You are on page 1of 26

Lời nói đầu

Năm 2007, Nhà xuất bản Tri thức đã ra mắt bản dịch cuốn Ý tưởng mới từ các kinh tế gia
tiền bối (Hướng tới những tư tưởng kinh tế hiện đại). Hiếm khi chúng ta có thể tìm thấy một
tổng thuật các lý thuyết kinh tế học và thị trường thế giới hiện đại được trình bày một cách
rõ ràng, chặt chẽ và lôi cuốn đến như vậy.

Tuy nhiên, bản dịch đã được xuất bản tại Việt Nam lại thiếu sót một chương quan trọng
nói về Karl Marx. Đây là một chương hết sức thú vị thể hiện quan điểm của một học giả
phương Tây đối với người thày của chủ nghĩa cộng sản, Karl Marx. Nay tôi xin phép ra mắt
bạn đọc bản dịch tiếng Việt toàn bộ chương VI của nguyên bản tiếng Anh tái bản có chỉnh
sửa lần 2 vào năm 2007 tại Mỹ.

Bản dịch này do tôi hiệu đính lại từ một bản dịch của một dịch giả vô danh trên mạng.
Bản hiệu đính này đã có sự tham khảo và bổ sung các thuật ngữ kinh tế chính trị Marx-Lenin.
Tôi đã quyết định trích lại bằng tiếng Việt toàn bộ những đoạn trích của Marx mà tác giả sử
dụng từ bộ Toàn tập Mác - Ăngghen do NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội ấn hành.

Đọc chương VI về Karl Marx, chúng ta sẽ có một cái nhìn toàn cảnh về các lý thuyết kinh
tế của Marx cũng như chủ nghĩa Marx mà hiếm một tác phẩm nào ở Việt Nam có được. Với
văn phong trong sáng, ngắn gọn nhưng rõ ràng, tác giả đã làm cho những tư tưởng của
Marx trở nên dễ hiểu hơn rất nhiều với bạn đọc Việt Nam. Tôi hy vọng đây là một tác phẩm
có thể giải đáp được cho bạn đọc, nhất là những bạn đọc trẻ những câu hỏi về Marx và chủ
nghĩa cộng sản trong thời đại ngày nay. Mời các bạn đón đọc.

YesMan2008
Thành viên Diễn đàn X-cafevn.org - Tôn trọng sự khác biệt
CHƢƠNG VI

KARL MARX - NHÀ TIÊN TRI GIẬN DỮ

Khi còn là một cậu bé, Adam Smith đã có lần bị vài tên ranh ma bắt cóc. Sau vài giờ bắt cóc,
chúng đã thả cậu xuống lề đƣờng và cậu đã đƣợc trả về cho gia đình. Một nhà viết tiểu sử đã nhận xét
rằng nhà kinh tế học đãng trí, ngây thơ không thể trở thành một kẻ xảo quyệt đƣợc. Ngƣời ta cũng nói
rằng may mắn là Karl Marx chƣa bao giờ bị các nhà tƣ bản bắt cóc. Ông ta không thể trở thành một
nhà tƣ bản giỏi giang đƣợc. Giống nhƣ việc ông không bao giờ là nhà tiêu dùng thông thái. Marx luôn
ngập chìm trong nợ nần.

Bằng những lời đanh thép và lối viết kích động, Marx đã đoán trƣớc sự sụp đổ của chủ nghĩa tƣ
bản. Trƣớc cả khi ông tiến hành nghiên cứu cẩn thận về những quy luật của chủ nghĩa tƣ bản và bộ
quy tắc bí ẩn quyết định sự phát triển của nền văn minh.

Vị trí của Marx trong lịch sử các học thuyết kinh tế là rất khó xác định. Bằng nhiều cách, các nhà
kinh tế học chính thống ngày nay lùa Marx sang cuộc đàm luận cocktail của những nhà tƣ bản. Tuy
nhiên vẫn có một tỷ ngƣời đang phải vật lộn để tồn tại dƣới những chế độ tự nhận mình là trung thành
với chủ nghĩa Marx. Cùng với Freud và Darwin, Marx tác động ghê gớm tới tƣ duy của thế kỷ XX.
Nhƣng trong suốt cuộc đời mình, Marx có rất ít tiếng tăm và ít ngƣời ủng hộ. John Stuart Mill, một
ngƣời có học vấn uyên bác nhất trong thời đại của Marx lại chƣa bao giờ nghe đến tên ông.

Marx là một ngƣời đƣợc tận hƣởng buổi bình minh của giai cấp tƣ sản trong thị trấn Trier vùng
Rhineland. Sinh năm 1818, ông đã hòa nhập với tầng lớp trung lƣu và thƣợng lƣu của Trier. Sau này,
Marx đã bày tỏ niềm tự hào rằng ngƣời cha Heinrich của mình, một luật sƣ xuất sắc, cũng sở hữu một
vƣờn nho. Ngƣời vợ tƣơng lai và là bạn thời thơ ấu của Marx là Jenny sống ngay gần đó. Cha của bà
là Nam tƣớc Von Westphalen đƣợc Marx coi nhƣ một ông bác lúc Marx còn bé.

Sau khi ngƣời anh ruột chết lúc bốn tuổi, Marx trở thành anh cả và bắt đầu bắt nạt những đứa em
gái kém thông minh hơn. Một trò chơi ƣa thích của Marx là “cƣỡi” lên lƣng em gái mình và bắt chúng
chạy hộc tốc nhƣ những con ngựa khắp các dãy phố của thị trấn Trier. Ngoài trò cƣỡi ngựa ra, Marx
còn ép những đứa em gái của mình tham gia những cuộc thi ăn bánh mà họ phải ăn những chiếc bánh
đƣợc cậu làm ra với hai bàn tay không rửa ráy gì và cứ để bẩn mà nhào bột. Mặc dù vậy, những đứa
em gái của Marx ngƣỡng mộ sự thông minh của cậu và những câu chuyện thú vị cậu kể cho các em.
Những bạn cùng lớp với Marx cũng yêu quý và sợ cậu, ngƣời làm cả lớp cƣời bằng những trò đùa tinh
quái và cũng làm cho mọi ngƣời sợ rùng mình bởi những câu thơ mỉa mai châm biếm của cậu.

Suốt cuộc đời mình, Marx có thiên hƣớng và khiếu phê phán cay độc và lạm dụng việc chỉ trích cá
nhân. Ông đã thoát khỏi vài cuộc công kích đầy ác ý đối với nguồn gốc Do Thái của mình. Cha mẹ
của Marx đều xuất thân từ những dòng dõi giáo sĩ Do Thái xuất sắc. Chú của ông là ngƣời đứng đầu
giới giáo sĩ Do Thái ở Trier. Tuy vậy, những đạo luật bài Do Thái đã khiến cha của Marx quyết định
cải đạo sang Cơ đốc giáo, cho dù ông coi những ngƣời Do Thái mới chính là những "tín đồ cùng chí
hƣớng". Nhƣng con trai ông lại hắt hủi tổ tiên Do Thái của mình một cách hết sức ngang ngạnh. Các
học giả có thể tranh luận liệu ông có thực sự có tƣ tƣởng bài Do Thái hay không. Nhƣng không có gì
phải nghi ngờ rằng chính Marx đã từng thốt ra rất nhiều câu lăng mạ, sỉ nhục độc địa.1
Giống nhƣ John Stuart Mill, Marx đã hít đủ cả hai thứ chất độc hại là chủ nghĩa lãng mạn và chủ
nghĩa duy lý. Cha cậu truyền thụ cho cậu chủ nghĩa duy lý của Pháp thế kỷ XVIII đã đƣợc những
ngƣời kinh nghiệm chủ nghĩa ở Anh làm cho đỡ cứng nhắc. Ông khuyên con trai mình "quy phục" với
2
"niềm tin của Newton, Locke và Leibnitz". Trong khi đó, Nam tƣớc Von Westphalen đầy học thức đã
bỏ bùa mê cậu thanh niên trẻ tuổi Karl Marx bằng cách dắt cậu đi dạo khắp những cánh rừng điền
viên và kể cho cậu những câu chuyện của Shakespeares, Homer và những ngƣời theo phái lãng mạn.
Trớ trêu thay, chính ngài nam tƣớc quý tộc lại là ngƣời đƣa Marx đến với chủ nghĩa xã hội không
tƣởng và không có giai cấp. Trí óc sắc sảo và sáng suốt của ông Heinrich không mảy may tác động
đƣợc tới con trai mình nên Marx có lẽ đã tin vào những ý niệm mờ nhạt, mơ hồ của những ngƣời theo
chủ nghĩa không tƣởng. Nhƣng hễ ở đâu họ trông thấy hạnh phúc, là Marx lại thấy có đấu tranh.

Tại Đại học Tổng hợp Bonn, cuộc đấu tranh lớn nhất mà Marx đƣơng đầu là thói nghiện rƣợu và
thói tiêu tiền phóng túng của mình. Cậu đã thua cuộc còn ông Heinrich thì mất rất nhiều tiền. Marx
học luật và thu đƣợc một chút kinh nghiệm thực tiễn về luật pháp khi cậu bị bắt giam vì tội say mèm.
Kể từ khi trƣờng đại học có thùng rƣợu cho uống đến say thì việc bắt giam không còn nghiêm khắc
nữa. Những ngƣời khách có thể chơi bài và tiếp tục uống với ngƣời đang bị xử phạt. Sự tự do phóng
túng đã chứng tỏ tác dụng. Thắng lợi chính trị đầu tiên của Marx làm cho cậu trở thành vị chủ tịch hội
Tửu quán Trier.

Sau một năm với những bữa tiệc ở Bonn, Heinrich chuyển cậu con trai quý tử của mình sang Đại
học Berlin, một nơi ít chè chén nhậu nhẹt hơn. Ông hy vọng nhƣ vậy. Nhƣng Heinrich nhanh chóng
mất ngay hy vọng: "Cứ nhƣ thể là chúng tôi đƣợc làm bằng vàng. Cậu con trai quý tử của tôi tiêu sạch
700 đồng thale chỉ trong vòng có một năm, vi phạm mọi điều cam kết và các tục lệ. Trong khi đó
3
ngƣời giàu nhất cũng chỉ tiêu có hơn 500 đồng thôi". Những ngƣời cho vay đã kiện Marx vài lần.
Việc này khiến cậu phải chuyển nhà ít nhất là mƣời lần trong vòng năm năm ở Berlin.

Heinrich còn phàn nàn nhiều hơn về sự phóng đãng: Marx là một kẻ lƣời biếng và bẩn thỉu. Một
ông thánh biện hộ cho những sinh viên đại học đầu tóc bù xù, không tắm rửa gì. Nƣớc da ngăm đen
làm cho cậu có cái biệt danh "Ngƣời Maroc". Những ngƣời bạn và những đứa con của ông sau này
thƣờng hay gọi ông nhƣ thế một cách trìu mến. Với màu da tối và mái tóc dài bết chặt vào nhau, cậu
xuất hiện nhƣ là một lời biện hộ bờm xờm cho một sinh viên.

Heinrich cũng phản đối sự vòng vo trong con đƣờng học vấn của Marx khi cậu chọn học môn luật
và triết học. Nếu Marx đi loanh quanh, chắc chắn cậu ta sẽ đi loanh quanh ở bên ngoài lớp học. Trong
những năm học cuối, cậu chỉ theo có vài cua học và trở thành một "sinh viên tự do phóng túng, một
4
ngƣời chỉ coi trƣờng đại học nhƣ là nơi cắm trại". Mặc dù vậy, Marx học triết học theo cách của
riêng mình và gia nhập Phái Hegel trẻ, những ngƣời phê phán triệt để tôn giáo và những môn đệ theo
chủ nghĩa chiết trung của Hegel - một triết gia ở Berlin đã qua đời vài năm trƣớc khi sự nghiệp học
đại học của Marx bắt đầu. Marx đã tiếp thu một cách tài tình phƣơng pháp của Hegel và chứng minh
cho thế giới thấy rằng bỏ học đôi khi phải trả giá (mặc dù không phải trả giá về mặt tài chính).

Thật không may, Marx chƣa bao giờ chứng minh đƣợc điều này với cha mình. Cha cậu đã qua đời
vào năm 1838. Marx vẫn giữ đƣợc lòng thƣơng trìu mến đối với cha mình, cậu luôn mang theo mình
một bức ảnh của cha. Nhƣng Marx không bao giờ thể hiện lòng yêu mến nhƣ vậy đối với mẹ cậu, cậu
chỉ coi bà nhƣ một nguồn tài trợ keo kiệt. Cậu không tham dự đám tang của bà và cũng chẳng hề chảy
nƣớc mắt khi bà qua đời.

Sau cái chết của cha, Marx nghĩ khôn ngoan hơn cả là nên kết thúc việc học hành ở đây. Đột nhiên
cậu hăm hở rời bỏ học thuật rồi từ chối nộp bản luận văn về triết học Hy Lạp của mình theo các thủ
tục nghiêm ngặt ở Đại học Berlin. Thay vào đó, cậu gửi luận văn tới Đại học Jena, một xƣởng sản
xuất bằng cấp có tiếng. Một cua học từ xa sáu tuần lẽ ra phải kéo dài hơn. Chỉ vài ngày sau đó, Jena
đã lấy con dấu cao su mục nát của mình và phong tặng cậu học vị tiến sĩ.

Nhà báo trẻ tuổi


Với mảnh bằng trong tay, Marx loanh quanh trong giới báo chí, viết rồi sau đó làm biên tập cho tờ
Rheinische Zeitung, một tờ báo tự do của giới trung lƣu. Thật trớ trêu, ông kiểm soát đƣợc các tay bút
cấp tiến hơn của tờ báo, những ngƣời có khuynh hƣớng cộng sản chủ nghĩa. Chính phủ chuyên chế
Phổ rất muốn kiểm duyệt sự phê phán và Marx thƣờng phải làm việc với các quan chức ngốc nghếch
này. Có lần họ đã kiểm duyệt và cấm quảng cáo cho bản dịch tác phẩm Hài kịch Thánh thần của
Dante. Tại sao? Ở nƣớc Phổ, nhà ngƣơi không đƣợc nhạo báng thánh thần thông qua hài kịch.

