You are on page 1of 10

Thu hoạch diễn án dân sự lần 1-Hồ sơ 003

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN DÂN SỰ LẦN 4 - HỒ SƠ LAO ĐỘNG 01


I. Tóm tắt vụ án :
Nguyên đơn: Phạm Xuân Dương, Cán bộ giám sát, trưởng Ban quản lý dự
án chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp (ASPS-NMU) – Bộ NN và Phát triển
nông thôn.
Mang CMTND số: 011651891, do công an Hà Nội cấp ngày 19/9/1989
Hộ khẩu thường trú: số 22 Nguyễn Thái Học – Ba Đình – Hà Nội
Điện thoại: 0912570592
Bị đơn: Ban quản lý các dự án Nông nghiệp – Bộ NN và Phát triển nông
thôn.
Địa chỉ: số 2 Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội. Đại diện bị đơn:
+ Ông Dương Văn Xanh, Trưởng ban Quản lý các dự án Nông nghiệp – Bộ
(NN&PTNT)
+ Ông Nguyễn Thế Hinh, Điều phối viên quốc gia Dự án chương trình hỗ
trợ ngành nông nghiệp (ASPS);
+ Ông Ole Sparre Perdersen, cố vấn dự án chương trình Hỗ trợ ngành nông
nghiệp (ASPS).

II. Nội dung vụ việc:


Ban quản lý quốc gia (National Management Unit, “NMU”) của dự án Chương
trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp – (Agricultural Sector Programe Support,
“ASPS”) là một đơn vị trực thuộc của Ban quản lý các dự án Nông Nghiệp, hoạt
động dựa trên Hiệp định ký kết giữa hai nước Việt Nam và Đan Mạch
- Ngày 15/12/2004 ông Phạm Xuân Dương và Ban quản lý các dự án Nông
nghiệp – Bộ NN và Phát triển nông thôn đã ký kết HDLD với nội dung:
BALCDANN đồng ý nhận vào làm việc tại Ban quản lý quốc gia (National
Management Unit, sau đây gọi tắt là “NMU”) của dự án Chương trình hỗ trợ
ngành Nông nghiệp – (Agricultural Sector Programe Support, sau đây gọi tắt là
“ASPS”) thuộc BQLCDANN với vị trí là cán bộ giám sát trưởng của Chương
trình.
Theo nội dung của Hợp đồng ông Phạm Xuân Dương bắt đầu thực hiện công
việc chính thức từ ngày 15/12/2004 tại trụ sở Văn phòng của NMU tại số 2 Ngọc
Hà – Ba Đình – Hà Nội.

