Professional Documents
Culture Documents
C. Điều 3.
Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Các quyết định trước đây trái với Quyết định này đều bãi bỏ.
D. Điều 4:
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Đây là kết quả đạt được từ chương trình 135 của các xã của Long An.
Các xã vùng cao Văn Yên
Chương trình 135 đầu tư xây dựng hệ thống kênh mương nội đồng tại các xã
vùng cao Văn Yên.
Văn Yên là một huyện miền núi của tỉnh Yên Bái và dân số trên 114.230
người gồm 11 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc Kinh chiếm 62%, dân tộc
Dao chiếm 19%, dân tộc Tày 14% còn lại là các dân tộc khác như: Mông, Phù
Lá, Cao Lan...
Toàn huyện có 26 xã và 1 thị trấn, trong đó có 12 xã đặc biệt khó khăn và 12
thôn bản thuộc các xã vùng II được hưởng chính sách đầu tư từ Chương trình
135. Trước những năm 2000, tại các xã và các thôn bản đặc biệt khó khăn, cơ
sở vật chất hết sức nghèo nàn, giao thông chủ yếu là đường mòn nhỏ, việc
thông thương trao đổi hàng hóa chủ yếu là dùng ngựa và sức người; thông tin
liên lạc cực kỳ khó khăn, nhất là vào mùa mưa lũ; trường, lớp phần lớn là tranh
tre nứa lá, sản xuất nông nghiệp manh mún, kỹ thuật thâm canh lạc hậu, năng
suất thấp, kinh tế chậm phát triển, tỷ lệ hộ đói nghèo cao, trình độ dân trí hạn
chế...
Qua 10 năm thực hiện Chương trình 135, đã thực sự làm thay đổi bộ mặt
kinh tế, xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn này. Đáng mừng nhất là sự thay đổi
cách nghĩ, cách làm của đồng bào, từng bước phát huy được vai trò tự lực, tự
cường của các hộ nghèo và toàn thể cộng đồng vươn lên thoát nghèo, gắn quyền
lợi, trách nhiệm của đồng bào các dân tộc vào việc tham gia thực hiện Chương
trình.
Giai đoạn 2
Long An : Sau khi thực hiện Chương trình 135 giai đoạn I, tỉnh còn 19/20
được Chính phủ VN công nhận là xã đặc biệt khó khăn và được thụ hưởng
Chương trình 135 giai đoạn II (2006-2010) . Khi nhận được nguồn vốn của
Chính phủ giao, tỉnh xây dựng kế hoạch giai đoạn II (2006 – 2010) và kế hoạch
thực hiện năm 2006 – 2007, Quyết định thành lập Ban chỉ đạo, tổ Chuyên viên
giúp việc và ban hành quy chế làm việc của Ban chỉ đạo. Trên cơ sở kế hoạch
và hướng dẫn của tỉnh, 5 huyện và 19 xã thụ hưởng Chương trình đã xây dựng
kế hoạch thực hiện cả giai đoạn II từ 2006 đến 2010 và kế hoạch cụ thể hàng
năm.
Năm 2006 – 2007 và 2008 ,tổng số vốn Trung ương phân bổ là 47.951 triệu
đồng. Đến nay, đã có 21 dự án về hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, công cụ
phục vụ nông nghiệp đã được triển khai, 50 công trình về cơ sở hạ tầng đã hoàn
thành và đưa vào sử dụng. Bên cạnh đó, chương trình 135 đã hoàn thành nhiều
lớp tập huấn, đào tạo nhằm nâng cao năng lực cán bộ cơ sở, đời sống của nhân
dân cũng ngày được nâng cao.
Tính đến thời điểm tháng 11/2008, Chương trình đã giải ngân 37.344 triệu
đồng – đạt 77,88% kế hoạch năm, nguồn vốn còn lại chuyển sang năm 2009.
Trên cơ sở kinh nghiệm thực hiện Chương trình 135 giai đoạn I (1999 – 2005),
năm đầu tiên triển khai thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II (2006 – 2010),
các huyện thực hiện tốt việc lựa chọn danh mục, địa điểm đầu tư đúng đối
tượng theo mục tiêu Chương trình đề ra. Phần lớn các dự án được phê duyệt đã
triển khai thực hiện, hiệu quả các công trình khi đưa vào sử dụng phục vụ tốt
cho sinh hoạt, đi lại của cộng đồng như: cầu, đường giao thông ấp, liên ấp được
hình thành, một số công trình phục vụ tưới tiêu phát huy có hiệu quả cho sản
xuất...
