You are on page 1of 56

MỤC – LỤC

Lời Tựa
Chương Thứ Nhất

1. Bát Đoạn Cẩm là gì ?


2. Sự khác giữa Bát Đoạn Cẩm và Nội Công ?
3. Sự thành công của Bát Đoạn Cẩm

Chương Thứ Nhì


Tám đoạn của Bát Đoạn Cẩm

1. Đệ nhất đoạn cẩm: Lưỡng Thủ Kình Thiên Lý Tam Tiêu


2. Đệ nhị đoạn cẩm: Tả Hữu Khai Cung Tự Xạ Điêu
3. Đệ tam đoạn cẩm: Điều Lý Tỳ Vị Đơn Cử Thủ
4. Đệ tứ đoạn cẩm: Ngũ Lao Thất Thương Vọng Hậu Tiền
5. Đệ ngũ đoạn cẩm: Dao Đầu Bài Vĩ Khứ Tâm Hỏa
6. Đệ lục đoạn cẩm: Bối Hậu Thất Điên Bách Bệnh Tiêu
7. Đệ thất đoạn cẩm: Toàn Quyền Nộ Mục Tăng Khí Lực
8. Đệ bát đoạn cẩm: Lưỡng Thủ Phan Túc Cố Thận Eo

Chương Thứ Ba
PHẦN PHỤ THUỘC 12 đoạn:
Đệ nhất đoạn: Hai tay đưa lên xuống (căn bản từ Đạo Gia của Lão Tử)
Đệ nhị đoạn: Đứng lên ngồi xuống (căn bản môn thể dục Hy Lạp)
Đệ tam đoạn: Đưa hai tay ngang bằng ra sau (từ Ngũ Cầm Đồ của danh y Hoa Đà)
Đệ tứ đoạn: Chân co chân duỗi hai tay ấn gối (căn bản thể dục Hy Lạp)
Đệ ngũ đoạn: Đưa tay nghịch chiều trên đầu sau hông (từ vũ điệu Á Châu)
Đệ lục đoạn: Xoay tay thành vòng trước mặt (từ thể dục Hy Lạp)
Đệ thất đoạn: Xoay tay thành vòng hai bên (từ thể dục Hy Lạp)
Đệ bát đoạn: Xoay cổ (căn bản từ Đạo Gia Lão Tử)
Đệ cửu đoạn: Cúi người bó gối (căn bản từ Yoga Ấn Độ)
Đệ thập đoạn: Tư thế con rồng (căn bản từ Ấn Độ)
Đệ thập nhất đoạn: Khấu Xỉ (căn bản từ Đạo Gia)
Đệ thập nhị đoạn: Phúc hô hấp tức thở bằng bụng (căn bản từ đạo gia Lão Tử).

LỜI TỰA
Ngày càng văn minh, nhờ Khoa Học đối chứng mà người ta khám phá ra Nội Công là môn
tuyệt diệu để tu luyện cho đặng tăng tiến sức khỏe vạn năng và sống lâu trăm tuổi. Do đó số
người nghiên cứu và luyện tập lại càng tăng thêm, không riêng gì Thiền Sư, Cư Sĩ, Tu Sĩ, Võ
Gia,….mà văn nhân, lãng tử, người trí tự đều tìm cách trau dồi môn học.
Nhưng tại quê nhà, học giả vấp phải trở lực lớn là thiếu tài liệu chân thực. Các sách xưa rất
đỗi đơn sơ, mà kiến văn người dịch thuật bây giờ lại càng nông cạn hơn cách hành văn mộc
mạc của cổ nhân, thì sách xưa hóa ra là kỳ quan để ngắm chơi chớ không làm sao hiểu được.
Còn những sách treo bán ngoài chợ ai cũng công nhận có mua cũng chỉ đọc chơi cho vui mà
thôi không thể học hành gì được, vì người viết kiến thức đôi khi chẳng hơn gì người đọc…lại
ngôn ngữ bất đồng.
Đứng nhìn học giả ngẩn ngơ trước hố trủng của ngành học thuật, soạn giả đành bấm bụng
mang kinh nghiệm nửa đời tu luyện và dạy học trò ra biên thành sách Nội Công nầy để chư
học giả tiện bề nghiên cứu.
Bộ môn Nội Công cao tuyệt, hay tuyệt nhưng không ngoài ba cuốn:
1.Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Tự, được in cuối năm 1973 là cuốn cao nhất.
2.Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Sơn Đông, in giữa tháng 6 năm 1974 là cuốn có trình độ
trung bình, dành cho người có sức lực và các cấp võ gia đã có trình độ võ công rèn luyện.
3.Cuốn sau cùng là cuốn quý vị đang cầm trên tay đây, là cuốn thấp nhất dành cho người Sơ
căn, tức là mới bắt đầu. Các học giả, võ gia yếu đuối tập hoài không tiến bộ, các võ sinh, văn
nhân, thi sĩ, học giả, quan chức các ngành v..v… đều có thể khởi đầu bằng cuốn nầy để tạo
dựng một sức khỏe chắc chắn và tốt đẹp. Cuốn sách nầy ngoài sự giúp học giả tăng bổ sức lực
nhờ cách vận động Đả Thông Kinh Mạch, nó còn giúp đỡ võ gia phát triển nguồn Nội lực
sung túc đến tột độ và hiệu năng đòn thế đạt đến tối đa. Do đó Ông Bà xưa dạy Bát Đoạn Cẩm
song song với Quyền Cước khi mới bước chân vào nhà Thầy.
Sự hay của môn Bát Đoạn Cẩm kể ra không hết, nửa đời tu luyện thân tâm Cư Sĩ soạn giả
phát kiến nhiều lợi ích mà người thường không thể nghĩ bàn, mà đôi khi những Võ gia ít kiến
thức cũng càng ngơ ngác: Như các Công phu nằm phình bụng cho xe hơi cán, búa tạ đập, dao
bén chém, đi trên chông nhọn, đạp trên đao kiếm bén, bật ngón tay đâm thủng ván tắp mỏng,
v…v… cũng đều do tu luyện Nội Công Bát Đoạn Cẩm mà có.
Nhưng điều quan trọng hơn nữa đối với đa số nhơn loại là làm sao giữ vững tuổi xuân….thì
đây, môn học nầy sẽ giúp quý vị chận đứng tuổi già, xô ngã yếu đuối, bồi bổ và xây dựng nét
đẹp hùng tráng, uy nghi của một đấng trượng phu, cuộc đời còn lại mỗi ngày càng thêm trong
sáng, vui tươi vì tâm hồn đã trong sạch, đã cao thượng, quý vị đã có tất cả vì Sức Khỏe Là
Vàng…
Hôm nay soạn giả tâm sự cùng chư học giả điều bổ ích trên chính là có thể trợ duyên lành trên
bước đường thành công của chư vị. Cái đó gọi là Quân Tử có miếng ngon cùng nhau ăn, có
rượu quý mời nhau nhắm, có thơ hay cùng nhau ngâm…
Và hôm nay với món trân quý nầy “Sách Bát Đoạn Cẩm” mà cũng được người Quân Tử luận
bàn bầu bạn thì trên đời nầy chữ Bồng Lai Tại Thế há không để chỉ chỗ chúng ta đang tọa đây
thì còn ở đâu nữa. Vui thay. Vui thay.
Soạn giả mừng học giả và chư quân tử phước lành, điều tốt, thành công đến gần.

Chương Thứ Nhất


I. BÁT ĐOẠN CẨM LÀ GÌ ?
Có lẽ quá xa xưa theo truyền thuyết, thuở các vị vua hiền đức và tài năng như Thần Nông,
Phục Hi, Hoàng Đế đã có người am hiểu tận tường về môn học nầy, có nhiều người luyện tập
và coi như một phép dưỡng sinh cần thiết tối yếu. Chính nó bắt nguồn và song hành phát triển
cùng môn học Châm Cứu, một môn Y Học giá trị ngày nay đang được các Bác Sĩ trên Thế
giới gia tâm nghiên cứu thực hành v…v…
Cho đến đời Tam Quốc (213-260), vị Thần Y Hoa Đà bổ cứu và đặt chế thêm cùng biến đổi
thành môn luyện tập mới đặt tên là Ngũ Cẩm Đồ. Nhưng chính những động tác Bát Đoạn
Cẩm là căn bản. Và xét trên phương diện khoa học thì môn Bát Đoạn Cẩm có ít động tác, đơn
giản hơn Ngũ Cầm Đồ, do đó thích hợp với người xưa hơn… Dù thế nào đi nữa mục đích
chính của môn học vẫn là làm lưu thông Kinh Mạch, khí huyết thuần nhuận làm tăng gia tuổi
thọ cường kiện thân xác, minh mẫn tinh thần, rất hợp với Y Đạo ngày xưa.
Qua những suy luận và đoán quyết môn Bát Đoạn Cẩm, môn học Khai Thông Khí Lực Kỳ
Kinh Bát Mạch đã có từ Cổ thời Trung Quốc, nhưng vẫn còn nằm trong dự thuyết vì chưa có
bằng chứng xác thực. Và phải đợi đến thời Chùa Thiếu Lâm phát triển nghệ thuật chiến đấu
Kỹ Kích (Võ thuật) thì môn Bát Đoạn Cẩm mới chính thống được lưu truyền có phép tắc kỷ
cương. Kể từ đó, môn Bát Đoạn Cẩm lan truyền mau, rộng và được người đời ngưỡng mộ tập
luyện như môn phép tắc bí truyền . Như vậy thời môn Bát Đoạn Cẩm do ngài Thiền Sư Tổ
Đạt Ma dạy, là học thuật mang từ Thiên Trúc (Ấn Độ) qua? Nhưng xét theo dữ kiện lịch sử
thì bên Ấn Độ không có môn học nầy. Người ta quả quyết rằng ngài Tổ Sư sáng chế môn Bát
Đoạn Cẩm để dạy môn đồ cho cường kiện thân tâm hầu mau đạt hạnh tu Chánh Kiến, Chánh
Giác, là một hình thức tiên khởi cho môn học tối thượng Dịch Cân Pháp mà ngài sáng tác sau
này.
Người Trung Hoa vốn là dân tộc hay sáng kiến, nên môn đồ của ngài Đạt Ma Tổ Sư ở hậu lai
có nhiều vị biến chế những học thuật học được ở Ngài thành nhiều môn học chuyên biệt khác,
lập thành môn phái truyền bá sâu rộng trong phàm dân Trung Quốc cho đến ngày nay. Đó là
gốc của Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm….
Còn như có nhiều thuyết cho Bát Đoạn Cẩm do Nhạc Phi chế ra chắc là không đúng vì một
Đại tướng chuyên đánh trận không có thì giờ và tâm hồn không đặng thanh nhàn để nghĩ ra
những điều ký bí ít ra cũng phải cần phải đến một Đạo gia mới có thể nghĩ tới.
Và Đạo gia cũng có môn Bát Đoạn Cẩm, song hành và phát triển cùng thuật Vận Khí là phép
luyện Nội Công chân truyền, được nhiều sách của các Đạo Sĩ nhắc đến, cùng được các quyền
gia chuyên luyện Võ Công Đạo Gia: (Bát Quái Chưởng, Thái Cực Quyền) học tập.
Trên đây là sự hiểu biết cần thiết về môn học cẩn yếu Bát Đoạn Cẩm cho một võ gia, nhưng
điểm cần yếu hơn tưởng không thể quên đề cập trước khi bắt đầu tập luyện là: Bát Đoạn Cẩm
là gì?
- Soạn giả xin trả lời gọn, Bát Đoạn Cẩm là Tâm Phép tập cho đả thông Kinh Mạch, khí lực
thuần nhuận lưu thông đến mọi phần trong cơ thể giúp hành giả (người học) thân thể thường
được cường kiện khinh linh vô bệnh, trường thọ đúng đạo dưỡng sinh. Ngoài ra còn có công
năng tạo dựng sức mạnh gân thịt cho Võ gia tạo điều kiện tham học tới chỗ đại thành, trị lành
mọi bệnh Nội thương do tập luyện quyền thuật gây ra.
Bát Đoạn Cẩm quả thật có công năng thần diệu vô song cải tạo sức khỏe, tăng tiến thể lực và
rèn luyện thân tâm hợp nhất, là môn học thuật thể thao xây dựng đáng được đề xướng, tôn
vinh…
II.SỰ KHÁC BIỆT GIỮA BÁT ĐOẠN CẨM VÀ NỘI CÔNG
Võ Học và nhiều ngành Văn Hóa khác rất vĩ đại, cổ thời đã phát xuất từ Trung Quốc, điều nầy
cho đến nay không còn ai phủ nhận. Theo vết dầu loang, gần hấp thụ trước, xa lãnh hội sau…
Việt Tộc là một Tiên quốc văn minh truyền thống gốc ở Ba Thục bên Tàu là một đàn anh
trong Bách Việt nên trước hơn ai hết lãnh hội, tiêu hóa, và phổ biến nền học thuật trung quốc
nói chung và Việt nói riêng.
Khi Việt Tộc ta di dân xuống cõi Nam đã mang theo nhiều ngành học thuật cao quý vĩ đại của
Tổ tiên, dĩ nhiên một phần còn lại, và để lại cho Bắc quân từ phương Bắc tràn xuống…trong
đó ngành Võ học được chúng ta soi sáng trong tiêu mục nầy.
Việt Tộc vốn là dân Quân Tử và thông minh (Khổng Tử thường xướng thuyết Quân Tử để
người Bách Việt bên Tàu học: dĩ nhiên có thiểu số người Việt không nối nghiệp nổi Tổ Tiên
nên lạc nẻo tiểu nhân.) Với huyết thống tri hóa xuất chúng, người Việt Nam đương nhiên thu
nhận được ngay những kỹ thuật võ công từ Chùa Thiếu Lâm truyền ra trải qua các triều đại
sau đời ngài Tổ Sư Đạt Ma. Cũng nhờ vào tài ba võ dũng và trí hóa ưu hạng mà Lịch sử Việt
ghi được những điểm son đáng làm ngạc nhiên thế giới ngày nay. Sự bành trướng biên thổ
Việt là lẽ dĩ nhiên ở cổ thời, cận đại và tương lai…sự lớn mạnh của Việt Nam là lẽ tất nhiên
và trên đà hiển hiện. Sự huy hoàng của dân Việt phải được phục hồi như ngày mà tổ tiên còn
ở Ba Thục…
Trong cổ thời, đồng phát triển Võ Nghệ Thiếu Lâm Tự trên lãnh thổ Việt, nhiều nhân tài
tướng quân xuất hiện trong quân ngũ, trong các kỳ thi của Triều đình. Võ được phát hiện
chung thời với các Thiền Lý được truyền bá từ các Thiền Sư. Các Thiền Sư giỏi đều là những
bậc có thành quả về Thiền Định, mà chánh quả của Thiền Định là Tĩnh luyện Nội Công, môn
võ học thượng thừa (ngày nay ít người biết lý nầy.)
Do đó kể từ đời Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chí (Vinitaruci) năm 602…trở về sau Thiền Sư Pháp
Hiền, 626, Thanh Biện…636…thì môn Thiền học cùng Nội Công Tĩnh Tọa Thiền Định đã
được truyền bá có hệ thống tại Việt Nam rồi.
Như chư học giả đã hiểu, trong sách Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Tự của soạn giả, thì
khác biệt giữa Thiền Định và Nội Công Tĩnh luyện chỉ cách nhau tờ giấy mỏng, chỉ một lời
nói của bậc Thầy là người có công phu Thiền Định tức khắc trở thành Nội Công cao thủ:
“Tâm ấn chỉ có một lời.”
Nội công và Thiền Định đều nhằm luyện khí lực, tập trung và luân chuyển theo như ý. Võ gia
dụng Nội Công khí lực đả thông kinh mạch làm tăng bổ sức mạnh đạt chỗ đại thành trong
nghề võ, Thiền Sư dụng Khí Công cường kiện thân tâm kiên trì khổ hạnh tập trung ý chí, nhất
tâm đạt đến chánh giác chánh kiến thành bậc Chân Như gọi là Đắc Đạo.
Bát Đoạn Cẩm cùng một thể với Dịch Cân Kinh hay Dịch Cân Pháp nhưng thông dụng và để
rèn luyện cũng hữu dụng hơn là phép Nội Công thuộc về Động luyện. Cốt là luyện cho cường
kiện gân mạch, cứng chắc thịt xương da, đả thông kinh mạch, tránh nhiểm bệnh hoạn hầu
sống lâu và giúp phần thành quả Đại thành võ nghệ.
Nếu ví cho rõ hơn thời Bát Đoạn Cẩm như vỏ ngoải của chiếc bánh ít, mà nhân là Nội Công
Thiền Định. Cả hai cũng là Nội Công nhưng cái thì thấp cái thì cao minh thâm thúy hơn
nhiều. Phật gia tùy từng Duyên mà giáo độ môn đồ nên có thấp cao, có tùy Duyên khởi.
Nhưng dù ai có Duyên lớn tới đâu vẫn phải tập Bát Đoạn Cẩm nầy trước rồi sau mới học đến
Thiền định, nếu là người xuất gia, còn phàm nhân ăn mặn thì chỉ tập Bát Đoạn Cẩm hoặc
Dịch Cân Pháp cho mạnh gân cứng xương dẻo thịt là tốt rồi. Phép luyện Nội Công Thiết
Tuyến mà soạn giả trình bày trong sách Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Sơn Đông là động
luyện rất tốt cho các Võ gia hoặc Thiền gia tham cứu về võ công.
Vậy thời sự phân chia đã rõ: Bát Đoạn Cẩm là phép Nội Công Ngoại Tráng Sơ Đẳng. Nội
Công Thiết Tuyến là Nội Công Động Luyện có dụng cụ. Nội Công Thiếu Lâm Tự là phép
Tĩnh Tọa Thiền Định cao tuyệt khi nào ăn chay trường tập mới kết quả.
Cùng một môn học mà chia làm ba pháp luyện tập khác nhau là do chỗ thấp cao tùy dụng.
Khởi tập thì tập Bát Đoạn Cẩm trước cho gân xương cứng cáp, trong mình có sức lực rồi mới
tập đến Nội Công Sơn Đông. Khi đã đủ sức tranh tài hàng Cao đẳng mà thần trí thong dong
trường trai tiết dục được mới tập tới Nội Công Tịnh Tọa, tức cuốn Tự Luyện Nội Công Thiếu
Lâm Tự. Có biết cách luyện tập thì mới dễ thành công, bằng không thì thời giờ bị phí mà thân
thể đôi khi thương tổn hư hao mất công chữa trị. Duy ngoại trừ những học giả có võ công cao,
các võ sư có căn bản thì có thể bắt ngang từ Nội Công Sơn Đông mà luyện cho mau thành
công cũng chẳng hại gì, vì ít ra một phần kinh lạc trong người của người có trình độ võ công
cũng đã được khai mở nhờ công phu luyện tập quyền cước. Ở trình độ cao của bộ môn Nội
Công người lỗ mãng, thô tục, thiếu đạo đức không thể luyện tập được, cưỡng tập sẽ bị bệnh
nguy hại bản thân rất khó trị liệu. Bởi thế xưa nay người ta vẫn thấy người võ công cao bao
giờ đạo đức cũng sáng chói, người có nhiều tham vọng chỉ gặt hái những thành quả tầm
thường. Kẻ hung hăng thì sát nghiệp ở kế bên mình. Chắp tay sau đít nhìn thiên hạ qua đường
cũng phát kiến được những điều hữu ích để tự tu rèn tâm tính, phát triển thể lực hầu càng
ngày được lành mạnh vui tươi, sống lâu hưởng đời.
Trên đây là luận về Nội Công, Bát Đoạn Cẩm Phật Gia, còn Tiên Gia cũng có môn Nội Công
Dẫn Khí và Bát Đoạn Cẩm mà người đời thường gọi là Phép Đạo Dẫn hay và Vận Khí Thuật,
v..v…hình thái biểu diễn động tác có chỗ khác nhưng mục đích không khác và thành quả thì
đến chỗ như nhau. Cái đó gọi là Núi có một đỉnh mà đường lên có nhiều.
Vậy môn sinh hậu học từ nay chớ thắc mắc đua đòi, xao lãng việc rèn luyện, cứ mãi so đo rồi
rốt cuộc chẳng đi đến đâu. Sách đã trong tay rồi như thuốc trước miệng mà đành chết bệnh,
kiếm đã trong tay rồi mà chúng đâm không biết đưa lên đỡ thì sinh mạng ấy tưởng có chết đi
cũng chẳng thể có vị Bồ Tát nào khứng cất nhắc cho về cõi Tây Phương cực lạc. Ngu độn,
hàm hồ là đáng ở lại trong hỏa ngục chịu nhiều luân kiếp đọa đày. Phải nói như vậy không
phải là lời suông qua gió thoảng.
III. SỰ THÀNH CÔNG CỦA BÁT ĐOẠN CẨM
Nếu thông thường như nhiều bậc chép sách thì soạn giả cũng sẽ chép ra đây nhiều chuyện cổ
tích ly kỳ của người xưa trên đường thành quả Nội Công, Bát Đoạn Cẩm. Nhưng soạn giả
không thích bị lôi cuốn vào hàng (nghe sao chép vậy), mà thường chỉ đơn cử những ví dụ mắt
thấy tai nghe, hoặc bản thân thực hành được, v..v…
Tiếc thay chuyện bên Tàu thì nhiều mà bên Nam ta quá khiêm nhường đến độ khó lòng đơn
cử cho thật đích danh với đầy đủ thành tích chơn thật, đến đâu, vị Lão sư nào cũng nói mở
đầu bằng: “Hồi xưa…. Nghe người ta nói, người ta đồn rằng…”, và tiếp theo đó là những
chuyện dường như hoang đường vì thiếu tính cách Khoa học. Tóm lại là những chuyện chưa
bao giờ thấy.
Trước thời buổi khoa học ngày nay, mọi ngành học thuật cũng phải được nhìn dưới con mắt
khoa học, nghĩa là giải thích được, hợp lý và ít ra cũng phải có một ví dụ làm bằng. Soạn giả
vì chủ trương không làm mê hoặc hậu sinh nên không ghi lại những cố sự hoang đường đọc
được, nghe được trong đời tu học của mình, mà chỉ nêu lên những điều dễ nhận định…
Như soạn giả đọc thấy nhiều sách xưa đơn cử nhiều danh gia võ học cao thủ bên Tàu nhờ
luyện tập Võ Nghệ, dĩ nhiên chuyên luyện Nội Công sống lâu và rất khỏe mạnh, ngày nay
một vị lãnh tụ của Trung Quốc đã 90 tuổi mà vẫn còn mạnh khỏe vui tươi lãnh đạo 800 triệu
dân, nhờ tập Bát Quái chưởng và Thái Cực Quyền mỗi buổi sáng. Chuyện nầy báo chí Pháp,
Mỹ đăng tải từ lâu có cả hình ảnh… (Thái Cực và Bát Quái là môn Nội Công của Tiên Gia).
Ông của soạn giả năm nay 92 tuổi mà còn cỡi xe đạp hơn ba mươi cây số thăm bà con, cùng
đi lụp (đánh bẩy) chim cu suốt ngày không biết mệt…là nhờ chân luyện vài thế trong môn
Bát Đoạn Cẩm mỗi tối trước khi đi ngủ, cùng suốt đời không uống rượu, không hút thuốc.
Thầy của soạn giả là bậc chân tu không lậu sự, diệt danh, người truyền thụ môn Nội Công
thượng thừa cho soạn giả, năm nay đã tám mươi lăm (85) tuổi rồi mà còn tốt tướng, một mình
tịnh tu một chùa (động), không cần đồ đệ tăng tiểu phụ giúp mọi sự. Quanh năm khí lạnh cao
nguyên mà người vẫn độc một mãnh Đạo bào đơn sơ, ngày hai buổi công phu luyện tập Nội
công Thiền định mà đạt thành chánh quả như thế. Ai có chân phước gặp người tất thấy sự
trong sáng của Từ Bi Hỉ Xả trên ánh mắt của người.
Riêng bản thân soạn giả thuở thiếu thời ốm yếu xanh xao, người ta kêu là con sát nuốt phải
gởi cho chùa nuôi, 12 tuổi mới xin về…soạn giả nhờ ông bác ở trong chùa dạy cho Bát Đoạn
Cẩm và ít quyền thảo, và soạn giả cứ theo đó tập tành cho có lệ, thế mà thời gian mấy mươi
năm lần lữa khi thành trang thanh niên thì soạn giả đã biến đổi hẳn hình dong. Sự cường
mạnh thấy rõ trong con người vốn tiên thiên bất túc. Và cho đến bây giờ tuổi trời hơn nửa đời
mà bất kỳ ai đối diện có trình độ cũng phải chấp nhận là một người có dõng lực, còn bậc
phàm phu thì chẳng hết lời ngưỡng mộ đường nét khôi vĩ tinh kỳ….Ấy khởi đầu cũng nhờ
luyện tập Bát Đoạn Cẩm ở tuổi ấu thơ, đành rằng trong thời niên thiếu ngoài việc luyện cầm
chừng môn Bát Đoạn Cẩm soạn giả còn luyện quyền thuật, và đến tuổi thanh niên thì càng
tăng gia tu học quyền thuật cùng rèn luyện Nội Công chân chính… Cho đến này thì công phu
đáo thành: cánh tay đưa ra để mềm 5-6 người lực lưỡng không bẻ gập lại được, cho búa tạ
đập, dao bén chém., nằm phình bụng cho xe hơi cán đủ chỗ, đủ kiểu không cần nịt bụng hay
lót đà ván, chân trần đi trên chông nhọn, đạp trên đao, kiếm sắc bén, bật ngón tay đâm thủng
ván tấp mỏng, v…v… (Những thành quả trên có biễu diễn tại nhiều hội trường cho các võ
gia, quan viên giáo chức cùng môn sinh nhiều môn phái xem chơi, có chụp hình in trong sách
Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Tự v.v…) Điều đặc biệt mà soạn giả rất vui là thấy công phu
đã truyền lại được cho nhiều võ gia hậu học đệ tử đã tham học với soạn giả, một phần cũng
được các học viên các Lớp Hàm Thụ lãnh hội, rồi đây chẳng bao lâu nữa nghành nghệ thuật
dưỡng sinh nầy được mọi người mến mộ rèn luyện thành công.
Sự thành công của soạn giả không phải vô tình, sự thành công của môn đệ của soạn giả cũng
chẳng phải vô tình hay may mắn mà do sự chuyên cần luyện tập có phương pháp. Vậy soạn
giả kết luận là bất kỹ võ gia nào thành tâm luyện tập thì nhất định sẽ thành công.
Với môn Bát Đoạn Cẩm nầy người tập không cần kiêng cữ nhiều như các môn Nội Công
Thượng Thừa. Nhưng dù sao vẫn tránh vài việc mới có thể mau tiến bộ. Như các võ sư có tuổi
đã có vợ con thì tránh phiền não, bớt giao hoan và phải luyện tập cho có điều độ ít ra mỗi
ngày một lần vào buổi bình minh. Các võ sư trung niên và trẻ hiếu thắng thích rượu nhiều và
nữ sắc nhiều phải từ từ bỏ bớt thì mới mau thành. Chớ có liều mạng ỷ sung sức nhờ tập luyện
quyền thuật mà có tinh lực dồi dào đem sức sống đổ biển thì công phu võ học chẳng khác
ngôi nhà sơn tốt mà mối mọt đã đục rệu hết rồi. Bốn mươi, năm mươi mà chân di không nổi,
chống gậy mà lê từng bước một là do tửu sắc dâm ô. Nghề võ như thế thì chớ nên khua môi
có ngày mang hại.
Trên đây là đường thành bại của công phu luyện tập Bát Đoạn Cẩm Nội Công, học giả khá
tựa nương đó hành sự cho đặng khang an thân thể linh mẫn tinh thần, sống lâu trăm tuổi.
Còn điều xin nói ra cùng chư võ gia quân tử, như cho đến nay việc biểu diễn thành quả của
soạn giả cùng các đệ tử của soạn giả là điều nhằm nêu lên chứng tích của sự học luyện thành
công để chư quân cùng phấn khởi tinh thần hầu bước mạnh trên đường nghệ thuật chớ chẳng
phải có ý vọng động kia khác. Soạn giả thay mặt các Đạo đồ môn đệ thanh minh cùng chư
học giả mọi môn phái võ gia trong và ngoài nước.
Chương Thứ Nhì
Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm Tự