Một ngƣời quan sát giai đoạn Marx làm việc ở tờ báo đã phác họa chân dung của nhà biên tập trẻ:

Karl Marx ngƣời xứ Trier là một con ngƣời mạnh mẽ mới có 24 tuổi. Mái tóc đen, dày, xoăn,
trùm lên cằm, lên cánh tay, mũi và cả tai. Anh ta độc đoán, hống hách, mạnh mẽ, đầy đam mê,
vô cùng tự tin. Nhƣng đồng thời rất ham hiểu biết và học hỏi, một nhà biện chứng không ngơi
nghỉ. Một ngƣời với sự thông thái kiểu Do Thái đã đẩy mọi quan điểm của học thuyết Hegel
trẻ tới kết luận cuối cùng. Và sau đó, nhờ sự tập trung nghiên cứu về kinh tế của mình, anh ta
đã sẵn sàng đƣa niềm tin của mình đến với chủ nghĩa cộng sản. Dƣới sự lãnh đạo của Marx,
tờ báo non trẻ ngay lập tức bắt đầu nói năng liều lĩnh.5

Chính phủ phản ứng lại sự xấc xƣợc của Marx bằng cách đƣa ra một lựa chọn: hoặc là tờ báo phải
đóng cửa, hoặc là Marx phải rời bỏ nó. Marx đã từ chức.

Ông đã mất việc làm. Nhƣng đồng thời ông lại kiếm đƣợc một ngƣời vợ là Jenny von
Westphanlen. Những ngƣời họ hàng của cô nghĩ rằng con gái của nhà quý tộc đã kết hôn với một kẻ
thấp kém. Tuy nhiên họ không biết rằng cô ta sẽ tụt dốc bao xa.

Năm 1843, gia đình Marx chuyển đến Paris. Ở đó Marx biên tập một tạp chí chính trị mới, bắt đầu
xem xét chủ nghĩa cộng sản, nhập bọn với đám ngƣời cấp tiến trẻ và ngạo mạn. Những ngƣời mà
Heinrich Heine mô tả nhƣ là một "đám ngƣời vô thần và tự cho mình là Chúa". 6 Tờ tạp chí chỉ xuất
bản một số. Ngay sau đó Marx và những ngƣời bạn theo chủ nghĩa cộng sản của ông bất đồng với
đồng chủ biên Arnold Ruge. Ruge cũng học cách bất chấp đám đông vô thần này: "Họ mong muốn
giải phóng con ngƣời… nhƣng lúc này đây họ đặt trọng tâm lớn nhất vào của cải và đặc biệt là vào
tiền… Để giải phóng những ngƣời vô sản về mặt trí tuệ và thể xác khỏi gánh nặng của sự bần cùng,
họ mơ có một tổ chức có thể phổ biến sự nghèo khổ này và bắt tất cả mọi ngƣời phải chịu cái gánh
nặng của sự nghèo khổ đó".7

Là một kẻ trong đám ngƣời đó, Friedrich Engels trở thành một ngƣời quan trọng trong cuộc đời và
sinh kế của Marx. Là con trai của một ông chủ công xƣởng giàu có, Engels có hai cuộc sống. Ban
ngày ông làm việc trong doanh nghiệp của cha mình và kiếm đƣợc một đồng lƣơng đáng kể nhƣ một
nhà tƣ bản. Ban đêm ông đọc Hegel và các nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù là một ngƣời
Đức, Engels sống ở Anh trong vài năm và cai quản doanh nghiệp dệt may của gia đình. Sau một thời
gian sống ở Manchester, ông viết bài bóc trần và phê phán gay gắt sự nghèo khổ ở nƣớc Anh có tên là
Tình cảnh giai cấp công nhân Anh năm 1844. Nhƣng Engels không tự nguyện đem những thu nhập tƣ
bản của mình chia cho ngƣời nghèo hay từ bỏ những thói hƣ tật xấu kiểu tƣ sản của mình. Thực ra,
ông dƣờng nhƣ không bị giằng xé gì về mặt tâm lý bởi cuộc sống lƣỡng phân của mình. Ông cảm thấy
khá thoải mái với trò đi săn cáo, nhâm nhi những cốc rƣợu xê rét và đấu kiếm. Ông có thể nâng một
cốc champagne hảo hạng và uống mừng ngƣời vô sản một cách rất hào hoa. Khi nào không săn đuổi
cáo thì ông săn đuổi phụ nữ. Ông cũng tuyên bố rằng: "Nếu tôi có một thu nhập 5.000 franc, tôi sẽ
không làm gì mà chỉ việc vui thú với đàn bà cho tới khi chết. Nếu không có đàn bà Pháp, cuộc đời sẽ
không còn gì đáng sống nữa."8 Đúng là một bƣớc nhảy vọt khỏi quan niệm của Socrates: "Không
khám phá hết cuộc đời thì thật không đáng sống".

Trong những năm 1840, Marx bắt đầu xây dựng những học thuyết sau này làm thay đổi thế giới.
Tất nhiên không phải ai cũng tán thành. Chính quyền Phổ liệt quan điểm trong những bài viết của
Marx vào sổ đen khi tuyên bố Marx mắc tội mƣu phản. Khi nƣớc Pháp trục xuất ông một năm sau đó,
ông đã lánh sang Bỉ.

Những bài viết phản động đã buộc Marx và gia đình của ông phải di chuyển từ một nƣớc châu Âu
này sang một nƣớc châu Âu khác là gì vậy? Trong những năm 1840, Marx xây dựng những cơ sở triết
học và lịch sử cho việc nghiên cứu chủ nghĩa tƣ bản. Những lý thuyết này chứng minh điều gì? Nào là
những nền móng của chủ nghĩa tƣ bản sẽ nhanh chóng suy sụp, nào là quần chúng sẽ sớm vùng lên
làm cách mạng và làm rung chuyển những kẻ có của cho tới khi họ phải lật nhào khỏi chân đế của
mình.

Nhà duy vật lịch sử


Triết học và lịch sử của Marx đều sử dùng những thuật ngữ của Hegel, nhƣng ông không sử dụng
nhƣ một con vẹt. Marx dùng đúng những từ đó nhƣng ông thay đổi trật tự. Để hiểu đƣợc ông làm điều
đó nhƣ thế nào, trƣớc hết hãy xem xét một nguyên lý cơ bản của ngƣời thầy thông thái của ông.

Hegel dạy rằng mục tiêu của triết học nằm ở những tri thức có đƣợc từ việc khám phá ra những ý
niệm. Những ý niệm và tinh thần loài ngƣời dẫn dắt lịch sử. Thế giới vật chất, những thứ mà chúng ta
nhìn thấy và sờ mó đƣợc và những thiết chế trong xã hội đều đƣợc dẫn dắt bởi những ý niệm. Nhà xã
hội học ngƣời Đức - Max Weber cũng dùng luận điểm này trong công trình nổi tiếng của mình là Nền
đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Nói một cách đơn giản, Weber tin rằng sự nổi
dậy của đạo Tin Lành sẽ dẫn tới chủ nghĩa tƣ bản; nghĩa là lòng tin vào Chúa đã chuyển thành những
thiết chế kinh tế.

Theo Hegel, chúng ta có thể truy tìm dấu vết của lịch sử nhờ những chủ nghĩa dân tộc từng có ảnh
hƣởng lớn: thời đại Ai Cập, Hy Lạp, La Mã và nhiều thời đại khác nữa. Là một ngƣời yêu nƣớc,
Hegel nghĩ nƣớc Phổ là ngƣời lãnh đạo thời đại của nó.

Marx phản đối chủ nghĩa duy tâm của Hegel. Theo gót nhà triết học Đức Ludwig Feuerbach, Marx
tìm kiếm những lực lƣợng duy vật trong lịch sử. Theo tác phẩm Bản chất đạo Cơ đốc của Feuerbach,
Chúa chỉ đơn giản là sự phóng chiếu những mong muốn, những đòi hỏi và những đặc trƣng của con
ngƣời. Con ngƣời sáng tạo ra Chúa; Chúa không sáng tạo ra con ngƣời. Cái thực sự có trên đời là con
ngƣời đã dẫn đến ý tƣởng về Chúa. (Những tác phẩm của Feuerbach làm cho Marx sau này lên án tôn
giáo, coi đó là "thuốc phiện của nhân dân".9 Chừng nào mà con ngƣời còn biểu hiện những khát khao
của mình lên Chúa và cõi âm thì họ sẽ thụ động chấp nhận những điều kiện vật chất và sự bất công ở
thế giới thực tại)

Cho tới giờ Marx có vẻ giống một kẻ đào tẩu khỏi trƣờng phái Hegel hơn là một ngƣời theo phái
Hegel Trẻ. Nhƣng Marx vẫn giữ lại cái then chốt trong phƣơng pháp của Hegel là phép biện chứng.
Hegel quả quyết rằng lịch sử, giống nhƣ thực tại, không tuân theo dạng thức từ từ và bằng phẳng. Nó
cũng không bao gồm hàng loạt những sự kiện xảy ra độc lập. Lịch sử hàm chứa sự đấu tranh giữa
những mặt đối lập. Mọi tƣ tƣởng đều có mặt đối lập của nó. Các nhà triết học thƣờng tóm lƣợc phép
biện chứng của Hegel bằng cách nói rằng mọi luận đề hay tƣ tƣởng đều bị phản bác bởi những phản
đề của nó. Cuộc chiến giữa những tƣ tƣởng này tạo ra một hợp đề hay một luận đề mới. Rồi luận đề
mới này lại gặp những phản đề của nó. Thế giới luôn thay đổi. Lịch sử không bao giờ lặp lại chính nó.
Mặc dù những nhà sử học ba hoa có thể lặp lại chính họ.

Hãy so sánh phƣơng pháp biện chứng với cách tiếp cận kiểu Newton đối với kinh tế học, một cách
tiếp cận chỉ nhìn thấy những mối quan hệ nhân quả không thay đổi. Điều duy nhất không thay đổi
trong cách nhìn nhận của Hegel là luôn luôn tồn tại sự biến chuyển.

Marx lắp ráp phƣơng pháp biện chứng vào chủ nghĩa duy vật. Engels sau này đặt tên cho sự kết
hợp này là chủ nghĩa duy vật biện chứng hay chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nếu cái đầu của Hegel ở trên
mây thì Marx muốn cắm mũi của chúng ta xuống đất. Ông nói rằng lịch sử xảy ra trên Trái đất. Hãy
quên việc nghiên cứu tôn giáo, đạo đức hay chủ nghĩa dân tộc đi. Chỉ cần nhìn ra cửa sổ và hãy xem
cách thức mà con ngƣời phải vật lộn để có đƣợc những thứ thiết yếu chỉ cốt cho đủ sống. Chẳng có
lịch sử nếu không có con ngƣời. Và cũng chẳng có con ngƣời nếu không có thức ăn. Do vậy, "hành
động lịch sử đầu tiên là …sản xuất ra của cải vật chất để thỏa mãn những nhu cầu đó". 10 Các nhà sử
học duy tâm có lẽ cũng viết lịch sử của xứ Oz nhƣ vậy.

Marx vẽ ra con đƣờng đi của lịch sử từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến chế độ phong kiến tới chủ
nghĩa tƣ bản rồi tới chủ nghĩa xã hội. Con đƣờng này không nằm ở trên các vì sao hay trong các quy
luật mà là trong sản xuất, cụ thể hơn là trong mối quan hệ của con ngƣời với quá trình sản xuất. Mỗi
một hệ thống sản xuất đều tạo ra những giai cấp thống trị và bị trị. Mỗi một thời đại đƣợc đánh dấu
bởi một cách thức nhất định để những kẻ cai trị bóp nặn thêm thu nhập cho mình. Trong thời đại La
Mã, bất cứ kẻ nào sở hữu nô lệ đều nắm quyền sở hữu đối với sản lƣợng do nô lệ làm ra. Trong thời
kỳ phong kiến, các địa chủ nắm quyền sở hữu những sản lƣợng của nông nô. Dƣới chủ nghĩa tƣ bản,
những ngƣời chủ công xƣởng và đất đai nắm quyền sở hữu những sản lƣợng của những ngƣời làm
công cho họ. Sự sống còn của giai cấp trị vì dựa vào lao động của giai cấp phục tùng. Điều này có
đem lại cho những ngƣời công nhân quyền mặc cả lớn hơn không? Không. Những ngƣời công nhân
phải hợp tác với giai cấp thống trị vì những kẻ thống trị kiểm soát những phƣơng tiện sản xuất. Ngƣời
công nhân không thể "lấy những bộ đồ bằng đá cẩm thạch và đi về nhà". Họ không sở hữu những đồ
vật bằng đá cẩm thạch đó.

Do đó, tồn tại một sự phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên những kẻ cai trị vẫn cố ra vẻ nhƣ thể là họ
chẳng cần đến những ngƣời công nhân nhƣ những ngƣời công nhân cần họ. Nếu thành công, họ sẽ
bành trƣớng thêm sự thống trị của họ.
Họ cố duy trì địa vị của họ bằng cách nào? Những quan điểm của Hegel về đạo đức, chủ nghĩa dân
tộc và tƣ tƣởng đã đề cập đến điều này. Giai cấp thống trị sử dụng tín ngƣỡng, luật pháp, văn hóa, tôn
giáo, đạo đức và lòng yêu nƣớc nhằm hỗ trợ cho quá trình sản xuất. Một ngƣời công nhân yêu nƣớc sẽ
huýt sáo khi anh ta làm việc và không gian lận với ngƣời chủ bằng cách giải lao đi uống cà phê quá
nhiều. Ngày nay, các nhà máy chế tạo ô tô và sản xuất bia thích gắn kết nƣớc Mỹ với hình ảnh của
một "ngày làm việc chăm chỉ và trung thực". Giấc mơ Mỹ vỡ tan trong một giai điệu quảng cáo quen
thuộc "bóng chày và xúc xích nóng, bánh táo và Chevrolet". Chevrolet thực sự thay thế ngƣời mẹ.
(Liệu giấc mơ phức cảm của ngƣời Mỹ có cả ham muốn dành cho chiếc xe ô tô của ngƣời Cha
không?)

Hệ thống luật pháp và đạo đức của chúng ta dạy chúng ta cảm thấy tội lỗi nếu chúng ta lẩn trốn
công việc của mình. Vậy tại sao những ngƣời chủ sở hữu lại đƣợc hƣởng lợi nhuận kiếm đƣợc nhờ
mồ hôi của chúng ta? Chúng ta đáp lại rằng bởi vì họ sở hữu tài sản. Marx hỏi tiếp: Nhƣng tại sao
chúng ta phải chấp nhận hệ thống luật pháp này?

