệt độ 5,6oC gọi là giới hạn dưới, 42oC gọi là giới hạn
trên và 30oC là điểm cực thuận của nhiệt độ đối với cá rô phi ở Việt Nam. Từ
5,6oC đến 42oC gọi là giới hạn chịu đựng hay giới hạn sinh thái về nhiệt độ của cá
rô phi ở Việt Nam.
Nhiệt độ môi trường tăng lên làm tăng tốc độ của các quá trình sinh lí trong cơ
thể sinh vật. Ở động vật biến nhiệt, nhiệt độ môi trường càng cao chu kì sống của
chúng càng ngắn. Ví dụ, ruồi giấm có chu kì sống (từ trứng đến ruồi trưởng thành)
ở 25oC là 10 ngày đêm còn ở 18oC là 17 ngày đêm.
Sự biến đổi của nhiệt độ môi trường cũng ảnh hưởng tới các đặc điểm hình thái
(nóng quá cây sẽ bị cằn) và sinh thái (chim di trú vào mùa đông, gậm nhấm ở sa
mạc ngủ hè vào mùa khô nóng)
Sinh vật cũng chịu tác động của độ ẩm, ánh sáng... như đối với nhiệt độ theo
cách trên : Có giới hạn chịu đựng dưới và trên đối với mỗi nhân tố sinh thái ấy
(giới hạn dưới và giới hạn trên); có một điểm cực thuận (ở đó sinh vật phát triển
thuận lợi nhất).
b. Độ ẩm và nước:
Nước là thành phần quan trọng của cơ thể sinh vật : chiếm từ 50% đến 98%
khối lượng của cây, từ 50% (ở Thú) đến 99% (ở Ruột khoang) khối lượng cơ thể
động vật.
Mỗi động vật và thực vật ở cạn đều có một giới hạn chịu đựng về độ ẩm. Loại
châu chấu di cư có tốc độ phát triển nhanh nhất ở độ ẩm 70%. Có sinh vật ưa ẩm
(thài lài, ráy, muỗi, ếch nhái...), có sinh vật ưa khô (cỏ lạc đa`, xương rồng, nhiều
loại thằn lằn, chuột thảo nguyên). Nước ảnh hưởng lớn tới sự phân bố của sinh vật.
Trên sa mạc có rất ít sinh vật, còn ở vùng nhiệt đới ẩm và nhiều nước thì sinh vật
rất đông đúc.
c. Ánh sáng:
Ánh sáng Mặt Trời là nguồn năng lượng cơ bản của mọi hoạt động sống của
sinh vật. Cây xanh sử dụng năng lượng ánh sáng Mặt Trời khi quang hợp. Động
vật ăn thực vật lá đã sử dụng gián tiếp năng lượng ánh sáng Mặt Trời. Ánh sáng
tác động rõ rệt lên sự sinh trưởng, phát triển của sinh vật. Cây đậu xanh đặt trong
ánh sáng liên tục thì lớn nhanh nhưng ra hoa muộn tới 60 ngày.
Tăng cường độ chiếu sáng cho cá hồi và chim thì chúng phát triển nhanh hơn
nhưng nếu chiếu sáng quá dài lại làm cho chúng sinh trưởng kém đi.
Các vùng của quang phổ đều có tác động đặc trưng lên cơ thể sinh vật
Các tia sáng nhìn thấy được (bước sóng từ 4000 Å đến 8000 Å) chứa đựng
phần lớn năng lượng của bức xạ Măt Trời toả xuống mặt đất, có tầm quan trọng
lớn đối với cơ thể sinh vật. Cây xanh tổng hợp chất hữu cơ nhờ năng lượng của
các tia sáng này.
Các tia tử ngoại có bước sóng cực ngắn, gây chết cho sinh vật còn tia có cước
sóng 3000 Å – 4000 Å lại cần để tổng hợp vitamin D. Chiếu tia tử ngoại vào sinh
vật một liều lượng lớn sẽ gây đột biến.