Bát Đoạn Cẩm là tám phép luyện gân thịt và khí lực cho đặng sung mãn, giúp ích sống lâu vui
hưởng cuộc đời. Người có sức khỏe thì giống người đi buôn có vốn, muốn mua hàng hóa gì
cũng tùy nghi. Tập Bát Đoạn Cẩm này trẻ mau lớn, học giỏi, khôi ngô, mặt mày sáng sủa,
lành mạnh tư tưởng. Trung niên tăng thêm khí lực, phát triển khả năng tổng quát, nhờ đả
thông kinh mạch mà huyết khí sung cường hăng say làm việc, tiến bộ mọi mặt, người có tuổi
thường xuyên luyện tập huyết khí luân chuyển và thay đổi luôn luôn nên da dẻ hồng hào, gân
xương hoạt bát chận đứng tuổi già, yêu đời vui sống, thật là hạnh phúc lâu dài, các môn thể
dục vận động Tây Phương không có môn nào so sánh được. Vì môn Bát Đoạn Cẩm có công
năng hướng dẫn và thúc đẩy huyết và khí luân chuyển đều khắp trong châu thân nên tránh
khỏi các bệnh tê thấp vì máu thiếu và cứng động mạch khi tuổi già. Tuổi trẻ tập Bát Đoạn
Cẩm thân thể luôn luôn cường kiện, tinh thần luôn luôn linh mẫn, tuổi già thì thần thái uy
nghi mà thân thể thì nhẹ nhàng tâm hồn khoáng đạt. Các Thiền Sư xưa, các Đạo Gia cổ lúc
nào trông cũng phiêu hối mà người đời thường dùng chữ Tiên Phong Đạo Cốt để chỉ là nhờ
tập thường môn học này.
Từ đời xưa cho đến nay có nhiều loại Bát Đoạn Cẩm được lưu truyền trong mọi giới, đến nổi
mỗi người làm mỗi khác, số động tác cùng cách phép cũng đều sai biệt và số lần tập cũng
khác nhau, đến có khi hơn tám (Bát) đoạn, có khi tới 12 đoạn, 24 đoạn. Và cách tập tùy lúc
đứng, ngồi, nằm v…v…thật là không có phép tắc gì và cũng chẳng ai giải thích gì về sự hiểu
biết của mình trong khi truyền bá và rèn luyện các môn Bát Đoạn Cẩm đó. Người có kiến
thức chút xíu thì nói là của Tiên gia, v…v.. rồi cũng chẳng thể giải thích được gì hơn nên cứ
ậm ừ trở tránh khi có người hỏi tới. Đa số các bậc thầy chỉ dạy làm chớ không dạy cho hiểu.
Thôi thì hậu sinh chỉ nhắm mắt làm càn làm đại, tưởng tượng thần thoại lờ mờ mà chẳng hiểu
mô tê lợi ích ra sao. Thương thay.
Kẻ viết sách xưa nay chẳng hơn gì nhau mấy, thường rắp khuôn sao chép cho có bản, cho có
tên mình in trên sách… đôi khi vì binh danh, đôi lúc vì có tâm hồn “Puôn Pán” mà nhắm mắt
làm đùa chẳng chịu tham cứu học hỏi trước khi đặt bút thảo chương. Việc nầy không riêng
trong lãnh vực nghề võ, mà các ngành văn nghệ khác cũng thế. Phải xét lại hết thảy. Xét luôn
cả các văn gia học giả bên Tàu nữa chớ chẳng phải riêng chi xứ mình, các văn gia cở lớn của
triều đình nhà Thanh cũng làm sách giả bán lấy tiền (thời buổi cực loạn thì lắm sự hư hoại
phát sinh, từ thời Thanh sơ đến Văn Thanh, nhân dân Trung Quốc sống thời đại loạn còn hơn
nước ta bây giờ) còn thiên hạ thì mặc tình.
Nay học giả đọc sách nầy cần nên hiểu cho chánh lý là trong bầu trời có hai loại Bát Đoạn
Cẩm mà thôi. Một của Đạo Gia và một của Phật Gia, có thể gọi là hai ngành Bát Đoạn Cẩm
cũng đúng. Môn Bát Đoạn Cẩm của Đạo Gia vì chỗ tự tiện của đạo sĩ và nho sĩ xu thời đã bày
lắm thứ, nhiều môn đặt nhiều bài bản lắm hiệu lắm tên nhưng chung quy ý vẫn nằm trong hơi
thở, tức chủ trương vận dụng khí lực, gọi văn hoa là Đạo Dẫn Thuật hay Vân Khí Thuật. Bài
bản lu bù (nhiều) nhưng người hiểu biết thấy rõ chân tánh, người kém cỏi mờ mịt nên khó thể
học hành tới nơi tới chốn.
Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm không có nhiều bản cho lắm, đó là nhờ Thiền môn có tổ chức quy
mô (trong chùa có nhiều ban nghiên cứu…viết sách, v..v..) nên lưu truyền được chánh bổn.
Nhưng dù thế vẫn thấy được hai loại Bát Đoạn Cẩm. Loại nào cũng đúng tám đoạn, một loại
chủ luyện gân xương và một loại chủ luyện khí lực. Mỗi loại có chỗ thái quá và thiếu quá. Để
dung hòa cho đặng vẹn toàn, một bản Bát Đoạn Cẩm đầy đủ cả hai phần Luyện Gân Lực và
Khí Lực được trình bày trong sách nầy. Nhờ sự sửa đổi (canh tân) nầy mà thiền sư và chúng
môn đồ võ lâm, nhân loại được toại nguyện trên đường tu tập. Và bây giờ môn Bát Đoạn Cẩm
toàn hảo nầy được truyền bá rộng rãi trong đại chúng làm nổi danh môn phái Thiếu Lâm ra
cùng khắp Ngũ Đại Châu.
Nhưng mà thế nào là các thế tập Vận Lực và thế nào là các thế Vận Khí? Điều nầy quí học giả
sẽ được thấy và cảm nhận được ngay trong chương nầy, ở phần kế tiếp liền sau đây. Và để
thưởng thức trước khi đi vào thực luyện, (giống như ta mở mũi hít hơi thơm của món ngon
tưởng tượng cho đã cái rồi sau đó mới gắp đồ ăn đưa vào nhai…), soạn giả xin trình là trong
Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm hễ đoạn nào đứng thẳng đầu gối mà tập thì thế đó dùng luyện khí,
đoạn nào đứng tấn Kỵ Mã mà tập thì dùng luyện Gân. Có vậy thôi, đơn giản thấy rõ, dể hiểu
thấy rõ. Tuy thế, đoạn luyện khí cũng có vận lực phù trợ chớ chẳng phải tưởng tượng khơi
khơi mà được, cũng như khi luyện gân cũng có vận khí trợ lực. Có sự bổ hợp như thế mới
mau thành công, mới có sự liên hoàn động tác, chuyển động gân xương, thúc đẩy khí huyết,
đả thông kinh mạch tạo dựng một thân thể cường tráng, uy nghi.
Khi hiểu được những điều cần thiết (yếu quyết) nầy rồi thì không còn lo lắng, ngại ngùng lúc
bắt tay vào việc luyện tập, cũng như chẳng thể có tập luyện mà chẳng có thành công. Hơn nửa
đời soạn giả Cư Sĩ tôi chưa hề một lần làm chuyện gì mà mình chưa thấy hiểu ý nghĩa của sự
việc, thì đối với chư học giả, võ gia, quân tử, soạn giả vẫn muốn quí vị thực hành theo con
đường đó để sớm thành công. Đó là con đường sự thật, tri tri.
Nay thì chư hiền đã rõ hiểu lý thuyết của Bát Đoạn Cẩm rồi, vậy xin mời nghiên cứu thực
hành các động tác co duỗi sau để thân thường được mạnh khỏe, trí thường được thanh thản,
hầu tài năng thiên bẩm được đà phát triển tối đa hỗ trợ đời, đi vào lịch sử…(Ai cũng đi vào
lịch sử khi mà mình đã tự biết mình, ít ra cũng làm nên lịch sử vì mình đã có tích sự trong
đời.) Nào, mời chư học giả thực hành cho biết Đạo vị lành mạnh mà từ cổ xưa không một ai
được tôn vinh là thánh hiền mà không biết đến.

1. CÁCH LUYỆN TẬP BÁT ĐOẠN CẨM

Như học giả đã biết là Bát Đoạn Cẩm gồm có tám phép luyện tập, và không nói ai cũng hiểu
đều phải tuần tự tập luyện tuần tự từ phép một cho đến khi hết trong một buổi tập, theo đúng
phương pháp sẽ được giảng tới trong phần thực hành kế sau.
Nhưng muốn thực hành cho hết tám phép trong một buổi tập thì trước tiên học giả phải thuần
thục từ phép một theo phép tuần tự nhi tiến (học từ từ theo thứ tự). Việc nầy không khó, chỉ
cần thời gian ngắn là ai cũng thực hành được một cách tự nhiên. Điều cần chú ý khi thực hành
là phải quan tâm làm đúng từ động tác một của mỗi Đoạn (mỗi đoạn có nhiều động tác) và
làm đủ số lần cần phải lập lại cho mỗi động tác. Khi chấm dứt đoạn thứ nhất thì liền đó luyện
tập đến đoạn thứ nhì sau khi buông tay nghỉ thong thả 3 phút đồng hồ. (Nếu đã thuần thì thời
gian nghỉ chừng một phút đã đủ) tính ra thong thả mà tập thì người mới mỗi sáng có thể dành
khoảng 45 phút để thao luyện và khi đã thuần rồi thời gian luyện tập rút lại còn 20 đến 25
phút là cùng. Số thời giờ ấy rất khiêm nhường so với bất kỳ môn thể thao vận động nào mà sự
thành quả thâu đạt được lại tốt đẹp vượt bực hơn tất cả.
Khi mới tập thì chú trọng về hình, nghĩa là sao cho đúng cách theo sách chỉ dẫn từ cách gồng
chuyển chân tay, co vào, duỗi ra, hít thở, trợn mắt ….Muốn được như thế thì nên treo tấm
kiếng (gương) để nhìn cho thấy chỗ sai mà sửa đổi. Nếu có người cùng tập sửa cho nhau thì
càng hay hơn.
Lúc thuần thục chú trọng tới ý, nghĩa là hơi thở được quên đi, động tác xóa bỏ mà chỉ quán
tưởng thấy cái dụng ý của mỗi đoạn (ý tứ đó là ý nghĩa của mỗi câu khẩu quyết của mỗi đoạn,
xem trong phần thực hành chương nầy.) Bao giờ làm được từ hình thức tới ý thức thì động tác
lưu đi mà tâm như quên như nhớ, huyết mạch cuồn cuộn chuyển lưu, khí lực rần rần tụ tán
trong mỗi co duỗi chân tay…bài tập trôi mau đến khi chấm dứt thì tự động dừng ấy nhờ Thần.
Học giả tập đến bao giờ được như thế thì thân tâm trống không, cơ thể nhẹ nhàng vui tươi như
trẻ, ăn uống ngon lành, ngủ nghê khoái lạc, đến như những công việc hàng ngày cho là rối
rắm, mệt nhọc thì nay như đồ chơi và ngày giờ qua mau. Vì biết được thời giờ qua mau nên
không phí thì giờ, do đó thành công hơn đời là như vậy đó. Không tập không biết, tập rồi biết
ngay, việc nầy người ta ví đường có đi mới biết, chuông có đánh mới kêu. Kẻ lảm biếng thần
trí ỉu lờ, lù đù chậm chạp, ngu ngơ việc đời trăm việc cũng tại không người hướng dẫn, nếu
biết được phương pháp này mà chuyên cần học luyện thì đời sống đổi khác tức thời, thậm chí
đến như tuổi già là cái luật định của tạo háo mà Bát Đoạn Cẩm còn cản được huống hồ.
Về chỗ (vị trí) để luyện tập thì không gì tốt hơn nơi yên tĩnh và thoáng khí, không khí trong
sạch bao giờ cũng là thức ăn bổ, là liều thuốc quí cải tạo sinh lực con người. Do đó có thể
chọn một khoảng trống sạch sẽ cao ráo trong vườn (nếu ở nhà quê), trong sân, hoặc trong
phòng nơi có cửa sổ mở thoáng mát ra hướng khô ráo sạch sẽ (khuông cửa phải lau chùi hết
bụi bặm thường xuyên, nếu ở nhà sàn trên sông, trên thuyền, tàu thì đợi nước lớn không khí
trong sạch mới tập.) Tốt nhất là tập vào mỗi sáng, tập xong đợi 10-15 phút sau tắm nước lạnh
chà xát da bằng khăn bong, xơ dừa…. thì sau đó một ngày đẹp nhất định sẽ đến với chúng ta,
vì chung quanh ta ai cũng là người đáng thương, đáng mến, đời sống thật có nhiều ý nghĩa…
Tóm lại, khởi sự tập Bát Đoạn Cẩm phải:

