You are on page 1of 31

PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ

I. Khái niệm, đặc điểm, chức năng, vai trò của thuế
1. Khái niệm thuế
Sự ra đời của thuế là một tất yếu khách quan gắn liền với sự ra đời,
tồn tại và phát triển của Nhà nước. Để duy trì sự tồn tại của mình và thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ về kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh, quốc
phòng... Nhà nước cần phải có những nguồn lực vật chất nhất định. Theo
đó, Nhà nước sẽ thực hiện điều tiết một bộ phận của cải của xã hội từ khu
vực tư sang ngân quỹ quốc gia bằng nhiều hình thức khác nhau: phát hành
thêm tiền, phát hành trái phiếu để vay trong nước và ngoài nước, bán một
phần tài sản quốc gia, thu thuế... Trong đó thu thuế là quá trình điều tiết
mang tính chất bắt buộc, các thể nhân, pháp nhân phải chuyển giao một
phần của cải của mình cho Nhà nước mà không gắn với bất kỳ sự ràng
buộc nào về sự hoàn trả lợi ích tương quan với số thuế đã nộp.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về thuế tuỳ theo cách thức
tiếp cận nghiên cứu:
Trên giác độ kinh tế học, người ta cho rằng thuế là một biện pháp
đặc biệt, theo đó, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một
phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công, nhằm thực hiện các chức
năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Trên giác độ phân phối thu nhập thì thuế là hình thức phân phối và
phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành
các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho
việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên giác độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt
buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước
theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ Nhà nước...
Như vậy, các quan niệm trên đều đề cập đến các nội dung cơ bản
như: nguồn lực chuyển giao, quyền lực Nhà nước và chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước... Một trong các khái niệm về thuế được thừa nhận chung là:
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các pháp nhân, thể nhân
cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, không
mang tính chất hoàn trả trực tiếp, nhằm sử dụng cho mục đích chung toàn
xã hội.
Ngoài các khoản thu về thuế, Nhà nước còn thu các khoản phí và lệ
phí. Đây là các khoản thu mà một tổ chức hay cá nhân phải trả khi được cơ
quan nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân được Nhà nước uỷ quyền cung cấp
các hàng hoá, dịch vụ công cộng.
Phí là khoản thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ
công cộng không thuần tuý theo quy định của pháp luật và là khoản tiền mà
các tổ chức, cá nhân phải trả khi sử dụng các dịch vụ công cộng đó. Ví dụ:
phí kiểm dịch động vật, phí đo đạc và lập bản đồ hành chính...
Lệ phí là khoản thu gắn liền với việc cung cấp trực tiếp các dịch vụ
hành chính pháp lý của Nhà nước cho các thể nhân, pháp nhân nhằm phục
vụ cho công việc quản lý hành chính Nhà nước theo quy định của pháp
luật. Ví dụ: lệ phí đăng ký kinh doanh, lệ phí công chứng...
2. Đặc điểm của thuế
2.1. Thuế luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước
Thuế luôn gắn liền với quyền lực của Nhà nước, thể hiện tính pháp
lý tối cao của thuế:
- Thuế là nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến
Pháp - Đạo luật gốc của một quốc gia: Điều 22 và Điều 80 Hiến pháp nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992 quy định “Các cơ sở sản xuất, kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
đối với Nhà nước, đều bình đẳng trước pháp luật...”, “Công dân có nghĩa
vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật”.
- Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung, hay bãi bỏ bất kỳ một thứ thuế
nào cũng chỉ có một cơ quan duy nhất có thẩm quyền, đó là Quốc Hội - cơ
quan quyền lực Nhà nước tối cao: Điều 84 Hiến pháp nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam năm 1992 quy định Quốc hội có những quyền“...; quy
định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế”.
- Nhà nước thực hiện thu thuế dựa trên những cơ sở pháp luật nhất
định, đó là các văn bản pháp luật do các cơ quan quyền lực Nhà nước ban
hành (Luật, Nghị định, Thông tư...).
2.2. Thuế là một phần thu nhập của các tầng lớp dân cư bắt buộc phải
nộp cho Nhà nước
Khi Nhà nước thực hiện thu thuế, người nộp thuế có nghĩa vụ đóng
các khoản thuế theo luật định. Việc đóng các khoản thuế này không gắn với
lợi ích cụ thể của người nộp thuế, tức là không kèm theo bất kỳ một sự cấp
phát hoặc quyền lợi từ phía Nhà nước, do đó khó có thể đòi hỏi người nộp
thuế tự nguyện thực hiện đóng thuế. Để đảm bảo thu được thuế Nhà nước
phải sử dụng quyền lực chính trị bắt buộc người nộp thuế chuyển giao một
phần thu nhập cho Nhà nước.
2.3. Thuế là hình thức chuyển giao thu nhập không mang tính chất
hoàn trả trực tiếp
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện trên các
khía cạnh:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính
chất đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao
cho Nhà nước không dựa trên mức độ người nộp thuế thừa hưởng những
dịch vụ và hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Phần giá trị mà
người nộp thuế được hưởng thụ không nhất thiết tương đồng với khoản
thuế mà họ đã nộp cho Nhà nước.
Thứ hai, các khoản thuế đã nộp cho Nhà nước sẽ không được hoàn
trả trực tiếp cho người nộp thuế. Người nộp thuế sẽ nhận được một phần
các hàng hoá, dịch vụ công cộng mà Nhà nước đã cung cấp cho cả cộng
đồng. Người nộp thuế không có quyền đòi hỏi Nhà nước cung cấp hàng
hoá, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình mới nộp thuế cho Nhà nước.
3. Chức năng, vai trò của thuế
3.1. Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước
Thuế là phương tiện để Nhà nước tập trung một phần tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) vào Ngân sách Nhà nước, thể hiện bằng tỷ lệ phần trăm
GDP được động viên vào NSNN. Trên cơ sở đó, Nhà nước chi tiêu để duy
trì sự tồn tại và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ kinh tế xã hội của mình
(chi quản lý hành chính Nhà nước, chi đầu tư phát triển, chi quốc phòng an
ninh, cung cấp hàng hoá công cộng…). Hiện nay, thuế là nguồn thu có tỷ
trọng lớn nhất trong tổng thu NSNN của các nước có nền kinh tế thị
trường.
Việc huy động số thu cho NSNN gắn liền với chức năng, nhiệm vụ
của cơ quan hành chính nhà nước: nếu chỉ thực hiện nhiệm vụ chi cho hoạt
động hành chính thì số thu sẽ được huy động ở mức độ thấp, nếu Nhà nước
đảm nhiệm cung cấp một số dịch vụ công cộng thì số thu cần huy động sẽ
nhiều lên. Tuy nhiên, các nguồn thu huy động vào NSNN không phải lúc
nào cũng cân đối với nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, nếu việc chi tiêu của
Nhà nước lớn hơn các nguồn thu huy động được thì sẽ dẫn tới tình trạng
bội chi NSNN. Bội chi NSNN với tỷ lệ cao, quy mô lớn có thể gây ra lạm
phát, tăng lãi suất thị trường, cản trở đầu tư… Vì vậy, việc xác định mức
huy động GDP vào NSNN (thuế đóng vai trò quan trọng) cũng như tỷ lệ
bội chi hợp lý sẽ góp phần làm lành mạnh tài chính Nhà nước, góp phần ổn
định và tăng trường kinh tế quốc gia.
Ở Việt Nam, tỷ lệ huy động GDP vào NSNN đạt tỷ lệ trên 20% qua
các năm, mức bội chi duy trì ở mức hợp lí, cụ thể:
Tỷ lệ thu NSNN/GDP (%) Tỷ lệ bội chi
Tỷ lệ thuế,
Năm (không kể tăng thu do giá dầu thô NSNN/GDP
tăng giá)
phí/GDP (%)
(%)
2004 24,2 20,2 4,85
2005 23,8 21,1 4,86
2006 25,2 22,6 5
(Nguồn: Bộ Tài chính)
3.2. Điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Trong khi huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước thì thuế cũng
thực hiện điều tiết kinh tế thông qua việc quy định các hình thức thu thuế
khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế,
xây dựng các mức thuế phải nộp phù hợp..., qua đó kích thích các hoạt
động kinh tế đi vào quỹ đạo chung, phù hợp với lợi ích của xã hội. Việc
điều tiết kinh tế của thuế gắn liền với vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của
Nhà nước, Nhà nước sử dụng thuế để tác động đến nền kinh tế quốc dân:
điều chỉnh chu kỳ kinh tế, cơ cấu ngành, khu vực và từng vùng lãnh thổ...
Cụ thể:
- Điều chỉnh chu kỳ nền kinh tế: đây là một trong những nội dung
quan trọng của quá trình sử dụng công cụ thuế điều chỉnh vĩ mô nền kinh
tế. Trong nền kinh tế thị trường thì sự phát triển theo chu kỳ là điều không
thể tránh khỏi. Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định, Nhà nước đã sử
dụng thuế để điều chỉnh quá trình đó. Trong những năm khủng hoảng và
suy thoái kinh tế, Nhà nước có thể hạ thấp mức thuế, tạo ra những điều
kiện ưu đãi về thuế thuận lợi nhằm kích thích nhu cầu tiêu dùng để tăng
đầu tư và mở rộng sức sản xuất. Điều đó có thể đưa nền kinh tế thoát khỏi
khủng hoảng nhanh chóng. Ngược lại, trong thời kỳ phát triển quá mức, có
nguy cơ dẫn đến mất cân đối, bằng cách tăng thuế, thu hẹp đầu tư, Nhà
nước có thể giữ vững nhịp độ tăng trưởng theo mục tiêu đặt ra.
- Thuế góp phần hình thành cơ cấu ngành hợp lý theo yêu cầu của
từng giai đoạn phát triển nền kinh tế. Bằng việc ban hành hệ thống thuế,
Nhà nước sẽ quy định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế
suất cao hoặc thấp vào các ngành nghề, các mặt hàng cụ thể. Thông qua đó
Nhà nước có thể thúc đẩy sự phát triển của những ngành kinh tế quan
trọng hoặc san bằng tốc độ tăng trưởng giữa chúng, đảm bảo sự cân đối
giữa các ngành nghề trong nền kinh tế.