Theo Marx, những kẻ cai trị, những kẻ có quyền lợi trong chế độ tƣ hữu đã thôi miên quần chúng
lao động. Sức thuyết phục và sự ám thị làm cho ngƣời Mỹ mơ đến cổ phiếu, trái phiếu và những chiếc
BMW. Tất nhiên, một cá nhân nghĩ rằng những giấc mơ là của riêng anh ta và tự anh ta tiếp nhận
những ám thị đó một cách vô thức. Marx gọi những tƣ tƣởng, luật pháp và quy tắc đạo đức tƣơng ứng
với thiết chế xã hội là thượng tầng kiến trúc.

Câu nói nổi tiếng của Marx trong lời tựa cho cuốn sách của ông Góp phần phê phán khoa Kinh tế
Chính trị là: "Phƣơng thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt, xã hội, chính
trị và tinh thần… Không phải ý thức của con ngƣời quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội
của họ quyết định ý thức của họ."11

Những nông nô cúi mình và thể hiện lòng trung thành với lãnh chúa. Thợ phụ tự hào khi đƣợc làm
việc cùng thợ cả. Ngƣời làm công ăn lƣơng cố gắng đƣợc đề bạt bằng cách làm việc tích cực hơn. Tất
cả họ làm việc cần cù và mong kiếm đƣợc một cuộc sống tốt hơn trong chế độ đang cai trị họ.

Marx không lập luận rằng giai cấp thống trị chủ mƣu xây dựng nên thƣợng tầng kiến trúc. Những
ngƣời hữu sản có lẽ thực sự tin vào tôn giáo của họ và không xem tôn giáo nhƣ một công cụ để lợi
dụng. Thƣợng tầng kiến trúc xuất hiện bởi quá trình sản xuất đã bóp méo và làm xơ cứng nhận thức
của mọi ngƣời. Đối với Marx, "con ngƣời làm ra lịch sử của chính mình, nhƣng không phải làm theo
ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điều kiện trực
tiếp có trƣớc mắt, đã cho sẵn và do quá khứ để lại. Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết nặng
nhƣ quả núi đè nặng lên tâm trí của những ngƣời đang sống".12 (Điều bất ngờ là sau này Engels đã
thừa nhận rằng Marx và ông đôi khi nhấn mạnh quá mức quan hệ nhân quả giữa sản xuất và thƣợng
tầng kiến trúc. Những tƣ tƣởng đôi khi có những hậu quả thực tế của nó)

Nếu một nguyên tắc đạo đức hay nền văn hóa tự động nảy sinh để củng cố thêm cho xã hội phân
chia giai cấp thì tại sao Marx lại công kích mở màn trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
rằng "lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trƣớc đến ngày nay là lịch sử đấu tranh giai cấp"?13 Tại sao
mọi ngƣời phải đấu tranh? Có ai biết đấu tranh ngay từ đầu không? Những ngƣời chủ bóp nặn công
nhân và công nhân bằng lòng chấp nhận sự bóp nặn một cách thoải mái nhƣ một tín hữu giáo hội
Thống Nhất (Moonie) bị thôi miên đem tặng những bông cúc ở sân bay. Chừng nào mà ngƣời
Moonie/công nhân đƣợc hƣởng lợi một cách hình thức thôi thì nền kinh tế vẫn cứ vận hành và lợi
nhuận vẫn cứ chảy đều vào tài khoản ngân hàng của các ông chủ.
Sự nổi loạn diễn ra khi có sự thay đổi trong công nghệ sản xuất. Một công nghệ mới hay một
phƣơng pháp mới làm thay đổi chất lƣợng hay số lƣợng của đất đai, lao động và tƣ bản. Những phát
minh, phát kiến, giáo dục và sự gia tăng dân số khiến cho những lực lƣợng sản xuất vật chất luôn biến
động. Với một tập hợp mới những lực lƣợng vật chất, quá trình sản xuất cũ trở nên lỗi thời. Chẳng
hạn, nô lệ có thể đem lại lợi nhuận khi mà tỷ lệ giữa đất đai và ngƣời lao động còn cao. Nhƣng nếu
những chiếc máy kéo và máy gặt làm việc hiệu quả hơn nô lệ hoặc nếu số ngƣời lao động tăng lên thì
nô lệ sẽ tạo ra ít lợi nhuận hơn. Tƣơng lai nằm ở trong quá trình sản xuất mới.

Tuy nhiên đừng quên rằng toàn bộ hệ thống luật pháp, đạo đức, chính trị lại dựa vào phƣơng pháp
cũ. Các mục sƣ thƣờng dạy rằng an phận nông nô là con đƣờng dẫn tới vƣơng quốc của Chúa. Đó là
một sự thực vĩnh cửu đƣợc khắc sâu trong tâm trí và trên những phiến đá của các thánh đƣờng Trung
cổ. Thật vậy, thƣợng tầng kiến trúc có vẻ tĩnh.

Đấu tranh xảy ra khi giai cấp cai trị cũ tự cô lập mình khỏi vòng quay năng động của lịch sử bằng
cách bám chặt lấy những tƣ tƣởng cũ kỹ và ngăn trở sự phát triển của nền kinh tế. Marx viết rằng cối
xay quay tay sinh ra địa chủ phong kiến. Còn động cơ hơi nƣớc loan báo sự hiện diện của nhà tƣ bản
công nghiệp. Nhƣng các lãnh chúa phong kiến chống lại ngƣời kế tục mình là những nhà công nghiệp.
Sau đó thợ cả phƣờng hội cãi lộn với chủ công xƣởng. Hãy quên đi những câu chuyện bịa đặt về Ngài
Lancelot và Galahad. Cuộc đấu thƣơng trên lƣng ngựa với những cây thƣơng sắc nhọn nhất diễn ra
không phải giữa những hiệp sĩ châu Âu thời Trung cổ mà là giữa các lãnh chúa và những lực lƣợng
thƣơng mại.

Giai cấp thống trị luôn luôn vấp phải mối đe dọa khi mà đất đai, lao động, tƣ bản hay công nghệ
thay đổi. Họ có thể đổ nhào từ trên mái của những ngôi nhà đƣợc xếp từ những quân bài trong khi kêu
khóc cho "chân lý vĩnh cửu" trong triết lý của họ. Lịch sử xáo bài và ai nắm giữ lá bài K thì ngƣời đó
có thể bị chém đầu.

Câu chuyện sau sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn. Ngày xửa ngày xƣa, những tên lính gác nhanh nhẹn
đã sốt sắng cảnh báo lãnh chúa rằng sẽ có một cơn lũ. Gã lãnh chúa này chạy ngay đến thánh đƣờng
và cầu xin Chúa cứu giúp. Khi mà nƣớc lũ tràn đến những bậc thềm của tòa thánh đƣờng, một nông
nô đã chèo một con thuyền nhỏ đến chỗ bậc thềm và đề nghị vị lãnh chúa lên thuyền. "Không, cám
ơn. Ta tin vào Chúa, và ta tin vào công lý. Chúa sẽ cứu ta." Khi nƣớc dâng lên, gã lãnh chúa bƣớc lên
bục giảng kinh. Lần này một chiếc xuồng máy chạy vội đến chỗ ông ta. Khi nƣớc vỗ mạnh vào bục
giảng kinh, ngƣời lái tàu la lên: "Tôi sẽ cứu ngài. Hãy nhảy lên đây!" Lại một lần nữa gã lãnh chúa
quý tộc đáp lại: "Đừng lo. Ta tin vào Chúa. Chúa sẽ cứu ta. Ta không cần những cái máy ồn ào." Cuối
cùng, nƣớc đã nhấn chìm thánh đƣờng. Khi lãnh chúa nắm đƣợc đỉnh ngọn tháp cao nhất, thân thể
ông ta bị sóng đánh tả tơi. Một chiếc trực thăng bay đến trên đầu ông ta. Viên phi công hét lên: "Xin
ngài, ông chủ của tôi. Hãy nắm lấy cái thang này." Gã lãnh chúa lại đáp: "Đừng lo. Ta tin vào Chúa.
Chúa sẽ cứu ta." Một lúc sau, nƣớc dâng lên cao hơn và gã lãnh chúa chìm nghỉm.

Trên thiên đƣờng (suy cho cùng ông ta là một vị lãnh chúa tốt), ông ta gặp đƣợc Chúa. "Chúa",
ông nói, "tôi tin Ngài cả đời. Tôi làm theo mọi điều mà thầy tu khuyên bảo tôi. Khi mà những ngƣời
khác nghi ngờ và quay sang nhờ đến máy móc, tôi tin Ngài sẽ cứu tôi. Nhƣng Ngài làm tôi thất vọng."

"Tên ngốc!" Chúa ngắt lời. "Ngƣơi nghĩ ai đã đƣa thuyền, xuồng máy và trực thăng đến hả!"

Ai không tuân theo dòng chảy của chủ nghĩa duy vật lịch sử, ngƣời đó sẽ bị chết chìm dƣới dòng
chảy đó. Marx mô tả dòng chảy:
Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lƣợng sản xuất vật chất của xã hội mâu
thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có ... những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của
các lực lƣợng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội. Cơ sở kinh tế thay
đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thƣợng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng. Khi xét
những cuộc đảo lộn ấy, bao giờ cũng cần phân biệt cuộc đảo lộn vật chất - mà ngƣời ta có thể
xác nhận với một sự chính xác của khoa học tự nhiên - trong những điều kiện kinh tế của sản
xuất, với những hình thái pháp lý, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật hay triết học, tóm lại, với
những hình thái tƣ tƣởng trong đó con ngƣời ý thức đƣợc cuộc xung đột ấy và đấu tranh để
giải quyết cuộc xung đột ấy.14

Bởi vì chủ nghĩa tƣ bản dựa trên hệ thống phân chia giai cấp nên tất yếu dẫn tới cách mạng và
thắng lợi của giai cấp công nhân. Tác phẩm bất hủ của Marx, cuốn Tư Bản đã phác họa "những xu
hƣớng đang tác động và đang đƣợc thực hiện với một tất yếu gang thép". 15 Chỉ có một xã hội không
giai cấp mới có thể tránh khỏi đƣợc các cuộc cách mạng. Và theo quan điểm của Marx, một xã hội
không có giai cấp cuối cùng sẽ xuất hiện. Những nhà tƣ bản thối nát cuối cùng sẽ bị tiêu diệt. Sau
nhiều thế kỷ bị chiếm đoạt thành quả của mình, cuối cùng những ngƣời công nhân sẽ đƣợc tự do.

Nếu chủ nghĩa tƣ bản "tất yếu" phải sụp đổ để biến thành chủ nghĩa xã hội, thì chắc hẳn chủ nghĩa
phong kiến phải sụp đổ để biến thành chủ nghĩa tƣ bản? Có phải chủ nghĩa tƣ bản là điểm dừng cần
thiết trên con đƣờng tiến tới chủ nghĩa cộng sản? Nếu vậy thì đó không phải là một cuộc tàn sát vô cớ
hay một cuộc nổi dậy kém may mắn của nhân loại nhƣ nhiều ngƣời xã hội chủ nghĩa không tƣởng
quan niệm. Marx bị cự tuyệt bởi những ngƣời lãng mạn phản khoa học, những ngƣời mô tả chủ nghĩa
tƣ bản nhƣ là một tai nạn tồi tệ do những kẻ xấu xa tạo ra. Thực ra, Marx cũng viết những lời tán
dƣơng hùng hồn dành cho các nhà tƣ bản. Bởi vì theo quan điểm của ông, chủ nghĩa tƣ bản đã giải
phóng con ngƣời thoát khỏi những điều kiện tồi tệ hơn. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Marx
không dành cho những tay lái buôn ngớ ngẩn có óc hoài cổ:

Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phƣơng tiện giao thông trở nên vô
cùng tiện lợi, giai cấp tƣ sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất và trào lƣu văn minh.
Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những vạn lý trƣờng
thành và buộc những ngƣời dã man bài ngoại một cách ngoan cƣờng nhất cũng phải hàng phục
… Giai cấp tƣ sản, trong quá trình thống trị giai cấp chƣa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực
lƣợng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lƣợng sản xuất của tất cả các thế hệ trƣớc kia gộp
lại.16

Marx đã phê phán giai cấp tƣ sản nhƣng ông lại dành những lời công kích hiểm độc nhất cho
những ngƣời có tƣ tƣởng xã hội chủ nghĩa nhƣng bất đồng quan điểm với ông. Không phải là ngƣời
có thể tập hợp đƣợc những ngƣời khác quanh mình. Ngay cả với những ngƣời bạn chân thành nhất,
ông cũng chỉ giống nhƣ một con mãng xà đang cuộn tròn mình lại. Marx có lẽ sẽ rất căm ghét đảng
Xanh và mơ những thành viên của nó bị nghẹn vì những Quả Nho ngớ ngẩn của họ. Ông viết rằng chủ
nghĩa tƣ bản "đã cứu một bộ phận đáng kể dân chúng khỏi sự ngu ngốc của cuộc sống thôn quê".17
Ông sẽ đáp lại những ngƣời ủng hộ chủ trƣơng "quay về với thiên nhiên" bằng những cuốn sách lịch
sử để họ hiểu cuộc sống thời kỳ tiền công nghiệp khủng khiếp nhƣ thế nào. Marx đã đáp lại một cách
gay gắt cuốn Triết học của sự khốn cùng của Pierre Proudhon bằng cuốn Sự khốn cùng của Triết học.
Những ngƣời thông minh không cố gắng xóa bỏ hay "nhớ lại" những giai đoạn lịch sử và gửi chúng
trở về công xƣởng nhỏ bé của Chúa để sửa chữa.
Chủ nghĩa tư bản là một điều kiện tất yếu cho chủ nghĩa xã hội. Bởi vì chủ nghĩa tƣ bản sản xuất ra
rất nhiều của cải. Nó cho phép một hệ thống ít phải điều hành hơn là chủ nghĩa xã hội có thể kế tục.
Các quốc gia tiền tƣ bản chủ nghĩa không thể hy vọng vào việc làm cách mạng cộng sản chủ nghĩa để
lật đổ các lãnh chúa hay Nga Hoàng. Marx không để ý tới nƣớc Nga. Ông cũng không trông chờ chủ
nghĩa cộng sản sớm xảy ra ở Đức, bởi vì chỉ có 4% lao động nam giới làm việc trong các công xƣởng
lúc bấy giờ. Những xiềng xích có lẽ sẽ bị gãy vụn đầu tiên ở Anh và ở Pháp, những thành trì của chủ
nghĩa tƣ bản tiên tiến. Nƣớc Pháp sẽ báo hiệu khi nào nƣớc Đức chín muồi cho chủ nghĩa cộng sản:
"Khi tất cả những điều kiện bên trong đã chín muồi, ngày phục sinh của nƣớc Đức sẽ đƣợc báo hiệu
bằng tiếng gáy của chú gà trống xứ Gô loa."18