1. Thuộc và làm đúng hình thức bên ngoài của từng động tác trong mỗi đoạn.

1. Khi thuộc Hình rồi phải thuần Ý, là cái mà mỗi khẩu quyết ghi rõ.

1. Lựa chỗ thoáng, sạch mà tập mỗi buổi bình minh, nếu không tập buổi tối sau bữa cơm
hơn 3 giờ đồng hồ.

1. Tập xong 15 phút sau tắm và chà xát da. Uống một ly nước lọc sạch trước khi tập và
sau, ly nhỏ thôi.

1. TÁM ĐOẠN CỦA BÁT ĐOẠN CẨM

Bát Đoạn Cẩm gồm có 8 đoạn, mỗi đoạn có một mô thức (hình dáng, thể thức) huấn luyện cơ
thể khác nhau. Khác nhau từ cử động cho đến thần ý. Vì lẽ Bát Đoạn Cẩm được chế tạo để
luyện tập cho đặng hiệu quả trong việc kiến tạo một thân thể cường tráng từ ngoài (Ngoại
tráng) và cả bên trong (Nội tráng). Ngoài ra Bát Đoạn Cẩm còn dung để trị liệu những bệnh
trạng yếu nhược hư hao thường thấy trong mình của người đời. Ví như ai thường ngày hay uể
oải thì tập Bát Đoạn Cẩm sẽ khỏi ngay; ăn uống khó tiêu hóa tập sẽ hết ngay, hay mệt tập
khỏe ngay. Người tập võ công bi nội thương cũng được trị lành, v..v… nói nhiều không hết.
Tổng quát là Bát Đoạn Cẩm là Tám Phép Thần dung tập luyện cho cường kiện thể xác minh
mẫn tâm thần và ngừa trị, hoặc trị mọi bệnh chứng thương, lao, cùng bồi bổ các cơ phận quan
yếu giúp người hồi phục sinh lực trong đời sống lao động tiêu hao hàng ngày…
Đây là phép thần, nhưng có tập luyện đúng thời mới Thần còn như đọc chơi cho biết mà
không tập thì Thần cũng chẳng giúp được mình, giống việc hàng ngày cầu xin cúng kiến cho
mình được phúc, lộc, thọ mà không làm việc gì bó gối ngồi chờ hoặc manh tâm hung ác, tà
gian thì lộc, phúc nào đâu tới với mà thọ cũng giảm dần mau chóng theo ngày tháng vì cái
tâm u ám nó hạ mình. Học giả biết như thế thì tưởng chẳng cần luận bàn chi cho dài dòng tốn
giấy, mà vứt bỏ hết mọi lý sự bắt tay luyện tập các động tác sau thì trong mấy tháng đã có sự
khởi sắc trong đời sống hàng ngày rồi. Tức là vui rồi, vui rồi cần gì nói nhiều nữa, mà có nói
nhiều cũng lại càng thêm vui. Ấy, thành công đang chờ quý vị đây. Nào chúng ta hãy tiến
tới…
Nhưng muốn tiến tới hãy học cho thuộc lòng Tám Câu “Thần chú” sau để làm lộ phí, hành
trang rồi hãy lên đường.
KHẨU QUYẾT BÁT ĐOẠN CẨM:
1. Đệ Nhất Đoạn Cẩm: Lưỡng Thủ Kình Thiên Lý Tam Tiêu (Hai tay chống trời tưởng
“tới” Tam Tiêu)
2. Đệ Nhị Đoạn Cẩm: Tả Hữu Khai Cung Tự Xạ Điêu (Trái phải dương cung “như” bắn
chim điêu)
3. Đệ Tam Đoạn Cẩm: Điều Lý Tỳ Vị Đơn Cử Thủ (Điều hòa Tỵ vị “một” tay đẩy lên)
4. Đệ Tứ Đoạn Cẩm: Ngũ Lao Thất Thương Vọng Hậu Tiền (Năm Lao Ngũ Thương liếc
nhìn “phía”sau)
5. Đệ Ngũ Đoạn Cẩm: Dao Đầu Bài Vĩ Khứ Tâm Hỏa (Lắc đầu vẫy đuôi [1] dứt “bỏ” tính
nóng nảy)
6. Đệ Lục Đoạn Cẩm: Bối Hậu Thất Điên Bách Bệnh Tiêu (Sờ xương cùn 7 lần trăm bệnh
tiêu)
7. Đệ Thất Đoạn Cẩm: Toàn Quyền Nộ Mục Tăng Khí Lực (Nắm chặt quyền, mắt giận [2] ,
tăng khí lực)
8. Đệ Bát Đoạn Cẩm: Lưỡng Thủ Phan Túc Cố Thận Eo (Hai tay kéo hai chân bền thận eo)
Chú ý: Chữ nghiêng phiên nghĩa Khẩu quyết Bát Đoạn Cẩm chưa sát nghĩa lắm cần đọc rõ
chi tiết mỗi đoạn mới biết được đầy đủ.
[1]Vẫy đuôi: ý nói uốn éo mông đít như con rắn vẫy đuôi
[2]Mắt giận: dịch chữ Nộ mục, ở đây nên hiểu là tập trúng ý lực nơi mắt như giận dữ và nắm
quyền đấm ra làm tăng khí lực…

ĐỆ NHẤT ĐOẠN CẨM


THẾ DỰ BỊ: Đứng thẳng, hai tay buông xuôi hai bên đùi, lòng bàn tay úp vào hai bên đùi, hai
gót chân khí nhau, hai mũi bàn chân mở ra hình chữ V. Mắt nhìn thẳng bằng ngang, hơi thở
điều hòa tự nhiên. (Hình 1)
1. Lưỡng Thủ Kinh Thiên Lý Tam Tiêu (Hai tay chống trời tưởng tam tiêu)
Phép Luyện: Khi tập đông người phải sắp hàng ngang và dọc thẳng nhau cùng khoảng cách
giữa mỗi người với nhau bằng hai tay giăng thẳng chạm nhau là được. Nếu đơn luyện (luyện
một mình) thì không cần chú trọng đến sắp hàng. Đoạn nầy có tám động tác, tập luyện tuần tự
như sau:
Động tác 1: Hai bàn tay từ từ xoay mở lòng bàn tay ra ngoài sang hai hướng trái phải. Đoạn
từ từ đưa ngửa lên, hai cánh tay ngang bằng rồi tảng lên trên đỉnh đầu, các ngón đan vào
nhau (Hình 2 và 3).
Động tác 2: Hai cổ tay vận lực (gồng) vừa xoay ngửa lòng bàn tay lên trời, độ cao không
thay đổi (Hình 4). Kế đẩy cao lên trời chân nhón gót.
YẾU LÝ: Động tác 1, từ từ hít hơi vào thì đồng thời xoay cổ tay mở bàn tay ra rồi hướng lên
trời mà đưa lên thì hít hơi dài theo cho đến khi hai bàn tay đan vào nhau mới ngưng.
Kế theo là động tác 2, gồng cổ tay xoay ngửa lòng hai bàn tay lên trời, hai cánh tay thẳng,
nhón gót thì giữ kín hơi trong phổi không hít thêm cũng không thở bớt ra. Quan trọng là chỗ
vận lực đẩy chưởng lên gọi là Lưỡng Thủ Kình Thiên, thì phải tưởng tượng như đang chống
đỡ một bầu trời đang sập xuống đầu mình, do đó phải vận toàn lực mà đẫy lên không thể đẩy
hời hợt được. Lúc đẩy lên mắt không nhìn theo tay mà Thần thì quán tưởng tới Tam Tiêu từ
trên xuống dưới thông suốt. (Xem tiếp Yếu Lý động tác kế).

Động tác 3: Buông lỏng hai bàn tay rồi từ từ hạ xuống đỉnh đầu, lòng bàn tay vẫn để ngửa.
Thở ra bằng mũi hoặc thổi nhẹ hơi ra vừa mũi vừa miệng. Hai chân đồng thời cũng hạ xuống
đứng bình thường. Chân tay nhịp nhàng. (Hình 5) Kế, hít hơi vào hai bàn tay vận lực đẩy lên,
hai gót chân cũng nhón lên theo. Khi đẩy thẳng tay thì phổi cũng đầy hơi, dĩ nhiên hít vào
bằng mũi, miệng ngậm kín. (Hình 6)…
YẾU LÝ: Khi nhón gót đẩy song chưởng lên tận cùng cao thì dừng lại một vài giây đồng hồ
trước khi xả lực (buông lỏng) để thu tay trở xuống trên đỉnh đầu. Trong mấy giây đồng hồ
ngưng lại trên cực điểm cao thì tâm quán tưởng đả thông hai Kinh Tam Tiêu, tức thông suốt
từ đầu ngón tay giữa đến đầu chót đuôi lông mày. Kinh nầy chạy bên ngoài cánh tay, qua vai
lên trái tai rồi bọc ra trước vành tai lên đuôi mắt, tổng cộng là 23 huyệt. Hai kinh nầy có tác
dụng hô hấp, tiêu hóa và các bộ phận sinh dục cũng như bài tiết. Khi hai kinh Tam Tiêu nầy
đả thông thời không thể mắc bệnh thuộc về Ba Tùng: và khi có bệnh về Ba Tùng thì phải
luyện tập đoạn này để điều trị.
Vì kinh Tam Tiêu nằm ở bên ngoài cánh tay nên động tác lật ngược chưởng tâm bàn tay lên
làm căng thẳng toàn bộ gân mạch phần ngoài cánh tay làm luồng khí lực được lưu thông dể
dàng. Để phụ trợ và hiểu biết rõ về bản thể mình hầu dần dà nghe được mọi biến động của
châu thân trong khi đẩy chưởng phải quán tưởng khí lực chạy mạnh từ đầu ngón tay giữa đến
đuôi mày. Đó là ý nghĩa của câu khẩu quyết… Lý Tam Tiêu. Ngoài ra chân nhón gót lên sức
nặng tụ trên các đầu ngón chân, nhất là ngón cái làm căng thẳng vùng sau đùi chân phía bên
trong và phần bụng trước ển tới thúc đẩy kinh Tỳ Tạng tức Túc Thái Âm Kỳ Kinh, gồm 21
huyện được đả thông. Ngoài ra khi hạ gót chân xuống mũi bàn chân uốn lên thì phần toàn bộ
đùi trước từ dưới lên trên căng cứng giúp đả thông kinh Dạ dày tức Túc Dương Kinh Vị, gồm
45 huyệt… Do đó động tác của toàn đoạn làm lợi ích cho cả Ba Tùng. Ở đây hạn hẹp giải
thích không được rõ, chỉ nói đại cương công dụng của động tác và tại sao nó làm được lợi ích
như vậy thôi. Ngoài ra muốn tham cứu do soạn giả biên soạn thì mới hiểu đến chi tiết. Điều
tưởng nên nhắc cho rõ là từ xưa tới nay chẳng ai biết tập Bát Đoạn Cẩm cho lợi ích đến chỗ
tận cùng của nó, cũng như chẳng ai giải thích rõ được, dù bên Tàu hay bên Nam ta. Nay soạn
giả nói rõ ra cho học giả cùng hiểu, ấy là người đầu tiên khám phá được ẩn ý của cổ nhân mấy
ngàn năm, sở dĩ soạn giả khám phá được là nhờ có học qua Y Lý và đạt thành Nội Công
thượng thừa đến gọi là giác ngộ. Nhờ đắc đạo mới dám nói dạy Nội Công cấp tốc cho người
cao học võ thuật cùng dạy thuật Điểm Huyệt mà người đời tương truyền chớ chẳng thấy ai
làm được. Soạn giả sẽ viết sách dạy điểm huyệt theo kinh nghiệm bản thân xuất bản nay mai
ai học cũng thấy kết quả….
Động tác 4 – 5 – 6: Đẩy chưởng lên và hạ xuống 3 lần như động tác 3 vừa học trên. Thu tay
xuống đầu thì buông lỏng, gồng thì đẩy lên. Tay lỏng thì thở ra, hít vào thì đẩy lên. Hạ xuống
thì cong các ngón chân lên. (Xem hình 7-8, Hình 7 nhìn từ một bên).
YẾU LÝ: Động tác thực hiện đều đều không mau không chậm, hơi thở cũng tùy theo vận
chuyển lên xuống mà thở hít. Quán tưởng lên xuống như dòng nước chảy. Tập mà nghe rêm
tay phần cánh tay ngoài thì đúng, không rêm nên coi lại là vì đẩy chưa ngay đỉnh đầu. Trẹch
ra trước hoặc dịch về sau đều không thông được các kinh. Phần chân nghe mỏi phần trước và
phía sau mé trên lên tới bụng là đúng. Nếu không nghe hơi hám gì là tại nhón gót chưa tới chỗ
cao nhất và chưa cong ngón chân cái, trỏ lên khi hạ gót chân. Ban đầu tập thấy rêm mỏi
nhưng sau hơn tuần trở lên thì mỗi lần đẩy tay lên xuống vài lần thấy rần rần trong chân tay
ấy là khí được điều động đả thông như nước chảy trong ống. Đó là điềm tốt.
Nói thêm cho rõ, đan ngón tay hoặc bàn tay nầy đè lên mu bàn tay kia đều đúng cả nhưng đan
ngón tay thì kết quả hơn, dễ thúc đẩy kinh mạch hơn. Hiểu rõ thì khỏi dị nghị.
Động tác 7: Làm đến động tác 7, đẩy chưởng cao chân chưa hạ xuống thì mở rời song
chưởng ra rồi đưa xuống hai bên từ từ, lòng bàn tay úp xuống hướng mặt đất, hai cánh tay
thẳng, bằng ngang song song mặt đất, trong khi chân vẫn còn nhón gót. Đưa tay xuống từ từ
không làm mau (Hình 8).
Động tác 8: Từ từ hạ gót chân xuống cong ngón các ngón chân lên, hai tay đưa xuống úp hai
bên đùi như động tác chuẩn bị. Thở hít tự nhiên. (Hình 9) Kế duỗi thẳng các ngón chân
xuống đứng bình thường.
YẾU LÝ: Tập xong hết động tác thứ 8 thì trở lại tập động tác 1-2-3…cho đến 8 và tập làm 4
lần cả thẩy trước khi qua đoạn thứ hai. Nghĩa là đoạn thứ nhất tập từ đầu đến cuối làm 4 lần.
Lưu ý: Nếu hai bàn tay đan vào nhau như cài răng lược thì mỗi khi thu chưởng về sát đỉnh
đầu phải xoay cổ tay cho lòng bàn tay úp xuống đỉnh đầu; nếu bàn tay úp lên nhau thì khỏi
xoay.
Soạn giả nhắc lại lần nữa, đoạn thứ nhất nầy chủ luyện đả thông hai kinh Tam Tiêu nằm ở
phía ngoài hai cánh tay từ đầu ngón tay giữa cho đến đuôi chân mày. Làm tăng bổ toàn bộ cho
Ba Tùng trong châu thân. Đồng thời nhón chân và cong ngón chân lên làm đả thông hai kinh
Tỳ Tạng và hai kinh Dạ Dày giúp ăn ngon ngủ được và trí tuệ tăng tiến. Theo Giáo Sư Soulié
de Morant thì kinh Tỳ Tạng giúp đứa nhỏ (thanh niên) mau lớn và phát triển khả năng toán
học. Theo soạn giả kinh nghiệm thì luyện đả thông một lượt ba kinh Tam Tiêu, kinh tỳ Tạng
và kinh Dạ Dày làm thân thể rất mau cường tráng, trước nhất điều chỉnh mọi suy yếu về sinh
lý và sinh dục, sau đến bồi bổ hiệu năng làm tăng tiến sức mạnh của Ba Tùng và hệ thần kinh.
Do đó sau 30 ngày chuyên tập nội đoạn này cho đúng cách thì thân đã đổi khác, từ trầm trệ
hóa ra nhẹ nhàng. Một người lười biếng sẽ hóa ra siêng năng, thích làm việc…việc gì cũng
thích. Soạn giả bảo đảm lời dạy nầy của mình

ĐỆ NHỊ ĐOẠN CẨM

CHUẨN BỊ: Khi tập xong Đệ Nhất Đoạn Cẩm thì thu tay trở về thế dự bị như ban đầu, nghỉ
một phút rồi tiếp tục tập tới đoạn thứ hai. Người yếu nên nghỉ 2-3 phút (Hình 10).

2.Tả Hữu Khai Cung Tự Xạ Điêu (Trái phải dương cung bắn chim điêu)
Khác hơn đoạn thứ nhất chủ luyện khí đả thông kinh mạch, đây doạn thứ nhì nầy chủ luyện
lực gân. Luyện gân thì tấn Kỵ Mã. Và đoạn nầy được tập luyện với tấn Kỵ mã và Cung Bộ.
Đoạn nhì Bát Đoạn Cẩm chủ luyện gân lực cho đôi tay, thích ứng cho mọi vận động võ thuật
cũng như lao động thường thức hàng ngày của con người.
Động tác 1: Tư thế chuẩn bị, hai chân nhảy ra hai bên một bước rộng hơn vai, hai bàn chân
mở song song nhau, hai tay đưa thẳng bằng ngang phải trái, kế co tay vào ngang trước ngực,
bàn tay trái dùng sức (vận lực) mở các ngón ra, các ngón bấu cong cong vào như bấu lấy quả
cầu bằng sắt vậy (vừa nặng vừa trơn láng) lòng bàn tay hướng về hướng bên phải, và hổ
khẩu hướng lên trời. Tay phải nắm lại thành quyền nhưng ngón trỏ mở ngay trỏ thẳng đứng
lên trong lúc ngón cái kiềm (đè) lên ngón giữa. Mắt nhìn ngón trỏ tay phải theo đường bằng
ngang về hướng phải. (Hình 11)
Động tác 2: Đầu xoay nhìn về hướng phải, chuyển gân đẩy quyền phải. “CHỈ” ngón trỏ về
hướng phải, chưởng trái nắm lại thành quyền đồng thời cũng chuyển gân kéo bằng ngang về
hướng trái, lòng nắm tay úp vào trước ngực, tấn bộ cùng lúc rùn thấp xuống chuyển thành
chảo mã. (Hình 12)
YẾU LÝ: Động tác 1, tay phải như cầm cây cung, chưởng trái như cầm dây cung mà tra tên
vào, vận sức chuẩn bị dương cung nên hơi được hít đầy phổi. Kế động tác 2, rùn bộ là dương
cung, tưởng tượng dương cây cung bằng sắt nên phải vận lực nơi tay và chân rùn mình bám
đất. Nếu quen dần với lối vận lực lên xuống thì có thể tưởng tượng là mình đang cỡi ngựa trên
đường gập ghềnh và dương cung…
Động tác 3:… Nới lỏng nắm tay phải rồi mở ra thành chưởng, chưởng tâm chiếu về hướng
phải, kế thả lỏng hai tay, thở ra đồng lúc nhỏm người dậy hai tay thu về thành động tác 1.
(Hình 13 và 11)
Động tác 4: Làm lại hai (2) lần dương cung bắn sang hướng phải theo kiểu trồi lên sụp
xuống tức động tác 1-2-3.
Động tác 5: …. Dương cung bắn sang hướng trái, chưởng phải vận lực bấu vào trước ngực
bao lấy đầu quyền trái, trong lúc ngón trỏ quyền nầy chỉ thẳng đứng lên. Động tác và ý nghĩa
giống hệt động tác 1 nhưng chỉ đổi tay, mắt nhìn theo ngón trỏ trái về hướng trái. (Hình 14)

Động tác 6: Vận lực dương cung ra bắn về bên trái, hạ thấp tấn bộ, buông lên, thu tay, nhỏm
dậy. (Hình 15-16) Động tác nầy cũng làm ba lần như bên hướng phải. Tức đứng nhấp nhỏm
bắn cung mỗi bên ba lần…

YẾU LÝ: Từ động tác 1 đến động tác 6 thật ra là thực hiện lặp lại của động tác 1-2-3 và đổi
bên. Ý nghĩa của nó là bắn cung theo lối nhấp nhỏm gập ghềnh như đang khi cỡi ngựa trên
đường gập ghềnh mà phi nhanh nên phải trồi lên sụt xuống. Do đó phần chân (mã bộ) thì linh
động nhịp nhàng, mà phần tay thì vững vàng chắc chắn, lực được vận đầy, thân eo thẳng tắp.
Có được như thế thì mục tiêu mới chuẩn đích.
Điều quan trọng phải làm trong ba động tác bắn cung nầy là lắp tên nhỏm dậy, bắn thì xuống
tấn. Bàn tay nắm cung, ngón cái đè mạnh trên ngón giữa, ngón cái đưa cao, cánh tay thẳng,
tận lực đẩy tới. Bàn tay cầm dây cung nắm chặt tận lực kéo về sau bên đối nghịch cho thẳng
căng ngực. Sức mạnh được vận dụng nơi nắm tay vào chỗ eo lại. Do đó khi tập động tác nầy
thấy rêm nhức phần trên cổ tay nắm cây cung và bắp thịt bắp tay trên tay nầy, và tay kéo dây
thì chỉ mỏi ở bắp tay trên mà thôi. Làm đều hai tay thì mỏi đều. Nhớ phải gồng.
Động tác 7: … Làm xong động tác bắn bên trái thì xả lực, kế xoay mặt về hướng phải tra tên
vào cung, xuống tấn bộ và bắn về bên phải ba lần mà chân không động (bất động). Động tác
làm chậm vận lực đúng mức, bàn tay nắm và duỗi ngón trỏ cực lực. Kéo dây cung với tất cả
sức mạnh thân mình. (Hình 17)
Động tác 8: … Bắn sang trái trong thế bất động ba lần, giống như bắn bên phải trên động
tác 7. (Hình 18) Xong xả lực nhảy khép hai bàn chân vào sát nhau, tay buông tự nhiên hai
bên đùi, nghỉ một phút để bắt đầu làm đến đoạn thứ ba.