Các tia hồng ngoại có bước sóng dài hơn 8000 Å là một nguồn nhiệt quan
trọng, sưởi nóng cây cối và cơ thể động vật biến nhiệt (thằn lằn, rắn, sâu bọ) sử
dụng nguồn nhiệt ánh sáng Mặt Trời để nâng cao thân nhiệt.
Nhịp chiếu sáng ngày đêm đã hình thành nhóm sinh vật ưa hoạt động ngày và
nhóm ưa hoạt động đêm.
Ngoài ba nhân tố trên còn có nhiều nhân tố vô sinh khác ảnh hưởng tới đời sống
của sinh vật như đất, gió, độ mặn của nước, nguyên tố vi lượng…
Đất không chỉ là giá đỡ cho cây phát triển, là nơi làm tổ của một số động vật mà
còn là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho cây và nhiều động vật.
Gió làm thay đổi thời tiết, đưa phấn hoa, hạt cây đi xa. Giông bão gây thiệt hại
cho động vật, thưc vật và hủy môi trường.
2) Ảnh hưởng của các nhân tố hữu sinh:
Sinh vật có quan hệ tác động qua lại với các sinh vật khác sống chung quanh,
với sinh vật kí sinh trên cơ thể và trong cơ thể.
Có hai nhóm nhân tố hữu sinh : quan hệ cùng loài và quan hệ khác loài.
a. Quan hệ cùng loài:
Gà con mới nở, lợn con mới sinh đều có xu hướng tụ tập bên nhau tạo thành các
quần tụ cá thể. Mức độ quần tụ cực thuận thay đổi tùy loài (sinh sản nhiều hay ít,
phạm vi hoạt động rộng hay hẹp...), tuỳ giai đoạn phát triển và tuỳ điều kiện cụ thể
(nơi ở, khí hậu, thức ăn...)
Quần tụ cây chống gió và chống mất nước tốt hơn.
Quần tụ cá chịu được nồng độ chất độc cao hơn cá đơn độc.
Các cá thể trong quần tụ được bảo vệ tốt hơn, chúng đua nhau tìm thức ăn và ăn
nhiều hơn.
Tuy nhiên khi quần tụ qúa mức độ cực thuận sẽ gây ra sự cạnh tranh (do thiếu
thức ăn, nơi ở, tranh giành cá thể cái). Kết quả là một số cá thể phải tách khỏi quần
tụ (nhóm và bầy đa`n). Đó là sự cách li.
Sự cách li làm giảm nhẹ cạnh tranh, ngăn ngừa sự gia tăng số lượng cá thể và sự
cạn kiệt nguồn thức ăn dự trữ.
Một số cá thể (hổ, báo...), một cặp hoặc nhóm cá thể (bò rừng, sư tử, cá...) có
bản năng bảo vệ tích cực và nghiêm ngặt vùng sống, coi vùng sống là lãnh thổ
riêng của mình.
b. Quan hệ khác loài:
Quan hệ sinh thái giữa các cá thể khác loài chủ yếu là quan hệ dinh dưỡng và nơi
ở. Tính chất của quan hệ này là hỗ trợ hoặc đối địch.
* Quan hệ hỗ trợ:
Trong thiên nhiên có nhiều trường hợp sống chung giữa các cá thể khác loài. Vi
khuẩn lam cộng sinh với nấm thành địa y;
vi khuẩn cố định đạm sống trong nốt sần rễ cây họ đậu; trùng roi Trichomonas
sống trong ruột mối giúp mối tiêu hoá xenlulô; hải quì bám trên vỏ ốc của tôm kí
cư.

Đây là quan hệ cộng sinh, cần thiết, có lợi cho hai bên cả về dinh dưỡng lẫn nơi
ở.
Nhạn bể và cò làm tổ tập đoàn. Quan hệ sống chung này cũng có lợi cho cả hai
bên, tuy nhiên không nhất thiết cần cho sự tồn tại của chúng. Đây chỉ là quan hệ
hợp tác.
