Professional Documents
Culture Documents
2. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ KHÍ SINH HỌC TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRONG NUỚC
2.1. Sơ lược lịch sử phát triển công nghệ KSH trên thế giới
Công nghệ biến đổi các chất hữu cơ thành KSH đã có từ hàng trăm năm nay. Theo huyền thoại, KSH
đã được dùng để đun nước tắm ở Assyri trong thế kỷ thứ X trước CN và ở Ba Tư trong thế kỷ thứ XVI.
Người đầu tiên phát hiện thấy sự phát ra loại khí cháy được từ các chất hữu cơ thối rữa là Van Helmont
(1630). Shirley (l667) cũng đã nói đến khí đầm lầy. Volta (1776) đã tiến hành một loạt quan sát và kết
luận rằng lượng khí đầm lầy được sinh ra phụ thuộc vào lượng thực vật thối rữa trong lớp lắng đọng ở
đáy mà từ đó khí nổi lên và với một tỷ lệ nhất định, hỗn hợp khí thu được và không khí có thể nổ. Trong
những năm 1804- 1810 Dalton, Henry và Davy đã thiết lập được công thức hoá học của metan, khẳng
định rằng khí than đá rất giống khí đầm lầy của Volla và chỉ ra rằng metan được sinh ra từ sự phân rã
của phân bò. France đã được cấp chứng chỉ vì đã có một trong những đóng góp quan trọng cho việc xử
lý các chất rắn lơ lửng trong nước thải. Tới cuối thế kỷ 19 sự sản sinh ra metan đã được phát hiện là có
liên quan với hoạt động của các vi sinh vật. Bunsen (1856), Hoppe Seyler (1886), Bechamp (l868),
Tappeiner (1882) và Gayon (1884)... đã tiến hành nghiên cứu về các khía cạnh vi sinh vật học của quá
trình sản sinh metan. Bechamp (1868) đã đặt tên cho "sinh vật" chịu trách nhiệm về sự sản sinh ra metan
từ êtanol. Sinh vật này dường như là một quần thể hỗn hợp vì Bechamp đã có thể chỉ ra rằng những sản
phẩm lên men khác nhau đã hình thành từ những cơ chất khác nhau. Năm 1875 Popoff trình diễn sự sản
sinh ra hydro và metan từ sự lên men của các nguyên liệu chứa xenlulo được bổ sung thêm bùn sông.
Năm 1876 Herter báo cáo rằng axetat ở bùn cống đã biến đổi thành metan và cacbon dioxit. Gayon, một
học trò của Pasteur, đã cho lên men phân ở 350C và thu được 100 lít metan đối với 1 m3 phân. ông kết
luận rằng sự lên men có thể là một nguồn cung cấp khí để sưởi ấm và thắp sáng. Năm 1884 Pasteur đã
trình bày trước Viện Hàn lâm Khoa học Paris những phát hiện thực nghiệm của Gayon. Việc sử dụng khí
thu được lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1859 khi một bể phân huỷ metan được xây dựng tại Bom
bay (Ấn Độ) để xử lý chất thải của người và khí sinh ra đã được dùng để thắp sáng. Năm 1895 tại Anh
Cameron trình diễn việc dùng KSH để thắp sáng. Năm 1986 khí từ hệ thống cống được dùng để thắp
sáng các phố ở Exeter (Anh). Về mặt vi sinh vật học, năm 1901 Schengon đã mô tả những đặc điểm hình
thái của vi khuẩn metan. Năm 1906 Sohngen làm giầu được 2 vi khuẩn sử dụng axetat khác nhau và
phát hiện thấy focmat và hydro cùng cacbon dioxit có thể đóng vai như những tiền chất cho metan. Một
chủng vi khuẩn metan đã được Omelianskii phân lập năm 1916. Năm 1950 Hungate đã thiết lập kỹ thuật
kỵ khí do Bryant phát tnển. Schnellen (1947) phân lập được hai vi khuẩn metan: Methanosarcina barkeri
và Methanobacterium formicicum. Sau dó năm 1967 Bryant đã thuần chủng được vi khuẩn