YẾU LÝ: Toàn đoạn gồm hai thế bắn cung, bắn theo lối nhấp nhỏm và bắn trong tư thế đứng
vững. Thế bắn nhấp nhỏm chú trọng nhịp nhàng bỏ chân, hễ trồi lên thì nạp tên, thở ra xả lực,
xuống bộ thì đã đầy hơi, dương cung, nhả tên. Quan trọng ở chỗ đẩy cung và kéo tên (kéo dây
cung), nắm tay đẩy cung lòng nắm tay ngửa tới hướng hẳn, ngón trỏ chỉ thẳng đứng, ngón cái
kẹp chặt ngón giữa tức giữ cho nắm tay được cứng, và cánh tay thì thẳng. Tay kéo dây cung
từ chưởng bấu từ từ nắm chặt lại như móng con chim ưng rồi ngón cái kiềm trên hai lóng thứ
nhất của ngón trỏ và giữa, cánh tay thì kéo cực lực ngang về hướng đối nghịch. Lồng ngực ển
tới trước. Hai tay đồng vận lực đẩy tới và kéo ra một lúc với động tác xuống tấn. Giữ bất động
trong 6 giây đồng hồ, xong mới xả lực trồi dậy thu tay về vị thế lắp tên. Lắp tên và bắn theo
nhịp độ đều và chậm. Động tác bắn bất động chỉ khác là không nhấp nhỏm. Hơi thở thì, lúc xả
lực thì thở ra, hít đầy hơi rồi thì vận lực (gồng) và khi vận lực thì khí đầy trong phổi ngưng
thở.
Điều nên nhớ là phải kiểm điểm coi hình thức mình làm có giống với sách không, kế đến ý
thức có được đầy đủ hay còn phân tâm tạp niệm (nghĩ bậy bạ không chú ý vận gân). Kết quả
của đoạn nầy làm mạnh hai cánh tay, thông hoạt và cứng cáp đôi chân. Làm thông kinh Ruột
Già gồm 20 huyệt khởi đầu từ đầu ngón trỏ chạy theo phần trên cánh tay cho tới cánh mũi. Trị
được bệnh táo bón, tê bại, phong thấp nhức gân khớp xương, nhất là đau gân tay, bán thân bất
toại

ĐỆ TAM ĐOẠN CẨM

3. Điều Lý Tỳ Vị Đơn Cử Thủ (Điều hòa Tỳ Vị một tay đẩy lên)


CHUẨN BỊ: Đứng thẳng, hai tay buông xuôi hai bên đùi giống như thế chuẩn bị hai đoạn
trước… mắt nhìn thẳng tới trước, hơi thở điều hỏa. (Hình 19)
Động tác 1: Tay phải từ từ đưa (đở) lên thẳng cánh theo chiều bên phải, đến khi tay cao
ngang vai thì các ngón của bàn tay từ từ ển (cong) lên bằng cách cong nơi cổ ta, trong khi
cánh tay được đưa lên từ từ không dừng lại. Khi cánh tay thẳng đứng với thân mình thì bàn
tay đã hoàn toàn ngửa lòng lên trời, mũi bàn tay chỉ về hướng bên trái. Các phần khác không
lay động. (Hình 20)
Động tác 2: Cánh tay phải từ từ co chỏ hạ thấp lưng bàn may (mu) xuống sát đỉnh đầu, chỏ
ngang hướng phải, lòng bàn tay vẫn chiếu thẳng lên trời. Trong khi bàn tay phải hạ xuống
đỉnh đầu thì bàn tay trái nắm lại thành quyền cũng đồng lúc co chỏ thu quyền lên cao ngang
hông. Hơi hít đều, giữ yên trong phổi (như hình 25 nhưng đổi tay). Kế nắm tay trái mở ra
thành chưởng. (Hình 21)
YẾU LÝ: Động tác thứ nhất đưa tay lên mà thân không động, vai để mềm mà cổ tay phải vận
động, theo tay đưa lên mũi hít đầy hơi. Khi tay tới đỉnh đầu nghe rêm phần gân hội giữa mu
bàn tay và bắp thịt của cánh tay sau thì đúng, nhược bằng chẳng thấy rêm đau thì sai vì cánh
tay đưa lên đã trệch đi tới trước hoặc sau không ngay hàng với vai. Đồng thời với động tác
đưa tay phải thì chân phải cũng từ từ lún (trì) xuống đất, khi mu bàn tay và bắp tay nghe rêm
thì bên hông phải cho đến chân (phần trước của chân) cũng nghe rêm rêm. Tập lâu mỗi lần
đẩy tay lên nghe mát lạnh từ một bên hông tới đùi và chân trước, ấy là khí lực lưu thông. Co
tay trái lên là hỗ trợ sự căng thẳng của hông phải tạo điều kiện cho khí lực lưu thông trong
kinh Dạ Dày cùng kinh Tỳ Tạng. Đây là cách điều hòa khí lực hữu hiệu nhất không có bậc bô
lão nào cùng võ gia nào tham luyện Bát Đoạn Cẩm mà không hiểu.
Động tác 3-4… Tiếp theo động tác trước. Bàn tay phải xoay lòng bàn tay úp xuống đỉnh đầu
(gồng cứng mà xoay), kế xoay trở lên rồi đẩy chưởng thẳng lên đỉnh đầu, tay trái đẩy xuống
và nắm lại thành quyền, hít hơi vào (thở ra ở động tác 2). Đoạn hạ chưởng xuống đỉnh đầu
rồi lại đẩy lên. Hạ xuống xong thì thở ra, kế hít hơi vào thì đẩy chưởng lên…. Tức thực hiện 2
lần đẩy lên hạ xuống. (Hình 22). Nói rõ hơn từ động tác 1 tới động tác 4 làm cả thảy 3 lần
đẩy chưởng lên và 3 lần hạ chưởng xuống, tức 3 lần điều lý kinh Tỳ Vị bên phải. Trong 3
động tác nầy có 3 lên hít vào và thở ra.
Động tác 5:…. Tiếp theo hình 22. Chưởng phải hạ xuống (thẳng tay) bên đùi đồng thời
chưởng trái (thẳng tay) đưa lên rồi lật cổ tay cho chưởng tâm ngửa lên trời ngay giữa đỉnh
đầu như Hình 23.
YẾU LÝ: Động tác 3-4 là động tác chót của 3 lần vận chuyển bàn tay phải để điều hòa kinh
Tỳ Vị bên phải.
Động tác 5 là động tác giao hoán (thay đổi) từ thế chưởng đẩy lên tay phải thay đổi bởi tay
trái, để bắt đầu sau đó tập đả thông hai kinh bên trái. Điều nên nhớ ở đây là hai chữ Giao
Hoán, tức thay nhau, vậy hễ tay nầy xuống thì tay kia lên, tay nầy nhích động xuống bao
nhiêu thì tay nọ nhích động lên bấy nhiêu. Tay phải xuống úp dần xuống rồi vào đùi, ngược
lại tay trái từ úp bên đùi trái sau khi lên ngang bằng vai thì ngửa dần cho đến đỉnh đầu thì
ngửa thẳng lên trời. Tay trái lên thì chân trái lún xuống. Mũi cũng hít vào từ từ cho đến khi
tay đến đỉnh đầu thì phổi đầy hơi.
Ở động tác giao hoán nầy coi như chưa hề vận động nguồn khí lực nào, chỉ đưa tay suông cho
có hình thức nhịp nhàng mà thôi. Dù vậy khi đưa lên luồng khí lực cũng tự nhiên lưu thông vì
cánh tay xoay, hông trái thẳng băng và chân trái lún xuống, cử động như thế làm hai kinh Tỳ
Vị bị điều động, luồng khí lực tự nhiên có đủ điều kiện lưu thông. Nếu thêm vào đó một
chuyển động của tay, chưởng và ý tưởng tập trung là lực khí cuồn cuộn tuôn tràn trong hai
kinh Dạ Dày và Lá Lách nầy.

Động tác 6:… Bàn tay phải nắm lại thành quyền, chỏ co lên, thở nhẹ ra đồng thời chưởng
trái hạ mu bàn tay xuống gần đỉnh đầu, gần tới đỉnh đầu thì hít hơi vào đầy phổi kế chuyển
lực vào cổ tay trái, bàn tay phải cũng co lên cực lực ngang hông. Kế nắm tay phải mở ra
thành chưởng như trên động tác 2. (Hình 24-25)
Động tác 7-8: Thực hiện lại hai chu kỳ đẩy chưởng lên và hạ xuống đỉnh đầu, lún chân, v…
v… Tất cả đều giống hệt các động tác 1 đến 4 nhưng chỉ khác tay mà thôi.
Sau hết là giao hoán tay phải lên rồi thực hiện lại 3 lần đẩy chưởng tay phải đoạn giao hoán
tay trái lên đẩy 3 lần chưởng trái. Tức là toàn đoạn ba nầy cũng tập cả thảy 12 lần. Các đoạn
khác cũng không khác.
YẾU LÝ: Như đã giảng trước, đoạn ba nầy dung luyện khí, đả thông hai kinh Dạ Dày và kinh
Lá Lách. Sự vận động có chỗ giống với Đoạn Thứ Nhất nhưng có chỗ khác là chân ở động tác
của đoạn thứ nhất có nhón lên hạ xuống, ở đoạn ba chân không nhón lên, mà chỉ có trầm lún
một bên. Về tay thì ở đoạn 3 khi hạ sát đầu có gồng chuyển.
Có thể nói đoạn thứ nhất là một thế tập tổng quát có khả năng huy động nhiều kinh mạch
trong một chuyển động toàn diện cơ thể. Còn đoạn ba chỉ chú trọng đến hai kinh Tỳ và Vị
kinh.
Được biết ông bà xưa chủ trương ăn được ngủ được là tiên nên đã chú trọng rất nhiều tới
những cơ quan thuộc Ba Tùng gọi chung là Ngũ Tạng Lục Phủ, gọi theo tiếng đời mới bây
giờ là Bộ Máy Sinh Lý, do đó mới nghĩ ra phương pháp thần diệu vận động để kích thích gây
nhiều lợi ích cho các cơ quan, vừa tu bổ vừa kiến tạo lại, vừa phát triển năng lực. Vì vậy khi
tập Bát Đoạn Cẩm người ta sẽ ăn ngon ngủ được, mau đói, đái ỉa (tiểu tiện) rất thông suốt,
sinh lý mạnh cho tuổi già, trẻ con mau lớn học giỏi, nhất là giỏi toán học. Sự kiểm chứng đã
có các bác học Tây Phương đảm trách xác nhận. Tiếc thay phương pháp lợi ích cao đẳng như
thế mà mấy trăm năm nay ông bà mình cứ bí truyền thành ra con cháu mới thua sút người ta.
Từ đây về sau thì chuyện đời đã khác rồi, vận hội mới đã tới.

ĐỆ TỨ ĐOẠN CẨM

CHUẨN BỊ: Như mọi đoạn trong Bát Đoạn Cẩm, hễ muốn bắt đầu luyện đoạn nào đều phải
đứng thế chuẩn bị trước rồi sau đó mới khởi luyện. Và khi chấm dứt cả đoạn đều cũng phải
trở về thế chuẩn bị ban đầu rồi nghỉ ngơi trong vài ba phút trước khi tập đoạn kế tiếp. Do đó
dù trong một đoạn nào không nhắc tới trở về chuẩn bị khi hết đoạn thì học giả cũng phải hiểu
là phải rút chân trở về thế chuẩn bị. Mọi thế chuẩn bị đều giống nhau là đứng thẳng hai chân
khít nhau, hai bàn tay úp vào hai bên đùi, mắt nhìn thẳng và hơi thở điều hòa. (Hình 26)
4. Ngũ Lao Thất Thương Vọng Hậu Tiền (Năm lao bảy thương liếc nhìn phía sau)
Đoạn nầy chủ luyện Não Tủy, diệt trừ năm bệnh Lao và bảy bệnh Thương Hệ Thần Kinh Não
Tủy bị mệt thì mọi cơ quan trong châu thân đều ảnh hưởng trầm trọng. Mọi sự mệt mỏi giả
tạo có thể xảy ra do óc đánh lừa cơ thể, từ đó sanh các chứng Lao Thương, và cũng do nhiều
vấn đề suy nghĩ phúc tạp trong đời sống tranh đấu hàng ngày người ta phải đối phó nên gây
nên Lao Thương nhẹ hoặc nặng. Theo tiếng đời mới của Y Học Thái Tây gọi là suy nhược
thần kinh hệ. Để lấy lại quân bình thần kinh và khinh khoái, linh hoạt đầu óc, phép tập số bốn
nầy có giá trị đáng được ca ngợi. Học giả thử ngay sẽ thấy là ngoài sức tưởng tượng của
mình, một niềm vui đến ngay sau vài cử động. Một món thần dược quá rẻ tiền. Ngoài thành
tích trị lao thương, nó còn phát triển nghị lực và sức mạnh của cổ, gân, xương cổ, tiểu não,
giúp võ gia sức lực đủ chịu đựng các đòn công dũng mãnh của đối phương.
Động tác 1: Song chưởng đưa xéo nhau lên trước mũi (không chạm mũi), bàn tay phải trong,
bàn tay trái ngoài sát mu bàn tay phải. Tay đưa lên từ từ và từ từ hít hơi đầy phổi khi tay tới
vị trí của động tác. (Hình 27)
YẾU LÝ: Đoạn Bốn nầy vận động toàn bộ kinh mạch trên hai cánh tay như Kinh Phổi, Kinh
Ruột Già, Kinh Tim, Kinh Ruột Non, Kinh Màng Bao Tim, Kinh Tam Tiêu, vì hai tay giang
thẳng phát động lực lượng, cộng động tác cong các ngón tay làm thúc bách khí lực trong kinh
phải di chuyển, cái ngẹo đầu càng tăng thêm sự thúc bách khí lực mãnh liệt… Ngoài ra xoay
cổ còn gây kích thích hệ thần kinh vốn từ đầu chạy tỏa xuống châu thân mà cổ là chỗ tụ hội
duy nhất có thể vận dụng dễ dàng. Đây là phương pháp thể dục của ông bà mình nên phải
giảng giải theo kinh mạch là sở học riêng biệt của ông bà, thành ra nhiều học giả Tây học còn
nhỏ tuổi chưa nghiên cứu có hơi khó hiểu, kỳ dư tại Tây phương hay các bác sĩ có tuổi tại quê
nhà (VN) thì chẳng có gì xa lạ. Vụ nầy chẳng qua như đời nay học Anh Pháp văn, xưa học
Hán văn, ngôn ngữ nào cũng có chỗ hay nếu ta am hiểu nó. Vì sợ thất bổn điều phát kiến tu
chứng nên soạn giả ghi vào đây những điều rườm rà, đáng ra chỉ ghi suông các động tác cũng
đủ. Nhưng chắc nhiều học giả cũng đồng ý thà có hơi rườm rà còn hơn thất bổn làm mất di
tích văn minh học vần, kho tàng kiến thức của Ông Gà mình. Cây có cội, nước có nguồn,
người ta có tổ tiên Ông Bà. Học kiến thức của Ông Bà phải nhớ Ông Bà. Ông Bà mình là đất
nước mình, đất nước mình tức nền văn minh Triết Học Đông Phương, một mặt trời vĩ đại mà
Tây phương ngày nay đã đổ xô đến nghiên cứu học hỏi. (Triết Học Đông Phương gồm Y, Võ,
Đạo, tức là Y học cứu dân, Võ học mạnh dân và giữ nước, Đạo để dìu dắt dân theo khuôn
phép xã hội, an lạc khi sống và bình thản khi già chết.) Trừ các bậc đại kiến thức, dân mình
có hiểu. Hiểu để tự biết mình.
Động tác 2:… Chân phải chậm chậm bỏ sang bên phải khoảng cách giữa hai bàn chân bằng
vai, đồng thời vận lực (gồng) hai tay đẩy sang hai bên trái phải, vừa đẩy vừa mở bàn tay ra
cho đến khi thẳng cánh tay thì song chưởng (hai lòng bàn tay) chiếu thẳng về hai hướng trái-
phải, mũi bàn tay dựng đứng, các ngón khít nhau kể cả ngón cái. Mắt nhìn theo bàn tay phải.
Hít thêm khí trời nén xuống bụng dưới, kế xoay bàn tay về sau cho cạnh bàn tay song song
với mặt đất (hai tay đều xoay, cổ tay xoay), hông đồng thời xoay theo về bên phải. (Hình 28)
YẾU LÝ: Chân trái bước ra chậm chạp, tay vận lực đẩy ra cũng chậm chạp cho đến khi thẳng
tay thì hông xoay theo, mắt nhìn theo tay phải từ đầu, đến khi hông xoay cực lực thì bàn tay
mới vặn thêm về sau, hít thêm khí.
Động tác 3:… Xoay hông trởi về vị trí bình thường, hai bàn tay cũng xoay về vị trí thẳng
đứng, kế thở hơi ra từ từ, chân phải cũng từ từ đưa về sát chân trái đồng thời hai tay xả lực
buông xuôi xuống hai bên đùi, nhưng mắt vẫn cứ nhìn về hướng phải. (Hình 29)
Động tác 4:… Hít hơi vừa phổi (không đầy) đoạn lên gân cổ rồi từ từ xoay cổ sang hướng
trái (nhìn sang bên trái). Các phần khác không động đậy. (Hình 30)
Động tác 5: Hít thêm đầy hơi rồi từ từ gồng cổ xoay vào ngay giữa rồi sang bên phải. Mắt cố
liếc nhìn ra sau lưng. (Giống hình 29)
YẾU LÝ: Động tác ba nới lỏng toàn diện thân, tay, thu chân về vị trí chuẩn bị, thở ra là lúc
nghỉ xả hơi cho khí lực lưu thông tự nhiên. Kế đến động tác 4 cổ gồng xoay sang trái và tận
lực liếc nhìn về sau lưng. Động tác 5 là lúc phổi tăng thêm dưỡng khí cổ cũng tăng thêm vận
lực chuyển về hướng phải, liếc nhìn ra sau (vọng hậu tiền). Tuy là theo thứ tự có năm động
tác cả thảy nhưng thực ra thì có 3 động tác thực sự có vận chuyển khí lực là động tác 2 và 4 –
5. Trong ba động tác nầy chủ luyện tập phần hông bán phần bên phải và 6 kinh trên hai tay
cùng thân cổ. Khi xoay hông thì chuyển động trục xương sống tức căng thẳng và thúc đẩy co
giãn hai kinh Nhâm Đốc tức hai kinh trọng đại nhất cơ thể con người. Phần nhận định dễ thấy
là cột xương sống được vận động làm cột tủy được kích thích tăng hoạt vận động ích lợi cho
mọi phần sinh lý liên quan.
Nếu không hít hơi vận khí mà chuyển động thân eo, cổ cũng là động tác tốt gây sự cường
tráng dẻo dai của eo và sự linh hoạt tốt đẹp cho thần kinh hệ. Môn thể dục vận động Tây
Phương Hy Lạp cũng có những động tác tương tự, chỉ thiếu phần vận khí và quán tưởng.
Đông Tây gặp nhau là chỗ đó, bản sắc Đồng mà Di cũng ở chỗ đó. Bởi thế cho nên ngày nay
tại châu Mỹ La Tinh và các khối quốc tế, người thức thời đua nhau học tập võ thuật Đông
Phương và Nội Công Bát Đoạn Cẩm nói riêng. Môn Thái Cực Quyền là một hình thức tu
luyện Bát Đoạn Cẩm hay Nội Công của tiên gia cũng vừa là quyền thế chiến đấu tự vệ hữu
hiệu. Nhưng có điều muốn đạt tới chỗ hữu dụng phải tốn nhiều thì giờ. Bát Đoạn Cẩm có chỗ
khác biệt: Mau thành.
Động tác 6:… Xả lực, đầu quay vào chính diện, song chưởng đưa lên tréo nhau trước mặt
như động tác 1, hơi thở bình thường. (Hình 31)
Động tác 7:… Xoay cổ về bên trái, vận lực nơi cổ, chân trái đồng thời đưa sang trái một
bước bằng vai, xoay hông sang trái, chưởng đẩy ra hai bên, v..v… làm giống như động tác 2.
Giống hình ở động tác 2 tức hình 28, chỉ khác hướng nhìn.
Động tác 8:… Thu tay về như động tác 3, mắt liếc nhìn về sau hướng trái rồi chuyển gân cổ
xoay về hướng phải…làm như động tác 4-5.
Sau cùng trở lại tư thế ban đầu để thực hiện trở lại một lần nữa từ đầu cho đến cuối. Nghĩa là
đoạn nầy làm hai lượt cả thảy 12 cử động, nhưng nếu đánh số thứ tự thì 16 động tác.
YẾU LÝ: Ba động tác 6-7-8 không có gì mới mẻ, chẳng qua là lặp lại các động tác đã học ở
trên 1-2…5, nghĩa là làm 3 cử động xoay qua bên trái. Và sau cùng là trở lại từ đầu để làm lại
một chu kỳ.
Như vậy tổng cộng sẽ vận động được 12 lần, 8 lần vận động cổ và 4 lần vận động eo lưng và
tay. Thấy như thế đủ biết phần cổ được chú trọng đặc biệt. Sự luyện tập cổ đã đưa đến kết quả
tốt đẹp dễ thấy; trong võ đường, võ sư có căn bản có thể chịu được các đòn tấn công vào cổ,
hoặc có thể cho siết cổ bằng tay, bằng dây, v…v… trong khi những người thường chỉ ấn nhẹ
ngón tay vào yết hầu, hay bóp nhẹ sau gáy là nhảy nhỏm chịu không nổi. Nhất là hai ống
huyết nằm bên cổ (thật ra hai đôi Tỉnh và Động) của người không tập luyện có thể bể ra, dập
nát hay ứ huyết khi có bàn tay người va chạm. Một người thường cũng đủ sức chặt sau cổ của
một người thường để làm người đó bất tỉnh…nếu mạnh có thể chết luôn. Nhưng đối với người
thành tựu nội công thì các đòn đơn sơ đó chỉ là những động tác đấm bóp cho máu chạy điều
hòa thêm mà thôi. Ngay như soạn giả, không phải một thành gia võ thượng về nội công nhưng
mấy năm về trước cũng đủ để 6 người lực lưỡng, 3 người mỗi bên, thắt cổ bằng dây thừng
trong ba phút đồng hồ vẫn chẳng thấy rêm nhức hay choáng váng mặt mày gì cả. Ai tập Bát
Đoạn Cẩm nầy tới nơi cũng có thể làm được các trò vặt như soạn giả.