Dương Thị Mai Hoa – C-8.1


Thu hoạch diễn án dân sự lần 4- Hồ sơ lao động 01
Đến ngày 30/8/2005, BQLCDANN đã ủy quyền cho ông Nguyễn Thế Hinh,
điều phối viên quốc gia và ông Ole Sparre Perdersen, cố vấn trưởng Chương trình
người nước ngoài (Người của dự án) ra thông báo đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động đối với ông Phạm Xuân Dương kể từ ngày 30/9/2005 với lý do kết
quả làm việc của ông Phạm Xuân Dương không đáp ứng được các điều kiện công
việc được giao
Trong thưòi gian từ ngày 30/8/2005 kể từ khi thông báo được ban hành, ông
Phạm Xuân Dương đã nhiều lần có đơn thư và điện thoại trực tiếp xin ý kiến với
lãnh đạo BQLCDANN nhằm yêu cầu can thiệp và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
mình, có văn bản yêu cầu Ban chấp hành công đoàn can thiệp và bảo vệ quyền lợi
người lao động nhưng cũng không được đáp lại.
Ngày 20/9/2005 ông Phạm Xuân Dương đã ủy quyền chính thức cho luật sư
để đàm phán, hòa giải với phía đại diện người sử dụng lao động (lãnh đạo
BQLCDANN) nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Phạm Xuân
Dương nhưng không đạt kết quả
Ngày 20/11/2005, ông Phạm Xuân Dương đã làm đơn khởi kiên ra toà án
yêu cầu BQLCDANN tiến hành bồi thường và thanh toán những khoản như sau:
- Về khoản tiền trợ cấp mất việc làm:
+ Yêu cầu BQLCDANN tiến hành thanh toán tiền trợ cấp mất việc làm tính
kể từ thời điểm mất việc làm (thời điểm thông báo) cho tới thời điểm kết thúc hợp
đồng lao động (từ ngày 31/8/2005 đến 15/12/2005 là 3,5 tháng. Cụ thể như sau:
lương và các khoản phụ cấp (theo hợp đồng lao động) 650USD/tháng * 15.901 (tỷ
giá) * 3,5 tháng = 36.174.775 đồng.
+ Cùng với một khoản tiền tương đương với 02 tháng lương: 650USD/tháng
* 15.901 (tỷ giá) * 2 tháng = 20.671.300 đồng.
+ Tổng cộng số tiền trợ cấp mất việc làm là: 36.174.775 đồng + 20.671.300
đồng = 56.846.075 đồng.
- Về khoản bồi thường thiệt hại: Đề nghị BQLCDANN tiến hành bồi thường
cho tôi khoản tiền tương đương với 05 tháng lương do vi phạm nghĩa vụ báo
trước và các chi phí cơ hội khác để tìm việc làm mới: 650USD/tháng * 15.901 (tỷ
giá) * 5 tháng = 51.678.250 đồng.
Tổng số tiền mà phía BQLCDANN phải thanh toán là: 56.846.075 đồng +
51.678.250 đồng = 108.524.000 đồng .
Về phía ASPS cho rằng, ASPS chưa ban hành Quyết định đơn phương
chấm dứt hợp đồng với ông Dương mà chỉ là bản thông báo trước và vẫn nhiều

Nguyễn Thị Huệ – C-8.1


Thu hoạch diễn án dân sự lần 4- Hồ sơ lao động 01
lần yêu cầu ông Dương đi làm trong thời điểm từ ngày 1/9 – 30/9/2005, nhưng
ông Dương đã tự ý nghỉ việc, không bàn giao lại tài sản và công việc. ASPS yêu
cầu ông Dương phải bồi thường như sau :
+ ASPS-NMU không có cán bộ giám trong suốt thời gian từ tháng 9/2005
đến tháng 12/2005 do không thể bàn bạc đi đến chấm dứt hợp đồng lao động với
ông Dương, điều này dẫn đến lãnh đạo của Dự án phải làm thêm công tác giám
sát, thiệt hại tối thiểu là 650USD* 4 tháng = 2.600USD
+ Ông Dương chưa chịu bàn giao tài liệu, tài sản của ASPS-NMU dẫn đên
Lãnh đạo của dự án phải dò dẫm truy lại tất cả các số liệu, tài liệu trong suốt 8
tháng làm việc của ông Dương mất rất nhiều công sức và thời gian. Thiệt hại tối
thiểu là 650USD* 8 tháng = 5.200USD
+Tổng cộng ông Dương đã gây thiệt hại cho ASPS-NMU tối thiểu là 7.800
USD. Tổng này chưa kể các thiệt hại về uy tín khác do ông Dương gây ra cho
ASPS-NMU
II. KẾ HOẠCH HỎI CỦA LUẬT SƯ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA NGUYÊN ĐƠN
 Câu hỏi đối với nguyên đơn: Phạm Xuân Dương:
1. Trong thời gian làm việc tại dự án, anh đã bị lãnh đạo nhắc nhở lần nào về
ý thức làm viêch cũng như hiệu quả công việc chưa?
2. Kể từ ngày 30/8/2005 anh có đến cơ quan làm việc bình thường không
3. Khi nhận được thông báo cho nghỉ việc, anh đã làm gì?
4. Anh nói răng anh ký vào 02 bản họp đồng lao động đúng không?
5. Ai là người cung cấp bản thông bao cho nghỉ việc của dự an cho anh
 Câu hỏi đối với bị đơn:
1. BQL dự án nói rằng không chấm dứt họp đồng lao động đối với ông
Dương, vậy Ban giải thích như thế nào về bản thông báo cho nghỉ việc của
Ban mà ông Dương có được? `
2. BQLDA giải thích như thế nào về việc các biên bản hop của ban nêu về ý
thức kỷ luật lao động của ông Dương mà vẫn không công nhận bảng thông
báo chấm dứt HĐLĐ là văn bản chính thức.
3. Trong văn bản chấm dứt hợp đồng lao động, Người ký vào văn bản có phải
là Ông Ole Sparre Perdersen, cố vấn dự án chương trình Hỗ trợ ngành nông
nghiệp và ông Nguyễn Thế Hinh, Điều phối viên quốc gia Dự án chương
trình hỗ trợ ngành nông nghiệp (ASPS) hay không