Những công trình xây dựng mới, khang trang góp phần làm thay đổi cảnh
quan nông thôn biên giới. Thông qua việc thực hiện Chương trình, trình độ,
năng lực quản lý của cán bộ cơ sở từng bước được nâng lên. Cùng với việc
nâng cao dân trí, các tiến bộ khoa học kỹ thuật được người dân áp dụng vào sản
xuất, tác động trực tiếp vào cách nghĩ, cách làm của người nông thôn, nhiều hộ
nghề vươn lên khá, giàu là những tấm gương điển hình thoát nghèo.
Một số xã nghèo của huyện Mường Chà và huyện Điện Biên :
Chương trình 135 giai đoạn 2 được thực hiện ở một số xã nghèo của huyện
Mường Chà và huyện Điện Biên, là hai huyện biên giới nghèo của tỉnh Điện
Biên. Qua quá trình thực hiện thì công trình cơ sở hạ tầng được xây dựng từ
Chương trình 135 nhiểu hơn; các mô hình sản xuất mới có hiệu quả kinh tế cao
được xây dựng từ nguồn vốn của các chương trình xóa đói, giảm nghèo; tình
hình cuộc sống nhân dân tại các thôn, bản của xã Mường Mươn, huyện Mường
Chà và Pa Thơm, huyện Điện Biên cũng có nhiều thay đổi tốt hơn. Đặc biệt tại
Điện Biên đã đạt được một số mục tiêu, tiêu chí của Chương trình như: làm
thay đổi cơ bản bộ mặt nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới;
thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế-xã hội.
Những thay đổi của người dân Triệu Thành :
Với sự cố gắn của cán bộ và nhân dân Triệu Thành trong việc thực hiện
chuyển dịch cơ cấu cây trồng-vật nuôi, người dân Triệu Thành cũng được Nhà
nước hỗ trợ nhiều công trình từ nguồn vốn Chương trình 135 giai đoạn II.
Nguồn vốn này đã tạo đà cho Triệu Thành chuyển mình hơn nữa, phát triển
hơn, đưa người dân Triệu thành có một cuộc sống mới, tốt hơn.
Ông Lê Văn Quế, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã cho biết: “Nhờ có Chương
trình 135 mà điện, đường, trường, trạm, nước sạch... Bên cạnh đó, công tác
chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số được chú
trọng. Cũng từ nguồn vốn Chương trình 135 xã đã được đầu tư hoàn thiện cơ sở
hạ tầng, nhiều hộ dân được hỗ trợ, đầu tư học tập khoa học kỹ thuật áp dụng
vào sản xuất. Từ nguồn lực đó, đới sống của đại bộ phận nhân dân được nâng
lên, nhiều hộ dân đã thoát nghèo và tiến tới làm giàu đã về với các thôn bản, đời
sống vật chất, tinh thần của bà con được nâng lên rõ rệt”.
Huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
Là một huyện miền núi biên giới nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh, toàn huyện
có 10 xã, 7 thôn thuộc 4 xã đặc biệt khó khăn được ưu đãi đầu tư từ Chương
trình 135 của Chính phủ.
Trong quá trình thực hiện chương trình 135, huyện đã đầu tư 50.792 triệu
đồng, trong đó trên 27 tỷ đồng mở mới 118 km đường giao thông nông thôn,
5.208 triệu đồng cho thủy lợi, 6.226 triệu đồng cho phát triển điện lưới, 4.081
triệu đồng cho cung cấp nước sinh hoạt.
Đến nay, do chỉ đạo triển khai tốt chương trình 135 giai đoạn II, 5/12 xã
đã hoàn thành mục tiêu, tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng dân tộc thiểu số giảm từ 2-
3%/năm, 100% số hộ nghèo được xóa nhà tạm, 100% số xã có đường ô tô đến
trung tâm xã, một số tuyến đường được nhựa hóa; đường giao thông nông thôn
tại các thôn bản được bê tông hóa; 100% xã với 97% hộ dân được dùng điện
lưới; 70% số hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh. Y tế, giáo dục được đầu tư,
hơn 80% trường học được kiên cố hóa; công tác dạy nghề cho thanh niên dân
tộc thiểu số được quan tâm, hơn 1000 người đã được học nghề. Các xã, thị trấn
đều có trường mầm non, đặc biệt huyện đã và đang thực hiện đề án “Nội trú dân
nuôi” tại 2 xã đặc biệt khó khăn Công Sơn, Mẫu Sơn. Về y tế, 100% số hộ dân
ở các xã đặc biệt khó khăn được cấp thẻ bảo hiểm y tế, 100% xã được xây dựng
trạm y tế, 14/23 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Công tác bảo tồn bản sắc
văn hóa dân tộc được chú trọng, 97% làng bản thực hiện tốt quy định về nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; 25.478 gia đình đạt gia đình
văn hóa, 182 đơn vị làng bản được công nhận là làng bản, cơ quan văn hóa. Đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số được chú ý quan tâm, số đại biểu HĐND các cấp
nhiệm kỳ 2004-2009 có 542/576 đại biểu là người dân tộc thiểu số. Do thực
hiện tốt các chương trình kinh tế - xã hội, tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững, bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc.