Methanobacillus omehanskii. Cuối những năm 1920 những nghiên cứu hoá sình về sự phân huỷ kỵ khí
đã được tăng cường. Buswell đã bắt đầu nghiên cứu và giải thích những vấn đề như vai trò của nitơ
trong quá trình phân huỷ kỵ khí, hoá học lượng pháp của phản ứng, việc sản xuất năng lượng từ những
chất thải của các trang trại và ứng dụng quá trình này cho các chất thải công nghiệp. Những nghiên cứu
của Barker đã đóng góp quan trọng cho hiểu biết của chúng ta về các vi khuẩn metan và những cultua
được làm giầu của ông giúp ông thực hiện được những nghiên cứu cơ bản về hoá sinh (1956). Trong
những năm gần đây, phân huỷ kỵ khí đã phát triển từ một kỹ thuật biến đổi sinh khối tương đối đơn giản,
với mục đích chủ yếu là sản xuất năng lượng, thành một hệ thống đa chức năng:
- Xử lý các chất thải hữu cơ và nước thải với phạm vi tải lượng hữu cơ và nồng độ cơ chất rộng;
- Sản xuất và sử dụng năng lượng;
- Cải thiện vệ sinh, giảm mùi hôi thối;
- Sản xuất phân bón chất lượng cao. Hoạt động nghiên cứu chuyển từ những nghiên cứu cơ bản về
quá trình phân huỷ kỵ khí của các cơ chất tương đối đồng nhất với hàm lượng chất rắn hữu cơ trong giới
hạn khoảng 5 - 10%, sang sự phân huỷ của những nguyên liệu phức tạp hơn đòi hỏi những kiểu bể phân
huỷ cải tiến hiệu quả hơn. Công nghệ phân huỷ kỵ khí đã được phát triển rộng lớn ở cả các nước công
nghiệp (Đức, Đan mạch, Pháp...) và các nước đang phát triển (Trung Quốc, Ấn Độ...) với đa chức năng
như trên.
2.2. Tình hình phát triển công nghệ KSH ở Việt Nam
- Thời kì 1960 – 1975
Miền Bắc: nhiều người đã chú ý đến thông tin về công nghệ KSH. Tài liệu dịch "Cách sinh hơi mê tan
nhân tạo và lấy hơi mê tan tự nhiên" được Bộ Công nghiệp xuất bản năm 1960. Một số cá nhân và tổ
chức đã xây thử một số công trình ở vài nơi như Hà Nội, Bắc Thái (xây "Xưởng phát điện mê tan" đầu
tiên của Việt Nam năm 1964). Hà Nam Ninh, Hải Hưng nhưng đều bị ngừng hoạt động vì lí do kỹ thuật.
Miền Nam: Năm 1960, Nha Khảo cứu Nông lâm súc đã nghiên cứu sản xuất khí mê tan từ phân động
vật, nhưng không ứng dụng triển khai được vì khí hoá lỏng và phân bón vô cơ được nhập khẩu ồ ạt. Một
số công trình đã xây dựng cũng không được duy trì hoạt động. Từ cuối những năm 60 đến đầu những
năm 70, công nghệ KSH gần như bị lãng quên
- Thời kì 1976 - 1980
Năm 1975, Việt nam thống nhất, Nhà nước đã chú ý tới nguồn năng lượng tái tạo. "Đề án sử dụng
KSH ở Việt Nam" (1976) đề tài cấp nhà nước "Nghiên cứu ứng dụng hầm ủ lên men sinh khí mê tan" đã
khởi động hoạt động nghiên cứu - triển khai công nghệ KSH. Thiết kế ban đầu được chọn thử nghiệm là
loại nắp nổi bằng tôn, bể phân huỷ xây gạch, được xây dựng ở Bắc Thái và Hà Bắc (1977- 1978). Những
công trình loại này đã bị bỏ dở do khả năng kỹ thuật và quản lý. Cuối năm 1979 xây dựng thành công
công trình nắp nổi có Thể tích phân huỷ Vd = 27 m3 ở nông trường Sao Đỏ (Mộc Châu, Sơn La), đã đặt
cơ sở cho việc triển khai sau này. Nhiều Viện nghiên cứu, Ban KHKT và nhiều tổ chức, cá nhân cũng đã
tiến hành thiết kế xây dựng, nhưng kết quả rất hạn chế. Tháng 12/1979, UBKHKT nhà nước đã tổ chức
"Hội nghị chuyên đề về bể khí sinh học" để sơ kết công tác thiết kế, xây dựng, vận hành thí điểm một số
bể KSH.