- Điều chỉnh tích luỹ tư bản: sản xuất chiếm hữu và tư bản hoá lợi
nhuận luôn luôn là mục đích cơ bản của hoạt động kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường, Nhà nước cần sử dụng thuế để điều chỉnh sự tích luỹ đó
phù hợp lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế và lợi ích xã hội. Mặt khác,
sự phát triển nền kinh tế luôn đòi hỏi phải tăng nhanh vốn đầu tư cơ bản, để
phát triển nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cần phải khuyến khích tích luỹ
và tích tụ trong các doanh nghiệp, để tạo ra nguồn vốn đầu tư. Việc thay
đổi các chính sách thuế của Nhà nước có thể ảnh hưởng đến quy mô và tốc
độ tích luỹ tư bản, do đó tác động đến quá trình đầu tư phát triển kinh tế.
- Thuế góp phần bảo hộ nền sản xuất trong nước. Thông qua điều
chỉnh mức thuế xuất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà gây nên áp lực
tăng giá hàng nhập khẩu, giảm khả năng cạnh tranh so với hàng sản xuất
trong nước, từ đó điều chỉnh khối lượng hàng hoá đưa ra thị trường và đưa
vào để thực hiện bảo hộ nền sản xuất trong nước và bảo vệ lợi ích của thị
trường nội địa.
Tác động điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế chỉ đem lại hiệu quả
thiết thực khi công cụ thuế được Nhà nước áp dụng theo các phương pháp
điều chỉnh thích hợp đến các đối tượng điều chỉnh của thuế. Trong thực
tiễn thế giới có rất nhiều phương thức Nhà nước sử dụng công cụ thuế để
tác động đến nền kinh tế. Có thể chỉ ra một số phương pháp điều chỉnh chủ
yếu của thuế như sau:
- Thay đổi thuế suất:
Thông qua việc quy định đánh thuế với thuế suất cao hay thấp vào
các đối tượng chịu thuế, Nhà nước tác động đến mối quan hệ giữa cung,
cầu trên thị trường, làm ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng, tiết kiệm và đầu
tư của doanh nghiệp và dân cư, từ đó thực hiện điều tiết vĩ mô nền nền kinh
tế.
- Áp dụng các biện pháp ưu đãi thuế:
Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể cũng như yêu cầu, mục tiêu của nền
kinh tế từng thời kỳ, Nhà nước có thể thực hiện ưu đãi thuế, tạo điều kiện
thuận lợi trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế để kích
thích tăng tích luỹ và tích tụ vốn trong các doanh nghiệp và dân cư, góp
phần đẩy mạnh đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
3.3. Điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
Thuế là công cụ để Nhà nước can thiệp vào quá trình phân phối thu
nhập, của cải của xã hội, hạn chế sự chênh lệch lớn về mức sống, về thu
nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Việc điều hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cư có thể được thực
hiện thông qua các sắc thuế trực thu, điều tiết trực tiếp thu nhập của người
nộp thuế (thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp...), đặc biệt
thuế thu nhập cá nhân có sử dụng thuế suất luỹ tiến sẽ có tác dụng rất lớn
trong vấn đề điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
Ngoài ra, việc điều hoà thu nhập có thể được thực hiện một phần
thông qua các sắc thuế gián thu. Ví dụ như thuế tiêu thụ đặc biệt, loại thuế
này có đối tượng chịu thuế chủ yếu là các hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cao
cấp, đắt tiền, các hàng hoá, dịch vụ này thông thường chỉ có những người
có thu nhập cao trong xã hội mới có thể sử dụng và hoặc sử dụng nhiều,
qua đánh thuế điều tiết bớt một phần thu nhập của họ.
II. Phân loại thuế
Trong thực tế có nhiều tiêu thức phân loại thuế, tuỳ theo điều kiện
hoàn cảnh và yêu cầu quản lý thuế của mỗi nước mà có sự lựa chọn cách
phân loại thuế khác nhau (dựa vào phương thức đánh thuế, dựa vào cơ sở
tính thuế, dựa theo phạm vi điều chỉnh của sắc thuế, dựa theo tên gọi của
sắc thuế, theo tính chất thuế suất...). Dưới đây là một số tiêu thức phân loại
thuế cơ bản thường được áp dụng:
1. Phân loại theo phương thức đánh thuế
Căn cứ vào phương thức đánh thuế là đánh thuế một cách trực tiếp
hay gián tiếp vào thu nhập, có thể chia hệ thống thuế thành hai loại: thuế
trực thu và thuế gián thu.
1.1. Thuế trực thu
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản
của người nộp thuế. Theo đó, đối tượng nộp thuế theo luật quy định đồng
nhất với người phải chịu thuế.
Về nguyên tắc, loại thuế này mang tính chất thuế luỹ tiến, vì nó tính
đến khả năng của người nộp thuế, người có thu nhập cao hơn phải nộp thuế
nhiều hơn, còn người có thu nhập thấp thì nộp thuế ít hơn.
Ở Việt Nam, các sắc thuế trực thu bao gồm: thuế thu nhập doanh
nghiệp; thuế thu nhập cá nhân; thuế tài nguyên; thuế sử dụng đất nông
nghiệp; thuế nhà, đất...
Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào thu nhập của
từng tổ chức, cá nhân có thu nhập, hơn thế nữa, thuế trực thu còn cho phép
xem xét đến các yếu tố tương đối độc lập đến thu nhập của người nộp thuế,
như hoàn cảnh bản thân, hoàn cảnh gia đình... Do đó, thuế trực thu có tác
dụng rất lớn trong việc điều hoà thu nhập, giảm bớt sự chênh lệch đáng kể
về mức sống giữa các tầng lớp dân cư, do đó đã bảo đảm được tính công
bằng trong xã hội.
Nhược điểm của thuế trực thu là dễ gây ra phản ứng từ phía người
nộp thuế khi Nhà nước điều chỉnh tăng thuế. Hơn nữa việc theo dõi, tính
toán số thuế phải nộp và thủ tục thu, nộp thuế hết sức phức tạp. Số thu
động viên vào Ngân sách thường chậm và chi phí quản lý thu thuế khá tốn
kém.
1.2. Thuế gián thu
Thuế gián thu là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài
sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng
hoá, dịch vụ. Theo đó, người nộp thuế theo luật và người chịu thuế không
đồng nhất với nhau, người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chính là người chịu
thuế.
Thuế gián thu là một bộ phận cấu thành giá cả hàng hoá, dịch vụ,
trong giá hàng hoá, dịch vụ người tiêu dùng mua đã bao gồm cả thuế.
người sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ sẽ “nộp thay” người tiêu dùng
số thuế này vào NSNN.
Về nguyên tắc, thuế gián thu mang tính chất luỹ thoái vì nó không
tính đến khả năng thu nhập của người chịu thuế, người có thu nhập cao hay
thấp đều phải chịu thuế như nhau nếu cùng mua một loại hàng hoá, dịch vụ.
Tuy nhiên, nếu so với tổng thu nhập trong kỳ thì tỷ lệ thu nhập nộp thuế
của những người có thu nhập thấp sẽ cao hơn tỷ lệ nộp thuế của người có
thu nhập cao.
Ở Việt Nam, các sắc thuế gián thu bao gồm: thuế giá trị gia tăng,
thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu...
Ưu điểm của thuế gián thu là đối tượng chịu thuế rất rộng. Thuế gián
thu được ẩn vào giá bán hàng hoá, dịch vụ nên người chịu thuế thường
không cảm nhận được gánh nặng của loại thuế này, có thể tự do lựa chọn
hàng hoá, quyết định tiêu dùng theo túi tiền của mình. Thuế gián thu đem
lại nguồn thu thường xuyên và ổn định cho Ngân sách Nha nước. Đối
tượng quản lý thu thuế cũng tập trung hơn, nghiệp vụ tính và thu thuế thuế
đơn giản, nên chi phí quản lý thuế cũng thấp hơn so với thuế trực thu.
Nhưng loại thuế này cũng có nhược điểm là có tính chất luỹ thoái
nên không đảm bảo tính công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế. Nếu tính tỷ lệ
động viên thuế gián thu so với thu nhập thì người giàu có tỷ lệ động viên
thuế chịu thuế thấp hơn so với người nghèo.
- Xác định mối quan hệ hợp lý giữa thuế trực thu và thuế gián thu:
Thuế trực thu hay thuế gián thu đều có những nét đặc trưng riêng, có
ưu điểm và nhược điểm riêng của mỗi loại thuế. Vì vậy, tuỳ theo đặc điểm
trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước (tốc độ tăng trưởng kinh tế,
mức thu nhập của dân cư và quy mô tích luỹ của doanh nghiệp...) cũng
như yêu cầu của Nhà nước trong hoạt động quản lý của mình, người ta sẽ
xác định một tương quan theo tỷ lệ giữa chúng. Trong điều kiện năng suất,
chất lượng và hiệu quả kinh doanh thấp, thu nhập thực tế của dân cư không
cao thì nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước sẽ là thuế gián thu và
ngược lại.
2. Phân loại theo cơ sở tính thuế
Nếu căn cứ vào cơ sở tính thuế để phân loại thuế thì có thể chia
thành ba loại như sau:
2.1. Thuế thu nhập
Thuế thu nhập là loại thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập kiếm được.
Thu nhập kiếm được hình thàn từ nhiều nguồn: từ lao động dưới
dạng tiền lương, tiền công; thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh
dưới dạng lợi nhuận, lợi tức cổ phần... do đó thuế thu nhập cũng có nhiều
dạng: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển thu
nhập ra nước ngoài...
2.2. Thuế tiêu dùng
Thuế tiêu dùng là là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là phần thu
nhập của tổ chức, cá nhân được mang ra tiêu dùng trong hiện tại.
Trong thực tế loại thuế tiêu dùng được thể hiện dưới nhiều dạng như
thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng...
2.3. Thuế tài sản
Thuế tài sản là loại thuế có cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản.
Tài sản có nhiều hình thức biểu hiện:
- Tài sản tài chính gồm có tiền mặt, tiền gửi, chứng khoán, thương
phiếu....
- Tài sản cố định gồm nhà cửa, đất đai, máy móc, nhà máy, xe cộ...
- Tài sản vô hình như nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kỹ thuật ...
Thuộc loại thuế tài sản là các sắc thuế như thuế nhà đất, thuế sử dụng
đất nông nghiệp...
3. Phân loại theo mức thuế
3.1. Thuế đánh theo tỷ lệ %
Thuế đánh theo tỷ lệ % là loại thuế đánh theo hình thức áp dụng một
tỷ lệ hoặc phần trăm, hoặc lần trên các cơ sở tính thuế. Đây là hình thức áp
dụng phổ biến trong các loại thuế hiện nay. Trong thuế tỷ lệ có thể phân ra
thành 3 loại cụ thể như sau:
- Thuế lũy tiến: là loại thuế áp dụng tỷ lệ tăng dần theo các mức tăng
của cơ sở tính thuế. Cơ sở tính thuế càng tăng thì mức thuế suất càng cao.