Tư Bản và sự sụp đổ của Chủ nghĩa Tư bản


Marx không chỉ cao ngạo chờ đợi tiếng gáy của chú gà trống. Thay vào đó ông tự cao tự đại thảo
ra một công trình phân tích cẩn thận và đầy đủ về chủ nghĩa tƣ bản là cuốn Tư Bản. Trong thập niên
1850, Marx tự chôn mình trong đống sách giáo khoa kinh tế học ở Bảo tàng Anh quốc ở London. Gia
đình ông nhịn đói trong khi ông phân tích sự khổ sở trừu tƣợng của giai cấp vô sản. Gia đình Marx
sống trong một căn hộ nhếch nhác ở một trong những khu nghèo nhất ở London. Một mật thám theo
dõi Marx đã mộ tả chân dung sống động hiếm có về sự bần cùng mà gia đình ông phải chịu đựng:

Khi một ai đó bƣớc vào phòng của Marx, mắt họ bị cay xè vì khói than và mùi thuốc lá tới
mức lúc đầu ngƣời ta phải dò dẫm y nhƣ ở trong một cái hang… Mọi thứ đều bẩn thỉu và đầy
bụi, ngay cả việc ngồi xuống cũng hết sức nguy hiểm. Chỗ này thì có cái ghế ba chân, chỗ kia
thì bọn trẻ chơi đùa và họ chuẩn bị cơm nƣớc trên một cái ghế có vẻ còn nguyên vẹn.

Đối với bản thân Marx, "ông là một ngƣời cực kỳ bừa bãi, hay chỉ trích ngƣời khác cay độc, một
chủ nhà nghèo khổ. Ông sống giống kiểu dân gipsy. Hiếm khi thấy ông tắm, chải chuốt và thay đồ lót.
Ông còn thƣờng xuyên say bí tỉ. Ông thƣờng tiêu phí thời gian của ngày một cách vô ích, nhƣng nếu
ông phải làm việc thì ông làm việc cả ngày đêm không mệt mỏi". Jenny mặc dù lớn lên trong gia đình
quý tộc "nhƣng cũng chịu đƣợc cảnh nhà cửa bần cùng nhƣ thế này".19

Gia đình Marx mất ba đứa trẻ vì bệnh viêm phổi, viêm phế quản và bệnh lao trong năm năm bất
hạnh ở London. Điều khủng khiếp nhất là những ngƣời làm dịch vụ tang lễ lại không cho nợ. Jenny
trở nên vô cùng phiền muộn. Đã có lần bà phải đi ăn xin 2 bảng để mua quan tài cho đứa con. Mặc dù
Marx thƣờng hay thô lỗ với những ngƣời xung quanh, nhƣng ông vẫn còn chút lòng thƣơng xót với
những đứa con của mình. Bản thân ông cũng suy sụp khi chúng qua đời:

Bacon nói rằng những ngƣời thực sự quan trọng có rất nhiều mối liên hệ với thiên nhiên và với
thế giới. Họ có rất nhiều thứ để quan tâm nên họ dễ dàng vƣợt qua những mất mát. Tôi không
thuộc về những ngƣời quan trọng nhƣ vậy. Cái chết của những đứa con đã hủy hoại sâu sắc
trái tim và khối óc của tôi và tôi cảm thấy sự mất mát chỉ nhƣ mới ngày hôm qua thôi. 20

Marx cố nhiên quy cảnh ngộ tuyệt vọng của mình cho giai cấp tƣ sản và hứa là sẽ bắt họ phải trả
giá cho những tai họa của gia đình ông và sự ốm đau của chính ông, kể cả những đám mụn đỏ trên
mặt ông.

Marx hiếm khi tự trách mình. Lẽ ra ông phải làm nhƣ vậy. Marx còn ý thức rất trẻ con về kinh tế
gia đình. Có ngƣời đã mô tả điều đó giống nhƣ việc một đứa trẻ cứ hét to ở đầu con kênh này và
chẳng có trách nhiệm gì ở đầu kia. Nếu tính những món quà từ gia đình Jenny và Engels gửi cho và
những khoản nhuận bút cho những bài báo trong tờ New York Daily Tribune thì gia đình Marx phải
"kiếm" đƣợc một khoản tƣơng đƣơng với thu nhập của một gia đình trung lƣu cấp thấp. Trong những
năm tháng khốn khó nhất của họ, họ chỉ kiếm đƣợc một khoản thu nhập gấp ba lần thu nhập của một
công nhân không có kỹ năng. Một nhà thơ cấp tiến ngƣời Đức cũng bị trục xuất khỏi quê hƣơng, viết
rằng một khoản thu nhập tƣơng tự nhƣ của Marx lúc nào cũng có thể mua đƣợc cho ông "một miếng
bò bít tết thơm ngon mang hƣơng vị tha phƣơng".21

Nhƣng thay vì thƣờng xuyên chăm lo gia đình mình, Marx đầu tƣ tiền vào những tờ báo chính trị
và đàn piano, âm nhạc, những bài tập khiêu vũ cho những đứa con của mình! Mặc dù là vợ của một
nhà cách mạng nhƣng Jenny vẫn cứ in những giấy viết xa xỉ ghi tên mình là "Nữ Nam tƣớc Von
Westphanlen".

Vấn đề trở nên tồi tệ thêm khi Marx làm cho ngƣời hầu gái mang thai (cô ta là một món quà từ nhà
Von Westphanlen). Một lần nữa Marx chối bỏ trách nhiệm của mình. Ông nói với Jenny rằng Engels
là cha đứa bé. Ngƣời hầu gái bỏ đi một thời gian, rồi sau đó quay trở về với một đứa trẻ tóc rậm, da
hơi ngăm đen. Đứa bé sau này đƣợc đem cho ngƣời khác làm con nuôi.

Với tình cảnh gia đình nhƣ vậy, không ngạc nhiên gì khi biết rằng trong suốt những năm 1850 và
1851, Marx ở trong Bảo tàng Anh quốc nhiều hơn là ở nhà. Ông đọc hầu hết tất cả những gì liên quan
đến kinh tế học. Ông bỏ ra hàng tháng trời để ghi chép những đoạn trích dài của khoảng 80 tác giả.
Engels thúc giục ông làm nhanh hơn nhƣng Marx chậm rãi một cách khó hiểu và quá câu nệ các tiểu
tiết. Marx cũng gặp khó khăn khi tìm kiếm một nhà xuất bản chấp nhận xuất bản cuốn Tư Bản theo
nguyên mẫu của ông. Engels quở trách nhà cộng sản ƣơng ngạnh: "Thể hiện một chút đầu óc kinh
doanh xem nào."22

Mãi đến năm 1867, Marx mới hoàn thành việc nghiên cứu, viết lách, biên tập của mình và bình
phục sau vài lần ốm đau. Tập I cuối cùng cũng ra đời. Ba tập tiếp theo đƣợc xuất bản sau khi tác giả
qua đời.

Để miêu tả cuốn Tư Bản, ta có thể chọn một trang bất kỳ trong cuốn Từ điển Đồng nghĩa và Dị
nghĩa của Roget và đọc thật to bất kỳ tính từ nào. Cuốn sách đó có tất cả 2500 trang bao gồm toàn bộ
trích dẫn từ hơn 1500 tác phẩm khác. Một vài trang thực sự là những kiệt tác văn chƣơng. Một số
trang toát ra logic sáng sủa. Và một số trang lại mang nặng tính chuyên môn, tầm thƣờng và chán ngắt
làm ngƣời ta nhớ đến lời phê phán kịch liệt của Truman Capote dành cho nhà văn Jack Kerouac: "Đây
không phải là viết mà chỉ là đánh máy thôi."

Chúng ta hãy nghiên cứu tác phẩm Tư Bản theo ba bƣớc. Thứ nhất, chúng ta sẽ khám phá điều cốt
lõi của chủ nghĩa tƣ bản, tƣ tƣởng của Marx về sự bóc lột lao động. Thứ hai, chúng ta sẽ xem xét
những quy luật vận động của chủ nghĩa tƣ bản, những quy luật tất yếu sẽ dẫn đến sự sụp đổ của nó.
Thứ ba, chúng ta sẽ xem xét những thiệt hại tâm lý của chủ nghĩa tƣ bản.

Marx không chọn con đƣờng dễ đi. Ông không chỉ thẳng vào những doanh nghiệp lũng đoạn thị
trƣờng mà tuyên bố rằng kỷ nguyên của những doanh nhân mạo hiểm và sự cạnh tranh hoàn hảo kiểu
Smith đã hết thời rồi. Hãy nhớ rằng ông là một ngƣời theo phái Hegel trẻ; ông muốn cho thế giới thấy
rằng ngay cả những mô thức lý tƣởng của chủ nghĩa tƣ bản nhất định phải tự sụp đổ. Ông bắt đầu với
những công cụ kinh điển.

Giống nhƣ Smith và đặc biệt là Ricardo, Marx "chứng minh" rằng giá trị của một sản phẩm đƣợc
quyết định bởi lƣợng lao động cần thiết để sản xuất ra nó. Máy móc chỉ là lao động quá khứ đƣợc tích
lũy lại dƣới dạng sắt thép. Một bộ dàn nghe stereo tiêu tốn hết mƣời giờ lao động thì nó có giá trị gấp
đôi so với giá trị của một cái khác chỉ mất có năm giờ lao động.

Nếu điều đó là đúng, thì không thể có lợi nhuận trừ khi công nhân bị bóc lột lao động. Chúng ta có
tam đoạn luận nhƣ dƣới đây:

1. Giá trị của một sản phẩm (giá cả của nó) đƣợc quyết định bởi lƣợng lao động.
2. Những ngƣời công nhân nhận đƣợc đầy đủ giá trị của cái mà họ đóng góp vào để sản xuất ra
sản phẩm đó.
3. Do đó, giá trị của một sản phẩm bằng với lƣợng giá trị mà ngƣời công nhân nhận đƣợc.

Nhƣng giá bán của sản phẩm lại không chỉ chia cho công nhân. Ngƣời chủ giữ một phần là lợi
nhuận. Hãy quên đi bàn tay vô hình. Bàn tay hữu hình và thô bạo của nhà tƣ bản mới thực sự hoạt
động. Lợi nhuận từ đâu mà ra? Tiền đề thứ 2 chắc chắn là sai. Công nhân không thể nhận đƣợc đầy đủ
giá trị mà họ đóng góp vào sản phẩm. Họ phải bị bóc lột. (Những ngƣời phê phán Marx tất nhiên lập
luận rằng tiền đề thứ 1 không đúng)

Nhà tƣ bản lừa công nhân nhƣ thế nào? Thay vì trả cho họ một khoản bằng với giá trị đƣợc cộng
thêm vào việc kinh doanh của nhà tƣ bản, nhà tƣ bản chỉ trả sao cho họ tồn tại, tiền lƣơng chỉ đủ để
họ sống và làm việc. Nhà tƣ bản mua sức lao động y nhƣ một thứ hàng hóa. Sau đó anh ta bắt nó phải
làm việc X giờ mỗi ngày.

Chúng ta hãy sử dụng những thuật ngữ của Marx. Marx miêu tả việc nhà tƣ bản cung cấp các công
xƣởng và thiết bị đƣợc gọi là tư bản bất biến. Họ cũng trả công cho lao động. Công này đƣợc gọi là tư
bản khả biến. Khi tiến hành sản xuất, nhà tƣ bản chắc chắn phải đảm bảo rằng giá trị cuối cùng của
sản phẩm phải cao hơn tổng tư bản bất biến và khả biến. Giá trị tăng thêm (lợi nhuận) có đƣợc khi họ
trả cho công nhân ít hơn giá trị mà công nhân sản xuất ra. Nói cách khác, giá trị của ngƣời công nhân
thêm vào giá trị sản phẩm vƣợt quá tư bản khả biến mà họ đƣợc trả. Marx gọi đây là sự ăn cƣớp giá
trị thặng dư của ngƣời lao động.

Ví dụ, Jasmine là một thợ may làm việc cho chƣơng trình sân khấu Radio City Music Hall. Khán
giả thƣờng không thích những bộ trang phục rách nát. Vì thế công việc may vá của cô làm tăng thêm
giá trị của một buổi biểu diễn khoảng 10 đô la. Nhƣng cô chỉ đƣợc trả 6 đô la thôi. Các ông chủ bóp
nặn 4 đô la thặng dƣ của Jasmine cho mỗi buổi biểu diễn hằng ngày. Tỷ lệ giữa giá trị thặng dƣ đối
với tiền lƣơng (4/6) là tỷ suất giá trị thặng dư.

Tại sao Jasmine lại không đòi 10 đô la cho công sức của mình? Chủ nghĩa tƣ bản dẫn đến thất
nghiệp và một đội quân dự bị sẵn sàng thế chỗ của Jasmine nếu cô đòi lƣơng cao hơn. Cô không sở
hữu máy may, trang phục hay sân khấu. Các ông chủ mới là ngƣời sở hữu. Bằng cách kiểm soát
những phƣơng tiện sản xuất, họ thống trị thị trƣờng lao động.