Nguyễn Thị Huệ – C-8.1


Thu hoạch diễn án dân sự lần 4- Hồ sơ lao động 01
III. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
LUẬT SƯ CHO NGUYÊN ĐƠN
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Tôi là Nguyễn Thị Huệ - Luật sư thuộc Văn Phòng Luật sư H- Đoàn Luật Sư
Hà Nội được anh Phạm Xuân Dương sinh năm 1972, Hộ khẩu thường trú: số 22
Nguyễn Thái Học – Ba Đình – Hà Nội mời làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp. Tôi có mặt tại phiên toà hôm nay để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp cho thân chủ mình.
Thưa Hội đồng xét xử,
Căn cứ hợp đồng lao động giữa ban quản lý dự án và thân chủ của tôi, tôi
có thể khẳng định thân chủ của tôi đã kiện đúng đối tượng và yêu cầu Ban quản lý
các dự án bởi thực hiện đền bù về vật chất và tinh thần cho thân chủ tôi bởi các lý
do sau:
Ngày 01/12/2004, Thân chủ tôi, ông Phạm Xuân Dương và Ban quản lý
quốc gia dự án Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp (Gọi tắt là ASPS – NMU)
mà đại diện lúc bấy giờ là Ông Dương Văn Xanh – Trưởng ban quản lý các dự án
Nông nghiệp kiêm Điều phối viên quốc gia của Chương trình đã ký hợp đồng lao
động có thời hạn là 1năm, có khả năng kéo dài thêm. Trong quá trình thực hiện
HĐLĐ từ 15/12/2005 đến ngày 30/8/2005, BQLCDANN đã ủy quyền cho cấp
dưới của mình là ông Nguyễn Thế Hinh, điều phối viên quốc gia và ông Ole
Sparre Perdersen, Cố vấn trưởng Chương trình người nước ngoài (Người của dự
án) ra văn bản một cách đột ngột thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động đối với ông Dương với nội dung và lý do hết sức đơn giản rằng năng lực và
trình độ của ông Dương không đáp ứng được các điều kiện công việc được giao.
Trong suốt thời gian một tháng kể từ khi nhận được thông báo của
BQLDA, thân chủ tôi đã nhiều lần có đơn thư và điện thoại trực tiếp xin ý kiến
với lãnh đạo BQLDA nhằm yêu cầu can thiệp và bảo vệ quyền và lợi hợp pháp
của thân chủ tôi, thậm chí thân chủ tôi cũng có văn bản yêu cầu Ban chấp hành
công đoàn can thiệp và bảo vệ quyền lợi người lao động nhưng cũng không được
đáp lại
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Về việc chứng minh bản thông báo của ASPS đối với ông Phạm Xuân
Dương thông báo chấm dứt hợp đồng lao động chính là Quyết định đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động với ông Dương, bởi vì :