Tỉnh Trà Vinh
Theo Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa của Chính
phủ (gọi tắt là Chương trình 135, giai đoạn II (2006 - 2010) còn 27 xã. Qua
nhiều năm thực hiện chương trình ở giai đoạn II và kết hợp với kết quả dạt được
từ chương trinh 135 ở giai đoạn I, Trà Vinh đã triển khai xây dựng nhiều hạng
mục công trình như : công trình giao thông thủy lợi, trường học, công trình
điện, trạm y tế, chợ...
Ðến nay, hơn 70% diện tích đất trong vùng đồng bào dân tộc Khmer đã
được thủy lợi hóa, hơn 80% số hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh, gần 90% số
hộ có điện sử dụng, xóa bỏ tình trạng học ca ba. Hằng năm, số hộ nghèo ở các
địa phương của tỉnh giảm 3%, nhưng đối với vùng đồng bào dân tộc Khmer
giảm 4%.
Ðồng chí Trần Trung Hiền, Chủ tịch UBND huyện Trà Cú, cho biết: Các
chương trình, dự án phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số như một luồng
gió mát len lỏi vào từng phum, sóc; làm cơ sở cho đồng bào tiếp cận và ứng
dụng có hiệu quả các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nhiều mô hình có hiệu quả đã
được nhân rộng. Từ đó, không khí lao động trên đồng ruộng nhộn nhịp, đời
sống của bà con cũng khởi sắc.
Xã Hà Tây, huyện Chư Pah, tỉnh Gia Lai
Hà Tây là xã duy nhất của huyện Chư Pah (Gia Lai) được giao làm chủ đầu
tư Chương trình 135. Qua quá trình thực hiện Chương trình 135 đã tạo sức bật
cho vùng đất phát triển, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 38,45% (năm
2008 theo tiêu chí mới), củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với cấp
ủy, chính quyền địa phương cũng như đối với Đảng và Nhà nước.
Với 100% dân số là đồng bào dân tộc Bahnar, trong đó có 96% theo đạo
Thiên chúa, Hà Tây cũng hội tụ đầy đủ những khó khăn như tất cả các xã đặc
biệt khó khăn khác trên địa bàn tỉnh. Với đội ngũ cán bộ lãnh đạo luôn có tinh
thần trách nhiệm và ý thức vươn lên vì sự phát triển của cộng đồng nên khi
được giao làm chủ đầu tư Chương trình 135, xã đã biết phát huy tối đa quy chế
dân chủ ở cơ sở, luôn quán triệt tinh thần “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”, tạo được sự đồng thuận cao. Đặc biệt, xã luôn chú trọng công tác tuyên
truyền nâng cao ý thức của nhân dân trong quản lý sử dụng, hiệu quả các công
trình. Với tổng số vốn đầu tư trên 6 tỉ đồng, trong đó giai đoạn II (2006-2010)
trên 3,3 tỉ đồng, xã đã phát triển được cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường,
trạm ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được nhu cầu trước mắt của nhân dân; công
tác định canh định cư đã đi vào ổn định, giao thông đi lại thuận lợi, trường học,
trạm xá được đầu tư khang trang, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
từng bước được nâng lên. Thể hiện rõ nét trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Xã đã tuyên truyền, vận động nhân dân đưa các
giống mới cho năng suất cao vào sản xuất, thâm canh nên các giống cây trồng
có hiệu quả kinh tế cao với 243 ha mì cao sản, 107 ha lúa cạn, 188 ha lúa nước,
350 ha cây bời lời đỏ, 158 ha chuối, hơn 1 34 ha cao su tiểu điền. Sự nghiệp
giáo dục, y tế trên địa bàn ngày càng phát triển. Hiện xã có 867 học sinh ở 3 cấp
với 29 lớp học; trong đó, trung học cơ sơ 7 lớp (229 học sinh), tiểu học 18 lớp
(530 học sinh), mầm non 4 lớp (108 cháu). Trạm y tế xã có 4 y tá, 01 hộ sinh, 9
y tế thôn làng, đảm bảo công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân và
làm tốt công tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh trên địa bàn. Các chương
trình y tế quốc gia được triển khai đúng chủ trương. Bệnh sốt rét dần được loại
trừ. Người dân đã ý thức được việc tự bảo vệ sức khỏe cho bản thân và gia đình,
đau ốm đến trạm xá để được khám và cấp thuốc. Điều đáng nói là trình độ hiểu
biết pháp luật của nhân dân ngày càng được nâng lên. Các mối quan hệ trong
thôn, làng được điều chỉnh bằng hương ước, quy ước phát triển theo xu thế tiến
bộ, gắn liền với chính sách của Nhà nước. Các hủ tục ma chay kéo dài không
còn nữa. Các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan bị đẩy lùi. Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dụhg đời sống văn hóa ở khu dân cư” được phổ biến và phát triển
sâu rộng trong nhân dân. Cả 9 làng đều đã có nhà rông văn hóa, có đội cồng
chiêng bảo tồn và phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc.