- Thời kì 1981 – 1990
Chương trình nghiên cứu Nhà nước về Năng lượng mới (mã số 52C) được ưu tiên trong hai kế
hoạch năm năm 1981 - 1985 và 1986 - 1990 do Viện Nghiên cứu KHKT điện chủ trì. Một số Viện, Trung
tâm nghiên cứu, các trường Đại học; các Ban KHKT tỉnh, nhiều cơ quan, địa phương, đơn vị quân đội, cá
nhân cũng tham gia chương trình này. B? Y tế cũng thực hiện một số dự án ứng dụng KSH với mục tiêu
vệ sinh môi trường. Một số tổ chức quốc tế cũng đã giúp đỡ và hợp tác nghiên cứu, triển khai công nghệ
KSH: Viện Sinh lý Sinh hoá Vi sinh vật (Liên xô cũ), Tổ chức OXFAM (Anh), UNICEF (Liên hợp quốc),
ACCT (Tổ chức các nước nói tiếng Pháp), SIDA (Thuỵ Điển)… Hội thảo quốc gia lần thứ nhất về KSH
được tổ chức vào năm 1990 của Chương trình nhà nước về Năng lượng Mới đã đánh dấu bước phát
triển kỹ thuật KSH của Việt Nam trong nghiên cứu và triển khai. Đến năm 1990, có khoảng 2000 công
trình KSH trên toàn quốc cỡ từ 2 m3 - 200 m3, nhưng đa số là cỡ gia đình từ 2 m3 - 10 m3 (TP Hồ Chí
Minh - 700, Đồng Nai - 468, Hậu Giang - 43).
- Thời kỳ 1991 đến nay
Sau năm 1990, chương trình Năng lượng Mới kết thúc. Viện Năng lượng vẫn tiếp tục hoạt động
nghiên cứu-triển khai về sử dụng KSH để phát điện, bảo quản rau quả, xử lý nước thải công nghiệp Từ
1993. đến năm 2001, công nghệ KSH đã phát triển mạnh trong khuôn khổ các dự án về vệ sinh môi
trường, nông nghiệp và phát triển nông thôn. Giai đoạn này không có tổ chức đầu mối quốc gia, nên sự
phát triển KSH có phần vô tổ chức. Đến tháng 3/2002, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành Tiêu chuẩn
ngành về Công trình KSH nhỏ Dự án "Hỗ trợ chương trình KSH cho ngành chăn nuôi ở một số tỉnh Việt
Nam" được triển khai ở 12 tỉnh, do chính phủ Hà Lan tài trợ không hoàn lại với tổng giá trị 2 triệu USD.
Đây là dự án lớn nhất trong số các dự án được tài trợ cùng loại được triển khai (2/2003 - l/2006). Dự án
được triển khai một cách khoa học, tổ chức nhiều lớp tập huấn cho kỹ thuật viên và thợ xây về công
nghệ KSH. Dự án đã thu được kết quả rất khả quan. Nhiều hộ dân đã tự nguyện bỏ tiền để xây dựng
công trình KSH do tính hiệu quả của nó về mặt năng lượng, vệ sinh môi trường, nâng cao năng suất cây
trồng, tăng thu nhập... Giai đoạn 2 của dự án sẽ được tiếp nối đến năm 2011 trên khắp các tỉnh của Việt
Nam. Thiết kế được lựa chọn trong dự án này là kiểu nắp cố định dạng vòm cầu xây gạch kiểu KT.1 và
KT.2 vì những ưu điểm nổi bật của nó. Tính đến nay, tổng số công trình các loại đang hoạt động trên
toàn quốc là gần 73.000, trong đó dạng túi ni lông có gần 32.000 (Kiên Giang - 8.000, Đồng Nai = 6.500,
Tiên Giang - 5000, Đắc Lắc - 3000 túi).