Trong thuế lũy tiến có hai hình thức: thuế lũy tiến từng phần và thuế lũy
tiến toàn phần.
+ Đối với thuế lũy tiến từng phần: áp dụng mức thuế suất tăng dần
theo từng phần tăng lên của cơ sở đánh thuế. Với các sắc thuế áp dụng loại
thuế suất này trong biểu thuế suất, cơ sở đánh thuế được chia thành nhiều
bậc theo mức độ tăng dần. Ứng với mỗi phần tăng lên trong từng bậc thuế
đó là một mức thuế suất. Số thuế mà đối tượng nộp thuế phải nộp bằng
tổng số thuế tính theo từng bậc. Việc tính toán và kiểm tra loại thuế này
nhìn chung khá phức tạp, nhưng nó đảm bảo số thuế phải nộp tăng từ từ,
không bị đột biến cùng tốc độ tăng của cơ sở đánh thuế. Do đó, đảm bảo
được tính công bằng theo chiều dọc và có tác dụng lớn trong việc điều tiết
thu nhập. Chính vì vậy, thuế thu nhập cá nhân đang được áp dụng trên thế
giới và ở Việt Nam là loại thuế áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần.
+ Đối với thuế lũy tiến toàn phần: biểu thuế suất cũng chia làm nhiều
bậc với mỗi mức tăng lên của thuế suất, nhưng toàn bộ cơ sở đánh thuế
được áp dụng một mức thuế suất chung tương ứng. Thuế suất luỹ tiến toàn
phần cho phép xác định số thuế phải nộp khá đơn giản và nhanh chóng.
Tuy vậy, nó cũng có nhược điểm là gây ra sự thay đổi có tính chất đột biến
về tổng số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế ở những mức thu nhập cận
biên giữa hai bậc thuế. Mặc dù gía trị của cơ sở đánh thuế thay đổi không
đáng kể, nhưng sự thay đổi về số thuế phải nộp rất đáng kể do phải áp dụng
các mức thuế khác nhau trên toàn bộ cơ sở đánh thuế. Chính vì vậy, áp
dụng thuế suất luỹ tiến toàn phần dễ dẫn đến sự phản ứng từ phía các người
nộp thuế và như vậy tất yếu làm giảm vai trò của thuế. Hiện nay, thuế suất
luỹ tiến toàn phần rất ít được áp dụng trên thế giới.
- Thuế lũy thoái: là loại thuế mà mức thuế suất giảm dần trong khi cơ
sở đánh thuế lại tăng dần. Cơ sở tính thuế càng tăng thì mức thuế suất càng
giảm.
Tương tự với thuế lũy tiến, thuế lũy thoái cũng có hai hình thức: lũy
thoái toàn phần và lũy thoái từng phần. Thông thường các nước áp dụng
thuế lũy thoái để khuyến khích các đối tượng nộp thuế nhiều. Hà Lan trước
đây đã dùng thuế lũy thoái đánh vào thu nhập công ty để thu hút các khoản
đầu tư lớn, thúc đẩy quá trình tích lũy vốn. Nói chung, thuế suất luỹ thoái
là loại thuế suất không được áp dụng phổ biến.
- Thuế tỷ lệ cố định: là loại thuế áp dụng một thuế suất cố định trên
cơ sở tính thuế mà không phụ thuộc vào quy mô cũng như sự tăng, giảm
của cơ sở tính thuế. Thuế tỷ lệ cố định thường được áp dụng để các cơ sở
kinh doanh dễ hạch toán và tính toán trong quá trình kinh doanh.
3.2. Thuế đánh trên mức tuyệt đối
Thuế đánh trên mức tuyệt đối là loại thuế được xác định bằng cách
ấn định một số thu bằng tiền trên một đơn vị tính thuế như trọng lượng,
khối lượng, diện tích, đơn vị sản phẩm... của đối tượng chịu thuế.
Điểm khác nhau cơ bản giữa thuế đánh trên mức tuyệt đối và thuế
đánh theo tỷ lệ phần trăm (%) là thuế đánh trên mức tuyệt đối có mức thu
cố định, không phụ thuộc vào giá kê khai tính thuế của đối tượng chịu thuế.
Do vậy, thuế đánh trên mức tuyệt đối có ưu điểm bảo đảm tỷ lệ động viên
thuế và chống trốn thuế do khai báo giá tính thuế thấp, đặc biệt đối với các
mặt hàng có thuế suất cao và dễ áp dụng trong các trường hợp hàng hóa
khó xác định được giá trị hay giá trị thấp mà chi phí xác định giá tính thuế
cao.
4. Phân loại theo chế độ phân cấp và điều hành ngân sách
Dựa vào tiêu thức này, thuế được phân thành: thuế trung ương và
thuế địa phương.
4.1. Thuế trung ương
Thuế Trung ương là loại thuế được Nhà nước ban hành luật pháp và
điều tiết 100% vào NSNN ở Trung ương.
Tuy nhiên, cũng có quốc gia thực hiện phân chia số thu theo tỷ lệ
nhất định trong thuế suất dành cho các địa phương sau khi thu.
4.2. Thuế địa phương
Thuế địa phương là loại thuế được Nhà nước quy định thu trên phạm
vi lãnh thổ được phân công quản lý và được điều tiết vào NSNN ở địa
phương 100%.
Như vậy, thuế Trung ương bao gồm các nguồn thu lớn từ các hoạt
động sản xuất kinh doanh có phạm vi rộng lớn trên lãnh thổ quốc gia hoặc
thu từ các tài nguyên lớn thuộc sở hữu nhà nước. Thuế địa phương bao
gồm các nguồn thu phát sinh trên địa bàn, phần lớn có quy mô vừa và nhỏ,
đối tượng nộp thuế nhiều. Vấn đề đặt ra là cần có phương thức điều tiết
ngân sách hợp lý giữa thuế trung ương và thuế địa phương nhằm thúc đẩy
công tác quản lý thu thuế ở địa phương, tăng tính pháp chế của chính sách
thuế và tăng thu ngân sách.
III. Các yếu tố cấu thành một sắc thuế
Thuế thực hiện việc huy động một phần thu nhập thu nhập của các tổ
chức, cá nhân vào Ngân sách Nhà nước thông qua một hình thức biểu hiện
cụ thể bằng một sắc thuế. Mỗi sắc thuế đều phải được quy định bằng một
văn bản pháp luật (Luật thuế, Pháp lệnh thuế...). Trong một sắc thuế thông
thường chứa đựng các yếu tố cơ bản sau đây:
1. Tên gọi
Tên gọi của một sắc thuế thường phản ánh nội dung chính của nó và
để phân biệt với những loại thuế khác. Vì vậy, yêu cầu khi đặt tên gọi cho
một sắc thuế cần ngắn, gọn, dễ hiểu.
Có thể đặt tên sắc thuế theo đối tượng đánh thuế (thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng...), theo từng mặt hàng (thuế rượu, thuế
thuốc lá…) hoặc theo nội dung (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu…)
2. Người nộp thuế
Trong một sắc thuế bao giờ cũng quy định cụ thể chủ thể nào có
nghĩa vụ phải nộp thuế, thể hiện phạm vi áp dụng của một chính sách thuế
cụ thể.
Người nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế là thể nhân hoặc
pháp nhân có trách nhiệm trực tiếp nộp thuế cho Nhà nước.
Cần phân biệt người nộp thuế và người chịu thuế. Người nộp thuế là
người đem tiền nộp vào NSNN, người chịu thuế là người có thu nhập bị
điều tiết. Sắc thuế mà người chịu thuế trực tiếp mang tiền nộp cho NSNN
là thuế trực thu, sắc thuế mà người chịu thuế không trực tiếp mang tiền nộp
cho NSNN là thuế gián thu.
3. Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế là đối tượng được đưa ra để đánh thuế, là căn cứ
để xác định số tiền thuế phải nộp.
Đối tượng chịu thuế thường được xác định là thu nhập, hàng hoá hay
tài sản. Mỗi một sắc thuế có đối tượng chịu thuế riêng, ví dụ đối tượng chịu
thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước; còn đối
tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng có tính
chất đặc biệt; đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là thu nhập từ
hoạt động kinh doanh; đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân là thu nhập
các cá nhân.
Đối tượng chịu thuế thường được tính trên một đơn vị giá trị hoặc
một đơn vị vật lý
4. Căn cứ tính thuế
Luật thuế quy định mức thuế phải nộp vào Ngân sách Nhà nước
được xác định trên căn cứ nào. Căn cứ tính thuế đối với một sắc thuế là cơ
sở tính thuế và thuế suất.
4.1. Cơ sở tính thuế
Cơ sở tính thuế là số lượng đơn vị (theo giá trị hoặc theo đơn vị vật
lý) đối tượng chịu thuế. Mỗi sắc thuế có một cơ sở tính thuế riêng, ví dụ:
thuế tiêu thụ đặc biệt có cơ sở tính thuế là giá tính thuế TTĐB, thuế thu
nhập có cơ sở tính thuế là thu nhập chịu thuế, thuế sử dụng đất nông nghiệp
có cơ sở tính thuế là diện tích và hạng đất.
4.2. Mức thuế
Mức thuế thể hiện mức độ động viên của Nhà nước trên một đơn vị
so với cơ sở tính thuế và được biểu hiện dưới hình thức thuế suất hay định
suất thuế.
Có thể nói, thuế suất hay định suất thuế là linh hồn của một sắc thuế,
vì nó thể hiện nhu cầu cần tập trung nguồn tài chính cho Ngân sách Nhà
nước và biểu hiện chính sách điều chỉnh kinh tế xã hội của Nhà nước, đồng
thời cũng là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế. Vì vậy, việc xác
định thuế suất hay định suất thuế trong một sắc thuế phải quán triệt quan
điểm vừa coi trọng lợi ích quốc gia, vừa chú ý đến lợi ích thích đáng của
người nộp thuế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung và tích tụ trong
việc sử dụng công cụ thuế.
Tuỳ theo quy định của từng sắc thuế mà người ta áp dụng các loại
thuế suất hay định thuê suất khác nhau, nhìn chung có các loại sau:
- Thuế suất thống nhất: là loại thuế suất quy định mức nộp thuế như
nhau cho tất cả đối tượng chịu thuế. Ví dụ như thuế thân, nhưng hiện nay
loại thuế này ít được áp dụng.