Nguyễn Thị Huệ – C-8.1


Thu hoạch diễn án dân sự lần 4- Hồ sơ lao động 01
- Thư nhất : ASPS và thân chủ của tôi đã thỏa thuận ra các điều khoản của
Hợp đồng thuê dịch vụ lao động trong thời hạn cố định dựa trên cơ sở tự
nguyện và được sự đồng ý nhất trí của hai bên. Căn cứ khoản 9 Hợp đồng
thuê dịch vụ lao động trong thời hạn cố định với ASPS – NMU tại Hà Nội
ngày 1/12/2004: “Ông hoặc ASPS – NMU có thể hủy bỏ HD này bất kỳ
lúc nào bằng văn bản thông báo cho phía bên kia trước 30 ngày hoặc
hoàn trả một tháng lương cơ bản thay cho thông báo đó”, ASPS – NMU
đã thỏa thuận với thân chủ tôi về việc Hủy bỏ Hợp đồng này bất kỳ lúc
nào bằng: “Văn bản thông báo cho phía bên kia”, như vậy, hai bên có thể
hiểu rằng, khi một trong hai bên hủy bỏ Hợp đồng thuê dịch vụ lao động
sẽ gửi cho bên kia một văn bản thông báo về việc chấm dứt hợp đồng..
- Thứ 2 : Trong thông báo có nêu rõ “sẽ chấm dứt hợp đồng là ngày
30/09/2005, có nghĩa là 30 ngày kể từ ngày hôm nay, 30 tháng 8 năm
2005”, như vậy, trong Bản thông báo đã ấn định rõ thời gian chấm dứt
hợp đồng và thời hạn báo trước cho thân chủ tôi là 30 ngày theo đúng quy
định tại Điều 9 trong Hợp đồng và thời hạn báo trước theo quy định tại
Điểm b, khoản 3 Điều 38 Bộ Luật Lao động.
Qua sự phân tích trên, căn cứ vào Điều 9 Hợp đồng dịch vụ thuê lao động
ngày 1/12/2004 và điểm b, khoản 3 Điều 38 Bộ Luật Lao động có thể kết luận
rằng bản thông báo của ASPS ngày 30/08/2005 là một văn bản thông báo đơn
phương chấm dứt hợp đồng có hiệu lực theo đúng thỏa thuận của hai bên trong
Hợp đồng ngày 01/12/2004. Và đó chính là một Quyết định đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động trước thời hạn có hiệu lực của ASPS đối với anh Dương.
Thân chủ tôi là anh Phạm Xuân Dương là một người có trình độ chuyên
môn cao, anh Dương đã tham gia đợt tuyển dụng công khai của Ban quản lý dự
án, người trực tiếp phỏng vấn và tuyển dụng anh Dương là ông Dương Văn Xanh
– Trưởng ban quản lý các dự án nông nghiệp kiêm điều phối viên quốc gia
chương trình ASPS. Sau khi được nhận, anh Dương đã phải trải qua hai tháng thử
việc tại ASPS để chứng tỏ năng lực và trình độ chuyên môn của mình và bản hợp
đồng vào ngày 1/12/2004 đã chứng tỏ được thân chủ tôi là hoàn toàn đáp ứng
được yêu cầu của công việc và tiêu chuẩn mà Ban lãnh đạo của Ban quản lý đề ra.
Việc Ban quản lý lấy lí do thân chủ tôi không đáp ứng được yêu cầu công việc
của ASPS là hoàn toàn không có căn cứ.