ĐỆ NGŨ ĐOẠN CẨM

CHUẨN BỊ: Cũng như mọi đoạn khác đều khởi đầu bằng tư thế chuẩn bị, nghĩa là thân thẳng
đứng, hai tay buông xuôi hai bên thân và bàn tay úp vào hai bên đùi, mắt nhìn thẳng tới trước
và hơi thở điều hòa.
Duy có điều cần nói cho chư học giả rõ là khi nào tập luyện đã thuần thục tám đoạn và thể lực
đã có phát triển thì chư vị có thể luyện tập liên tục từ đoạn thứ nhất đến đoạn thứ tám một
mạch mà khỏi cần ngừng nghỉ lấy sức ở cuối mỗi đoạn. Nghĩa là từ thế chót của đoạn nầy thu
tay lại trong tư thế khởi đầu cho đoạn kế… và cứ thế mà luyện cho hết tám đoạn tức 96 lần
vận chuyển khí lực, mỗi vận chuyển gồng gân như vậy là 6 giây đồng hồ, cộng lại là 576 giây
tức chưa đầy 10 phút đồng hồ. Nhưng thực tế phải trải qua 16 động tác cho mỗi đoạn nên
cộng chung là 128 động tác tức thời gian vận hành và diêu động là 768 giây tức 12 phút 48
giây. Kể cả thời gian chuẩn bị hít thở vài hơi trước khi khởi đầu thì độ 15 phút cho mỗi buổi
tập. Thật đơn giản, thích hợp cho đời sống bận rộn ngày nay, tưởng các môn khác chưa có
môn nào tiện ích như thế. Tốt lành thay.

5. Dao Đầu Bài Vĩ Khứ Tâm Hỏa (Lắc đầu cong đít hết tính nóng nảy)
Ý nói xoay đầu uốn mông sẽ trừ được bệnh thịnh dương tức Hỏa vọng (vượng)

Động tác 1:… (Tiếp theo đoạn trước) Hai chân nhảy sang hai bên một khoảng cách rộng
bằng tấn Kỵ Mã, xuống tấn bộ thấp như kỵ mã, thân khom tới trước, hai bàn tay chống trên
hai đầu gối, hổ khẩu xoay vào trong vế, chỏ phải nghiêng qua phải, đầu ngã về bên phải,
mông đưa qua trái. (Hình 33)
YẾU LÝ: từ động tác chuẩn bị nhảy dạng hai chân ra thật là nhẹ nhàng không gò bó, đoạn
xuống tấn từ từ chẳng cần vận lực, hai tay tì lên gối, tay phải cong nơi chỏ vì thân nghiêng
qua phải và tay trái dĩ nhiên phải thẳng. Đầu nghiêng qua phải nhưng vẫn ngóc lên ngó tới
trước, mông ển lên đưa qua trái, giữ vai bằng không cho so le.
Động tác 2:… Cánh tay trái đẩy mạnh lên, cùi chỏ phải co sát lại, thân trên (đầu, cổ và vai)
quay thấp về bên phải từ cao xuống theo đường cung, mông thì cố đưa lên và hướng về bên
trái. Lúc cúi xuống thì hít hơi đầy và nín lại. cúi xuống thật thấp xong tay phải chống lên cho
thân trên theo đường cung cũ trở về vị trí ban đầu như hình 33. (Hình 34). Thở ra.
Động tác 3:… Tay phải chỏi đầu gối thân trên thẳng dậy, hai bàn tay áp hai bên đùi như
hình 35, kế xuống tấn Kỵ Mã, đầu ngã về bên phải chỏ phải co lại, tay trái chống lên… giống
như động tác 2. Tức là thực hiện trở lại động tác 2 một lần nữa.
Động tác 4: Làm lại như động tác 2 một lần nữa.
YẾU LÝ: Động tác 2-3-4 thật ra chỉ có một động tác 2 được lập lại 2 lần nữa tức làm 3 lần
động tác 2 cả thảy. Sau cùng thì đứng dậy như hình 35. Chỗ quan trọng cần đặc biệt lưu ý là
lúc ngã người nghiêng về bên phải chân trụ tấn như trồng (không lay chuyển), chỏ phải co
đồng thời tay trái chống gối trái đẩy qua, đầu nghiêng và toàn bộ phần trên thân mình đều lên
gân (gồng) cả cổ cũng gồng. Nói cho rõ là đầu vẽ một cung 180 độ từ trên xuống và ngược
lại, lấy mông đít làm trục (tâm). Đứng thẳng dậy thì hít hơi (không hít đầy lắm), nín hơi khi
xoay xuống và trở về vị trí ban đầu. Khi xoay xuống thì tận dụng sức lực tay trái và gồng
hông bên trái, khi lên thì vận dụng toàn lực cánh tay phải và hông bên phải. Phải xoay toàn
thân trên chớ không phải chỉ có xoay cổ không mà được. Lúc xoay thì eo hông mềm mà thân
trên gồng cứng.
Dĩ nhiên ban đầu rất khó thuận hành mềm dẻo nhưng về sau quen dần chẳng có gì là khó.
Làm từ từ chậm chậm không làm mau. Lúc xoay đi thì cột xương sống như bán kính chuyển
động uyển chuyển trên đường tròn do đầu vẽ từ trên xuống và ngược lại. Lúc làm phải thấy
(nghe biết) sự chuyển động của từng bắp thịt và gân xương từ thân trên trở lên.

Động tác 5:… Thân đứng như hình 35, đầu nghiêng về bên trái bằng cách chỏi thẳng tay
phải, co chỏ trái, xuống tấn Kỵ Mã… (Hình 36) Tiếp tục xoay đầu xuống trước, thấp, thân
ngang bằng với mông thì lại xoay trở về vị trí ban đầu (Hình 37) Làm ba lần động tác nầy rồi
trở về thế đứng thẳng như hình 35.
YẾU LÝ: Đây chẳng qua là động tác 2 hướng bên trái, do đó mọi nét biểu diễn từ hình dạng
đến nội dụng vận lực, hô hấp đều giống y như động tác 2. Hễ đứng lên thì Hô (thở ra), bắt đầu
chuẩn bị cúi xuống thì Hấp tức hít vào. Và nín hơi khi đầu xoay từ trên xuống và ngược lại.
Nghĩa là làm ba lần xoay xuống lên thì chỉ hít thở ba lần. Khi xoay đầu khí dằn xuống bụng
cho thân trên đặng linh hoạt.
Nên biết động tác nầy ngày nay được nhiều trường phái vận động thể dục và võ thuật Âu Á
Châu dung thao diễn như những bí quyết tạo sinh lực trước và sau các buổi tập cũng như tại
đấu trường. Có điều người ta ít thấu hiểu rằng phần quan trọng của thế tập nầy không chỉ ở
cái bề ngoài của nó là cúi xuống xoay lên suông sẻ và uyển chuyển, hoặc hít thở theo thông
thường, mà yếu quyết của nó là sự gồng chuyển của thượng phần thần thể, từ cái chỏi tay phía
bên nầy để xếp tay bên kia và ngược lại, v…v… Sự vận dụng vừa linh hoạt vừa gồng chuyển
đầu, cổ, xương sống làm thức tỉnh toàn bộ mày tuần hoàn trong cơ thể con người. Điều đặc
biệt là sự chống tay trước gối, hổ khẩu quay vào trong khi chỏi thẳng cánh tay thì ngón cái bị
căng thẳng dữ dội làm thông Kinh Phổi (Thủ Thái Âm Phế Kinh), khởi đầu từ trước vai dưới
xương quay xanh chạy trên mặt ngoài của cánh tay đến chấm dứt nơi đầu ngón cái. Sự chỏi
lên trong 6 giây đồng hồ là thời gian đủ cho khí lực đả thông toàn kinh nầy. Đồng thời ngón
tay út cũng nhờ động tác chỏi lên mà thông suốt được Kinh Tim chạy từ đối với Kinh Phổi,
nghĩa là mặt dưới của cánh tay chạy đến đầu ngón út. Bởi vận động hai kinh nầy nên khi chỏi
tay nghe rêm ngâm ngẩm phần dưới lòng bàn tay chỗ ngón út và ngón cái, đồng thời nghe
thông mát hai phía trong và ngoài (tức trên và dưới) cánh tay. Ấy là khí bị thúc đẩy lưu thông
vậy… xem tiếp Yếu Lý động tác 8.

Động tác 6:… Thân trên cúi xuống trước, chỏ co lại, cúi tận lực, chân vẫn giữ tấn Kỵ Mã,
đầu ngước lên. Đoạn ngước lên bằng cách chống hai tay thân thẳng dậy từ từ rồi ngửa cổ về
sau (lưng vẫn thẳng đứng). Kế ngẩng đầu lên trở lại tư thế như hình 35 (Hình 38 – 39). Làm
3 lần động tác nầy.
YẾU LÝ: Khi thực hiện xong động tác 5 thì thân trở về vị thế như hình 35, kế dùng sức nặng
toàn thân đè xuống trên hai tay co dần trong lúc hơi đã bít đầy phổi. Khi cúi xuống tận lực thì
giữ yên 6 giây đồng hồ với sự gồng cứng hai tay và như chịu sức nặng ngàn cân trên lưng, cổ
ngẩng lên cho mặt ngước tới trước. Xong từ từ chống hai tay lên với sức ép xuống của toàn
thân cho đến khi lưng thẳng đứng thì ngửa đầu ra sau, tưởng như có người níu đầu lôi xuống
phía sau vậy. Chịu đựng tư thế nầy trong 6 giây đồng hồ rồi ngước cổ lên vị thế hình 35 và từ
từ thở ra. Sau đó hít hơi vào để tiếp tục làm trở lại… Nên nhớ phải đứng đúng tấn Kỵ Mã chớ
không phải trong thế đứng thẳng hai chân, có như thế mới có tác dụng đúng mức khi cúi
xuống và ngước lên. Động tác cúi xuống thì cũng căng hai kinh Tim và Phổi, ngước lên thì,
hai cánh tay lại phải nén xuống đè lên đùi nên cũng thúc đẩy hai kinh nầy.
Do đó khi luyện tập động tác nầy mà cúi xuống ngước lên không nghe máy động trong hai
cánh tay và gang bàn tay thì sai rồi cần lưu ý mà làm lại cho đúng.
Khi đã thực hiện đúng toàn bộ Bát Đoạn Cẩm thì mỗi cái nhích động cũng đủ làm khí lực lưu
thông mãnh liệt giúp cơ thể chế ngự các yếu đuối thông thường của con người. Và vì thường
xuyên được thông suốt kinh mạch, khí và huyết lưu thông thuần nhuận nên cơ thể tươi tốt.
Việc nầy chẳng khác chi cây có tưới nước thường xuyên thì tươi xanh, ruộng có nước thường
xuyên thì lúa tốt… Các phương pháp thể dục trên thế giới cũng nhằm điều động lượng huyết
quản lưu thông tận cùng trong mọi tế bào của cơ thể hầu nuôi dưỡng chúng cho đặng tốt lành,
nhưng lắm khi áp dụng phương pháp thiếu sót hoặc quá bắt ép nên làm đứt nhiều mạch huyết
li ti mà thân thường chẳng được sống thọ. Môn Bát Đoạn Cẩm tuyệt diệu ở chỗ dẫn huyết tưới
nhuận cả cánh đồng thân thể mà còn dẫn khí sưởi ấm mọi nơi nhưng chẳng gây tai hại nhỏ
nào. Danh bất hư truyền là ở chỗ đó.

Động tác 7-8:…. Khi thực hiện xong động tác 6 thì trở về vị thế hình 35, kế nghiêng thân,
đầu về hướng trái, cánh tay phải thẳng, tay trái co nơi chỏ, vừa nghiêng đầu vừa xoay từ trên
xuống, tới khi đầu, mặt xuống trước hạ thấp sát đất thì quay luôn trở lên sang hướng phải rồi
trở về vị trí ban đầu. Hít một hơi trước khi xoay một vòng, khi xoay đủ vòng về đến vị trí cũ
thì thở ra từ từ, hít vào trước khi làm kế tiếp. Làm đủ 3 vòng từ trái qua phải thì bắt đầu làm
nghịch lại từ phải qua trái cũng 3 lần. (Hình 40-41).
YẾU LÝ:… Hít hơi và thở ra, tay chống lên hạ xuống trong động tác nầy giống như ở động
tác 2 trong đoạn nầy, nhưng đoạn hai chỉ xoay nửa vòng. Ở đây xoay tròn một vòng liên tục
nên hít hơi cũng chẳng dài hơn mà chỏi tay có khác là phải nhịp nhàng, hễ tay bên này co lại
tay kia phải duỗi (chỏi) và, khi thân qua bên khác rồi thì tay chỏi hóa thành co. Động tác liên
tục và liên lạc chống lên co xuống nhịp nhàng không gò bó. Thân và cổ gồng uốn uyển
chuyển.
….(Tiếp yếu lý ĐT 5). Động tác 2 thì chủ đả thông từng kinh một trên mỗi tay tùy từng co
duỗi, động tác 5 cũng thúc bách hai kinh cùng lúc lưu thông, ở đây, động tác 7-8 là phối hợp
các động tác trước, hay nói là cách huấn luyện kinh mạch toàn thiện hơn, đầy đủ hơn, dịu
dàng nhưng mãnh liệt vì dài hơi. Sự gồng chuyển lâu hơn nên kinh mạch có thể được dịp tăng
tiến khả năng bành trướng cũng như thông suốt.
Phải hiểu rằng các động tác trong đoạn nầy khi được thực hiện thì khi cúi xuống hay nghiêng
qua lại giống như đè trên (nén) một cái lò xo, khi thẳng dậy hai tay như sợi dây thun kéo (lò
xo căng ra), mông đít là trục xoay, xương sống lưng như bàn kính, đầu như đầu của com-pa.
Nhưng mọi phần trên đều gồng chuyển mà dẻo dai liên lạc mật thiết chớ không cứng nhắc
như vật vô tri. Sau hết là mọi cử động đều phải dự bị hòa hợp với hơi thở.
Riêng đoạn nầy có thể tập thành 3 lần toàn đoạn từ đầu đến cuối để tăng lực lượng huyết
mạch và dứt tánh nóng nảy vì bệnh bẩn huyết.
ĐỆ LỤC ĐOẠN CẨM

CHUẨN BỊ: Sau khi tập tới động tác chót của đoạn năm thì thu tay chân trở về thế chuẩn bi
như mợi thế bắt đầu …(Hình 42)