- Thuế suất tính theo đơn vị hiện vật: là loại thuế suất tính bằng số
tuyệt đối theo một đơn vị vật lý của đối tượng chịu thuế. Ví dụ: 1 lít xăng
phải chịu thuế là 500 đồng...
- Thuế suất ổn định: là loại thuế suất quy định theo một tỷ lệ nhất
định như nhau trên cơ sở tính thuế. Dù cơ sở tính thuế cao hay thấp thì
người nộp thuế chỉ nộp theo tỷ lệ ổn định. Ví dụ: thuế suất thuế TNDN ổn
định là 25% trên thu nhập tính thuế, không phân biệt thu nhập tính thuế lớn
hay nhỏ...
- Thuế suất theo giá trị: là loại thuế suất quy định tỷ lệ phần trăm (%)
huy động trên một đơn vị giá trị đối tượng chịu thuế, hay số tiền tuyệt đối
trên một đơn vị tính thuế, bao gồm các loại: thuế suất luỹ tiến (thuế suất luỹ
tiến toàn phần, thuế suất luỹ tiến từng phần), thuế suất luỹ thoái.
Khi xây dựng thuế suất cần chú ý đến nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, thuế suất cần tương đối phù hợp với khả năng thu thuế của
mọi đối tượng để người chịu thuế bớt cảm thấy gánh nặng của thuế.
Thứ hai, thuế suất mang lại nguồn thu lớn cho NSNN nhưng không
cản trở, thậm chí có thể kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung
và sự tăng trưởng của doanh nghiệp nói riêng.
5. Ưu đãi thuế
Nhằm mục đích khuyến khích phát triển sản xuất, thu hút đầu
tư...trong các sắc thuế thường có các quy định về ưu đãi thuế. Ưu đãi thuế
được thực hiện dưới một số hình thức chủ yếu sau:
- Ưu đãi về thuế suất: là việc quy định áp dụng thuế suất thấp hơn
thuế suất tiêu chuẩn và thường được áp dụng đối với các ngành, nghề hoặc
các khu vực được lựa chọn ưu đãi.
- Ưu đãi về miễn thuế, giảm thuế:
+ Ưu đãi miễn, giảm thuế ban đầu, có thể là toàn phần hoặc từng
phần. Miễn thuế hoàn toàn trong một thời gian nhất định được gọi là miễn
giảm thuế toàn phần, còn chỉ một tỷ lệ % thu nhập chịu thuế bị đánh thuế
được gọi là miễn giảm thuế từng phần (hay miễn giảm một phần thuế ban
đầu). Miễn giảm thuế từng phần thường được áp dụng khi đã hết thời hạn
miễn giảm thuế toàn phần. Hình thức này hiện nay được sử dụng phổ biến
nhất, thời gian miễn giảm thuế ban đầu phụ thuộc vào ngành nghề cũng
như lĩnh vực đầu tư.
+ Miễn giảm thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng: hiện nay các
nước đều sử dụng hình thức miễn giảm thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia
tăng cho các nhà đầu tư để khuyến khích việc nhập khẩu máy móc, thiết bị;
hoặc các nhà xuất khẩu đều hưởng thuế suất 0%, theo đó được hưởng chế
độ hoàn thuế giá trị gia tăng.
- Ưu đãi về khấu hao nhanh, trợ cấp đầu tư, khấu trừ thuế đầu tư: đây
là những biện pháp được sử dụng thay thế cho ưu đãi miễn giảm thuế ban
đầu. Mặc dù miễn giảm thuế ban đầu là biện pháp ưu đãi dựa trên thuế thu
nhập được sử dụng phổ biến nhất ở các nước hiện nay nhưng hầu hết các
nước đều có các hình thức ưu đãi thay thế.
Hình thức khấu hao nhanh thường được áp dụng kèm với điều kiện
doanh nghiệp lựa chọn phương pháp khấu hao tài sản cố định là phương
pháp đường thẳng. Thực chất của hình thức này là cho phép đối tượng nộp
thuế thực hiện nghĩa vụ thuế chậm chứ không phải được miễn thuế.
Bên cạnh hình thức thay thế khấu hao nhanh còn các hình thức ưu
đãi thu hồi chi phí đầu tư như trợ cấp đầu tư, khấu trừ thuế đầu tư. Những
hình thức này hiện nay chưa được sử dụng phổ biến.
- Ưu đãi về chuyển lỗ: là việc cho phép doanh nghiệp kết chuyển lỗ
sang kỳ sau với thời gian thường là 5 năm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các hình thức ưu đãi thuế thường gắn liền với các tiêu chí nhất định
và được gọi là điều kiện hưởng ưu đãi thuế, đó có thể là về lĩnh vực, ngành
nghề đầu tư, địa điểm đầu tư, hình thức đầu tư...
Việc thực hiện việc ưu đãi thuế có tính hai mặt, nó chứa đựng những
yếu tố tích cực, tạo điều kiện thực hiện các chính sách kinh tế xã hội của
Nhà nước, nhưng cũng chứa đựng các yếu tố tiêu cực, có thể làm méo mó
những ý tưởng ban đầu khi thiết lập các sắc thuế, không phù hợp với những
tiêu chuẩn của một hệ thống thuế hiện đại. Vì vậy khi lựa chọn các biện
pháp ưu đãi thuế cần được xem xét dựa trên tính hiệu quả, tính công bằng,
đơn giản, minh bạch, công khai và ổn định.
IV. Hệ thống thuế Việt Nam
1. Một số vấn đề về hệ thống thuế
Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập được tạo ra và luân chuyển
theo một chu trình khép kín: người lao động nhận được tiền công, dùng tiền
công này để mua hàng hoá, dịch vụ của các công ty, đến lượt các công ty
lại dùng số tiền thu được để trả lãi cho vốn vay để đầu tư, tiền thuê đất, tiền
nhân công... và sau đó các đối tượng có thu nhập này lại dùng thu nhập để
chi tiêu dưới nhiều dạng để mua hàng hoá, dịch vụ. Chính sự biến đổi đa
dạng này đã nảy sinh những cơ sở đánh thuế khác nhau, do đó tạo khả năng
cho Chính phủ đánh thuế trên sự luân chuyển của dòng thu nhập khép kín
và hình thành các hình thức thuế khác nhau.
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa
chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau nhằm thực hiện các nhiệm vụ
nhất định của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Hệ thống thuế đề cập ở đây chủ yếu là hệ thống chính sách thuế,
cách quản lý thuế mà một quốc gia sử dụng để điều tiết nền kinh tế.
Số lượng các hình thức thuế trong hệ thống thuế nhiều hay ít phụ
thuộc vào sự vận động của dòng thu nhập trong nền kinh tế đơn giản hay
phức tạp hay khả năng kiểm soát và điều chỉnh sự vận động của dòng thu
nhập trong nền kinh tế của Chính phủ.
Ngoài hệ thống chính sách thuế và quản lý thuế, để thực thi pháp luật
về thuế, các quốc gia còn phải có hệ thống các định chế về thuế. Đó là tổng
hợp các qui định, các biện pháp về nghiệp vụ, về tổ chức, về kinh tế, về
hành chính… và cơ chế vận hành chúng nhằm tổ chức có hiệu quả việc
thực thi các luật thuế như: bộ máy quản lý thu thuế; các biện pháp, quy
trình nghiệp vụ; hệ thống các tổ chức tư vấn thuế; các trường đào tạo
thuế…
1.1. Các yếu tố tác động đến hệ thống thuế
- Yếu tố chính trị:
Bản thân thuế là do Nhà nước đặt ra. Mà Nhà nước là một tổ chức
chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi hành các chính
sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội, do đó hệ thống thuế trước
hết phải phục vụ cho các mục tiêu do Nhà nước đặt ra và phục vụ cho ý đồ
chính trị của giai cấp thống trị.
Thể chế chính trị của Nhà nước có ý nghĩa quyết định đến hệ thống
thuế. Nếu thể chế chính trị của Nhà nước tổ chức theo chế độ Nhà nước
Liên bang thì trong cơ cấu hệ thống thuế thường bao gồm các loại thuế
trung ương và thuế địa phương, thực hiện quản lý thuế theo cơ quan thu
thuế trung ương và cơ quan thuế địa phương riêng biệt nhau. Còn nếu thể
chế chính trị của Nhà nước tổ chức theo chế độ Nhà nước đơn nhất thì
thường chỉ có một hệ thống thuế thống nhất cho cả nước, quản lý thuế theo
hệ thống ngành dọc thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Yếu tố chính trị có tác động quyết định đến chính sách thuế và quản
lý thuế cũng được thể hiện rõ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các
chính sách thuế cũng như thủ tục quản lý thuế phải sửa đổi lại cho phù hợp
với các cam kết quốc tế...
- Yếu tố kinh tế:
Thuế là một phần thu nhập của nền kinh tế quốc dân được tập trung
vào Ngân sách Nhà nước, thuế luôn luôn gắn chặt với sản xuất kinh doanh
và nguồn thu từ thuế chỉ có thể ổ định trên cơ sở nền kinh tế được phát
triển và hiệu quả. Do đó, kinh tế là cơ sở của thuế.
Những yếu tố kinh tế thường tác động đến hệ thống thuế là mức độ
tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân
đầu người, giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường, sự biến động của
Ngân sách...
- Yếu tố xã hội:
Hệ thống thuế được thực thi do các cơ quan quản lý và các tầng lớp
dân cư trong xã hội. Do đó các yếu tố xã hội như tâm lý tập quán của các
tầng lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc, kết cấu giai cấp
trong xã hội... đều tác động và ảnh hưởng nhất định đến hệ thống thuế.
1.2. Các tiêu thức xây dựng hệ thống thuế
Mỗi quốc gia tuỳ theo điều kiện lịch sử kinh tế, xã hội ở từng thời kỳ
cụ thể mà định hướng xây dựng hệ thống thuế riêng của mình. Hệ thống
thuế đó phải phản ánh được những mục tiêu của Nhà nước đặt ra. Chính vì
vậy, cần đặt ra những tiêu thức cần thiết để xây dựng một hệ thống thuế
tích cực, hiệu quả. Có thể đề cập tới một số tiêu thức chủ yếu như sau:
1.2.1 Tính công bằng
Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong việc phân chia
gánh nặng của thuế khoá đối với các tầng lớp dân cư trong xã hội. Có công
bằng trong nghĩa vụ nộp thuế mới động viên các thành phần kinh tế trong
xã hội hăng hái lao động, do đó mới đảm bảo được các mục tiêu kinh tế và
chính trị của đất nước. Người ta cho rằng tính công bằng của thuế phải dựa
trên nguyên tắc công bằng theo chiều ngang và nguyên tắc công bằng theo
chiều dọc.
- Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang, nếu các cá
nhân có điều kiện về mọi mặt đều như nhau thì được đối xử như nhau trong
việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, nguyên tắc này khó áp dụng trong
thực tiễn không thể chỉ rõ được tiêu thức nào để xác định hai cá nhân có
điều kiện về mọi mặt như nhau, mặt khác cũng khó xác định việc đối xử
như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế là như thế nào.
- Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều dọc, nếu người có
khả năng nộp thuế nhiều hơn thì phải nộp thuế cao hơn những người khác
có khả năng nộp thuế ít hơn. Trong thực tế, để áp dụng nguyên tắc này cần
xác định rõ hai vấn đề: tiêu thức xác định khả năng và mức độ nộp thuế cao
hơn. Hiện nay, người ta thường dùng tiêu thức thu nhập hoặc tiêu dùng để
đánh giá khả năng nộp thuế của người nộp thuế.
Có thể nói, vấn đề công bằng trong thuế khoá là một đòi hỏi khách
quan, nhưng việc đánh giá một hệ thống thuế được coi là công bằng không
phải là công việc dễ dàng. Do đó, công bằng trong thuế khoá vẫn thuộc về
nhận thức và quan điểm của mỗi quốc gia.
1.2.2. Tính hiệu quả
Tính hiệu quả của hệ thống thuế được xét trên các mặt sau:
- Thứ nhất, hiệu quả đối với nền kinh tế là lớn nhất:
Xét trên phương diện kinh tế, hành vi đánh thuế của Nhà nước bao
giờ cũng ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn lực của xã hội và chịu sự chi
phối của hai tác nhân có xu hướng vận động không đồng nhất là: Nhà nước
và các lực lượng thị trường. Sự phân bổ nguồn lực dưới tác động của các
lực lượng thị trường thường dựa trên yêu cầu của các quy luật kinh tế thị
trường, còn sự phân bổ nguồn lực dưới tác động của Nhà nước thường dựa
trên yêu cầu của xã hội và yêu cầu của quản lý, điều chỉnh theo chức năng
của Nhà nước. Nói chung sự phân bổ các nguồn lực dưới tác động của các
lực lượng thị trường thường đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên do động cơ chủ
yếu là lợi nhuận, nên xét ở tầm vĩ mô việc phân bổ nguồn lực dưới tác động
của các lực lượng thị trường, trong nhiều trường hợp không đem lại hiệu
quả chung cho nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, tất yếu cần phải có sự
kết hợp với hệ thống phân bổ nguồn lực của Nhà nước, trong đó có công cụ
thuế để điều chỉnh các xu hướng vận động khác nhau nhằm đạt hiệu quả
chung của nền kinh tế quốc dân.
Như vậy tính hiệu quả của hệ thống thuế được xét dưới hai góc độ:
giảm tối thiểu những tác động tiêu cực của thuế trong phân bổ các nguồn
lực vốn đã đạt hiệu quả dưới tác động của các lực lượng thị trường; tăng
cường vai trò của thuế đối với việc phân bổ các nguồn lực chưa đạt được
hiệu quả dưới tác động của các lực lượng thị trường.
- Thứ hai, hiệu quả thu thuế là lớn nhất:
Thể hiện tính hiệu quả của thuế là tổng số thuế thu được là lớn nhất
với chi phí hành chính thuế là thấp nhất. Chi phí hành chính thuế bao gồm
các khoản chi phí trực tiếp quản lý của cơ quan thuế và những chi phí gián
tiếp do người nộp thuế gánh chịu; các khoản chi phí này phụ thuộc vào:
tính phức tạp hay đơn giản của hệ thống thuế, số lượng và mức độ phân
biệt của thuế suất đối với người nộp thuế cũng như cơ sở tính thuế, sự lựa
chọn các loại thuế. Nói chung các loại thuế có cơ sở tính thuế phức tạp, yêu
cầu quản lý cao thường có chi phí hành chính lớn.
Nhằm giảm bớt chi phí hành chính đòi hỏi hệ thống thuế phải đơn
giản, chứa đựng ít mục tiêu. Mặt khác hệ thống thuế đơn giản, dễ hiểu thì
việc quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với người nộp thuế mới
dễ dàng thuận lợi.
1.2.3. Tính rõ ràng, minh bạch
Một hệ thống thuế rõ ràng và minh bạch trước hết phải chỉ rõ ai chịu
thuế, mức thuế phải nộp và thời hạn nộp thuế, qua đó người nộp thuế có thể
tính toán chính xác được hiệu quả kinh doanh, nghĩa vụ nộp thuế cũng như
dễ dàng thực hiện các thủ tục về thuế. Đây là yếu tố quan trọng để giảm bớt
các chi phí hành chính thuế cũng như tăng cường thu hút vốn đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế.
1.2.4. Tính linh hoạt
Hệ thống thuế phải linh hoạt, tức là có khả năng thích ứng dễ dàng
với những hoàn cảnh kinh tế thay đổi.
Hệ thống thuế phải đảm bảo có khả năng dễ thích ứng với sự thay
đổi của hoàn cảnh kinh tế thì mới phát huy được vai trò điều tiết vĩ mô nền
kinh tế của thuế. Bởi vì Nhà nước ban hành ra chính sách thuế, nhưng
người thực hiện chính sách thuế ấy là các tầng lớp dân cư trong xã hội. Cho
nên khi hoạch định chính sách thuế phải đảm bảo can thiệp ở mức độ, thời
điểm và đối tượng thích hợp mới có thể tạo ra sự ổn định và đáp ứng mục
tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.
2. Hệ thống thuế Việt Nam
2.1. Chính sách thuế
Nhà nước ban hành hệ thống các văn bản pháp luật về thuế (các sắc
thuế) để thực hiện thu thuế đối với các pháp nhân và thể nhân trong nền
kinh tế. Trong mỗi sắc thuế quy định hoàn cảnh phát sinh nghĩa vụ thuế, cơ
sở chịu thuế, cách xác định nghĩa vụ thuế, trường hợp được ưu đãi thuế,
miễn thuế, giảm thuế và ai là người phải nộp thuế vào Ngân sách Nhà
nước. Các quy định này phản ánh nội dung, bản chất, chức năng của từng
sắc thuế, được gọi chung là quy định về chính sách thuế.
Hệ thống chính sách thuế của Việt Nam trải qua nhiều thời kỳ, tuỳ
thuộc vào điều kiện, đặc điểm kinh tế xã hội từng thời kỳ mà chính sách
thuế cũng khác nhau.
Trước năm 1990 hệ thống chính sách thuế bao gồm một số sắc thuế
như: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch; thuế công thương
nghiệp, thuế hàng hóa; thuế nông nghiệp; thu đối với khu vực quốc doanh.
Lúc này, vai trò của thuế hạn chế, đóng góp chưa đáng kể cho nguồn lực
của NSNN và chưa thể hiện rõ vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo môi trường pháp lý
công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các khu vực và thành phần
kinh tế cũng như yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại, từ năm 1990 đến đầu những năm 2000, hệ thống chính
sách thuế của Việt Nam đã trải qua 2 giai đoạn cải cách chủ yếu, theo đó hệ
thống chính sách thuế cho nền kinh tế thị trường đã được ban hành và đưa
vào áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế:
- Trong giai đoạn cải cách thuế bước 1 (1990-1996), hệ thống chính
sách thuế bao gồm:
+ Thuế doanh thu: thay thế chế độ thu quốc doanh (đối với khu vực
kinh tế quốc doanh) và một số loại thuế (trong khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh) như thuế doanh nghiệp, thuế buôn chuyến, thuế muốí.
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt: thay thế thuế hàng hoá.
+ Thuế lợi tức: thay thế chế độ thuế lợi tức kinh doanh (đối với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh) và chế độ phân phối lợi nhuận (đối với kinh
tế quốc doanh).
+ Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
+ Thuế sử dụng đất nông nghiệp: thay thuế nông nghiệp.
+ Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
+ Thuế tài nguyên.
+ Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
+ Thuế nhà đất.
+ Thuế vốn.
- Trong giai đoạn cải cách thuế bước 2 (1996-2000) hệ thống chính
sách thuế bao gồm: Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (thay thế Luật thuế
doanh thu), Luật thuế giá trị gia tăng (thay thế Luật thuế lợi tức), Luật thuế
tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi, bổ sung) và
một số các chính sách thuế khác.
Tuy vậy, cùng với việc kinh tế - xã hội đất nước ngày càng phát triển
và hội nhập sâu, rộng hơn vào nền kinh tế thế giới thì cũng đặt ra yêu cầu
hệ thống thuế Việt Nam cần phải tiếp tục được cải cách. Ngày 06/12/2004,
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 201/QĐ-TTg phê duyệt chương
trình cải cách thuế đến năm 2010. Đây có thể coi là nội dung chủ đạo của
chương trình cải cách thuế bước 3 đến năm 2010, theo đó cần “xây dựng
hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với hiện đại hoá công tác
quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân, đảm
bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động
trong hội nhập kinh tế quốc tế”.
Hệ thống chính sách thuế hiện hành của Việt Nam bao gồm các sắc
thuế sau:
- Thuế giá trị gia tăng.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Thuế tài nguyên.
- Thuế thu nhập cá nhân.
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Thuế nhà, đất.
- Thuế môn bài.
- Các loại phí và lệ phí.
Cùng với quá trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các sắc thuế, Việt
Nam cũng đã thực hiện nhiều thoả thuận và cam kết quốc tế về thuế như:
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, cam kết cắt giảm thuế theo Hiệp định
CEPT/AFTA, cam kết về thuế khi gia nhập WTO…
2.2. Quản lý thuế
2.2.1. Những vấn đề chung về quản lý thuế
Quản lý thuế là hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát của cơ
quan thuế nhằm đảm bảo người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ nộp thuế vào
Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Cùng với việc quy định về chính sách thuế thì pháp luật cũng quy
định cách thức người nộp thuế thực hiện các thủ tục hành chính để chuyển
giao nguồn lực tài chính vào quỹ NSNN, các chế tài xử lý trong trường hợp
không chấp hành nghĩa vụ thuế, trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong quá trình chấp hành chấp hành chính sách thuế…
Các quy định này thuộc phạm vi quản lý thuế.