Các ông chủ đặt ra mức lƣơng 6 đô la cho Jasmine nhƣ thế nào? Các ông chủ chỉ cần trả lƣơng cho
những ngƣời công nhân đủ để họ sống. Jasmine nhận 6 đô la bởi vì 6 đô la sẽ giúp cô sống đƣợc. Cô
ta nhận đƣợc một đồng lương đủ sống. Nếu cô ta kiếm đƣợc 1 đô la cho mỗi giờ làm việc thì sáu giờ
làm việc sẽ giúp cô đủ sống. Nhƣng các ông chủ không để cô làm việc đúng sáu giờ. Họ buộc cô phải
làm việc nhiều hơn trong một ngày, vá chữa nhiều bộ trang phục rách hơn. Chẳng hạn họ kéo 6 đô la
tiền lƣơng của cô ra hơn mƣời giờ làm việc. Kết quả là: Cô ta làm việc sáu giờ cho chính mình và
thêm bốn giờ cho ông chủ. Khoản thặng dƣ bốn giờ đi ngay vào túi ông chủ. Họ chẳng cần phải đụng
đến một cái đê nào cả.

Tại sao ngƣời công nhân chỉ đƣợc trả lƣơng đủ sống? Chúng ta đã nói rằng giá trị của một hàng
hóa đƣợc quyết định bởi lƣợng lao động kết tinh vào hàng hóa đó. Nguồn cung lao động cũng là một
loại hàng hóa. Do vậy, giá cả của lao động là khoản tiền cần thiết để sản xuất và duy trì sự tồn tại của
một con ngƣời.

Nói chung, các ông chủ không trả đủ cho công nhân để mua cái mà họ sản xuất ra. Những ngƣời
công nhân vật lộn chỉ để có đƣợc một phần thôi. Trong ví dụ của chúng ta, Jasmine không thể mua
nổi một chiếc vé 10 đô la cho buổi biểu diễn mặc dù chính cô đóng góp 10 đô la giá trị vào đó. Có lẽ
các ông chủ sẽ để cho cô mua một chiếc vé 5 đô la nếu cô hứa chỉ xem các diễn viên từ phần thắt lƣng
họ trở lên.

Nếu lợi nhuận có đƣợc nhờ bóc lột lao động, chúng ta có thể xác định tỷ suất lợi nhuận bằng tỷ lệ
phần thặng dƣ trên tổng tƣ bản bất biến và khả biến (s/[v + c]). Nhà tƣ bản có thể tăng lợi nhuận nếu
ông ta ép buộc những ngƣời làm thuê cho mình làm việc nhiều hơn trong một ngày. Hoặc ông ta có
thể tăng đƣợc lợi nhuận bằng cách bóc lột thêm lao động của phụ nữ và trẻ em. Trong thời đại mà
Marx viết, giờ làm kéo dài ra và ngày càng có nhiều lao động nữ và trẻ em đã gia nhập vào lực lƣợng
lao động công nghiệp.

Đến đây chúng ta hiểu lợi nhuận có đƣợc nhờ bóc lột nhƣ thế nào. Nhƣng tại sao lại không thể duy
trì đƣợc điều này? Những quy luật nào của chủ nghĩa tƣ bản rốt cuộc sẽ giải thoát ngƣời công nhân
khỏi sự tuyệt vọng và buộc các nhà tƣ bản phải quỳ gối? Marx không chỉ tuyên bố rằng một cuộc cách
mạng xã hội sẽ nổ ra. Ông mô tả một cách cẩn thận những mâu thuẫn kinh tế của chủ nghĩa tƣ bản.
Chúng ta sẽ khảo sát năm “quy luật” hoặc “khuynh hƣớng” dẫn tới sự tự sụp đổ từ bên trong của nền
kinh tế tƣ bản chủ nghĩa. Chẳng những không hoan nghênh chủ nghĩa tƣ bản, bàn tay vô hình rút cục
lại phá tan nó.

1. Tỷ suất lợi nhuận giảm xuống và sự tích lũy tư bản. Cũng nhƣ Adam Smith, Marx nhận
thấy nhà tƣ bản đƣơng đầu với sự cạnh tranh. Nếu một công ty mở rộng quy mô sản xuất của mình, nó
có thể sản xuất hiệu quả hơn. Công ty nào có khả năng đổi mới sẽ ép buộc các đối thủ cạnh tranh của
nó phải phát triển hơn. Các công ty thuê mƣớn nhiều công nhân hơn. Nhƣng điều đó lại làm tăng tiền
lƣơng lên vƣợt mức đủ sống. Các ông chủ làm gì? Họ sẽ thay thế lao động bằng máy móc. Nếu họ
không làm điều đó, lợi nhuận của họ sẽ giảm xuống. Bởi vì trả cao hơn sẽ tạm thời chấm dứt sự bóc
lột của họ đối với công nhân. Sự cạnh tranh bắt buộc họ phải thay thế nhƣ vậy.

Nhƣng ở đây các ông chủ khôn ngoan hơn và họ bị rơi vào thế tiến thoái lƣỡng nan. Các khoản
thặng dƣ chỉ có thể bóp nặn đƣợc từ con ngƣời. Những nhà tƣ bản bán máy móc có thể đòi trả giá
đúng và đủ cho các sản phẩm của họ. (Nếu một thiết bị in tráng phim tốc độ cao tăng doanh thu cho
công ty vì nó có thể in tráng nhiều ảnh hơn trong một giờ thì nhà sản xuất thiết bị đó có thể tính một
mức giá mới cho công ty làm ảnh) Hãy nhìn lại công thức về tỷ suất lợi nhuận s/[c + v] của Marx.
Bằng cách cộng thêm máy móc [c], các nhà tƣ bản làm giảm lợi nhuận của mình. Mặt khác của tình
thế khó xử này là nếu họ chống lại việc đƣa thêm máy móc vào sử dụng, không ai sẽ mua những sản
phẩm không cạnh tranh của họ:
Ngoài ra, sự phát triển của nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa làm cho sự tăng thêm không ngừng
của số tƣ bản bỏ vào một xí nghiệp công nghiệp trở thành một sự tất yếu, và cạnh tranh làm
cho những quy luật bên trong của phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa trở thành những quy
luật bên ngoài có tính chất cƣỡng chế đối với mỗi một nhà tƣ bản cá biệt. Cạnh tranh buộc nhà
tƣ bản không ngừng mở rộng tƣ bản để giữ đƣợc tƣ bản, và hắn chỉ có thể mở rộng tƣ bản của
mình bằng cách tích lũy ngày càng nhiều hơn mà thôi…

Hãy tích lũy đi, hãy tích lũy đi! Đó chính là Moses và các nhà tiên tri ... Cho nên, hãy để dành
đi, hãy để dành đi, nghĩa là hãy biến một phần thật nhiều giá trị thặng dƣ hay sản phẩm thặng
dƣ trở lại thành tƣ bản! 23

Một kết cục tƣơng tự xảy ra nếu một nhà tƣ bản nâng cấp một cái máy. Ngƣời chủ nào tạo ra đƣợc
một chiếc máy may tốt hơn có thể đƣa ra giá thấp hơn cho sản phẩm của mình. Bởi vì các ông chủ
phải ganh đua với nhau nên các đối thủ cạnh tranh phải dành dụm những khoảng thặng dƣ moi đƣợc
từ lao động và đầu tƣ vào máy may mới.

"Lòng tham không đáy" của nhà tƣ bản buộc họ phải bị hủy diệt. Để tránh thua lỗ, các ông chủ cố
gắng bóc lột lao động thậm tệ hơn nữa. Bằng cách nào? Họ sẽ tăng tốc độ làm việc. Và họ sẽ kéo dài
ngày lao động hơn nữa. Tất nhiên, những chiến thuật này chỉ kéo dài hơn sự chịu đựng của ngƣời lao
động một cách nguy hiểm.

2. Sự tập trung cao độ quyền lực kinh tế. Khi các nhà tƣ bản buộc phải mở rộng và phát triển
thì cuộc chiến sẽ diễn ra ngày càng ác liệt. Những công ty lớn nhất, những công ty có giá thành sản
xuất rẻ hơn sẽ chiến thắng. Cuộc chiến đẫm máu "bao giờ cũng chấm dứt bằng sự phá sản của nhiều
nhà tƣ bản nhỏ, tƣ bản của họ một phần lọt vào tay những kẻ chiến thắng, một phần bị tiêu vong". 24
Những kẻ sống sót sẽ nhanh chóng hạ gục kẻ bại trận.

3. Khủng hoảng và suy thoái sâu sắc. "Những lời nhảm nhí con nít … rác rƣởi … vô lý bịp
bợm." Marx dùng những từ này để mô tả lập luận của Say về tính ổn định của chủ nghĩa tƣ bản. Khi
các nhà tƣ bản sử dụng máy móc thay thế cho lao động, nạn thất nghiệp tăng lên. Ai mua hàng hóa khi
các ông chủ mở rộng sản xuất? Không ai cả. Hàng hóa không bán đƣợc. Nạn phá sản tăng vọt. Sự
hoảng loạn xuất hiện khắp mọi nơi. Các nhà tài phiệt bán tống bán tháo những cổ phần họ nắm giữ.
Đầu tƣ tụt xuống. Các nhà đầu tƣ nhảy lầu. Dĩ nhiên, chu kỳ sẽ bắt đầu một chu trình mới sau khi giá
cả tụt xuống. Những kẻ sống sót sẽ lại thu gom những doanh nghiệp phá sản và thuê mƣớn lại những
ngƣời công nhân tuyệt vọng. Các khoản thặng dƣ và lợi nhuận xuất hiện trở lại. Nhƣng chỉ để suy
thoái nhanh hơn và sâu hơn nữa ở lần kế tiếp.

4. Đội quân dự bị công nghiệp. Nhờ sử dụng máy móc thay thế lao động và suy thoái, các nhà
tƣ bản càng ngày càng ném nhiều ngƣời hơn ra đƣờng. "Đội quân" này không mang tính chiến đấu
hơn Đội quân Cứu tế lúc ban đầu. Chừng nào mà đội quân này còn bình tĩnh thì nó vẫn còn là một
nguồn lao động giá rẻ. Sự thừa thãi công nhân giúp các nhà tƣ bản kiểm soát đƣợc tình hình lúc ban
đầu.

5. Bần cùng hóa giai cấp vô sản. "Con số những tên trùm tƣ bản tiếm đoạt và nắm độc quyền
tất cả những cái lợi của quá trình chuyển hóa đó ngày càng giảm đi không ngừng … thì nạn nghèo
khổ, áp bức, nô dịch, thoái hóa, bóc lột càng tăng thêm"25. Ngày làm việc dài hơn và ít kỳ nghỉ hơn
chỉ đem lại sự bần cùng hơn cho những ngƣời lao động bị chà đạp. Những tác phẩm trƣớc đó của
Marx lập luận rằng mức sống tuyệt đối của họ tụt xuống. Nhƣng trong cuốn Tư Bản, đƣợc viết khi
ông vấp phải những bằng chứng cho thấy mức sống tuyệt đối của công nhân tăng hơn trƣớc thì ông
rút lại, thừa nhận rằng những ngƣời công nhân chỉ có một phần nhỏ hơn của sự thịnh vƣợng so với
trƣớc.

Cuối cùng, sau nạn thất nghiệp, sa sút lợi nhuận, sự tuyệt vọng vô nhân đạo và sự bần cùng, giai
cấp vô sản sẽ nhìn thấy ánh sáng ở cuối đƣờng hầm. Cái mặt nạ của thƣợng tầng kiến trúc sẽ bị lột bỏ.
Con quái vật xấu xa mà ngƣời ta gọi là chủ nghĩa tƣ bản sẽ lộ rõ. Quần chúng bị áp bức sẽ vùng lên:
"Giờ tận số của chế độ tƣ hữu tƣ bản chủ nghĩa đã điểm. Những kẻ đi tƣớc đoạt bị tƣớc đoạt lại."26

Giai cấp vô sản sẽ giành đƣợc nhiều thứ hơn là các công xƣởng. Họ giành lại đƣợc con ngƣời thật
của họ. Các nhà tƣ bản không chỉ cƣớp đoạt túi tiền của ngƣời vô sản. Họ còn cƣớp đi cả trái tim và
khối óc. Đối với Marx, lao động đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của con ngƣời. Con
ngƣời bị ép buộc phải tạo nên và nâng cao cuộc sống của mình thông qua tự nhiên và các mối quan hệ
với ngƣời khác. Nhân cách của con ngƣời không thể phát triển nếu không làm việc sáng tạo. Dƣới chủ
nghĩa tƣ bản, lao động chỉ là một loại hàng hóa mà thôi. Con ngƣời bị buộc ép buộc phải chấp nhận
những công việc thƣờng lệ và tẻ nhạt. Họ trở thành những công cụ sống. Họ cảm thấy lạc lõng với
chính họ, với thế giới và với ngƣời khác. Sự lạc lõng trở thành một chủ đề nổi bật của những nhà
Marxist và những chỉ trích của những ngƣời theo thuyết hiện sinh đối với xã hội hiện đại.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Marx và Engels hối thúc những ngƣời vô sản nắm lấy nền
kinh tế và giải phóng chính mình:

Những ngƣời cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và ý định của
mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt đƣợc bằng cách dùng bạo
lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện hành. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trƣớc một
cuộc Cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những ngƣời vô sản chẳng
mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành đƣợc cả thế giới.

Vô sản tất cả các nƣớc, đoàn kết lại! 27

Gần 20 năm sau sự ra đời của cuốn Tư Bản, những ngƣời vô sản mới có thể hậu thuẫn cho những
khẩu hiệu súc tích của mình bằng những phân tích sắc sảo.

Nhƣng điều gì xảy ra sau cách mạng? Có phải tất cả mọi ngƣời đều vui vẻ và hƣởng thụ trong xã
hội mới hình thành? Có phải tất cả mọi ngƣời đều ngồi xung quanh đống lửa trại, tay nắm tay và hát
"Cum-Ba-Ya"? Một vài nhà Marxist đƣơng thời có lẽ làm cho ngƣời ta nghĩ vậy.

Rõ ràng là Marx coi khinh chủ nghĩa xã hội không tƣởng và cƣời khinh bỉ sự đơn giản quê mùa
của nó. Ông ta là một ngƣời vô cảm. Ông khinh bỉ niềm khát khao mong mỏi sự phân phối thu nhập
"công bằng" hay sự tái phân phối tài sản quy mô lớn. Những ngƣời công nhân, ngay cả dƣới chủ
nghĩa xã hội, cũng không đƣợc hƣởng "đủ giá trị" lao động của mình. Tuy nhiên, khoản thặng dƣ sẽ
tới tay "nhân dân" thông qua những dịch vụ tập thể.