6. Bối Hậu Thất Điên Bách Bệnh Tiêu (sờ đầu xương cùn trăm bệnh tiêu tan)

Động tác 1:… Co gối hạ thân xuống (ngồi chồm hổm), hai tay từ hai bên mông lướt qua hai
bên đùi xuống tựa bên ngoài hai bắp chân, hơi thở để bình trong bụng, kế đoạn thở ra và hít
vào đầy phổi. Thóp bụng lại, chân búng mạnh cho thân nhảy lên trên không, người biến
thành thẳng đứng trong không trung, hai tay kéo lên vị trí cũ trong khi còn đang ở trên không
trung. Khi rơi xuống thì mũi bàn chân chạm đất trước kế đứng như hình chuẩn bị. (Hình 43).
YẾU LÝ: Khi co chân (gối) hạ thân xuống khum khum như ngồi chồm hổm thì chân buông
lỏng tự nhiên, hai tay cũng di chuyển nhẹ nhàng. Lúc hít hơi thóp bụng thì khí dồn lên ngực
cho nhẹ phần dưới (đề khí) hai chân phải dồn hết sức lực nhảy vọt lên thẳng người như cây
pháo. Nói cho dễ hiểu động tác nầy giống như ép cái lò so, xuống thì dằn (đè) cứng, buông thì
nhảy cao lên. Tất cả cũng chỉ xử dụng hai đùi, do đó khi nhảy tâm cũng chú ý hai đùi. Khi rơi
phải nhẹ nhàng, xong mới thở ra. Động tác co chân lại thì chậm chạp nhưng nhảy lên thì mau
lẹ. Biết được yếu lý thì không còn sai vào đâu được nữa.
Động tác 2:… Co chân xuống như động tác thứ nhất hình 43 rồi nhảy lên như cây pháo
thăng thiên, tay vuốt theo hai bên đùi. Rơi xuống bằng đầu hai bàn chân rồi kế mới đặt gót
chân xuống…(Hình 45), hình 44 thế co chân nhìn từ một bên.
Động tác 3 và 4:…Làm lại hai lần động tác 1. Nghĩa là từ đầu đến động tác 4 làm 4 lần
động tác co chân nhảy lên.
Động tác 5:…Đứng thẳng như hình chuẩn bị, hai bàn tay từ hai bên đùi đưa xéo về sau
mông đít, mũi bàn tay (các đầu ngón tay trỏ, giữa, áp út và út chum lại) đồng bấu vào đầu
xương cùn, ngón cái bấu vào mông để kềm cho tay khỏi sút ra (bấu chặt vừa vừa thôi) rồi
nhón gót chân lên, hạ xuống. Lúc nhón lên hít hơi và hạ xuống thì thở ra. Nhón lên giữ chân
nhón gót tức chân thẳng cứng đùi trong 6 giây đồng hồ, hai bàn tay bấu đít bất động. (Hình
46-47).
Động tác 6:…Lại nhón gót lên, hạ gót chân xuống như động tác 5…
Động tác 7 và 8: Làm lại hai lần như động tác 5. Tức động tác 5-6-7-8 làm giống nhau một
kiểu, nhón gót bấu đít. Tập lại 3 lần từ đầu chí cuối.
YẾU LÝ: Động tác 1 hay bốn động tác đầu của đoạn nầy nhằm làm dãn toàn diện thân mình
từ dưới lên trên, lại dụng ý làm thức tỉnh các kinh mạch chánh yếu trong châu thân như hai
kinh Nhâm và Đốc để thích hợp cho các động tác kế tiếp là thúc đẩy khí lực lưu thông trọn
vẹn trong hai kinh. Đây là cách bày biện hay dọn cỗ bàn chờ khách tới cũng đúng.
Từ động tác 5 đến động tác 8 hoàn toàn chủ trương bấu vào xương cùn, bấu từng hồi, liên tục
4 cái liên tiếp. Cái bấu tay nhằm gây chấn động đến hai kinh Nhâm và Đốc là hai kinh chính
yếu của con người, một kinh mang nhiều trách nhiệm bảo toàn sinh mạng cũng như năng
lực…
Do mỗi lần nhón chân lên, hạ chân xuống, đầu hai bàn tay khích động thức tỉnh hai đầu kinh
Đốc, kinh từ đầu xương cùn chạy theo sóng lưng lên đỉnh đầu và tới trước nhân trung (dưới
mũi). Một kinh chủ định việc hòa hợp các chức vụ của các cơ quan trong mình. Nhâm kinh
khởi đầu từ cuối đường chỉ dưới bộ phận sinh dục gần hậu môn (lỗ đít) lên tới dưới cằm, chạy
theo đường lông phân ranh trước bụng, ngực, cổ, cằm. Chính nó cũng giữ vai trò dung hợp
một số hoạt động của các phần trong châu thân. Sự va chạm từng hồi theo nhịp 6 giây đồng
hồ của mũi bàn tay trên hai đầu dây kinh nầy thúc đẩy khí lực lưu thông, và khi đã thông được
hai kinh quan trọng nầy thì mọi bệnh được tiêu trừ và nguồn năng lực của con người sẽ trở
nên mãnh liệt không thể diễn tả cho hết được. Trong cuốn Nội Công Thiếu Lâm Tự đã giảng
rõ việc khai mở hai kinh nầy bằng hô hấp theo Vòng Châu Thiên là trình độ cao thuộc môn
tỉnh luyện. Ở đây thuộc động luyện nhằm khơi động (kích thích) gây chấn động đả thông, dù
không phải là phương pháp toàn hảo nhưng vẫn có giá trị cấp tốc và dễ dàng. Một đàng khai
mở kinh chánh yếu theo đường lối tiệm tiến (tiến dần từ gốc ra ngọn) còn một đằng đi từ
ngọn vào gốc, hết các ngọn cũng tới gốc, dù không tổng hợp nhất thời nhưng khi đả thông
được mọi kinh mạch thì thân thể cũng đạt đến chỗ cường kiện trường thọ vậy.
Sự bấu từng chập nhờ nhón lên hạ xuống làm vang dội tận cùng trên hai kinh. Tốt hơn, hễ
mỗi lần hạ chân xuống thì thắt hậu môn (nhíu đít) một cái cho tăng sự thức tỉnh hai kinh. Nên
biết ngày xưa trước khi về nhà chồng các bà mẹ khôn ngoan đều dạy con gái mình những
phương pháp vệ sinh thường thức như làm sao cho chồng ham mê sinh lý, ham mê vừa phải
khi gặp người chồng lạnh nhạt, hoặc làm sao giảm bớt cường độ ham muốn tình dục quá độ
của người chồng bằng khoa cho ăn uống….trong việc dạy vệ sinh giao hoan bà mẹ dạy khi
nào người chồng bất tỉnh nhân sự trên mình vợ lúc lâm trận thì dùng trâm cài đầu hay móc tai,
(lông nhím) châm vào đầu xương cùn chồng sau khi sờ khám cẩn thận, châm thật chính xác,
gọn lẹ và ngón tay cầm đầu trâm không quá một phân tây, chớ chẳng nên xô chồng ngã xuống
vì sợ sệt. Ngày nay ít người biết mặc dù khoa học văn minh hơn. Đó là châm cứu huyệt của
kinh Tích Tủy làm thức tỉnh mọi cơ năng làm hồi tỉnh người đánh mất sinh khí lực nhất thời
trong cơn xúc cảm. Sự xúc cảm đột ngột và quá mạnh làm ngưng các hoạt động của các kinh
nên gây sự bất đắc kỳ tử, mà hai kinh chủ yếu là kinh Nhâm và Đốc. Theo các bác sĩ dã chiến
(bác sĩ ngoài mặt trận) cho biết các chiến sĩ bị bắn trúng xương sống (đứt kinh Đốc) chết đột
ngột thì dương vật xuất tinh ướt cả quần lót. Nhiều người đàn ông (đa số) còn khỏe mạnh mà
chết cũng xuất tinh. Người treo cổ chết cũng xuất tinh đầy quần ấy bởi sợi dây thắt trúng (gút)
Đốc kinh sau gáy.
Do sự nhạy cảm và dễ đả thông bằng lối kích thích, động tác Bát Đoạn Cẩm nầy nhằm khai
thác kích động trên hai đầu kinh Nhâm Đốc nhằm tạo sự gia tăng hiệu năng tạo dựng năng
lực, phát triển khí lực trong hai kinh, để xua đuổi mọi mệt mỏi suy yếu vì “kém lao động” ít
vận động hoặc vận động sai tự nhiên. Khi hai kinh Nhâm Đốc được thúc đẩy thông suốt cùng
các bộ kinh mạch khác cũng thông suốt thì thân thể suốt đời cường kiện, đã cường kiện thì
trăm bệnh còn chỗ đâu vương vấn…. Ấy, ý nghĩa là vậy.
Sau hết điều cần được lưu ý, khi bấu vào xương cùn chớ bấu chặt liên tục mà theo với động
tác nhón lên bấu vào rồi lại thả ra (lơi ra) từng chập. Khi xong đoạn tập thấy vùng lỗ đít tê tê
(the the hay mát mát) như có xức dầu Nhị Thiên Đường thì đúng, còn bấu đả đời mà buông
tay ra chẳng thấy cảm giác gì thì làm sai hoặc thần kinh tủy bị bệnh, nên tới bác sĩ chuyên
môn hoặc thầy châm cứu nhờ coi sóc. Nên biết ít có người bị chứng liệt thần kinh tủy sống, vì
liệt thì con người đó hết xài, hết xài trong mọi trường hợp và mọi sự việc.
Phước thay, người tập Bát Đoạn Cẩm nào cũng thấu lẽ tự nhiên sinh tồn, dồn giữ được sinh
lực nên ai cũng đẹp đẽ phương phi vui tươi yêu đời, xã hội lành mạnh nếu mọi người đều ham
thích môn học bổ ích nầy.
ĐỆ THẤT ĐOẠN CẨM

CHUẨN BỊ: Khi tập hết dộng tác chót của đoạn sáu, buông hai bàn tay ra song song hai bên
đùi trong thế chuẩn bị…
7. Toàn Quyền Nộ Mục Tăng Khí Lực (Nắm chặt tay, trợn mắt tăng khí lực)

Động tác 1: Hai bàn tay nắm lại thành quyền như hình 48.
Quyền phải đưa ngang về hướng bên phải, mắt chăm chú nhìn theo quyền, quyền trái thu về
để ngửa bên hông trái (Hình 49).
Hai chân nhảy dạng sang hai bên khoảng cách lớn hơn vai bằng tấn Kỵ Mã nhưng hai chân
vẫn đứng thẳng, kế xuống bộ như tấn Kỵ Mã tay trái đưa thẳng tới trước, quyền phải co về
bên hông phải, đứng dậy đồng thời quyền trái rút về hông trái, quyền phải đấm ra hướng
phải.
YẾU LÝ: Lúc đưa quyền ra bên phải thì tay để lỏng không có trọng lực, hít đầy hơi nín lại,
xuống tấn thu tay phải, đưa tay trái tới trước, kế đứng lên thu tay trái, đấm tay phải về hướng
phải thì vận lực đánh mạnh. Mắt nhìn chăm chăm về hướng đấm (có sách viết nhìn thẳng tới
trước cũng đúng).
Điều quan trọng nên nhớ là động tác đấm nầy có hình trạng nhấp nhỏm (bật lên bật xuống),
do đó gối phải thật linh hoạt như cái lò xo, xuống tấn bộ giao hoán (thay đổi) tay, đứng lên thì
đấm ngang ra.
Khi giao hoán, tức lúc chưa vận lực thì mọi nơi đều buông lỏng, kể cả hai nắm tay chỉ nắm
lỏng khi đưa ra thu vào, chỉ khi đứng nhỏm dậy đấm ngang là phải nắm chặc và chân cũng tì
miết bám chặc xuống mặt đất. Muốn dễ có hiệu quả thì đầu gối phải hơi khép vào (kềm) hai
bàn chân mới đè xuống đất. Ở đây, tập cho đôi chân linh hoạt và đôi tay nhịp nhàng điều hợp
được với chân. Có điều hòa hợp tác được chân tay thì khí lực mới phát triển đầy đủ, khả năng
mới đạt tới mức tối đa. Toàn bộ nầy chủ luyện cho tay chân và thân eo liền lạc với nhau như
một sợi dây, và khi đã luyện được như vậy thì khí lực được ứng dụng một cách tích cực…
Động tác 2: Xuống tấn đứng lên đấm ngang hai lần với nắm tay phải về bên phải. Tức động
tác 1-2 giống nhau, xuống tấn, thay đổi tay, hô hấp, đứng lên đấm ngang, mắt nhìn chăm chú
không nháy. Đấm bên phải ba lần rồi đổi bên.

Động tác 3:… Xuống tấn Kỵ Mã, thu quyền trái về hông trái đồng thời đấm quyền phải sang
phải. (Hình 50)
Động tác 4: Xoay mặt về hướng trái, thu tay phải, đấm tay trái ra hướng trái (Hình 51).
YẾU LÝ: Động tác 3 và 4 đấm giống như động tác 1 và 2 nhưng khác ở chỗ không nhắp
nhỏm. Ở đây chân xuống tấn Kỵ Mã rồi trụ tấn thật vững, đấm sang phải thì mắt lộ hung
quang (như giận dữ) nhìn theo quyền đấm, xoay về bên trái đấm tay trái ra.
Động tác 5:… Đấm tay phải ra chính diện, thu quyền trái về bên hông trái như hình 52. Mắt
nhìn thẳng tới trước.
Động tác 6:… Đấm quyền trái ra, thu quyền phải về hông như hình 53.
YẾU LÝ: Lúc đấm chân trụ tấn Kỵ Mã không động, eo mềm tự nhiên, vai mềm linh hoạt
nhưng cổ tay và nắm tay thì cứng chắc. Mắt tập trung ý chí vào không phân tâm, nhìn thẳng
tới trước như quyết đấu với đối thủ. Khi đấm thì nắm chặc nắm tay trong 6 giây đồng hồ rồi
thả lỏng các ngón tay ra, kế thở ra hít vào nắm chặc thì đấm tiếp.

Động tác 7:… Nhỏm gối dậy, đứng thẳng hai chân nhưng khoảng cách giữa hai bàn chân
không thay đổi. Đấm quyền phải tới trước. (Hình 54).
Động tác 8:… Đấm quyền trái ra, thu quyền phải về (Hình 55).
YẾU LÝ: Toàn đoạn có lúc đứng đấm, có lúc nhắp nhỏm đấm, lại có lúc trụ tấn đấm. Đấm
ngang qua bên lại đấm thẳng tới trước. Ba phần hình chủ luyện là Tấn vững, linh động. Eo nới
lỏng và Vai linh hoạt. Đứng thì luyện Khí, Tấn thì chủ vận Lực, tức gồng mà đấm mạnh. Tập
xong toàn đoạn rồi tập lại 2 lần. Những lần sau đấm mạnh và liên tục từng chập. Chú mắt
nhìn là luyện nhãn thần.
ĐỆ BÁT ĐOẠN CẨM

CHUẨN BỊ: Tập xong đoạn 7, thu chân tay trở về thế chuẩn bị, như hình 56.

8. Lưỡng Thủ Phan Túc Cố Thận Eo (Hai tay ôm (kéo) chân bền thận eo)

Động tác 1: Cúi xuống trước, lưng khom, chân thẳng, hai tay đưa xuống chạm hai bên cổ
chân (Hình 57), đoạn uốn bật thân trên lên ngang bằng rồi lại cúi xuống đưa hai tay ra sâu
đàng sau (Hình 58). Xong, lưng thẳng dậy thế chuẩn bị.
Động tác 2:… Cúi xuống trước, tay đưa ra sau chạm hai cổ chân (bên ngoài), xong bật thân
trên lên ngang bằng mặt đất rồi cúi xuống lần nữa đưa hai tay sâu về phía sau. Động tác nầy
giống như động tác thứ nhất. Xem hình 59 và 60 là hình 57-58 nhìn từ một bên.
YẾU LÝ: Điều chú trọng ở hai động tác nầy là sự co duỗi của hông eo, tức cố làm cho thân
eo càng mềm mại thì càng đúng với ý nghĩa của bài tập. Do đó, khi cúi xuống phải nới lỏng
toàn thân trên, tay, vai, hông eo, hai đầu gối có thể máy động trong các động tác nhún lên
nhún xuống, nhưng khi hai tay đưa ra sau thì tuyệt đối phải đứng thẳng. Tức thân trên bật lên
bật xuống như nửa thân trước của một con sâu, hai chân bám chặc mặt đất và thẳng tắp. Cúi
xuống thì thở ra, bật lên thì hít vào. Dĩ nhiên, cúi lần thứ nhất coi như mới nửa động tác khi
hai tay mới chạm hai cổ chân nên chỉ thở phân nửa khí, cúi thêm lần nữa đưa tay cực lực ra
sau thì mới thóp bụng thở hết sạch không khí.
Bật lên cúi xuống hơi thở phì phò, hít vô bằng mũi thở ra bằng miệng chu lại như huýt sáo.
Thở lâu tự thấy hơi thở của mình ra vào như luồng gió mạnh được mình phun ra hút vào vậy.
Dù như thế nào đi chăng nữa, khi luyện tập vẫn chú trọng đến sự mềm dẻo của hông eo. Bí
quyết của bài tập là cả tư tưởng trong lúc tập cũng dẻo dai và mềm mại chớ chẳng phải chỉ có
hình ngoài mềm dịu mà thôi. Người giỏi bất cứ môn kỹ thuật nào cũng đều biết sự quan trọng
của ý trong hình mà biểu diễn…

Động tác 3:… Sau khi làm động tác 2 thì lưng thẳng dậy như thế chuẩn bị hình 50. Kế mềm
dẻo cúi xuống trước hai tay đưa xuống, bàn tay chạm hai bàn chân và nắm lấy hai bàn chân
từ hai bên ngoài bằng cách ngóc mũi chân lên. Kế co chỏ xuống tức thì thân bị lôi xuống sâu
hơn, chỏ ló ra sau hai chân. Hai chân thẳng đứng không cho gập xuống. Đầu cũng cúi xuống.
(Hình 61-62, hình 63 là hình 62 nhìn từ một bên).

Động tác 4:… Làm xong động tác 3, thân trên bật dậy thẳng đứng, rồi lại cúi xuống, bàn tay
nắm bàn chân, co chỏ cúi thêm thật sâu. Tức làm lại toàn bộ động tác ba vừa học trên.
YẾU LÝ: Động tác 3 và 4 trên đây chỉ là một động tác lập lại hai lần, và hình thức so với
động tác 1 thuộc đoạn tám không khác. Có điều đổi kiểu đưa tay một chút, thay vì hai bàn tay
đưa ra sau thì bàn tay nắm bàn chân, sự việc như thế chỉ bổ túc chớ không khác cách. Tay đưa
ra sau chưa được vận dụng hoàn toàn thận eo, do đó hai bàn tay nắm chân kéo thêm xuống,
như thế thì thận eo được thỏa mãn hơn. Nói thì nói như thế nhưng người mới tập chẳng thấy
thỏa mãn gì cho lắm mà ngược lại thấy cúi xuống đau lưng quá, nhất là thẳng sau hai nhượng
khó chịu khôn cùng. Nhưng các vị chớ ngại, chẳng có bề gì đâu, tại các vị thường không vận
động nên gân cốt bị cứng mà đâm đau, (tuổi già ai cũng bị bệnh cứng gân, dòn mạch máu nên
lâu lâu có người bị đứt gân máu mà chết, bệnh nầy bác sĩ giỏi đến đâu cũng chịu thua, bên
Tây cũng như bên Nam. Nhưng các bác sĩ có tuổi và giỏi đều có lời khuyên nên tập thể dục
nhẹ cho gân mạch mềm mại dẻo dai trừ bệnh đứt gân máu. Soạn giả chuyên môn hướng dẫn
quý ông bà có tuổi (lớn tuổi) tập một bài võ đặc biệt làm mềm dẻo gân cốt, máu huyết lưu
thông, ăn được ngủ ngon, vui tươi yêu đời. Các vị đã tập với soạn giả đã thấy đời vô lo và vui
tươi như lúc mình còn tuổi trẻ nên soạn giả thường được lời ngợi khen. Mà công ấy là đều
của người xưa hết vậy). Người trẻ tuổi, con nít gân cốt mềm thì chẳng thấy đâu là tại chúng
chưa bị bệnh cứng gân. Nay võ gia tập đoạn nầy thường xuyên thì chẳng hề sợ bệnh đứt gân
máu mà thác. Ai có tập luyện võ thuật đúng sách vở của ông bà đều không chết vì bệnh mà
chỉ chết già như trái chin cây.
Động tác 5:… Khi tập xong động tác 4 thì thân bật dậy thẳng đứng, hai bàn tay áp xuôi hai
bên mông, ức bàn tay áp ngay chỗ hỏm xuống, cúi lưng như hình 64. Đoạn hai tay chống lên,
đầu ngã về sau, lưng cong như chiếc cầu, cổ cũng ngửa lên, gối cong về sau như hình 65. Hít
và giữ hơi phân nữa trong phổi khi uốn lưng ra sau. Xong bật dậy thẳng lưng thở ra hít vào
(như hình 67).