Trong thời gian trước năm 2007, quy định pháp luật của từng sắc
thuế bao gồm cả quy định về chính sách thuế và quy định về quản lý thuế,
các quy định này đã phát huy được vai trò pháp lý, bảo đảm các khoản thuế
được huy động kịp thời vào NSNN. Tuy nhiên, công tác quản lý thuế cũng
bộc lộ một số tồn tại như: tính pháp lý của các quy định về quản lý thuế
chưa cao dẫn đến hạn chế trong việc tuân thủ pháp luật thuế; các quy định
về quản lý thuế phân tán tại nhiều văn bản pháp luật, một số nội dung còn
chưa thống nhất giữa các luật thuế; thủ tục hành chính thuế ở nhiều khâu
còn rườm rà, nặng tính hình thức gây khó khăn cho người nộp thuế và cơ
quan thuế trong việc chấp hành pháp luật thuế... Thực hiện chiến lược cải
cách hệ thống thuế đến năm 2010 đã được Chính phủ phê duyệt, Luật Quản
lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban hành, hình thành
một hệ thống văn bản pháp quy về quản lý thuế áp dụng thống nhất trong
quá trình thực thi tất cả các sắc thuế, khoản thu, khắc phục được tình trạng
chia cắt, tách biệt về phương thức quản lý giữa các loại thuế, tạo nền tảng
cho việc áp dụng quản lý thuế theo cơ chế người nộp thuế tự kê khai, tự
nộp thuế.
* Nội dung quản lý thuế:
Theo quy định của Luật Quản lý thuế, nội dung quản lý thuế gồm 8
nội dung, có thể phân chia thành 3 nhóm như sau:
- Nhóm 1: Các thủ tục hành chính thuế
Các quy định về thủ tục hành chính thuế nhằm tạo điều kiện cho
người nộp thuế thực hiện việc khai, nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, gồm các
nội dung:
+ Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế.
+ Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế.
+ Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt.
- Nhóm 2: Giám sát tuân thủ
Giám sát việc tuân thủ pháp luật thuế là các công việc mà cơ quan
quản lý thuế thực hiện để giám sát quá trình thực hiện pháp luật thuế của
người nộp thuế, bao gồm các nội dung:
+ Quản lý thông tin về người nộp thuế.
+ Kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
- Nhóm 3: Chế tài xử lý vi phạm
Nhóm chế tài xử lý vi phạm nhằm đảm bảo các chính sách thuế được
thực thi có hiệu lực, hiệu quả, bao gồm các nội dung:
+ Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
+ Xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
* Việc quản lý thuế được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
- Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nộp thuế theo
quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân.
Tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội đều có trách nhiệm tham
gia quản lý thuế.
- Việc quản lý thuế được thực hiện theo quy định của Luật quản lý
thuế và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Việc quản lý thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng;
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.
* Tổ chức quản lý thu thuế theo chức năng:
Thực hiện quản lý thuế theo Luật quản lý thuế, người nộp thuế tự
tính thuế, tự khai thuế và tự nộp tiền thuế vào Ngân sách Nhà nước theo số
thuế đã kê khai và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực,
chính xác của việc kê khai. Cơ quan thuế sẽ không can thiệp vào quá trình
tính thuế, khai thuế, nộp thuế của người nộp thuế nếu người nộp thuế
không vi phạm pháp luật thuế. Theo đó, cơ quan thuế sẽ quản lý thu thuế
theo các chức năng chủ yếu: tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế; xử lý hồ
sơ khai thuế và kế toán thuế; kiểm tra, thanh tra thuế và quản lý thu nợ,
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
- Chức năng tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế:
Để đảm bảo pháp luật thuế đi vào cuộc sống, người nộp thuế thực
hiện đúng nghĩa vụ của mình thì ngoài việc người nộp thuế tự nghiên cứu,
tìm hiểu các quy định của pháp luật thuế thì cơ quan thuế có vai trò rất
quan trọng trong việc phổ biến pháp luật thuế sâu rộng tới người nộp thuế
và hỗ trợ người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình.
Với chức năng này, cơ quan thuế chủ động khảo sát, nắm bắt và tổ
chức các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế sát với yêu cầu, đặc
điểm của từng nhóm người nộp thuế với những nội dung, hình thức phù
hợp và chất lượng tốt đảm bảo đáp ứng được yêu cầu của người nộp thuế
nhanh nhất và đầy đủ nhất, nhằm hỗ trợ tối đa để doanh nghiệp có thể tự
tính thuế, tự kê khai và tự nộp thuế đúng với các quy định của pháp luật
thuế. Qua đó nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế.
Để thực hiện được các công việc trên, ngoài việc cơ quan thuế lựa
chọn và thực hiện các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế phù hợp
thì cũng cần xây dựng và ban hành tài liệu hướng dẫn người nộp thuế trong
việc khai, tính thuế đối với từng sắc thuế, tài liệu hỏi đáp về thuế cung cấp
trực tiếp cho người nộp thuế, nghiên cứu và áp dụng các mô hình tuyên
truyền, hỗ trợ để thực hiện hỗ trợ người nộp thuế thuận lợi nhất như trung
tâm hỗ trợ người nộp thuế trực tiếp, trung tâm hỗ trợ người nộp thuế qua
điện thoại, qua Internet..
- Chức năng xử lý hồ sơ khai thuế và kế toán thuế:
Đây là một nội dung quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc kiểm
soát quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Khi thực hiện
chức năng này, cơ quan thuế đảm bảo:
+ Nhận và xử lý các tờ khai thuế, chứng từ nộp thuế nhanh chóng,
chính xác với sự trợ giúp hiệu quả của công nghệ thông tin, đảm bảo chi
phí nguồn lực thấp nhất, không gây phiền hà cho người nộp thuế.
+ Phát hiện các lỗi kê khai và hướng dẫn người nộp thuế sửa lỗi kịp
thời.
+ Theo dõi tình hình thực hiện kê khai của người nộp thuế và cung
cấp thông tin này cho các khâu quản lý tiếp theo (qua theo dõi được tờ khai
thuế của người nộp thuế từ tờ khai đầu tiên, qua các tờ khai điều chỉnh (nếu
có) đến tờ khai cuối cùng, các lỗi người nộp thuế đã mắc, đánh giá việc
tuân thủ của người nộp thuế ở khâu kê khai, để các khâu quản lý tiếp theo
như hỗ trợ, thu nợ, thanh tra, kiểm tra... có biện pháp xử lý phù hợp như:
hướng dẫn người nộp thuế để tránh các lỗi đã mắc trong kê khai nếu việc
mắc lỗi là do chưa hiểu rõ; hoặc xem xét sửa đổi mẫu tờ khai nếu tờ khai
chưa phù hợp; hoặc đó là một dấu hiệu để xem xét, lựa chọn các trường
hợp thanh tra nếu việc mắc lỗi mang tính lặp đi, lặp lại một cách cố ý).
+ Hạch toán đầy đủ, trung thực, chính xác, kịp thời nghĩa vụ thuế của
người nộp thuế, theo dõi thanh toán thuế, đảm bảo tính đúng nợ thuế của
người nộp thuế theo từng khoản thuế phải nộp nhằm đôn đốc người nộp
thuế nộp thuế đầy đủ, kịp thời vào NSNN.
- Chức năng kiểm tra thuế, thanh tra thuế:
Kiểm tra, thanh tra là một trong những chức năng quan trọng của cơ
quan thuế. Đặc biệt khi thực hiện cơ chế người nộp thuế tự kê khai, tự nộp
thuế thì chức năng kiểm tra, thanh tra thuế càng cần phải được tăng cường.
Mục tiêu của công tác kiểm tra, thanh tra không chỉ nhằm phát hiện các
hành vi gian lận thuế mà còn nhằm đánh giá ý thức tự giác chấp hành pháp
luật thuế của người nộp thuế và đảm bảo nguyên tắc tránh gây phiền hà cho
người nộp thuế thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ thuế.
Cơ quan quản lý thuế sẽ thực hiện kiểm tra, thanh tra thuế trên cơ sở
phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế, đánh giá việc
chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để
xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
- Chức năng quản lý thu nợ và cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính thuế:
Mục tiêu của công tác thu nợ và cưỡng chế thuế là kịp thời phát hiện
và xử lý các đối tượng nộp thuế cố ý chây ỳ, nợ thuế, chiếm đoạt tiền thuế
và các khoản tiền phạt liên quan đến thuế, để đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu
kịp thời các khoản thu vào NSNN, phù hợp với pháp luật thuế.
Cơ quan thuế sẽ thường xuyên theo dõi, đối chiếu nắm chính xác số
thuế nợ của người nộp thuế theo từng loại thuế, mức nợ, tuổi nợ, nguyên
nhân của từng khoản nợ thuế và kết hợp với việc phân tích thông tin về tình
hình sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp để có kế
hoạch, biện pháp thu nợ phù hợp.
Để thực hiện công tác thu nợ có hiệu quả, cơ quan thuế có quyền áp
dụng các biện pháp cưỡng chế nợ thuế, người nộp thuế và các tổ chức, cá
nhân có liên quan phải chấp hành như: trích tiền từ tài khoản của đối tượng
bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế tại Kho bạc Nhà nước,
ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; yêu cầu phong toả tài khoản;
khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập hoặc kê biên tài sản, bán đấu
giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật để thu tiền thuế nợ, tiền phạt
vào ngân sách nhà nước...
* Quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế:
Các quy định về quản lý thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
người nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nhất là khi thực hiện cơ chế
người nộp thuế tự kê khai, tự nộp thuế. Vì vậy, Luật Quản lý thuế quy định
cụ thể các quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế, cụ thể:
- Quyền của người nộp thuế:
+ Được hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin, tài
liệu để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế.
+ Yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích về việc tính thuế, ấn định
thuế; yêu cầu cơ quan, tổ chức giám định số lượng, chất lượng, chủng loại
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Được giữ bí mật thông tin theo quy định của pháp luật.
+ Hưởng các ưu đãi về thuế, hoàn thuế theo quy định của pháp luật
về thuế.
+ Ký hợp đồng với tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế.
+ Nhận văn bản kết luận kiểm tra thuế, thanh tra thuế của cơ quan
quản lý thuế; yêu cầu giải thích nội dung kết luận kiểm tra thuế, thanh tra
thuế; bảo lưu ý kiến trong biên bản kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
+ Được bồi thường thiệt hại do cơ quan quản lý thuế, công chức
quản lý thuế gây ra theo quy định của pháp luật.