Vậy chủ nghĩa cộng sản thực sự có nghĩa gì? Chúng ta không biết đƣợc. Marx đã cố ý né tránh
việc để lại "công thức chế biến" cho những "tiệm ăn tƣơng lai" 28. Nếu không có công thức cụ thể, chủ
nghĩa Marx với tƣ cách là một hệ thống cai trị trở thành một món xúc xích của chính trị: một cách
thức rẻ tiền để biến hội đồng lãnh đạo trở thành công cụ phục vụ cho một nhóm thiểu số.

Marx cho rằng cuối cùng thì nhà nƣớc sẽ "tiêu vong". Đồng thời nền chuyên chính của giai cấp vô
sản sẽ thống trị. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bao gồm một kế hoạch mƣời điểm để thực thi "sự
xâm phạm một cách chuyên chế vào quyền sở hữu":

1. Tƣớc đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp địa tô vào quỹ chi tiêu của nhà nƣớc.

2. Áp dụng thuế lũy tiến cao.

3. Xóa bỏ quyền thừa kế.

4. Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lƣu vong và của tất cả những kẻ phiến loạn.

5. Tập trung tín dụng vào tay nhà nƣớc thông qua một ngân hàng quốc gia với tƣ bản của nhà nƣớc
và ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn.

6. Tập trung tất cả các phƣơng tiện vận tải vào trong tay nhà nƣớc.

7. Tăng thêm số công xƣởng nhà nƣớc và công cụ sản xuất; khai khẩn đất đai để cầy cấy và cải tạo
ruộng đất theo một kế hoạch chung.

8. Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi ngƣời, tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc
biệt là cho nông nghiệp.

9. Kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, thi hành những biện pháp nhằm dần dần xóa bỏ sự khác
biệt giữa thành thị và nông thôn bằng cách phân bố dân cƣ một cách đồng đều hơn trong cả nƣớc.

10. Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em. Xóa bỏ việc sử dụng trẻ em làm
trong các công xƣởng nhƣ hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất, v.v.. 29

Những ngƣời Marxist sau này sẽ phải tự suy nghĩ xem làm thế nào để thực hiện đƣợc kế hoạch đó.
Không quá lạc quan về những phong trào xã hội chủ nghĩa bị vỡ vụn ở châu Âu, Marx đã có lần tuyên
bố rằng ông không còn là một nhà Marxist nữa.

Trong Kinh Thánh, Chúa ngăn cho Moses không vào Miền Đất hứa. Nhƣng những ngƣời Marxist
không giống nhƣ những ngƣời Israel, không có Joshua dẫn đƣờng khi Marx chết vào năm 1883.

Đánh giá Marx


Làm thế nào mà chúng ta có thể phê phán một cách toàn diện những phân tích thiên tài của Marx?
Nhiệm vụ này thật là đáng sợ. Trong suốt thế kỷ qua, giới trí thức đã viết hàng triệu trang giấy để ngợi
ca, lăng mạ và ba hoa, bốc phét về Marx. Một dàn ý đơn giản để đánh giá Marx là nhƣ thế này: (1)
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx bẻ cong khái niệm lao động thặng dƣ nhƣ thế nào? (2) Những
điều tiên đoán về sự bần cùng hóa, nạn thất nghiệp và sự sụp đổ của chủ nghĩa tƣ bản có chính xác
không? (3) Ông đóng góp cho kinh tế học hiện đại những gì? (4) Ông đóng góp gì cho chính trị học
hiện đại?
1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx bẻ cong khái niệm lao động thặng dư như thế nào:
Trong tác phẩm Những người khốn khổ của Victor Hugo, Jean Valjean thƣờng xuyên phải đối diện
với kẻ báo oán: Thanh tra Javert. Và cuộc đời cứ luôn kéo Javert về đối diện với Valjean. Tính biện
chứng văn chƣơng tạo ra một cuộc tranh đấu kịch tính cho mỗi bên. Nếu không có nhân vật kia, cuộc
đời sẽ trở nên quá đơn giản đối với họ.

Vấn đề trong chủ nghĩa lịch sử của Marx là ở chỗ nhà biện chứng bậc thầy này lại bỏ qua sự biện
chứng kịch tính nhất: giữa những nguyên nhân ý thức và những nguyên nhân vật chất. Về cơ bản,
Marx miêu tả những yếu tố vật chất là nguyên nhân cho mọi sự thay đổi. Chúng thiết lập và thay đổi ý
thức hay thƣợng tầng kiến trúc của xã hội một cách định kỳ. Mặc dù thừa nhận mối quan hệ này
nhƣng Marx lại luôn coi thƣờng những tác động của ý thức. Và sai lầm này lan sang hủy hoại lý
thuyết kinh tế của ông.

Khái niệm về lao động thặng dƣ là cơ sở cho toàn bộ học thuyết Marx về chủ nghĩa tƣ bản. Hãy
nhớ lại phép tam đoạn luận đơn giản. Tại sao lao động phải bị bóc lột? Bởi vì Marx nắm chặt lấy "học
thuyết giá trị lao động" để giải thích việc nhà tƣ bản thu đƣợc lợi nhuận. Theo Marx, "không một
nguyên tử" giá trị nào bắt nguồn từ nhà tƣ bản.30 Không chút đắn đo, Marx cho rằng cô thợ may
Jasmine hay ngƣời thợ rèn đang đập thình thịch vào cái đe mới tạo ra giá trị.

Marx đã quên mất điều gì? Ông không để ý tới khả năng sáng tạo và tài kinh doanh. Để tạo ra của
cải đòi hỏi phải có những thứ hơn cả nguyên liệu hữu hình. Việc chế tạo ra các đầu máy video (VCR)
không cần những loại vật liệu thô mới hay những phƣơng thức bóc lột lao động tàn nhẫn hơn. Ngành
công nghiệp video đòi hỏi hai điều: phát minh và bản lĩnh kinh doanh - sẵn sàng chấp nhận rủi ro
trong đầu tƣ. Tại sao ngƣời Nga sống dƣới chế độ cộng sản lại phải xin những chiếc quần bò vải bông
chéo do ngƣời Mỹ làm ra? Không phải vì Liên Xô thiếu bông hay thiếu công nhân để sản xuất quần
áo chất lƣợng cao, mà bởi vì họ thiếu năng lực sáng tạo, động cơ làm việc và kỷ luật. Chính những cái
vô hình này phân biệt những công ty và quốc gia thành công với số còn lại.

Chủ nghĩa duy vật của Marx không may lại làm ông phớt lờ tất cả các loại vốn, nhƣ vốn nhân lực
tức là tri thức, tài khéo léo hay kỹ năng quản lý đều rất quan trọng đối với lợi nhuận. Làm thế nào mà
học thuyết giá trị lao động có thể giải thích đƣợc những giây phút lóe sáng hay sự sáng suốt nhƣ ví dụ
dƣới đây?

Vài năm trƣớc, khi một ngƣời bƣớc qua một khu rừng, một bông gai nhỏ bắt chặt lên chiếc tất len
của anh ta. Tài khoản ngân hàng của anh ta giờ đây đầy ắp tiền. Anh ta phát minh ra khóa dán Velcro.
Liệu tất cả lợi nhuận của anh ta có đƣợc là do đánh cắp của công nhân?

Trong chƣơng sau, chúng ta sẽ thấy Alfred Marshall tấn công Marx vì đã bỏ qua giá trị của việc
chấp nhận rủi ro và "chờ đợi" đối với xã hội. Bằng cách đầu tƣ, nhà tƣ bản từ bỏ sự thỏa mãn tức thời
của việc mua hàng hóa. Những khoản kiếm đƣợc nhờ đầu tƣ trả cho sự chờ đợi và trì hoãn thỏa mãn
của anh ta. Nếu mọi ngƣời đều tiêu thụ tất cả mọi thứ bây giờ, xã hội sẽ chẳng tạo ra đƣợc cái gì mới.
Do vậy, lợi nhuận đóng một vai trò cốt yếu và hoàn toàn hợp lý. (Thật tình cờ, cuộc "cách mạng" của
những ngƣời theo phái cận biên mà Marshall là ngƣời đi đầu, chứng minh rằng giá trị bắt nguồn từ
cầu, cũng nhƣ từ sản xuất hay cung. Vào thời điểm tập II của Tư Bản xuất bản sau khi tác giả đã chết,
những ngƣời theo phái cận biên đã tấn công dữ dội cách tiếp cận trọng cung của Marx và những nhà
kinh điển)
Bằng việc thừa nhận học thuyết giá trị lao động, Marx coi thƣờng quá nhiều yếu tố động và yếu tố
ý thức. Ricardo không mắc phải sai lầm này, bởi vì ông nhìn nhận học thuyết giá trị lao động chỉ là
một công cụ tính toán tiệm cận thôi, chứ không phải là nguyên nhân quyết định giá trị. Khi Marx cố
chứng minh lý thuyết bằng toán học, ông rơi vào một đống bông gai. Thật ngạc nhiên là ông lại không
khám phá ra khóa dán Velcro hồi thế kỷ XIX.

2. Những điều tiên đoán về sự bần cùng hóa, nạn thất nghiệp và sự sụp đổ của chủ nghĩa tư
bản có chính xác không? Marx không có ý định đƣa ra lời tiên đoán. Ông nhằm vào sự tiên đoán
khoa học, dự báo tiến trình lịch sử dựa trên những khuynh hƣớng có thể nhận biết đƣợc. Nhƣng khi
lịch sử đi chệch khỏi những dự báo của ông, thì những hậu duệ của ông sau khi ông chết đã tạo ra một
thứ giả-tôn giáo từ những công trình của ông. Thật vậy, những "quy luật" của ông tuân theo lịch sử.
Sau khi mô hình hóa những quy luật, những học trò của ông có thể công bố tính chính xác của những
điều tiên đoán. Mặc dù có xuất phát điểm là khoa học vô thần, chủ nghĩa Marx trong thế kỷ XX lại
giống nhƣ một cửa sổ kính màu cho ánh sáng Mặt trời đi qua nó một cách chọn lọc và hiếm khi thừa
nhận sai lầm. Một khi những quy luật trở thành kinh sách tôn giáo, thì những nỗ lực nhằm kiểm chứng
tính khoa học của chủ nghĩa Marx đều thất bại.

Marx sống đủ lâu để trông thấy một vài ngƣời ủng hộ mình tung hô và tán tụng những quy luật của
ông, dựng lên những bục giảng đạo và ban phát bánh thánh. Nhà chủ trƣơng học thuyết vô chính phủ
Proudhon đã cảnh báo Marx đừng có tạo ra một cuốn giáo lý vấn đáp:

Vì sự nghiệp của Chúa, sau khi chúng ta bãi bỏ tất cả chủ nghĩa giáo điều suy diễn, chúng ta
hãy chấm dứt tiêm nhiễm một loại giáo điều khác vào đầu dân chúng vì bất kỳ lý do gì đi
nữa… Chúng ta hãy luận chiến với nhau một cách lịch sự và chân thành … Vì chúng là ngƣời
đi đầu của phong trào, chúng ta hãy đừng biến mình trở thành lãnh tụ của sự tin tƣởng mù
quáng mới, chúng ta đừng thể hiện nhƣ là tông đồ của một tôn giáo mới ‐ ngay cả khi tôn giáo
này là tôn giáo của logic, tôn giáo của lý trí.31

Ngay cả khi chúng ta không thể bác bỏ đƣợc những dự đoán của Marx, chúng ta vẫn có thể quan
sát một số phát triển trong các nền kinh tế tƣ bản chủ nghĩa kể từ thời đại của ông. Thứ nhất, mức
sống của công nhân đã đƣợc nâng lên rất đáng kể trong suốt 100 năm qua. Tỉ lệ ngƣời sở hữu nhà và
ôtô tăng lên cực kỳ nhanh. Theo định nghĩa về sự nghèo đói hiện nay, giai cấp tƣ sản mới nổi ở thời
của Marx đã bị nghèo đi và bị "bần cùng hóa" theo thuật ngữ của Marx. Và nếu chiểu theo định nghĩa
ở thời của Marx, thì giai cấp công nhân ngày nay là giàu có một cách phô trƣơng. Không ai có thể bác
bỏ sự tăng lên trong mức sống "tuyệt đối" của ngƣời công nhân.

Tuy tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã cảnh báo trƣớc những ngƣời công nhân rằng
"ngƣời công nhân hiện đại… đã không vƣơn lên đƣợc cùng sự tiến bộ của công nghiệp mà còn luôn
luôn rơi xuống thấp hơn, dƣới cả những điều kiện sinh sống của chính giai cấp họ. Ngƣời lao động trở
thành một ngƣời nghèo khổ". Nhƣng Marx sớm nhận ra rằng ví tiền của công nhân đã trở nên dày
hơn. Ông thậm chí cũng phải thừa nhận rằng mƣời năm sau khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra
đời, tiền lƣơng của công nhân đã tăng lên 40%.32
Vì lý do này nên Marx đã sửa đổi những định nghĩa và cảnh báo rằng công nhân sẽ trở nên ngày
càng nghèo hơn so với nhà tƣ bản. Cảnh khải huyền của ngƣời lao động cứ mờ nhạt dần đi: Ngƣời
giàu sẽ giàu hơn và ngƣời nghèo cũng trở nên giàu hơn. Nhƣng ngƣời giàu sẽ giàu nhanh hơn.33

Marx ép định nghĩa mới vào cuốn Tư Bản bằng cách tuyên bố rằng "sự tồn tại" là một thuật ngữ
tƣơng đối, tùy thuộc vào lối sống đƣơng thời. Có lẽ là trong thế kỷ XX, sự sinh tồn tối thiểu cần có
máy truyền hình màu vì những ngƣời "nô lệ ăn lƣơng" trung bình trong lĩnh vực chế tạo đều có thể
mua đƣợc. Bằng cách lùi vào lập luận mang tính chất tƣơng đối nhƣ vậy, Marx từ bỏ sự giận dữ và
cảm giác tuyệt vọng về cảnh ngộ của ngƣời công nhân. Chừng nào mà ngƣời nghèo vẫn trở nên giàu
có hơn, thì viễn cảnh đó thậm chí còn vƣợt qua đƣợc phép kiểm định công bằng xã hội của nhà triết
học John Rawls (cho phép ngƣời giàu kiếm đƣợc chỉ khi nào ngƣời nghèo cũng có lợi).34

Cho nên những ngƣời Marxist hiện đại nhấn mạnh đến tâm lý khổ sở và sự lạc lõng. Họ có lẽ
đúng; những ngƣời công nhân vẫn thƣờng cảm thấy buồn chán và phẫn nộ. Nhƣng Marx không nói
với chúng ta về cách thức mà chủ nghĩa xã hội làm cho việc nhặt rác trở nên thú vị. Nếu những ngƣời
lao động hạnh phúc làm việc tốt hơn thì ít nhất dƣới chủ nghĩa tƣ bản, những ngƣời chủ cũng có động
cơ thuyết phục để làm hài lòng nhân viên của mình.