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản sinh khí sinh học
Quá trình phân huỷ tạo KSH chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Chúng ta sẽ xét tới những yếu tố quan
trọng nhất cần thiết trong xây dựng và vận hành thiết bị để đảm bảo cho thiết bị vận hành tốt nhất và sản
sinh ra sản lượng KSH như người ta mong muốn.
3.2.1. Môi trường ky khí
Quá trình lên men tạo khí sinh học có sự tham gia của nhiều vi khuẩn, trong đó các vi khuẩn sinh
metan là những VK quan trọng nhất, chúng là những vi khuẩn kỵ khí bắt buộc. Sự có mặt của oxy sẽ kìm
hãm hoặc tiêu diệt các VK này, vì vậy phải đảm bảo điều kiện kỵ khí tuyệt đối của môi trường lên men.
Sự có mặt của oxy hoà tan trong dịch lên men là một yếu tố không có lợi cho quá trình phân huỷ kỵ khí.
3.2.2. Nhiệt độ
Hoạt động của VK sinh metan chịu ảnh hưởng rất lớn của nhiệt độ. Trong điều kiện vận hành đơn
giản, nhiệt độ lý tưởng vào khoảng 350C. Sản lượng khí giảm rõ rệt khi nhiệt độ môi trường giảm. Dưới
100C quá trình sinh metan hầu như ngừng hẳn. Đồ thị ở hình 3.2.2 cho thấy ảnh hưởng của nhiệt độ đối
với sản lượng khí với thời gian phân huỷ 120 ngày với các loại phân.
Hình 3.2.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đối với sản lượng khí
Các vi khuẩn sinh metan không chịu được sự thăng giáng nhiệt độ quá nhiều trong ngày. Điều này
sẽ làm giảm sản lượng khí. Vì vậy vào mùa đông cần phải giữ ấm cho thiết bị, thậm chí đối với những
vùng lạnh cần phải đảm bảo cách nhiệt tốt cho quá trình lên men. Đôi khi ở những quá trình lên men
nhanh người ta phải gia nhiệt cho dịch lên men để giảm thời gian lưu trong các thiết bị lên men.
3.2.3. Độ pH
Độ pH tối ưu với hoạt động của VK là 6,8-7,5 tương ứng với môi trường hơi kiềm. Tuy nhiên VK sinh
metan vẫn có thể hoạt động được trong giới hạn độ pH từ 6,5-8,5.
3.2.4. Đặc tính của nguyên liệu
a. Hàm lượng chất khô
Hàm lượng chất khô thường được biểu thị là phần trăm. Quá trình phân huỷ sinh metan xảy ra thuận
lợi nhất khi môi trường có hàm lượng chất khô tối ưu vào khoảng 7-9%. Đối với bèo tây hàm lượng này
là 4-5%, còn rơm rạ là 5-8%. Nguyên liệu ban đầu thường có hàm lượng chất khô cao hơn giá trị tối ưu
nên khi nạp vào thiết bị KSH cần phải pha thêm nước. Tỷ lệ pha loãng thích hợp là 1-3 lít nước cho 1 kg
phân tươi.