+ Yêu cầu cơ quan quản lý thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế của mình.
+ Khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
+ Tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của công chức quản lý thuế
và tổ chức, cá nhân khác.
- Nghĩa vụ của người nộp thuế:
+ Đăng ký thuế, sử dụng mã số thuế theo quy định của pháp luật.
+ Khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng
thời hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực,
đầy đủ của hồ sơ thuế.
+ Nộp tiền thuế đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm.
+ Chấp hành chế độ kế toán, thống kê và quản lý, sử dụng hoá đơn,
chứng từ theo quy định của pháp luật.
+ Ghi chép chính xác, trung thực, đầy đủ những hoạt động phát sinh
nghĩa vụ thuế, khấu trừ thuế và giao dịch phải kê khai thông tin về thuế.
+ Lập và giao hoá đơn, chứng từ cho người mua theo đúng số lượng,
chủng loại, giá trị thực thanh toán khi bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ theo
quy định của pháp luật.
+ Cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan
đến việc xác định nghĩa vụ thuế, số hiệu và nội dung giao dịch của tài
khoản mở tại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; giải thích việc
tính thuế, khai thuế, nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế.
+ Chấp hành quyết định, thông báo, yêu cầu của cơ quan quản lý
thuế, công chức quản lý thuế theo quy định của pháp luật.
+ Chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp
luật trong trường hợp người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy
quyền thay mặt người nộp thuế thực hiện thủ tục về thuế sai quy định.
* Trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý thuế:
- Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế:
+ Tổ chức thực hiện thu thuế theo quy định của pháp luật.
+ Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật về thuế; công khai
các thủ tục về thuế.
+ Giải thích, cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ
thuế cho người nộp thuế; công khai mức thuế phải nộp của hộ gia đình, cá
nhân kinh doanh trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
+ Giữ bí mật thông tin của người nộp thuế theo quy định của Luật
Quản lý thuế.
+ Thực hiện việc miễn thuế, giảm thuế, xoá nợ tiền thuế, xóa nợ tiền
phạt, hoàn thuế theo theo quy định của Luật Quản lý thuế và các quy định
khác của pháp luật về thuế.
+ Xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế khi có
đề nghị theo quy định của pháp luật.
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc thực hiện pháp luật
về thuế theo thẩm quyền.
+ Giao kết luận, biên bản kiểm tra thuế, thanh tra thuế cho đối tượng
kiểm tra thuế, thanh tra thuế và giải thích khi có yêu cầu.
+ Bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế theo quy định của Luật
Quản lý thuế.
+ Giám định để xác định số thuế phải nộp của người nộp thuế theo
yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Quyền hạn của cơ quan quản lý thuế:
+ Yêu cầu người nộp thuế cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến
việc xác định nghĩa vụ thuế, số hiệu, nội dung giao dịch của các tài khoản
được mở tại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác và giải thích việc
tính thuế, khai thuế, nộp thuế.
+ Yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu
liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế và phối hợp với cơ quan quản lý
thuế để thực hiện pháp luật về thuế.
+ Kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
+ Ấn định thuế.
+ Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về thuế.
+ Xử phạt vi phạm pháp luật về thuế theo thẩm quyền; công khai
trên phương tiện thông tin đại chúng các trường hợp vi phạm pháp luật về
thuế.
+ Áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm pháp
luật về thuế theo quy định của pháp luật.
+ Ủy nhiệm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thu một số loại thuế vào
ngân sách nhà nước theo quy định của Chính phủ.
* Trách nhiệm và quyền hạn của các tổ chức, cá nhân có liên quan
- Trách nhiệm của Bộ Tài chính trong quản lý thuế:
+ Thực hiện quản lý nhà nước về thuế theo quy định của pháp luật.
+ Chỉ đạo thực hiện quản lý thuế theo quy định của Luật này.
+ Chỉ đạo lập và thực hiện dự toán thu ngân sách nhà nước.
+ Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về thuế.
+ Xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc
thực hiện pháp luật về thuế theo thẩm quyền.
- Trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp
trong việc quản lý thuế:
+ Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình quyết định nhiệm vụ thu ngân sách hằng năm và giám sát việc
thực hiện pháp luật về thuế.
+ Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm: chỉ đạo các cơ quan có liên quan tại địa phương phối
hợp với cơ quan quản lý thuế lập dự toán thu ngân sách nhà nước và tổ
chức thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, kiểm tra việc
thực hiện pháp luật về thuế và xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo
liên quan đến việc thực hiện pháp luật về thuế theo thẩm quyền.
- Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn:
Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn do Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thành lập theo đề
nghị của Chi cục trưởng Chi cục thuế quản lý thuế tại địa bàn xã, phường,
thị trấn, có nhiệm vụ tư vấn cho cơ quan thuế về mức thuế của các hộ, gia
đình, cá nhân kinh doanh trên địa bàn, bảo đảm đúng pháp luật, dân chủ,
công khai, công bằng, hợp lý.
- Trách nhiệm của các cơ quan khác của Nhà nước trong việc quản
lý thuế:
+ Các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về thuế; phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong
việc quản lý thuế; tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế thực hiện
nghĩa vụ thuế.
+ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp
thời, nghiêm minh tội phạm vi phạm pháp luật về thuế theo quy định của
pháp luật và thông báo tiến độ, kết quả xử lý vụ việc cho cơ quan quản lý
thuế.
- Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong việc
tham gia quản lý thuế:
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận
tổ chức động viên nhân dân, giáo dục hội viên nghiêm chỉnh thi hành pháp
luật về thuế; phê phán các hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
+ Tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong việc tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thuế đến các hội viên.
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt
trận, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong việc cung cấp thông
tin liên quan đến việc quản lý thuế.
- Trách nhiệm của cơ quan thông tin, báo chí trong việc quản lý
thuế:
+ Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về thuế.
+ Nêu gương tổ chức, cá nhân thực hiện tốt pháp luật về thuế.
+ Phản ánh và phê phán các hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
- Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khác trong việc tham gia quản lý
thuế:
+ Cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế theo
đề nghị của cơ quan quản lý thuế.
+ Phối hợp thực hiện các quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
+ Tố giác các hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
+ Yêu cầu người bán hàng, người cung cấp dịch vụ phải giao hoá
đơn, chứng từ bán hàng hoá, dịch vụ đúng số lượng, chủng loại, giá trị thực
thanh toán khi mua hàng hoá, dịch vụ.
2.2.2. Cơ quan quản lý thuế
a. Cơ cấu tổ chức
Tổng cục Thuế là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức
năng quản lý nhà nước đối với các khoản thu nội địa, bao gồm: thuế, phí, lệ
phí và các khoản thu khác của Ngân sách nhà nước (gọi chung là thuế); tổ
chức thực hiện quản lý thuế theo quy định của pháp luật. Riêng việc thực
hiện các khoản thu đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu ở cửa khẩu do
cơ quan hải quan quản lý.
Tổng cục Thuế được tổ chức quản lý tập trung, thống nhất thành hệ
thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, theo đơn vị hành chính. Ở
Trung ương có Tổng cục Thuế; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
Cục Thuế trực thuộc Tổng cục Thuế; ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh có Chi cục Thuế trực thuộc Cục Thuế tỉnh.
b. Trách nhiệm, quyền hạn của Tổng cục Thuế
- Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính:
+ Chiến lược phát triển, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm và
hàng năm của ngành thuế.
+ Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về quản lý thuế; đề xuất,
tham gia việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật
về thuế.
+ Dự toán thu thuế hàng năm theo quy định của Luật Ngân sách Nhà
nước.
+ Các Điều ước quốc tế, các Hiệp định song phương, đa phương về
thuế.
- Tổ chức thực hiện công tác quản lý thuế theo quy định của pháp
luật; dự toán thu thuế hàng năm; chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
của ngành thuế sau khi được phê duyệt.
- Quản lý thông tin về người nộp thuế; xây dựng hệ thống dữ liệu
thông tin về người nộp thuế.
- Thực hiện nhiệm vụ cải cách hệ thống thuế theo mục tiêu nâng cao
chất lượng hoạt động, công khai hóa thủ tục, cải tiến quy trình nghiệp vụ
quản lý thuế và cung cấp thông tin để tạo thuận lợi phục vụ cho người nộp
thuế thực hiện chính sách, pháp luật về thuế.
- Tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích
chính sách thuế của Nhà nước.
- Tổ chức thực hiện công tác hỗ trợ người nộp thuế thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện quy
trình nghiệp vụ về đăng ký thuế, cấp mã số thuế, kê khai thuế, tính thuế,
nộp thuế, hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; quy
trình nghiệp vụ về kế toán thuế và các nghiệp vụ khác có liên quan.
- Soạn thảo, đàm phán các Điều ước quốc tế, các Hiệp định song
phương hoặc đa phương về thuế theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Tài
chính; tổ chức thực hiện các Điều ước, các Hiệp định, các dự án, các hoạt
động hợp tác quốc tế về thuế theo quy định của pháp luật; tham gia các tổ
chức quốc tế về thuế.
- Thẩm định trình cấp có thẩm quyền quyết định hoặc quyết định
theo thẩm quyền việc miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế; gia hạn thời hạn
nộp hồ sơ khai thuế, gia hạn thời hạn nộp thuế, xoá tiền nợ thuế, tiền phạt.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách, pháp luật thuế đối
với người nộp thuế, các tổ chức, cá nhân được ủy nhiệm thu thuế; giải
quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc thực hiện pháp luật về thuế theo
thẩm quyền.
- Kiểm tra việc chấp hành trách nhiệm công vụ của cơ quan thuế, của
công chức thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc chấp hành
nhiệm vụ, công vụ của cơ quan thuế, công chức thuế.
- Bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế; giữ bí mật thông tin của
người nộp thuế; xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế
khi có đề nghị theo quy định của pháp luật.
- Giám định để xác định số thuế phải nộp của người nộp thuế theo
yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Được quyền yêu cầu người nộp thuế cung cấp sổ kế toán, hoá đơn,
chứng từ và hồ sơ tài liệu khác có liên quan đến việc tính thuế, nộp thuế;
được yêu cầu tổ chức tín dụng, các tổ chức, cá nhân khác có liên quan cung
cấp tài liệu và phối hợp với cơ quan thuế trong công tác quản lý thuế.
- Quyết định việc ủy nhiệm cho các cơ quan, tổ chức trực tiếp thu
một số khoản thuế theo quy định của pháp luật.