Động tác 6-7-8: Tiếp tục lập lại 3 lẩn động tác uốn lưng xuống sau như động tác 5 vừa học
trên. (Hình 66 là động tác của hình 65 nhìn từ một bên).
YẾU LÝ: Bốn động tác 5-6-7-8 chỉ là một động tác diễn lại bốn lần. Toàn động tác chỉ hít
phân nửa phổi mà thôi, chỉ hít đầy khi đứng thẳng và thở ra phân nửa trước khi ngửa ra sau.
Khi ngửa ra sau phải để xương sống mềm dẻo (tự nhiên, chân và xương sống uốn cong như
một cây cung hay nửa vòng tròn (xem hình 66). Muốn được như vậy, một trẻ nít thì không
mất thời gian bao lâu nhưng người có tuổi thì cũng phải kiên nhẫn.
Khi ngước lên như vậy, toàn bộ kinh Nhâm và Đốc đều thông lưu, những kinh khác cũng
được thúc đẩy và tủy sống cũng được săn sóc. Thế nên sau vài vận động thấy tâm thần vui
tỉnh lạ thường, sảng khoái chưa từng thấy.
Ngày nay, các môn quyền thuật tân tiến cũng học phương pháp thứ tám nầy nhưng thay vì vận
động thành hai thì (cúi xuống và thẳng dậy, đứng thẳng và ngửa ra sau) họ chỉ làm một mà
thôi là, cúi xuống chấm hai bàn tay trên mu bàn chân rồi đứng lên ển lưng ra sau. Sự luyện tập
hời hợt nầy mặc dù cũng thấy dãn gân cốt, thoải mái chút ít, nhưng nếu tập đúng phương pháp
chính tông thì ngoài sự mềm mại thân eo, còn đạt những lợi ích về sinh lý: mạnh thận, tráng
dương v…v… Tuổi già mà còn cưới hầu non là nhờ tập đoạn nầy đó.
Mấy mươi năm trước học cái gì: Rừng…Khôn dó. Nhỏ không học lớn mò sao ra… trong sách
Vần Con Gà lớp Đồng Ấu. Triết lý nầy rất đúng, nhỏ có thì giờ học, lớn rồi đầu tắt mặt tối
làm sao mò mẫm học vấn gì. Nhưng mà đời sống phải tranh đấu không học thì còn gì là đời,
đời mà chẳng hiểu gì cả thì đâu phải đời. Lại nhiều người cứ tưởng học đủ thứ chuyện, đủ thứ
môn bên Tây bên Tàu cho có kiến thức… cho “mò ra”, nhưng thảm thương thay có ai mò ra
cái gì đâu, chỉ mò được tấm thân gầy guộc, bệnh hoạn hàng ngày phải dùng xiêm áo che đậy
sự xấu hổ của mình “thân gầy”. Dường như cho đến nay, thế kỷ 20 rồi mà còn nhiều người
quá khiêm tốn (lạc hậu) trong việc săn sóc cá nhân mình, sự đánh lừa tư tưởng và che đậy sự
phiến diện bằng lời chê bai người vai u thịt bắp, đố kỵ người mạnh khỏe hơn mình…
Xin thưa là thời chiếc áo the đen, bộ lưng cong trên gậy trúc tượng trưng cho vẻ cao quý kẻ sĩ
đã hết rồi… Nhưng quý vị cũng chưa đến nỗi phải trễ tàu đến đất hạnh phúc. Với cuốn Bát
Đoạn Cẩm nầy là chuyến tàu chót đưa quý vị đến chỗ vui tươi lành mạnh. Từ nay quý vị có
thề sửa sách Con Gà lại là… Lớn mò cũng ra…Ai mò cũng ra… Có sức khỏe chân chính thì
mò cái gì cũng ra.
Hôm nay viết dòng nầy đây soạn giả nhớ tới các giáo sư quá đỗi yêu nghề mà thân gầy không
lo, và một bằng hữu lớn tuổi, tác giả có sách nhà Lửa Thiêng in đồng thời dạy nhiều đại
học… chỉ “độ” mỗi ngày hai gói mì làm tại Chợ Lớn… thì làm sao đi suốt nổi đường dài…
“Chiều dậy điểm tâm sơ trái bắp,
Sáng ngày súc miệng một câu thơ.”
Kẻ sĩ như thế há làm nên việc gì mai hậu; than ôi đời học hành rồi chịu kiếp hẩm hiu thế hay
sao?
Cuốn Bát Đoạn Cẩm nầy soạn giả một phần dành tặng cho các bằng hữu tư tưởng còn quá
nắm níu thời: “Học trò xứ Quảng ra thi, Thấy cô gái Huế chân đi không đành…” Thẩm mỹ
học mà làm gì, tiền đồ khỏi từ Thân, Phật còn bảo thân là Kim Thân sao người thức giả còn
chưa chịu thấy!
Soạn giả rất buồn thấy người mình học sách Vần Con Gà có thành kiến lớn mò không ra rồi
thành chẳng làm nên tích sự gì, trong khi bên Tây bên Mỹ người ta làm ra quá xá, có nhiều
người gần trăm tuổi mà cũng mò ra nhiều công trình giá trị giúp ích cả nhân loại. Đó là nhờ
có sức khỏe vậy.

PHẦN PHỤ THUỘC


(NỚI DÃN TOÀN DIỆN)

Thông thường, thay vì dùng một số trang để làm bảng tóm lược bài học giúp học giả, môn
sinh thấu đáo dễ dàng hơn khi đã đọc qua hoàn toàn cuốn sách. Nhưng lần nầy, soạn giả nghĩ
chắc cũng chẳng cần vì sách ngắn bài ít, và mỗi đoạn soạn giả đã giảng rõ lắm rồi, giờ có
nhắc lại chắc cũng chẳng thêm được bao nhiêu kiến thức mới…. Thôi thì dùng một đoạn trình
bày thêm phần tập luyện phụ thuộc nầy còn có ích hơn. Mà có ích thì làm.
Phàm mọi sự trong đời cũng chẳng có gì làm toàn hảo, người đời bảo Vô nhơn thập toàn, tức
không có ai hoàn hảo, bất cứ cái gì cũng chẳng thể hoàn hảo, người đã thế thì sự người bày ra
cũng thế, dù rằng người bày ra bất cần là ai. Một định lý toán học cũng có ngày phải sửa lại
hay thêm vài chữ, công thức…. cũng thêm bớt được qua nhiều trào lưu, thời đại… Giáo điều
các tôn giáo cũng lần hồi canh tân cải tiến vì thời đại đã đổi sang một chiều hướng mới… Có
như thế thì mới thích hợp mới vẹn toàn, mới hấp dẫn, mới truyền bá sâu rộng, mau chóng.
Bát Đoạn Cẩm dù có hay, có hoàn toàn cách mấy, do một bậc Thánh chế ra nhưng Thánh có
giỏi, có tài cũng chỉ hiểu biết có giới hạn, tài năng có phạm vi… và Thánh đã chết quá lâu rồi,
nên có việc chưa kịp sửa đổi thêm thắt cho đặng hoàn bị. Bát Đoạn Cẩm đã có mấy ngàn năm,
đã truyền bá được mấy ngàn năm dĩ nhiên không dở, giá trị tất phải có chỗ tuyệt đối, tuyệt đối
như kinh điển các giáo phái… nhưng mà tuyệt đối cũng có thể thêm thắt cho tăng phần giá trị,
sự thêm vào bao giờ cũng lợi ích. Việc này giống như trong buổi họp, ý kiến nhiều người bao
giờ cũng đến chỗ rút tỉa được kết luận giá trị, có như thế mới có đủ thứ cuộc họp, từ hai người
trở lên, quan trọng cá nhân hay thượng đỉnh quốc gia, thế giới… sau này có thể liên hành tinh.
Theo đà văn minh nhân loại, Bát Đoạn Cẩm là một học thuật giá trị vẫn được bổ khuyết chút
ít cho tăng thêm phần lợi ích thiết thực, thiết thực cho ngành luyện tập võ thuật cường thân
tăng thêm thể lực cho các môn thể thao thể dục. Các động tác tập thêm sau đây được rút tỉa
tinh hoa từ các phần tập luyện sơ khởi làm nóng người của các môn võ thuật lớn bành trướng
trên thế giới ngày nay. Những điều trình bày ở đây không một vị võ sư căn bản nào không rõ,
trừ một vài thế tập soạn giả được bí truyền có lẽ ít người biết, soạn giả cũng trình bày luôn
cho khỏi thất truyền.
Dĩ nhiên các động tác tập mới nầy không được giải thích theo lối xưa, chú trọng đến Kinh
Huyệt, Mạch Lạc, Khí Lực vận chuyển khi tập. Mà chỉ có sự hướng dẫn phải làm nới dãn,
buông lỏng, hô hấp sâu… Và đa số thì rất dễ làm, rất tốt để phụ họa bổ túc thêm cho Bát
Đoạn Cẩm. Dù người ta chẳng hề nói phần sâu thẫm của động tác nhưng soạn giả nhờ có học
căn bản Nội Công Y Học và Đạo Học nên có thể tùy nghi giải thích tác dụng và sự lợi ích sâu
thẫm từng thế tập. Nhưng thấy rằng chẳng cần thiết lắm nên cũng chẳng giải thích, nếu có học
giả nào thắc mắc thì soạn giả chỉ điểm sau. Dù là những động tác tập thêm, mời, nhưng học
giả chớ vội khinh thường hay thờ ơ, vì những động tác mới mẻ này, dù mới mẻ vì lối trình
bày và huấn luyện theo tân thời nhưng căn bản những thế tập nầy có nguồn gốc xa xưa trong
kinh điển hoặc trong các môn học thuật cao siêu như Yoga của Ấn Độ, Đạo Gia của Trung
Quốc và thần thánh sức mạnh trong Thánh Kinh tại Hy Lạp, một quê hương cha đẻ các Thế
Vận Hội ngày nay…
Sự tổng hợp các động tác xem qua rất đơn sơ nhưng kết quả bồi bổ sinh lực chắc chắn khả
quan. Do đó nó được phổ biến và được huấn luyện trước tiên trong mỗi buổi diễn tập thể dục,
võ thuật trên khắp thế giới.
Vậy thời nó cũng rất hay. Nhưng hay hơn nữa là chúng ta hãy thực hành để được hay như
những người hay trên khắp thế giới, những bằng hữu của chúng ta. Đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu. Rồi đây các vị học giả cũng sẽ có cơ duyên hội ngộ hoặc tự sẽ trở thành
những nhân tài trong ngành học thuật và chỉ nhân tài mới tìm gặp được nhân tài. Vì nhân tài
mới hiểu được nhân tài, họ là những máy điện tử có cùng tần số vậy.
Mời quý vị luyện tập để củng cố tần số của tổng đài mình, một tổng đài độc lập, tự do, vui
tươi và hạnh phúc. Một tổng đài không thể dùng tiền mà mua được hoặc ăn trộm ăn cướp mà
có được. Vô biên.
Các thế tập phụ thuộc gồm 12 thế tạm đặt tên như sau:

1. Đưa Hai Tay Lên Xuống (căn bản từ Đạo Gia của Lão Tử)
2. Đứng Lên Ngồi Xuống (căn bản từ môn thể dục Hy Lạp)
3. Đưa Hai Tay Ngang Bằng Ra Sau (căn bản từ Ngũ Cầm Đồ của danh y Hoa Đà)
4. Chân Co Chân Duỗi Hai Tay Ấn Gối (căn bản từ thể dục Hy Lạp)
5. Tay Đưa Nghịch Chiều Trên Đầu Sau Hông (căn bản từ vũ điệu Á Châu)
6. Xoay Tay Thành Vòng Trước Mặt (căn bản từ thể dục Hy Lạp)
7. Xoay Tay Thành Vòng Hai Bên (căn bản từ thể dục Hy Lạp)
8. Xoay Cổ (căn bản từ Đạo Gia Lão Tử)
9. Cúi Người Hôn Gối (căn bản từ Yoga Ấn Độ)
10. Tư Thế Con Rồng (căn bản từ Yoga Ấn Độ)
11. Khấu Xỉ (căn bản từ Đạo Gia Lão Tử)
12. Phúc Hô Hấp tức Thở Bằng Bụng (căn bản từ Đạo Gia Lão Tử)

1. Đoạn Thứ Nhất: ĐƯA HAI TAY LÊN XUỐNG

Động tác 1: Đứng hai chân song song, khoảng cách giữa hai bàn chân rộng bằng hai vai, hai
tay buông xuôi hai bên đùi như hình 69. Mắt nhìn thẳng tới trước. Hơi thở điều hòa. Kế đưa
hai tay lên từ từ, đồng thời hai bàn chân cũng nhón gót theo, lòng bàn tay úp, hai cánh tay
song song nhau. Đưa cao lên thẳng tới đỉnh đầu, lòng bàn tay ngửa tới trước… đồng thời hít
hơi vào…. Tay ngưng thì mũi ngưng thở… Hình 70
Động tác 2: Buông hai tay xuống, trở về vị trí cũ, chân hạ xuống, đồng thời thở ra như hình
71.
Động tác 3: Nhón gót, đưa hai tay lên như động tác 1.
Động tác 4: Hạ hai tay về vị trí cũ như động tác 2… Toàn đoạn thứ nhất gồm hai động tác
đưa lên và hạ xuống, làm lại 8 lần trước khi tập sang đoạn kế.
YẾU LÝ: Động tác rất dễ, chỉ đưa (nâng) hai tay lên hít hơi vào và hạ hai tay xuống thở ra,
đồng thời với nhón gót và hạ gót. Bí quyết nên nhớ là khi đưa hai tay lên tưởng như có kéo
theo vật nặng và đưa xuống cũng như có vật trì. Mũi hô hấp liên tục và nhịp nhàng. Làm quen
mỗi lần nâng tay lên như có gió cuốn theo. Bụng dưới hơi ển ra khi đưa tay lên cực độ cao
__________________
"Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả
Anh hùng hào kiệt có hơn ai"

1. Đoạn Thứ Hai: ĐỨNG LÊN NGỒI XUỐNG

CHUẨN BỊ: Đứng hai chân song song hoặc khít nhau như hình 71.

Động tác 1: Cúi thân xuống trước, hai bàn tay đặt trên hai đầu gối, mắt nhìn xuống cổ chân.
Hít hơi đầy, dừng sức vừa phải ở hai bàn tay ấn trên hai đầu gối hai lần, chân (nhượng phần
sau gối) ển ra sau bằng cách mũi hai bàn chân hơi nhích lên. (Hình 72)
Động tác 2:…. Buông đầu gối tự nhiên cho sức nặng thân hình kéo rơi xuống rồi như có lò
xo bật đít lên rồi lại rơi xuống (tức rơi dội lên lại rơi xuống) giống như con chim Nắc nước
nhịp nhịp phao câu xuống nước vậy. Hai bàn tay vẫn để trên hai đầu gối, chỏ khuỳnh ra hai
bên. (Hình 73) Xong đứng lên như hình 72.
Động tác 3-4: Làm lại động tác 1-2 bốn lần, kể cả lần đầu.
YẾU LÝ: Đoạn 2 nầy chỉ có hai động tác đơn giản, đứng lên ngồi xuống, dù đơn giản nhưng
chính nó có phần lợi ích sâu xa về sinh lý. Trước nhứt động tác nầy làm hoạt động mạnh hơn
bộ máy tuần hoàn, ngồi xuống phần bụng dưới đẩy cách mô ép lá phổi giúp thở mạnh, và khi
đứng lên thì giúp hít mạnh. Sự trồi lên sụt xuống là hoạt động cả Ba Tùng, làm trẻ các thành
phần Ba Tùng. Sau hết là giúp sức cho Đệ Nhất Đoạn Cẩm là Lưỡng Thủ Kình Thiên Lý Tam
Tiêu.
Nhưng điều quan trọng thực tiễn dễ thấy phải làm đúng để có hiệu quả là trừ động tác dùng
hai bàn tay ấn trên gối phải tập trung nửa phần sức lực, kỳ dư các động tác đều để thân được
hoàn toàn tự do khinh linh rơi xuống bằng chính trọng lượng của cơ thể và sức rơi là trọng lực
tự nó. Nghĩa là không hề có sự gượng ép, cưỡng cố nào. Đứng lên hít vào, ngồi xuống thở ra.
Thở ra làm hai lần, cái nhắp đít thứ nhất thở nửa hơi, cái nhắp đít thứ hai thở hết, kế chống
gối đứng lên….
Người trẻ nào có chơi quả banh gắn liền sợi dây thun dài, cầm đầu dây cả trái banh rồi ném
trái banh xuống đất (không chạm đất), trái banh rơi xuống rồi bị sức kéo của dây thun bật
lên… Ý nghĩa của toàn động tác nầy cũng tợ như thế.

1. Đoạn Thứ Ba: ĐƯA HAI TAY NGANG BẰNG RA SAU


CHUẨN BỊ: Đứng dạng hai chân, khoảng cách giữa hai bàn chân rộng bằng vai. (Hình 74)

Động tác 1: Đưa hai tay lên song song nhau, bàn tay mở sấp xuống mặt đất, cao ngang vai,
hít hơi vào bằng mũi (Hình 75)
Động tác 2:… Gạt bằng hai tay sang trái về sau lưng, tay vẫn thẳng và song song nhau (tuy
nhiên tay phải tự nhiên bị cong), mắt nhìn theo tay, chân đứng bàm đất, hông xoay theo tay.
(Hình 76)
Động tác 3:… Hai tay đưa bằng trước mặt như động tác 1. (Hình 75)
Động tác 4:… Hạ hai tay xuống như thế chuẩn bị hình 74. Thở ra. Kế hít hơi vào đưa tay lên
để thực hiện lại động tác 1-2-3-4… về phía bên phải. Tức làm mỗi bên một lần. Làm 8 lần cả
thảy. (Hình 77)
YẾU LÝ: Đoạn 3 nầy có 4 động tác cho mỗi bên, cộng chung là 8 động tác. Khi thực hiện
biểu diễn vận dụng hai hơi thở. Hít vào thì cử tay lên đưa ngang bằng về sau đoạn đưa về
trước, hạ tay xuống thì thở ra; kế lại cử tay lên, hít vào đưa ra sau về hướng nghịch bên…
Động tác 1 nầy cũng đưa tay lên giống động tác 1 đoạn thứ nhất của những thế tập phụ thuộc,
nhưng khác là không nhón gót mà ngược lại phải trằn gót xuống thật cứng, tay đưa lên thì dịu
dàng, tưởng hai tay là hai tay bằng gân không có xương nghĩa là vai để thật tự nhiên, đồng
thời phải thấy hai cánh tay rất nặng. Kế đưa ra sau thì hông xoay theo tay, tức tay đi trước
hông mới xoay theo, lúc nầy hông và vai đều nới lỏng tự nhiên, tay đưa đi vặn hông như ta
vặn sợi dây thừng, kế tháo giây thừng trở về vị trí cũ. Bàn chân không cho xê dịch trong lúc
xoay. Làm thật nhẹ nhàng không cố gắng vận lực hay gò bó gồng chuyển.
Động tác nầy giúp nới giãn các xương nơi ngực, hông eo, và xương sống. Khi làm quen thấy
thoải mái lắm sau hai ba lần vận động.
Một người đã có công phu Bát Đoạn Cẩm và các thế phụ thuộc nầy mỗi lần diễn tập một động
tác nào đều cảm ứng được ngay những vùng trong thân thể được săn sóc tới, do đó họ vừa
khinh khoái vừa kiểm soát được các phần còn bị bỏ quên. Ai có uống nước đá mới biết sự mát
của nước đá và khi tập Bát Đoạn Cẩm… thì mới có cái khinh khoái do các thế tập cho mình.