Nguyễn Thị Huệ – C-8.1


Thu hoạch diễn án dân sự lần 4- Hồ sơ lao động 01
Ông Nguyễn Văn Hinh và ông Ole Sparre Perdersen có trình bày đã nhiều
lần nhắc nhở nhưng anh Dương không sửa chữa nhưng không có bất kỳ một văn
bản nào chứng minh cho những lần nhắc nhở và khiển trách đó.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 36 Bộ Luật Lao động và Khoản 1, Điều 12
Nghị định 44/2003/ND – CP hướng dẫn chi tiết một số điều của Bộ luật lao động
về Hợp đồng lao động: “ Người lao động thường xuyên không hoàn thành công
việc theo hợp đồng lao động là không hoàn thành định mức lao động hoặc nhiệm
vụ được giao do yếu tố chủ quan và bị lập biên bản hoặc nhắc nhở bằng văn bản
ít nhất hai lần trong một tháng, mà sau đó không khắc phục”. Nhưng trong thời
gian làm việc là 8 tháng tại ASPS, Anh Dương chưa chịu bất cứ một biện pháp xử
lý kỷ luật nào, và cũng không có bất cứ một văn bản nhắc nhở hoặc biên bản nào
được lập thể hiện việc thân chủ tôi thường xuyên không hoàn thành công việc
theo hợp đồng lao động. Do đó, việc Hợp đồng lao động của anh Dương bị chấm
dứt trước thời hạn với lý do không hoàn thành công việc là không xác đáng.
Như vậy, căn cứ vào Điều 9 Hợp đồng dịch vụ thuê lao động ngày 1/12/2004
và điểm b, khoản 3 Điều 38 Bộ Luật Lao động, khoản 1, 3 Điều 38 Bộ Luật Lao
động và khoản 1 Điều 12 Nghị định 44/2003/ND – CP hướng dẫn chi tiết một số
điều của Bộ luật lao động, ASPS đã ra một Quyết định đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động với lý do không chính đáng đối với anh Phạm Xuân Dương, vi
phạm về căn cứ ra Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Sau khi nhận được thông báo ngày 30/8/2005 về việc chấm dứt hợp đồng
của ASPS đối với mình, thân chủ tôi vừa đi làm vừa gửi đơn kiến nghị lên các cơ
quan có thẩm quyền cấp trên để được giúp đỡ. Kể từ ngày 01/09/2005, anh
Dương vẫn tiến hành đi làm bình thường, thực hiện công việc giám sát trưởng,
đến ngày 15/09/2005, việc thân chủ tôi đi làm được toàn bộ nhân viên tầng 1 xác
nhận, trong thời gian này, ASPS đã yêu cầu ông Dương phải bàn giao lại toàn bộ
chìa khóa, máy tính và các công việc của ông Dương đang giải quyết cho một
chuyên viên khác. Mặt khác, thân chủ của tôi đã bị đuổi ra cuộc họp Ban điều
hành ngày 15/9/2005 (có 4 người nhân viên văn phòng làm chứng: bà Lan, bà
Trần Bích Vân, ông Phạn Thiên Hoàng và bà Mai Tú Uyên). Như vậy, có thể thấy
rằng, trong thời gian từ 1/9 – 15/9, thân chủ tôi là ông Dương vẫn đến cơ quan
làm việc bình thường nhưng ASPS đã tịch thu toàn bộ cơ sở vật chất phục vụ cho
nhu cầu công việc của thân chủ tôi, đồng thời không cho thân chủ tôi tiếp xúc với
các công việc và hoạt động của ASPS trong thời hạn đó. Chính vì quá bức xúc đối
với các hành động cản trở công việc của ASPS, nên ngày 15/9/2005, ông Dương