Hơn nữa, làm thế nào để chúng ta có thể định nghĩa đƣợc hạnh phúc của những ngƣời lao động?
Nếu tiền lƣơng chỉ là tƣơng đối, tại sao đó không phải là hạnh phúc? Liệu chúng ta có phải đƣa ra câu
hỏi tuyệt đối: Những ngƣời công nhân hiện tại có hạnh phúc hơn những ngƣời công nhân 100 năm
trƣớc không? Hay chúng ta phải đặt ra câu hỏi tƣơng đối: Mức độ gia tăng hạnh phúc của họ có nhanh
hơn mức gia tăng hạnh phúc của các nhà tƣ bản không? Hãy xem xét điều này: Ngƣời giàu trở nên
hạnh phúc hơn, và ngƣời nghèo cũng trở nên hạnh phúc hơn. Nhƣng ngƣời giàu trở nên hạnh phúc
hơn nhanh hơn. Một khi chúng ta bắt đầu diễn giải sự hạnh phúc sao cho chúng ta có thể kiểm định
đƣợc “tính khoa học” của chủ nghĩa Marx, thì đó là một ngày đáng buồn cho những ngƣời Marxist
cũng nhƣ những ngƣời không phải là Marxist.

Marx cũng tiên đoán sự sụp đổ của chủ nghĩa tƣ bản, một hệ thống tự tạo ra những "ngƣời đào mồ
chôn" chính mình. Nhƣng chủ nghĩa tƣ bản lại có vẻ chƣa chết. Nạn thất nghiệp có cao hơn một chút
so với hồi đầu những năm 1900. Nhƣng nếu chúng ta xét đến tỷ lệ phần trăm dân số lao động và đặc
biệt sự gia nhập của phụ nữ vào lực lƣợng lao động thì tỷ lệ có việc làm lại cao hơn.

Hơn thế nữa, chủ nghĩa tƣ bản thƣờng sản sinh ra tầng lớp trung lƣu gián tiếp sở hữu một số
phƣơng tiện sản xuất thông qua thị trƣờng chứng khoán. Trong những năm cuối của thập niên 1980,
hàng triệu ngƣời Anh thuộc tầng lớp trung lƣu dƣới mua cổ phiếu của những công ty đƣợc "cổ phần
hóa" nhƣ British Telecom, British Steel và British Airways. Hầu hết các quỹ hƣu trí nghiệp đoàn ở
Mỹ đều đầu tƣ nhiều vào cổ phiếu các tập đoàn.

Một số ngƣời bảo vệ Marx chỉ ra sự gia tăng vai trò của chính phủ trong các quốc gia tƣ bản chủ
nghĩa nhƣ là vị cứu tinh bất ngờ của chủ nghĩa tƣ bản. Các khoản chi tiêu phúc lợi xã hội bảo vệ các
nhà tƣ bản khỏi suy thoái sâu hơn và cách mạng. Những ngƣời bảo vệ Marx có lẽ đúng. Nhƣng hãy
nhớ rằng, Marx tiên đoán rằng hệ thống chính trị và thƣợng tầng kiến trúc sẽ giữ bất động, chống lại
sự thay đổi. Sự cứng nhắc sẽ phá hủy nó. Nếu xét về quá khứ, thƣợng tầng kiến trúc đã nhƣợng bộ để
cứu chủ nghĩa tƣ bản, thì Marx tiếp tục sai thêm một lần nữa.
Cuối cùng, những ngƣời Marxist giải thích sự thành công ngạc nhiên của chủ nghĩa tƣ bản bằng
cách viện dẫn những quốc gia bên ngoài. Họ nói rằng các nhà tƣ bản bắt đầu bóc lột những những
công nhân nƣớc ngoài ở những nƣớc kém phát triển hơn và những ngƣời công nhân bị bóc lột ở nƣớc
ngoài này đã chống đỡ cho nền kinh tế trong nƣớc. Một lần nữa, ngay cả khi lập luận này có giá trị,
thì nó cũng đƣa chúng ta chệch xa khỏi sự phân tích của Marx về sự hủy hoại biện chứng nằm trong
lòng chủ nghĩa tƣ bản.

Nói tóm lại, Marx đã nghĩ ra một hệ thống khoa học trong tác phẩm Tư Bản. Ông tự tin tiên đoán
quỹ đạo của chủ nghĩa tƣ bản. Với lối diễn giải phóng khoáng và láu cá, có lẽ thỉnh thoảng ông mới
đúng. Nhƣng có một điều chắc chắn là Marx rất khinh thƣờng những ngƣời mộ đạo đầy cảm tính. Ông
sẽ giận dữ bác bỏ những nỗ lực giành chiến thắng trong lập luận bằng lòng khoan dung của trí tuệ.

3. Marx đóng góp cho kinh tế học hiện đại những gì? Khi mỉa mai tính thiết thực của một lý
thuyết nào đó của đồng nghiệp, nhà kinh tế học Joan Robinson thƣờng nói: "Hãy tƣởng tƣợng một
con chó chạy qua cánh đồng đuổi bắt một con cáo. Con chó đi theo mùi của con cáo. Lý thuyết của
đồng nghiệp tôi là con bọ chét trên lƣng con chó đó."

Đối với hầu hết các nhà kinh tế chính thống ở Mỹ và Anh, các lý thuyết kinh tế của Marx là những
con bọ chét đó. Trong phạm vi lý thuyết kinh tế chính thống, sự thách thức của Marx chỉ là thùng
rỗng kêu to. Paul Samuelson mô tả học thuyết giá trị lao động là sự ngụy biện siêu hình hay sự ngụy
biện định nghĩa.

Trong cuộc Đại Suy thoái, George Bernard Shaw đã cố thuyết phục John Maynard Keynes về
những ƣu điểm của Marx. Keynes đã phủ định lại:

Cảm nghĩ của tôi về cuốn Tư Bản cũng giống nhƣ cảm nghĩ của tôi về kinh Koran. Tôi biết
rằng nó quan trọng về mặt lịch sử. Và tôi biết có nhiều ngƣời, mặc dù không phải là dốt nát
nhƣng lại coi nó là Hòn đá tảng của mọi Thời đại và chứa nhiều nguồn cảm hứng. Tuy nhiên
khi tôi xem kỹ nó, tôi cảm thấy không thể giải thích đƣợc là tại sao nó lại có đƣợc những tác
động nhƣ vậy. Cách bút chiến khoa học lỗi thời và tồi tàn của nó dƣờng nhƣ hoàn toàn không
phù hợp với mục đích này. Nhƣng nhƣ tôi đã nói, tôi chỉ cảm thấy nó giống hệt với kinh
Koran thôi. Làm thế nào mà hai cuốn sách này lại có thể đem cảnh nƣớc sôi lửa bỏng đến một
nửa thế giới? Tôi không thể hiểu nổi. Rõ ràng có nhƣợc điểm gì đó trong sự hiểu biết của tôi.
Ngài có tin vào cuốn Tư Bản cũng nhƣ kinh Koran không? Hay chỉ có cuốn Tư Bản thôi? Cho
dù có bất cứ giá trị nào về xã hội học gần đây của cuốn Tư Bản, tôi dám chắc rằng giá trị kinh
tế đƣơng thời của nó (ngoài một vài điểm lóe sáng nhƣng không liên tục và không có tính xây
dựng ra) là bằng không. Ngài hứa sẽ đọc lại nó một lần nữa chứ, nếu tôi cũng làm vậy?

Shaw đọc lại. Keynes đọc lại. Keynes có nhìn thấy ánh sáng hay Thánh địa Mecca không? Ông
không thấy gì:

ʺTôi ƣa thích Engels hơn cả. Tôi có thể thấy rằng họ đã tạo ra một phƣơng pháp tiến hành nào đó
và một lối viết rất rẻ tiền. Còn những ngƣời kế tục họ đã duy trì lòng trung thành đối với họ. Nhƣng
nếu ngài bảo tôi rằng họ đã phát hiện ra một đầu mối của một bí ẩn kinh tế nào đó, thì tôi xin đầu
hàng ʺ.35
Kể từ khi Keynes thiên tài nhƣ vậy đầu hàng thì hầu hết các nhà kinh tế học hiện đại đã từ bỏ các
cuộc luận chiến và ngừng nghiên cứu Marx. Theo Frank Hahn, một nhà phê bình xuất sắc chủ nghĩa
tƣ bản tự do kinh tế thì: "Hầu hết những ngƣời Marxist chƣa bao giờ đọc Marx cả. Thế nên, bạn
không thể trách họ."

Tuy vậy, Marx vẫn còn núp đằng sau những lập luận của hàng nghìn nhà kinh tế học cấp tiến xuất
bản Tạp chí Kinh tế Chính trị cấp tiến. Họ có một tiếng nói mạnh mẽ ở Đại học Massachusetts ở
Amherst. Từ nguyên của từ "cấp tiến" (radical) là từ "radic" tức là gốc rễ, giống với (radish) củ cải
vậy. Y nhƣ Marx, các nhà kinh tế học cấp tiến tin rằng cái gốc của lý thuyết kinh tế học hiện đại bị
mục nát trong sự phân tích của nó về chủ nghĩa tƣ bản. Dù sao những ngƣời cấp tiến không muốn chịu
trách nhiệm cho tất cả những câu mà Marx thốt ra hoặc mọi lời tiên đoán mà ông ta công bố.

Một vài ngƣời cấp tiến vẫn còn ôm lấy học thuyết giá trị lao động của Marx. Tuy nhiên, tất cả bọn
họ đều nhấn mạnh đến vấn đề kiểm soát trong chủ nghĩa tƣ bản. Các ông chủ tìm mọi cách "chia để
trị", và duy trì sự kiểm soát ở nơi làm việc và trong phòng bỏ phiếu. Nhà Marxist ngƣời Ba Lan
Michal Kalecki đã lập luận rằng hồi những năm 1940, chính phủ cố ý tạo ra những đợt lạm phát và
suy thoái để bóp chết cầu của công nhân. Nhà cấp tiến hiện đại Stephen Marglin thì cho rằng các
doanh nghiệp thƣờng hoan nghênh những cuộc suy thoái. Nếu Marglin đúng thì đang có rất nhiều
ngƣời hoạt động theo "ý thức sai lầm" của Marx. Chúng ta hãy xem xét bài viết của Marglin về cuộc
bầu cử tổng thống năm 1980: Ronald Reagan hứa hẹn tỉ lệ lạm phát thấp hơn mà không có suy thoái.
Thật là ngốc nghếch, ông ta nghĩ rằng các ông chủ không thích suy thoái. Nhƣng các ông chủ lại bầu
cho Reagan. Tại sao vậy? Họ biết là ông ta sẽ thất bại và vô tình gây ra suy thoái. Đúng là ông ta đã
thất bại và theo nhƣ luận thuyết của Marglin thì các ông chủ rất vui sƣớng khi nhìn thấy giá cổ phiếu
của họ giảm xuống.36

Các nhà cấp tiến hiện đại tiến hành nhiều cuộc chiến - chống lại những mô hình của những nhà
kinh tế đồng nghiệp của họ, chống lại chính phủ, chống lại các nhà tƣ bản, và đôi khi chống lại chính
ký ức của thày họ, Karl Marx. Cho đến nay ngƣời ta khó lòng mà đếm đƣợc những lần chiến thắng
của họ.

4. Marx đóng góp gì cho chính trị học hiện đại? Tiếng than khóc to nhất trong bất kỳ một cuộc
tranh luận nào về chủ nghĩa cộng sản ngày nay đều xuất phát từ những ngƣời Marxist, những ngƣời
chỉ trích gắt gao nền chính trị Liên Xô cũ và những nƣớc đồng minh của nó. Họ hét to lên rằng đây
không phải là chủ nghĩa cộng sản của Marx. Tất nhiên là họ đúng. Ngay từ đầu, Marx chỉ giới hạn chủ
nghĩa cộng sản ở những nƣớc đã đƣợc công nghiệp hóa (mặc dù trong những năm cuối đời, ông cẩn
thận xem xét một cuộc cách mạng có thể xảy ra ở nƣớc Nga). Stalin có một nhiệm vụ khó khăn là
tăng tốc, đƣa nƣớc Nga nông nghiệp tiến vào kỷ nguyên công nghiệp. Dựa vào điểm (1) và (9) trong
bản kế hoạch của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Stalin đã buộc nông dân phải gia nhập
các nông trang tập thể và nhà nƣớc. Vào mùa đông những năm 1932-1933, ông cố tình gây ra nạn đói
làm chết hàng triệu ngƣời để bẻ gãy sự kháng cự của họ, đặc biệt là ở Ukraina.37

Trƣớc Stalin, Lenin đã gặp phải những rắc rối chính trị tƣơng tự khi định hình lại tƣ duy của ngƣời
Nga. Trong thời kỳ ông cầm quyền, nền chuyên chính vô sản là nền chuyên chính của Đảng - một chế
độ độc tài sẽ không nhanh chóng tự tiêu vong đƣợc.
Đến cuối thập niên 1980, Mikhail Gorbachev cố gắng cứu chữa một nền kinh tế bị xơ cứng. Nhƣ
những ngƣời bảo vệ nó thƣờng nói, nền kinh tế của họ bị quặt què trong suốt 70 năm xấu trời. Vào
thời điểm đó Gorbachev dƣờng nhƣ đã sẵn sàng vứt bỏ Marx và chấp nhận một vài cơ chế thị trƣờng
tự do, kể cả việc cho thuê dài hạn đất đai nông trang và các phân xƣởng sản xuất nhằm kiếm lợi nhuận
và tạo ra những hợp tác xã tƣ nhân. Mặc dù vậy, Gorbachev lại không thể duy trì đƣợc tình thế khi
những lực lƣợng thị trƣờng làm bỏng những bày tay cộng sản đã quen nắm chặt nền kinh tế. Có thể
nói rằng chiếc máy fax đóng một vai trò to lớn trong việc kết thúc Chiến tranh Lạnh giống nhƣ một
công nghệ quân sự, bằng cách cho phép các tổ chức dân chủ có thể truyền bá những thông điệp của
mình. Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã vật lộn để thúc đẩy nền kinh tế Nga tiến lên, nhƣng lại bị cản
trở bởi tham nhũng, thế lực mafia mới nổi lên và dân số già cỗi cảm thấy có quá ít lợi thế cho họ trong
một nền kinh tế mới. Đối với những ngƣời hƣu trí, chủ nghĩa cộng sản đảm bảo cho họ một số tiền -
một số tiền không đáng kể nhƣng ít nhất là một khẩu phần chắc chắn. Chủ nghĩa tƣ bản chẳng bảo
đảm cho họ cái gì ngoài sự hỗn loạn. Trái lại, những ngƣời Nga trẻ tuổi đã chớp lấy cơ hội xây dựng
nên những doanh nghiệp mới để đi lại tự do và cố gắng bắt tay vào kinh doanh. Đây là một sự phân
hóa xã hội nguy hiểm gần nhƣ không thể hàn gắn đƣợc. Một sự phân ly còn sâu sắc hơn cả sự bất hòa
giữa "nhà tƣ bản và công nhân" mà Marx và Lenin đã lợi dụng. Tháng Bảy năm 1998, Yeltsin tham
gia nghi lễ an táng dành cho Nga hoàng Nicholas và gia đình ông ta ở St. Petersburg; những ngƣời mà
hài cốt của họ đã bị thiêu đốt và để mặc trong quên lãng hàng thập kỷ. Yeltsin lên án hành động giết
Nga hoàng một cách man rợ của những ngƣời Leninist, hy vọng tìm ra một vấn đề mà những ngƣời
già và trẻ có thể đồng ý với nhau.