Đây là một số kết quả đạt được của Chương trình 135 của Chính phủ đề ra
để thực hiện trên cả nước.
IV. Điểm mạnh , yếu kém và biện pháp cho chương trình.
1. Điểm mạnh của chuong trình.
Chương trình 135 giai đoạn II đã làm thay đổi cơ bản diện mạo nông thôn
vùng dân tộc, miền núi đặc biệt khó khăn, vùng sâu vùng xa, đời sống đồng bào
dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện, tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh, trình độ
dân trí được nâng lên khá rõ lệch, tập quán và kỹ thuật sản xuất của đồng bào
dân tộc có sự chuyển biến theo hướng sản xuất hàng hóa, tỷ lệ thôn bản có điện,
đường, lớp học, nhà văn hóa, công trình thủy lợi tăng lên, đội ngũ cán bộ cơ sở
được bồi dưỡng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Đạt được những kết quả trên là do chương trình đã có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý, chỉ đạo, đặc biệt là có cơ chế tài
chính minh bạch, rõ ràng, phát huy dân chủ ở cơ sở, có sự giám sát chặt chẽ ở
cộng đồng. Kiểm toán Nhà nước xác định chương trình này có số tiền chi sai
mục tiêu ít nhất trong các chương trình đã được kiểm toán .
Chương trình 135 đã mang lại sự thay đổi cho người dân, và đồng thời góp
phần vào việc phát triển đất nước Việt Nam.
2. Điểm yếu
Bên cạnh những kết quả đạt được, thì việc thực hiện chương trình còn những
tồn tại, bất cập gây ảnh hưởng đến hiệu quả của chương trình. Đó là, tỷ lệ hộ
nghèo hàng năm giảm nhanh, nhưng thiếu bền vững, tỷ lệ hộ nghèo và cận
nghèo vẫn còn khá lớn. Việc cấp vốn hàng năm, việc phân cấp mạnh cho cơ sở
làm chủ đầu tư chương trình chưa cao.
Trong quá trình triển khai cũng không tránh khỏi những tồn tại, khó khăn
cần rút kinh nghiệm, đó là: trình độ học vấn, nhận thức của người dân còn chưa
cao; các lớp tập huấn chưa đủ thời lượng để cho học viên tiếp thu hết kiến thức;
các xã đã trực tiếp làm chủ đầu tư chưa am hiểu về thủ tục đầu tư nên còn lúng
túng, chưa chủ động trong quản lý và thực hiện...
Chương trình 135 là chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế của đồng bào các dân tộc vùng đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện cho họ.
Việc phân cấp quản lý là trách nhiệm của những cơ quan, đơn vị có trách
nhiệm. Như ở tỉnh Lâm Đồng, ban dân tộc là đơn vị “ thường trực” Chương
trình 135 của tỉnh thế nhưng lại không được các chủ dự án (cấp huyện, xã) báo
cáo. Điều này dẫn đến việc quản lý, giám sát không chặt chẽ và hệ quả kéo theo
là “trên bảo dưới không nghe”. Một số công trình chậm về tiến độ, kém chất
lượng... và thậm chí là bất hợp lý về “nhu cầu” sử dụng của người dân. Nguyên
tắc “xã có công trình, dân có việc làm” dường như vẫn còn nặng tính khẩu hiệu.
Quy chế dân chủ trong việc lựa chọn hạng mục đầu tư và giám sát công trình
trong dân vẫn chưa nghiêm túc ở không ít nơi. Những“chuyện chưa ưng cái
bụng ” rất dễ nhìn ra và cũng không khó khắc phục, thế nhưng đến nay vẫn tồn
tại.
Đây là những yếu kém thi thực thi chương trình 135, chúng ta cần phải có
những biện pháp khác phục những yếu kém đó.
3. Các biện pháp cho Chương trình 135.