Nguyễn Thị Huệ – C-8.1


Thu hoạch diễn án dân sự lần 4- Hồ sơ lao động 01
có làm đơn xin nghỉ phép để theo đuổi vụ kiện nhưng không được ASPS đồng ý.
Tuy nhiên, thân chủ tôi vì muốn đòi lại quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đã
nghỉ việc để giải quyết công việc trên.
Như vậy, từ các phân tích ở trên, có thể kết luận rằng ASPS đã có những
hành vi hạn chế công việc của ông Dương và ông Dương không hề có hành vi tự
ý nghỉ việc như theo yêu cầu của bên ASPS và chính vì lý do đó, ông Dương
không hề phải chịu bất cứ một khoản tiền bồi thường nào cho ASPS.
Yêu cầu đòi trợ cấp việc làm
Vì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật của ASPS đối
với thân chủ tôi, làm cho thân chủ tôi không có việc làm, mất nguồn thu nhập để
trang trải cho cuộc sống của mình và gia đình. Do đó, theo quy định của pháp
luật, thân chủ tôi phải được bồi thường trợ cấp mất việc làm, cụ thể như sau:
- Căn cứ khoản 1 Điều 41 Bộ Luật Lao động, “người sử dụng lao động đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì phải thừa nhận người
lao động trở lại làm công việc theo hợp đồng đã ký và phả bồi thường một
khoản tiền tương ứng với tiền lương và phụ cấp (nếu có) trong những ngày
người lao động không được làm việc cộng với ít nhất hai tháng tiền lương và
phụ cấp lương (nếu có)”. Như vậy, việc thân chủ tôi yêu cầu đòi số tiền trợ cấp
mất việc làm là có căn cứ, cụ thể như sau:
 Tiền lương trong thời gian thân chủ tôi không được làm việc mà nếu
không có sự đơn phương chấm dứt trái pháp luật là 3,5 tháng được tính
từ thời điểm mất việc làm (thời điểm nhận được thông báo) đến thời
điểm kết thúc hợp đồng lao động ( từ ngày 31/8/2005 – 15/12/2005).
Cụ thể là: 650USD/tháng * 15.901 (tỷ giá) * 3,5 tháng = 36.174.775
đồng.
 Đồng thời được trợ cấp thêm ít nhất hai tháng tiền lương và phụ cấp
theo quy định của Bộ luật lao động: 650USD/tháng * 15.901 (tỷ giá) *
2 tháng = 20.671.300 đồng.
Tổng số tiền trợ cấp mất việc làm là: 36.174.775 đồng + 20.671.300 đồng =
56.846.075 đồng.
Về yêu cầu Bồi thường thiệt hại:
Việc bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với lý do không xác đáng
của ASPS đã ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý và công việc của thân chủ tôi. Anh
Dương đã mất rất nhiều thời gian và công sức, gửi thư khiếu nại, đề nghị được
gặp gỡ trực tiếp những người có thẩm quyền của cơ quan cấp trên để được giúp

Nguyễn Thị Huệ – C-8.1


Thu hoạch diễn án dân sự lần 4- Hồ sơ lao động 01
đỡ nhưng đều không nhận được sự giải đáp thỏa đáng nào. Mặt khác, việc đột
ngột bị chấm dứt hợp đồng trước thời hạn sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín và danh dự
của thân chủ tôi, làm mất rất nhiều cơ hội để thân chủ tôi tìm được những công
việc phù hợp với năng lực chuyên môn và mức thu nhập ổn định.
Như vậy, chỉ với việc bị chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn vi phạm
căn cứ của ASPS đã làm tổn hại rất nhiều đến vật chất và tinh thần của anh Phạm
Xuân Dương, nêu thân chủ tôi yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về danh dự là hoàn
toàn thỏa đáng, mức bồi thường được tính như sau:
- Bồi thường thiệt hại danh dự và hỗ trợ tìm việc làm mới tương đương là
05 tháng lương * 650USD= 3.250USD.
Như vậy tổng số tiền ASPS phải bồi thường cho thân chủ tôi là 6.150USD
tương đương là 106.000.000 đồng.
Trên đây là toàn bộ phần trình bày luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích của anh
Phạm Xuân Dương. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét.
Xin chân thành cảm ơn Hội đồng xét xử đã lắng nghe!

IV.NHẬN XÉT DIỄN ÁN


Nhận xét chung:

1. Chủ tọa phiên tòa:


1.1. Ưu điểm:

1.2. Hạn chế

Nguyễn Thị Huệ – C-8.1


Thu hoạch diễn án dân sự lần 4- Hồ sơ lao động 01

2. Các HTND:
2.1. Ưu điểm:

2.2. Hạn chế:

3. Kiểm sát viên:


3.1. Ưu điểm:

3.2. Hạn chế:

4. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn:
4.1. Ưu điểm:

Nguyễn Thị Huệ – C-8.1


Thu hoạch diễn án dân sự lần 4- Hồ sơ lao động 01

4.2. Hạn chế:

5. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:


5.1. Ưu điểm

5.2. Hạn chế:

6. Các vai diễn khác:

Nguyễn Thị Huệ – C-8.1

You might also like