- Được quyền ấn định thuế, xử lý vi phạm hành chính về thuế, truy
thu thuế; thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế để thu tiền thuế nợ, tiền phạt vi phạm hành chính thuế.
- Lập hồ sơ đề nghị khởi tố các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật
về thuế; thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng các
trường hợp vi phạm pháp luật thuế.
- Tổ chức thực hiện công tác thống kê thuế và chế độ báo cáo tài
chính theo quy định; quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động
của ngành thuế; hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành thuế.
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức,
lao động trong hệ thống tổ chức ngành thuế.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức thuế theo
phân cấp quản lý của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Quản lý, lưu giữ hồ sơ, tài liệu, ấn chỉ thuế và kinh phí, tài sản
được giao theo quy định của pháp luật; thực hiện cơ chế khoán kinh phí do
Thủ tướng Chính phủ quy định.
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Tài
chính giao theo quy định của pháp luật.
c. Trách nhiệm, quyền hạn của Cục Thuế
Cục Thuế thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo quy định
của Luật Quản lý thuế, các luật thuế, các quy định pháp luật có liên quan
khác và những nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể sau đây:
- Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn và triển khai thực hiện thống nhất các
văn bản quy phạm pháp luật về thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế trên
địa bàn tỉnh, thành phố.
- Phân tích, tổng hợp, đánh giá công tác quản lý thuế; tham mưu với
cấp uỷ, chính quyền địa phương về lập dự toán thu ngân sách Nhà nước, về
công tác quản lý thuế trên địa bàn; phối hợp chặt chẽ với các ngành, cơ
quan, đơn vị liên quan để thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Quản lý thông tin về người nộp thuế; xây dựng hệ thống dữ liệu
thông tin về người nộp thuế.
- Thực hiện nhiệm vụ cải cách hệ thống thuế theo mục tiêu nâng cao
chất lượng hoạt động, công khai hoá thủ tục, cải tiến quy trình nghiệp vụ
quản lý thuế và cung cấp thông tin để tạo thuận lợi phục vụ cho người nộp
thuế thực hiện chính sách, pháp luật về thuế.
- Tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích
chính sách thuế của Nhà nước trên địa bàn tỉnh, thành phố.
- Tổ chức thực hiện công tác hỗ trợ người nộp thuế trên địa bàn thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật.
- Tổ chức thực hiện dự toán thu thuế hàng năm được giao, các biện
pháp nghiệp vụ quản lý thuế; trực tiếp thực hiện việc quản lý thuế đối với
người nộp thuế thuộc phạm vi quản lý của Cục Thuế theo quy định của
pháp luật và các quy định, quy trình, biện pháp nghiệp vụ của Bộ Tài
chính, Tổng cục Thuế.
- Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra các Chi cục Thuế trong việc tổ chức
triển khai nhiệm vụ quản lý thuế.
- Trực tiếp thanh tra thuế, kiểm tra, giám sát việc kê khai thuế, hoàn
thuế, miễn, giảm thuế, nộp thuế, quyết toán thuế và chấp hành chính sách,
pháp luật về thuế đối với người nộp thuế; tổ chức và cá nhân quản lý thu
thuế; tổ chức được uỷ nhiệm thu thuế thuộc thẩm quyền quản lý của Cục
trưởng Cục Thuế.
- Tổ chức thực hiện kiểm tra việc chấp hành nhiệm vụ, công vụ của
cơ quan thuế, của công chức thuế thuộc thẩm quyền quản lý của Cục
trưởng Cục Thuế.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế, khiếu nại, tố cáo liên quan đến
việc chấp hành trách nhiệm công vụ của cơ quan thuế, công chức thuế
thuộc quyền quản lý của Cục trưởng Cục thuế theo quy định của pháp luật;
Xử lý vi phạm hành chính về thuế, lập hồ sơ đề nghị cơ quan có thẩm
quyền khởi tố các tổ chức, cá nhân vi phạm nghiêm trọng pháp luật thuế.
- Tổ chức thực hiện thống kê, kế toán thuế, quản lý biên lai, ấn chỉ
thuế; lập báo cáo về tình hình kết quả thu thuế và báo cáo khác phục vụ cho
việc chỉ đạo, điều hành của cơ quan cấp trên, của Uỷ ban nhân dân đồng
cấp và các cơ quan có liên quan; tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả
công tác của Cục Thuế.
- Kiến nghị với Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế những vấn đề
vướng mắc cần sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về thuế,
các quy định của Tổng cục Thuế về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý nội
bộ; kịp thời báo cáo với Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế về những vướng
mắc phát sinh, những vấn đề vượt quá thẩm quyền giải quyết của Cục
Thuế.
- Quyết định hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định miễn, giảm,
hoàn thuế, gia hạn thời hạn khai thuế, gia hạn thời hạn nộp tiền thuế, truy
thu tiền thuế, xoá nợ tiền thuế, miễn xử phạt tiền thuế theo quy định của
pháp luật;
- Được quyền yêu cầu người nộp thuế, các cơ quan Nhà nước, các
tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết cho
việc quản lý thu thuế; đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các tổ chức, cá
nhân không thực hiện trách nhiệm trong việc phối hợp với cơ quan thuế để
thu thuế vào ngân sách Nhà nước.
- Được quyền ấn định thuế, thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi
hành quyết định hành chính thuế theo qui định của pháp luật; được quyền
thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng đối với người nộp thuế
vi phạm pháp luật thuế.
- Bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế; giữ bí mật thông tin của
người nộp thuế; xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế
khi có đề nghị theo quy định của pháp luật thuộc phạm vi quản lý của Cục
Thuế.
- Giám định để xác định số thuế phải nộp của người nộp thuế theo
yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Tổ chức tiếp nhận và triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ thông tin và phương pháp quản lý hiện đại vào các hoạt động của Cục
Thuế.
- Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức,
lao động của Cục Thuế; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức,
viên chức của Cục Thuế theo quy định của nhà nước và của ngành.
- Quản lý, lưu giữ hồ sơ, tài liệu, ấn chỉ thuế và kinh phí, tài sản
được giao theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác được giao.
d. Trách nhiệm, quyền hạn của Chi cục Thuế
Chi cục Thuế thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo qui
định của Luật Quản lý thuế, các luật thuế, các qui định pháp luật khác có
liên quan và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
- Tổ chức triển khai thực hiện thống nhất các văn bản qui phạm pháp
luật về thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế trên địa bàn.
- Tổ chức thực hiện dự toán thu thuế hàng năm; phân tích, đánh giá
công tác quản lý thuế, tham mưu với cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương
về lập và thực hiện dự toán thu ngân sách nhà nước; phối hợp với các cơ
quan, đơn vị trên địa bàn để thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý thuế đối với người nộp thuế
thuộc phạm vi quản lý của Chi cục Thuế: đăng ký thuế, cấp mã số thuế, xử
lý hồ sơ khai thuế, tính thuế, nộp thuế, miễn thuế, giảm thuế, xoá nợ thuế,
tiền phạt, lập sổ thuế, thông báo thuế, phát hành các lệnh thu thuế và thu
khác theo qui định của pháp luật thuế; đôn đốc người nộp thuế thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ, kịp thời vào ngân sách nhà nước...
- Quản lý thông tin về người nộp thuế; xây dựng hệ thống dữ liệu
thông tin về người nộp thuế trên địa bàn.
- Thực hiện công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích chính sách
thuế, hỗ trợ người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của
pháp luật.
- Kiểm tra việc kê khai thuế, hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế, nộp
thuế, quyết toán thuế và chấp hành chính sách, pháp luật thuế đối với
người nộp thuế và các tổ chức, cá nhân được uỷ nhiệm thu thuế; xử lý và
kiến nghị xử lý đối với trường hợp vi phạm pháp luật thuế; giải quyết các
khiếu nại, tố cáo về thuế theo thẩm quyền.
- Kiểm tra việc chấp hành trách nhiệm công vụ của công chức thuế;
giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc chấp hành nhiệm vụ, công
vụ công chức thuế.
- Kiến nghị với cơ quan thuế cấp trên những vấn đề vướng mắc cần
sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật thuế, các quy trình, quy
định của cơ quan thuế cấp trên. Báo cáo Cục thuế những vướng mắc phát
sinh vượt quá thẩm quyền giải quyết của Chi cục Thuế.
- Tổ chức thực hiện công tác kế toán thuế, thống kê thuế; lập các báo
cáo kết quả thu thuế và các báo cáo khác phục vụ cho công tác chỉ đạo,
điều hành của cơ quan Thuế cấp trên, Ủy ban nhân dân đồng cấp và các cơ
quan có liên quan; tổng kết đánh giá tình hình và kết quả công tác của Chi
cục Thuế.
- Lập hồ sơ đề nghị khởi tố các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật
thuế; thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng đối với
người nộp thuế vi phạm nghiêm trọng pháp luật về thuế.
- Được quyền ấn định thuế, xử lý vi phạm hành chính về thuế, truy
thu thuế; thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính
thuế để thu tiền thuế nợ, tiền phạt vi phạm hành chính thuế.
- Quyết định hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định miễn thuế,
giảm thuế, hoàn thuế, truy thu thuế, gia hạn thời hạn nộp hồ sơ khai thuế,
gia hạn thời hạn nộp thuế, khoanh nợ, giãn nợ, xoá tiền nợ thuế, tiền phạt
theo quy định của pháp luật.
- Được quyền yêu cầu người nộp thuế cung cấp sổ kế toán, hoá đơn,
chứng từ và hồ sơ tài liệu khác có liên quan đến việc tính thuế, nộp thuế;
được yêu cầu tổ chức tín dụng, các tổ chức, cá nhân khác có liên quan cung
cấp tài liệu và phối hợp với cơ quan thuế trong công tác quản lý thuế.
- Đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các tổ chức, cá nhân không
thực hiện trách nhiệm phối hợp với cơ quan thuế trong công tác quản lý
thuế để thu tiền thuế vào ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế; giữ bí mật thông tin của
người nộp thuế; xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế
khi có đề nghị theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức tiếp nhận và triển khai các ứng dụng tiến bộ khoa học,
công nghệ thông tin và phương pháp quản lý thuế hiện đại vào các hoạt
động của Chi cục Thuế.
- Quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thuế thuộc
Chi cục Thuế; quản lý, lưu giữ hồ sơ, tài liệu, ấn chỉ thuế và kinh phí, tài
sản được giao theo quy định.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác được giao.

You might also like