Hiện tượng ở gửi của nhiều loài động vật không xương sống, nhất là sâu bọ sống
nhờ trong tổ kiến và tổ mối, cũng là một dạng quan hệ hỗ trợ nhưng chỉ có lợi cho
một bên gọi là quan hệ hội sinh.
* Quan hệ đối địch:
Quan hệ đối địch giữa các cá thể khác loài cũng phổ biến trong thiên nhiên. Ví
dụ, thú có túi sống phổ biến khắp châu Úc. Thỏ và cừu được nhập vào châu Úc,
thích ứng với môi trường sống mới dễ dàng và phát triển mạnh, giành lấy những
nơi ở tốt, làm cho nơi ở của thú có túi phải co hẹp lại. Thỏ và cừu đã cạnh tranh
nơi ở, làm ảnh hưởng tới sự phân bố của thú có túi. Quan hệ cạnh tranh về nơi ở
và chất dinh dưỡng cũng thường diễn ra mạnh mẽ giữa cây trồng và cỏ dại.
Cáo bắt gà, chó sói ăn thịt thỏ...là thể hiện mối quan hệ đối địch giữa động vật
ăn thịt và con mồi.
Hiện tượng giun kí sinh trong động vật và người; rận, chấy kí sinh ngoài da động
vật và người; dây tơ hồng hay tầm gửi sống bám vào cây khác là dạng quan hệ
sinh vật kí sinh – sinh vật chủ. Đó là quan hệ sống bám của một sinh vật này trên
cơ thể sinh vật khác bằng cách ăn mô hoặc thức ăn đã được tiêu hoá của vật chủ
mà không giết chết sinh vật chủ.
Nhiều loài thực vật tiết ra chất phitônxit kìm hãm sự phát triển của các sinh vật
xung quanh: chất gây đỏ nước của tảo giáp làm chết nhiều thực vật va` động vật
trên bề mặt ao hồ. Tảo tiểu cầu tiết ra chất kìm hãm sự phân chia và quá trình thẩm
thấu của rận nước. Đây là dạng quan hệ ức chế - cảm nhiễm.
3. Ảnh hưởng của nhân tố con người:
Con người cùng với quá trình lao động và hoạt động sống của mình đã thường
xuyên tác động mạnh mẽ trực tiếp hay gián tiếp tới sinh vật và môi trường sống
của chúng.
Tác động trực tiếp của nhân tố con người tới sinh vật thường qua nuôi trồng,
chăm sóc, chặt tỉa, săn bắn, đốt rẫy, phá rừng. Bất kỳ hoạt động nào của con người
như khai thác rừng, mỏ, xây đập chắn nước, khai hoang, làm đường, ngăn sông,
lấp biển, trồng cây gây rừng... đều làm biến đổi mạnh mẽ môi trường sống của
nhiều sinh vật và do đó ảnh hưởng tới sự sống của chúng.
Do vậy, mỗi người chúng ta phải có ý thức bảo vệ sinh vật, bảo vệ môi trường
sống của sinh vật (trong đó có cả con người) và tạo lại cân bằng sinh thái cho các
môi trường đã bị huỷ hoại ngay tại trường, làng xóm, phường, xã, quê hương
mình.
4. Sự tác động tổng hợp của các nhân tố sinh thái:
Mỗi cây lúa sống trong ruộng đều chịu tác động cùng một lúc của nhiều nhân tố
sinh thái như nước, ánh sáng, nhiệt độ, đất, gió, sự chăm sóc của con người...Nếu
cây được chăm bón đầy đủ chất dinh dưỡng thì khả năng chống chịu của cây với
những biến động của các nhân tố sinh thái khác bao giờ cũng tốt hơn.
Như vậy, sự tác động của nhiều nhân tố sinh thái lên một cơ thể sinh vật không
phải là sự cộng đơn giản tác động của từng nhân tố sinh thái mà là sự tác động
tổng hợp của cả phức hệ nhân tố sinh thái ấy.

You might also like