Ngƣời Trung Quốc tôn thờ Marx sau cuộc cách mạng năm 1949 của họ. Ngay sau đó họ trở thành
ngƣời đa thần giáo bằng cách đặt Mao Trạch Đông lên cùng bàn thờ. Nhƣng đến cuối những năm
1970, dƣới thời Đặng Tiểu Bình, ngƣời Trung Quốc bắt đầu nhanh chóng chuyển hƣớng sang tự do
kinh doanh trong nhiều khu vực kinh tế. Điều này thực sự là sự quở trách Marx và chửi rủa Mao.
Đặng, ngƣời đã bị Mao tống vào tù hồi Cách mạng Văn hóa đẫm máu trong những năm 1960, là một
ngƣời thực dụng. Ông phát biểu rằng "mèo trắng hay mèo đen không thành vấn đề miễn là bắt đƣợc
chuột".38 Ông cho phép các chủ hiệu đƣợc giữ lại lợi nhuận và nông dân đƣợc tự do bán lƣơng thực
của mình. Họ gọi xu hƣớng này là gì? Họ đã chuyển chữ thuật ngữ "thị trƣờng tự do". Hàng triệu
ngƣời Trung Quốc tƣởng rằng "thị trƣờng tự do" là một thuật ngữ gốc Trung Quốc. Tuy nhiên, sau
khoảng mƣời năm tự do hóa, những lực lƣợng bảo thủ khẳng định lại vị thế của họ vào năm 1987
(mặc dù họ không chấm dứt việc kinh doanh của nhà hàng Gà Rán Kentucky - KFC nằm ở phía đối
diện của lăng Mao Trạch Đông). Mặc dù vậy, sự thụt lùi chỉ là tạm thời. Sau khi Đặng chết, thủ tƣớng
mới Chu Dung Cơ và chủ tịch Giang Trạch Dân cam kết thúc đẩy hơn nữa kinh tế tƣ nhân và cắt giảm
phạm vi hoạt động của các công ty đại chúng. Năm 1998, Giang thậm chí còn nắm cả quân đội.
Những ngón tay của ông ta có thể sờ đến tất cả các khu vực kinh doanh từ khách sạn, các nhà máy sản
xuất tủ lạnh, đến các quầy bar karaoke. Các doanh nhân Trung Quốc đã len lỏi vào nền kinh tế thế
giới. Hầu hết đồ chơi tại các cửa hàng đồ chơi Toys "R" Us ở địa phƣơng nơi bạn ở đều đƣợc chế tạo
tại Trung Quốc. Trong khi đó, ngày càng nhiều ngƣời Trung Quốc gội đầu bằng dầu gội đầu Procter
& Gamble hơn bất kỳ nhãn hiệu nào! Điều kỳ quặc trong sự thành công của Chu và Giang là trong khi
thúc đẩy hơn nữa tự do kinh doanh, họ vẫn duy trì quyền lực của Đảng Cộng sản để dọa dẫm. Mặc dù
vẫn còn một số hồ nghi nhƣng đó không còn là Đảng Cộng sản của cha ông họ nữa.

Liên Xô và Trung Quốc là những quốc gia cuối cùng trong số các quốc gia cộng sản lớn nhất tuyên
bố trung thành với chủ nghĩa Marx. Khi Bức Màn Sắt tan chảy dọc theo đƣờng biên giới của Ba Lan,
Đông Đức, Tiệp Khắc, Hungary và Rumani, ngày càng có nhiều công nhân giành đƣợc tự do để đoàn
kết; chống lại những tƣ tƣởng của Marx.

Cho tới nay, không còn một nƣớc nào tuân theo chủ nghĩa Marx đúng nhƣ trong mƣờng tƣợng của
những ngƣời ngƣỡng mộ ông ta nữa. Ngay cả khu định cƣ của Israel dƣờng nhƣ cũng đang chuyển
đổi từ những dự án xã hội chủ nghĩa thành những dự án tƣ bản chủ nghĩa. Có lẽ sẽ không còn nƣớc
nào thực hiện giấc mơ của Marx nữa. Giấc mơ hứa hẹn hơn cả thế giới thực tại, một thế giới đầy rẫy
sự khan hiếm, sự ích kỷ và xấu xa. Đó là một giấc mơ giống kiểu một thiên đàng đã bị mất, phù hợp
hơn đối với những thiên thần hơn là với những ngƣời vô sản. Thật không may, lòng mong mỏi khát
khao trở nên mạnh mẽ tới mức những ngƣời tốt đã bị mê hoặc. Họ ủng hộ những chế độ đồi bại
chuyên giảng đạo, nhƣng lại không thực hiện giáo lý của chủ nghĩa Marx. George Bernard Shaw đã
bắt tay Stalin và quan sát sự đàn áp của chế độ Xô viết trong một thời gian dài trƣớc khi ông tỉnh ngộ.

Đối với nhân loại ngày nay, Marx nhắc nhở chúng ta rằng thay đổi về kinh tế có thể gây ra đau
đớn, rằng quyền lực có thể chuyển thành sự áp bức và bộ phận dân cƣ tầng lớp dƣới phải đƣợc bảo vệ
khỏi sự bóc lột. Những chế độ cộng sản đã cho thấy những cảnh báo trên là hoàn toàn chính xác.
Những ngƣời ngƣỡng mộ Marx tán dƣơng Marx thời trẻ và Marx ít khoa học hơn. Không phải là một
nhà kinh tế lý thuyết có sức thuyết phục hay một nhà lãnh đạo chính trị uy tín, Marx trở thành một
tiếng nói hiện thời cho sự công bằng xã hội mang tính nhân văn. Ông trở nên giống nhƣ Tom Joad
trong tác phẩm Chùm nho uất hận của John Steinbeck:

Bao giờ con cũng có mặt trong bóng tối, khắp nơi. Khắp nơi nào mẹ nhìn. Khắp nơi nào mà có
một cuộc đánh lộn để con ngƣời đói khát có thể giành giật nhau miếng ăn, nơi đó sẽ có con.
Khắp nơi nào có một tên cảnh sát đang đánh đập một con ngƣời, sẽ có con.… nơi nào có tiếng
kêu thét của những ngƣời đang nổi giận vì họ đói khát, con sẽ ở đấy … Và khi nào những
ngƣời cùng cảnh với chúng ta đang ngồi trƣớc bàn ăn có đủ những thứ họ trồng trọt và gặt hái
khi nào họ ăn ở trong những ngôi nhà mà họ xây dựng ở đây, sẽ có con. Mẹ hiểu không, mẹ? 39

Đặt sự lạm dụng và tàn bạo dƣới cái tên của Marx, đây có lẽ là chỗ tốt nhất dành cho ông ta.
Ghi chú

Chƣơng VI

Karl Marx – nhà tiên tri giận dữ

1. David McLellan, Karl Marx: His Life and Thought (New York: Harper & Row, 1973), tr.4. Xem
Karl Marx, “On the Jewish Question”, trong The Marx-Engels Reader (New York: W. W. Norton,
1978) do Robert C. Tucker biên soạn, tr.26-52; Gertrude Himmelfarb, “The Real Marx”, trong
Commentary (tháng Tƣ năm 1985), tr.37-43 và “Letters” (tháng Tám năm 1985).

2. McLellan, tr.6-7.

3. Sđd, tr.33.

4. Robert Payne, Karl Marx (New York: Simon and Schuster, 1968), tr.77.

5. McLellan, tr.53.

6. Saul K. Padover, Karl Marx: An Intimate Biography (New York: McGraw-Hill, 1978), tr. 179.

7. McLellan, tr.99.

8. Karl Marx và Friedrich Engels, Collected Works (New York: International Publishers, 1982), tập
38, tr.115.

9. Karl Marx, “Introduction to A Critique of Hegel's Philosophy of Right”, trong K. Marx, The Early
Texts, D. McLellan biên soạn (Oxford: Oxford University Press, 1971), tr.116.

10. Karl Marx, The German Ideology, do Tucker biên soạn, tr.155-56.

11. Karl Marx, A Contribution to the Critique of Political Economy, N. I. Stone dịch (Chicago:
Charles Kerr, 1904), Lời tựa.

12. Karl Marx, The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte, do Tucker biên soạn, tr.595.

13. Karl Marx và Friedrich Engels, The Communist Manifesto, Samuel Beer biên soạn. (Arlington
Heights: Harlan Davidson, 1955), tr.9.

14. Marx, A Contribution to the Critique of Political Economy, lời tựa.

15. Karl Marx, Capital, tập 1 (Chicago: Charles Kerr, 1906), tr.13.

16. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.13-14.

17. Sđd.

18. McLellan, tr.98.

19. Sandover, tr.291-293.

20. Payne, tr.295.


21. McLellan, tr.264, 357.

22. Sđd, tr.284.

23. Karl Marx, Capital, tập 1, tr.649, 652.

24. Sđd, tr.687.

25. Sđd, tr.836.

26. Sđd, tr.837.

27. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.46.

28. Marx, Capital, tập 1, tr.21.

29. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.31-32.

30. Marx, Capital, tập 1, tr.637.

31. Payne, tr.143.

32. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.22; Thomas Sowell, Marxism: Philosophy and
Economics (New York: William Morrow, 1985), tr.138.

33. Vấn đề nghèo khổ tƣơng đối là rất khó đánh giá. Thứ nhất, bởi vì có một khoảng cách về thu nhập
giữa ngƣời giàu và ngƣời nghèo, thậm chí ngay cả khi ngƣời nghèo kiếm đƣợc thu nhập với tốc độ
nhanh hơn, thì chênh lệch tuyệt đối về đồng đô la vẫn có thể tăng lên. Hãy so sánh một ngƣời là A
khởi đầu với 10.000 đô la và kiếm thêm đƣợc 10% mỗi năm với ngƣời B khởi nghiệp với 100.000 đô
la và chỉ kiếm đƣợc thêm 5% mỗi năm. Trong khoảng bảy năm, A kiếm đƣợc khoảng 20.000 đô la,
trong B kiếm đƣợc hơn 140.000 đô la. Thứ hai, ở nƣớc Mỹ, trải qua mỗi thế hệ lại có sự dao động lên
xuống đáng kể. Một nghiên cứu quan trọng cho thấy rằng khoảng một phần ba số con cái có cha mẹ là
những ngƣời giàu có trong nƣớc nhận đƣợc thu nhập dƣới mức trung bình của quốc gia. Hơn thế nữa,
khoảng một phần ba số con cái có cha mẹ là những ngƣời nghèo nhất lại vƣơn lên và vƣợt mức trung
bình của quốc gia. Xem Christopher Jencks và cộng sự, Inequality: A Reassessment of the Effect of
Family and Schooling in America (New York: Basic Books, 1972), tr.209-216. Để tham khảo cách
tiếp cận quốc tế đối với sự dao động, hãy xem W. W. Rostow, Why the Poor Get Richer and the Rich
Slow Down (Austin: University of Texas Press, 1980). Chúng ta có thể tự tin mà nói rằng trong phần
lớn thế kỷ XX, tất cả mọi tầng lớp xã hội ở Mỹ đều đạt đƣợc sự tiến bộ tuyệt đối. Mặc dù vậy, trong
thời kỳ lạm phát đình đốn từ năm 1974 đến năm 1982, tất cả các tầng lớp xã hội đều bị suy giảm thu
nhập. Ngƣời nghèo đặc biệt phải chịu đựng cả những gánh nặng kinh tế lẫn tâm lý khi số các hộ gia
đình mà phụ nữ làm chủ hộ tăng vọt lên khoảng 40%. Trong thời kỳ giữa và cuối thập kỷ 1980, nƣớc
Mỹ lại đạt đƣợc và vƣợt mức bình ổn của năm 1973.

34. John Rawls, A Theory of Justice (Cambridge: Harvard University Press, 1971).

35. John Maynard Keynes, The Collected Writings of John Maynard Keynes, tập 28 (London and
New York: Macmillan/St. Martin's Press, 1973), tr.38, 42.

36. Xem Stephen A. Marglin, “Radical Macroeconomics” (Cambridge: Harvard Institute of


Economics Research, 1982), Discussion Paper số 902, tr.1-26.

37. Xem Robert Conquest, The Harvest of Sorrow (New York: Oxford University Press, 1987).
38. David S. G. Goodman, Deng Xiaoping and the Chinese Revolution: A Political Biography
(London: Routledge, 1994), tr.3.

39. John Steinbeck, The Grapes of Wrath (New York: Penguin Books, 1986), tr.537.

You might also like