Hình 3.2.4 - Quan hệ giữa hàm lượng chất khô và sản lượng khí
Ta gọi thời gian lưu là thời gian nguyên liệu nằm trong thiết bị phân huỷ. Đây là khoảng thời gian dịch
phân huỷ sản sinh ra khí sinh học. Đối với chế độ nạp liên tục, nguyên liệu được bổ sung hàng ngày. Khi
một lượng nguyên liệu mới nạp vào, nó sẽ chiếm chỗ của nguyên liệu cũ và đẩy dần nguyên liệu cũ về
phía lối ra. Thời gian lưu chính bằng thời gian nguyên liệu chảy qua thiết bị từ lối vào tới lối ra. Thời gian
này được tính bằng tỷ số giữa thể tích phân huỷ và thể tích nguyên liệu nạp bổ sung hàng ngày. Trong
điều kiện nhiệt độ khí quyển, nếu chúng ta lưu giữ nguyên liệu trong bể phân huỷ cho tới khi chúng phân
huỷ hoàn toàn thì chúng ta phải xây bể phân huỷ rất lớn. Thí dụ để phân lợn phân huỷ hết phải mất trên
120 ngày. Nếu mỗi ngày ta nạp 10 kg phân (thể tích gần bằng 10 lít) pha với 10 lít nước thì ta phải có bề
chứa dung tích: (10 lít phân + 10 lít nước) x 120 ngày = 2400 lít = 2,4m3 Mặc dù thời gian lưu càng lớn thì
khí thu được từ một lượng nguyên liệu nhất định càng nhiều. Song như vậy thiết bị phân có thể tích phân
huỷ rất lớn và vốn đầu tư sẽ nhiều. Vì thế người ta phải lựa chọn thời gian lưu sao cho trong khoảng thời
gian này tốc độ sinh khí là mạnh nhất và sản lượng khí thu được chiếm khoảng 75% tổng sản lượng khí
của nguyên liệu. Thời gian này phụ thuộc vào loại nguyên liệu và nhiệt độ môi trường. Trong điều kiện
Việt Nam, Tiêu chuẩn ngành 10 TCN 492 - 2002 đã qui định thời gian lưu đối với phân động vật như
sau :
Bảng 3.2.5- Thời gian lưu đối với phân động vật theo Tiêu chuẩn ngành
Vùng Nhiệt độ trung bình về mùa đông (0C) Thời gian lưu (ngày)
I 10 - 15 60
II 15 - 20 50
III > 20 40
Thời gian lưu đối với nguyên liệu thực vật được qui định là 100 ngày.
3.2.6. Các độc tố
Hoạt động của vi khuẩn chịu ảnh hưởng của một số các độc tố. Khi hàm lượng của các loại này có
trong dịch phân huỷ vượt quá một giới hạn nhất định sẽ giết chết các vi khuẩn, vì thế không cho phép các
chất này có trong dịch phân huỷ. Trong thực tế các loại thuốc hoá học như thuốc trừ sâu, diệt cỏ, thuốc
sát trùng, các chất kháng sinh, nước xà phòng, thuốc nhuộm, dầu nhờn không được phép đổ vào các
thiết bị KSH. Tóm tắt các điều kiện tối ưu cho quá trình sản xuất khí sinh học được cho ở bảng dưới đây.
Bảng 3.2.6. Điêu kiện tối ưu cho quá trình lên men tạo khí sinh học
2. pH 6,5 - 7,5
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng trong nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2006 – 2010, một
trong những chủ trương lớn của Chính phủ trong những năm tới là đầu tư xây dựng một nền nông
nghiệp công nghệ cao. Những năm gần đây, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã coi việc ứng
dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất như một yếu tố đột phá, như "chìa khoá" cho sự phát triển nông
nghiệp, nông thôn bền vững. Các phong trào “Cánh đồng 50 triệu đồng/ha”, “hộ thu nhập 50 triệu
đồng/năm” đều là những hình thái tiệm cận về một nền nông nghiệp tiên tiến. Nông nghiệp nước ta đang
có xu hướng chuyển mạnh mẽ từ nông nghiệp truyền thống sang sản xuất hàng hóa gắn với thị trường.
Chuyển nền nông nghiệp “số lượng” sang “chất lượng và giá trị” bằng cách ứng dụng công nghệ cao.
Hiện tại, Bộ Nông nghiệp và PTNT đang xây dựng chiến lược và chính sách phát triển khoa học công
nghệ phù hợp với cơ chế thị trường, tập trung phát triển công nghệ sinh học, xây dựng các mô hình nông
nghiệp công nghệ cao.
Thành công của một số mô hình nông nghiệp công nghệ cao ở Hà Nội, TP.HCM, Lâm Đồng…
tuy còn nhỏ nhưng đã chứng tỏ tiềm năng đóng góp của công nghệ cao đối với phát triển nông nghiệp
trong giai đoạn hội nhập với nhiều yêu cầu khắt khe. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ cao trong điều
kiện thực tế của Việt Nam và vai trò của công nghệ cao trong sự phát triển nông nghiệp, nông thôn bền
vững thì còn nhiều luận điểm khác nhau.