1. Đoạn Thứ Tư: CHÂN CO CHÂN DUỖI HAI TAY ẤN GỐI

CHUẨN BỊ: Hai chân dang ra hai bên, khoảng cách giữa hai bàn chân rộng bằng hai vai, hai
tay để xuôi theo hai bên đùi. (Hình 78)

Động tác 1: Dồn trọng lượng thân thể về chân phải tức ngồi xuống trên chân phải, chân phải
co, chân trái thẳng. Trong lúc ngồi xuống tay phải chống lên gối phải và tay trái chống trên
gối trái, và chống thật mạnh. (Hình 79)
Động tác 2: Chân phải đẩy thân nhón lên cho đùi trong (bắp vế) ngang bằng đầu gối, rồi hai
tay ấn mạnh trên gối đè xuống, lúc đó mông cũng rơi xuống. Tức hai lần ấn tay trên hai gối
và một lần nhón đít lên cho rơi xuống.
Động tác 3: Chân phải đẩy thân lên đùi trong ngang bằng với gối thì chuyển trọng lượng
thân thể sang chân trái, kế ngồi xuống trên chân trái, hai tay ấn trên hai gối. (Hình 80)
Động tác 4: Nhỏm đít lên, rơi xuống, hai tay theo đà ấn xuống trên hai gối. Mắt nhìn tới mũi
bàn chân trước. Tập hết 4 động tác là một lần, tập 4 lần.
YẾU LÝ: Đoạn nầy chú trọng làm dãn các gân và mạnh hai đùi, do đó mỗi lần ngồi xuống
hay trồi thân lên đều vận dụng một chân (chuẩn bị ngồi lên) còn chân duỗi thẳng chỉ đóng vai
hờ. Nhưng chân để thẳng cũng được chú ý đặc biệt bằng cách chỉ để thẳng cũng được chú ý
đặc biệt bằng cách chỉ để cho gót chân chạm đất, mũi bàn chân thẳng lên trời lại duỗi bàn
chân thẳng tới trước, lúc ấn tay lên gối thì cố đè mạnh trên gối chân thẳng cho nới dãn thẳng
chân. Nói rõ hơn, khi ngồi xuống và nhỏm đít lên thì chân co làm việc, khi tay ấn xuống,
nhún nhún thì gối chân duỗi lãnh phần.
Trong lúc đứng lên ngồi xuống cố giữ cho thân trên được ngay thẳng hoặc hơi chồm tới trên
chân duỗi, đừng để ngã tới hướng trước mặt. Đứng lên hít vào, ngồi xuống thở ra. Khi trồi
thân qua lại (đổi chân tập) thì thân không đứng dậy quá cao, hoán chuyển (thay đổi) sức nặng
trên chân nầy sang chân kia là một cách trồi qua theo đường cung. Nghĩa là sức nặng thân thể
trước ở chân bên nầy liền được rót sang chân kia chớ không phải như khối đá bỏ sang. Muốn
được như thế hai gối phải mềm dẻo uyển chuyển. Mọi động tác được thực hiện một cách cục
mịch (có góc cạnh, gượng gạo) đều không đúng ý nghĩa

1. Đoạn Thứ 5: TAY ĐƯA NGHỊCH CHIỀU TRÊN ĐẦU SAU HÔNG

CHUẨN BỊ: Hai chân đứng cách nhau rộng hơn vai như hình 78.

Động tác 1: Sau khi thực hành động tác cuối cùng của đoạn thứ tư, đứng dậy trong tư thế
chuẩn bị rồi tiếp tục diễn:
- Tay trái từ bên đùi trái lật ngửa bàn tay ra ngoài rồi cất ngược bàn tay trở lên, đưa cánh
tay lên, đồng thời nghiêng người về bên phải, tay trái tiếp tục đâm ngửa lòng bàn tay trên
đỉnh đầu về hướng phải: cùng lúc tay phải đưa ngửa bàn tay ở sau lưng về hướng trái. Hai
chân giữ thẳng. Đưa tay qua phải qua trái thật tay và thân nghiêng hết sức. (Hình 81)
Động tác 2:… Tay trái đâm mạnh thêm về hướng phải một lần, đồng thời tay phải cũng đưa
qua bên trái một lần, thân theo đà tay trái nghiêng theo qua phải một lần nữa. Xong trở lại tư
thế chuẩn bị. Khi tay đâm thì hít hơi vào, đâm thêm lần thứ hai lại hít thêm vào, khi buông tay
trở về thế chuẩn bị thì thở ra.
Động tác 3: Nghiêng người về bên trái, tay phải đâm trái trên đầu, tay trái đâm qua phải sau
lưng. Cách thức giống như động tác 1, chỉ đổi tay và đổi bên.
(Hình 82) Hình 83, nhìn từ bên trái động tác nghiêng về bên trái.
Động tác 4: Tay phải, trái đâm thêm qua phải trái lần nữa trước khi thu tay về thế chuẩn bị.
Động tác nầy giống động tác 2 chỉ khác bên và đổi tay.
Tập đủ 8 lần, mỗi lần đủ 1-2-3-4. Rồi tập tiếp đến đoạn thứ 6.
YẾU LÝ: Động tác nầy gồm hai động tác được lập lại thành bốn, chủ luyện mềm dẻo vai,
chiều nghiêng của thân và hông, do đó khi nghiêng người phải nghiêng theo chiều nghiêng,
hai tay đưa tréo nhau (nghịch chiều) phải làm hai nhịp thật nhịp nhàng với nhau, hễ tay phải
đâm qua thì tay trái đâm lại, một trên một dưới đồng thời tương ứng, hông thì kịp lúc nghiêng
theo uyển chuyển.
Động tác nầy có hơi khó làm nhưng tập vài lần sẽ thấy chẳng có gì khó cả mà khi làm thấy hai
bên sườn dãn ra rất dễ chịu. Động tác còn làm cột xương sống vận động mềm mại thêm ra,
tăng bổ lợi ích cho hệ thần kinh trong việc tự điều chỉnh những ngưng trệ vì mỏi mệt hoặc ít
vận động. Một thế tập tuyệt hảo. Khi làm phải mềm dẻo, uyển chuyển như một vũ điệu vì nó
thoát thai từ điệu vũ.

1. Đoạn Thứ Sáu: XOAY HAI TAY THÀNH VÒNG TRƯỚC MẶT

CHUẨN BỊ: Sau khi thực hành xong động tác cuối cùng của đoạn 5, chân trái đưa về gần
chân phải cho khoảng cách giữa hai bàn chân bằng một vai, hai tay buông xuôi ở phía trước
đùi như Hình 84.
Động tác 1: Hai tay đưa vào trước hạ bộ tréo nhau, tay phải ngoài tay trái trong rồi từ từ
đưa lên ngang trước ngực như hình 85.
Động tác 2: Tiếp tục đưa tay lên thẳng trên khỏi đỉnh đầu như hình 86…
Động tác 3: Tiếp tục gạt hai tay xuống hai bên như hình 87, rồi hai tay trở về thế chuẩn bị
ban đầu. Rồi lại tiếp tục tréo nhau đưa lên… Đường đi của hai tay tạo thành hai vòng tròn
trước mặt…. Quay từ dưới lên 8 vòng rồi từ trên xuống cũng 8 vòng.
YẾU LÝ: Động tác quay thành vòng nầy làm mềm dẻo đôi vai và quân bình bộ máy tuần
hoàn ngoài ra còn gây nhiều kích động đến cơ quan trong Ba Tùng. Do đó nó được dùng để
làm điều hòa cơ thể trong khi bắt đầu và sau một trận đấu trên sân tập hoặc đấu trường tranh
giải.
Về điểm trọng yếu của thế nầy chú trọng điều hòa hơi thở, hễ hai tay quay lên thì hít hơi từ từ
vào, tay tới chỗ cao nhất để bắt đầu xuống thì đầy phổi, khi tay xuống thì thở ra, thở cạn khi
hai tay trở về vị trí chuẩn bị.
Quay chậm chậm đều đều và liên tục. Hai tay mềm dẻo tự nhiên trong khi quay. Vai mềm,
mỗi lần quay lên tưởng như lồng ngực mở rộng, lớn thêm để hút khí trời, mỗi lần quay xuống
thấy lồng ngực khép lại đuổi khí ra. Tập đã quen thì có thể quay hơi mau mà thở vẫn đều nhịp
và đều đủ.
Mới tập chỉ nên quay hai tay mà chân thì bám chặt trên mặt đất, sau giỏi rồi có thể khi hai tay
quay lên chân nhón theo, để khi tay hạ xuống hai gót nhẹ nhàng hạ xuống. Như vậy, xuống
lên lên xuống nhịp nhàng, thở ra thở vào… thành một chu kỳ đều nhịp làm nhẹ nhàng mạch
máu, thân thể khinh linh như muốn bay lên. Khi tới trình độ thuần quen để có cảm giác lâng
lâng bay bổng khi hai cánh tay tạo những vòng tròn trong sương sớm thì thân thể từ đó có thể
nói là đủ mềm dẻo trong các động tác cần thiết. Sự mềm dẻo rất cần thiết cho trình độ cao
đẳng; một thứ mềm dẻo như sợi dây thun như chiếc lò xo.

1. Đoạn Thứ Bảy: XOAY TAY THÀNH VÒNG HAI BÊN

CHUẨN BỊ: Xoay tay thành vòng đàng trước xong để tay trở về vị trí buông xuôi nới lỏng hai
bên đùi, hơi thở bình thường tự nhiên. (Hình 88)
Động tác 1: Hai tay đưa lên song song nhau từ dưới lên rồi xoay vòng ngược về sau trở về tư
thế chuẩn bị để rồi bắt đầu quay trở lên. Hai cánh tay tạo thành hai vòng tròn hai bên thân
(Hình 89) Quay 8 lần.
Động tác 2:… Động tác 1 quay từ dưới lên đủ 8 vòng thì quay ngược từ trên xuống, tức quay
ngược ra sau lên rồi xuống trước. Cũng quay đủ 8 vòng.
YẾU LÝ: Cách để thân, vai mềm dẻo như đoạn 6, hô hấp cũng không khác.

1. Đoạn Thứ Tám: XOAY CỔ


CHUẨN BỊ: Đứng chuẩn bị như đoạn 7, nhưng hai tay nắm lại thành quyền.
Động tác 1: Đầu cúi xuống vận sức nơi cổ (gồng) đồng thời xoay cổ sang phải từ từ (Hình
101-102).
Động tác 2:… Kế từ từ xoay cổ qua hướng bên trái, hai nắm tay nắm chặt phụ lực. (Hình
103).
Làm động tác 1 và 2 bốn lần trước khi tập tới động tác 3.
Động tác 3:… Xoay cổ từ phải qua trái rồi tiếp tục ngửa cổ ra sau xoay về bên phải. Xoay
thành vòng từ phải qua trái 4 vòng và ngược lại cũng 4 vòng.
Xoay qua thì cúi cằm xuống, trở về thì ngửa đầu ra sau (Hình 104).
YẾU LÝ: Quan trọng ở động tác là gồng cổ và xoay chậm, hít thở thật sâu, giữ hơi dưới bụng
khi xoay. Từ trái qua phải trở về là thở một hơi, rồi hít vào xoay tiếp. Khi xoay cổ thành vòng
cũng một vòng thở một hơi. Tập lâu quen có thể vừa xoay vừa hít thật dài hơi, do đó đầu xoay
liên tục hơi thở cũng không đứt quãng. Sau cùng có thể gồng cổ cúi xuống và ngửa ra sau
chậm chạp để tập cho tăng khí lực ở trái cổ, là chỗ yếu nhất thuộc phần cổ. Tập luyện thường
xuyên động tác nầy cổ sẽ mạnh đẹp và đủ sức chịu đựng nhiều va chạm quyền cước trong lúc
giao đấu.
Đoạn Thứ Chín: CÚI NGƯỜI HÔN GỐI

CHUẨN BỊ: Khác hơn các đoạn trước, đoạn nầy thế chuẩn bị phải ngồi duỗi chân theo tư thế
đặc biệt là hai chân duỗi thẳng tới trước, hai bàn tay đặt trên hai đầu gối. (Hình 105)
Động tác 1: Cúi thân xuống trên hai chân, hai bàn tay lướt tới nắm lấy cổ chân, đầu sát
xuống càng thấp càng tốt, đến mặt chạm đầu gối. (Hình 106)
Động tác 2: Kế thả lỏng hai tay, thân hơi lên, đầu ngóc lên rồi lại cúi xuống mặt đụng đầu
gối. Xong trở lại vị trí chuẩn bị như hình 105.
YẾU LÝ: Động tác nầy chủ làm dẻo hông, mềm xương sống. Khi cúi xuống gối giữ thẳng sát
mặt đất, lưng hông mềm dẻo thở ra. Khi ngóc đầu lên mới hít vào. Cúi xuống ngóc lên 8 lần
trước khi sang động tác 3.
Động tác 3:… Banh hai chân bẹt sang hai bên như hình 107, kế hai tay đưa về trên cổ chân
phải, đầu cúi xuống trên chân phải, hai tay chạm hoặc nắm giữ bàn chân. Cúi xuống ngóc lên
tí rồi lại cúi xuống, cũng giống động tác 2. (Hình 108)
Động tác 4:… Xoay về bên trái, tay chạm cổ chân trái, đầu cúi xuống nhịp nhịp như con bửa
củi hai lần trước khi cất mình thẳng dậy để “bửa” về bên gối phải.
YẾU LÝ: Hai động tác nầy cũng phải giữ chân cho thẳng bằng với mặt đất, thân cúi xuống
càng sát gối càng tốt, hai chân càng bẹt rộng càn hay. Tập bên nầy xong kế sang bên chân kia
rồi đổi lại…làm đủ mỗi bên 4 lần thì đứng lên để chuẩn bị tập đoạn kế tiếp.
Dĩ nhiên ở động tác nầy rất khó luyện tập cho những người lớn tuổi, vì các khớp xương cứng,
gân mạch cũng cứng, cần phải có thời gian mới có thể tập cho trán chạm gối được. Đối với trẻ
nhỏ, thanh niên thì chẳng khó khăn gì. Lưu ý là không được cho đầu gối co lên trong lúc cúi
xuống, và chân càng bẹt ra hai bên càng có giá trị. Mới tập chớ ráng quá, từ từ rồi cũng tới
chỗ hay. Có chí thì nên được nhắc tới trong các động tác rèn luyện cơ thể mà đại biểu là cở
như động tác nầy.

Đoạn Thứ Mười: TƯ THẾ CON RỒNG

Riêng đoạn nầy cần ba hoa đôi lời về cái tên văn hoa của nó. Nguyên trong chánh bản Yoga
tại quê hương Ấn Độ người ta rất chuộng và kinh sợ loại rằn Mãng Xà nên môn phái Yoga đã
đặt tên thế tập nầy là Mãng Xà. Vả lại cách cất đầu lên cũng giống loài rắn Hổ Mang nên nó
được đặt tên. Nhưng ở quê hương Việt Nam mình, con rồng được tôn vinh hơn hết, đến như
mình đây (người Việt Nam) cũng đều là con của Rồng cháu của Tiên ... mà Rồng cũng là loài
linh thú đứng đầu trong Tứ Linh truyền thuyết là Long, Lân, Qui, Phụng. Nói ra đủ thứ
chuyện hay, chuyện quý của thân Rồng, vua xưa cũng tự ví mình là Rồng… Tóm lại, Rồng là
cực quí, cực hay, cực tôn kính… chẳng những xưa mà nay và sau này tại Á Châu và Thế Giới
cũng đều công nhận dân Việt Nam là dân Rồng, nhất định phải là Rồng thì mới có thể vui
lòng mình, tức vui lòng tổ tiên mình. Do đó, tư thế con rắn bên Ấn Độ được soạn giả đặt tên
Tư Thế Con Rồng cho vui lòng ông bà, cô bác, anh chị em con cháu…xứ mình. Mà soạn giả
có làm như thế mới xứng đáng một con cháu của ông bà Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến,
chứ để nguyên rắn rít bò cạp, cóc nhái mà bắt chước học nó, tôn thờ nó, nhớ đến nó v..v… thì
hóa ra mình còn dở hơn chúng sao. Nói tới đây soạn giả nhớ lại chuyện xưa hồi ông bà mình
một Việt uy nghi đứng đầu Bách Việt ở bên Tàu thì các Việt khác trong 99 Việt đều học theo
Đại Việt nên cái gì bên Tàu cũng hay, từ cái tên vua, quan, phẩm phục, đến văn nghi, biểu võ,
sách vở, v…v… tên thôn xã xóm làng cũng đều hay, đến tên thế võ, bài quyền, v…v… cũng
đều mang nhiều ý nhị văn hoa (xem các tên thế võ, bài võ xưa bên Tàu thì biết, sách sử ghi
ràng rang, đến đời vua Càn Long có cố ý sửa đổi cho mất uy danh vẫn không sao sửa hết
được vì trăm năm bia đá thời mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ). Kể từ đời sau Đại
Việt anh Cả di dân xuống cuối Nam Hải nầy rồi thì bên Tàu đại loạn, tên tuổi làng nước, nghi
biểu vua quan, v…v… sách vở, bang hội võ thuật đặt tên bậy bạ kém vẻ văn hoa, ngay như
phái Thiếu Lâm lại có người học liền đẻ ra phái Con Bọ Ngựa tức Đường Lang, rồi phái gì
Con Cá Tra (Tra Quyền của học giả họ Tra) ngựa quyền (Mã Quyền, quyền của họ Mã) Cây
Quyền (Mộc Quyền), ôi mạnh ai nấy đặt từ trên bờ tới dưới nước đủ thứ. Tổ sư đâu còn qui cũ
vinh dự gì. Mấy trăm năm nay loạn tại quê nhà nên chưa có nhân tài ly hương trở về cố quốc
huấn dụ lại văn hóa có kỷ cương, âu là cũng đáng buồn thay. Mà tại quê hương VN mới nầy
nhiều người ít học cũng quên luôn việc gốc mình là Tinh Hoa Bách Việt. Nếu có người nhắc
lại thì ai cũng rõ hết như chuyện Tú Tài họ Lý của mình sang xứ Cao Ly làm vua chăm sóc
giáo dưỡng dân Cao Ly và gây dựng nên cơ đồ mới có xứ ấy ngày nay mà sách sử bên Cao
Ly còn chép rõ không ai đọc sử Cao Ly mà không biết…. Các xứ phên dậu gần gũi VN bây
giờ cũng đều do người VN (mang quốc tịch tiểu quốc) lãnh đạo giáo hóa dân.
Nói một chút để nhắc nhở mình nhớ tới nguồn gốc mình rất là vĩ đại kẻo con cháu quên hết.
Nếu ông bà mình không hay thì làng nước mình không mang tên hay văn hoa, nay đọc danh
xưng địa lý tất thấy rõ hơn hết, chỗ nào tên bậy bạ thì do thổ dân khi xưa đặt, còn chỗ nào tên
hay là do ông bà mình đặt ra, và nếu là người Việt Nam gốc Bách Việt số 1 bên Tàu qua thì
tên đều hay đẹp, đẹp cả người mà đẹp cả tên, thông minh và hiền lành… còn có chút xíu lai
căn thì không thể so sánh được. Mà người Việt chính thống thì trong hoàn cảnh nào cũng giữ
tròn khí tiết, dù việc nhỏ đến việc lớn đều chu biện được vẹn toàn, do đó dám hàng ngày
ngâm nga “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” là câu mật ngôn mà mỗi người VN chính
thống vẫn giữ tròn để làm lịch sử giữ vững và bành trướng lãnh thổ trong mấy ngàn năm qua
và cho đến nay vẫn còn giữ vững…
Rồi đây, như kinh Phật và các kinh của các tôn giáo lớn nói thì Hội Long Hoa sẽ mở ra tại
Miền Nam nầy tức nhiên thánh hiền và nhân tài chính thống VN sẽ tứ khắp thế giới đổ về hội
họp lại để lo xây dựng quê hương, lấy lại chỗ đứng tôn nghiêm mà 5 ngàn năm trước tổ tiên
mình đã ngự trị. Quý vị học giả VN chớ cho là lời nói chơi cho vui, mà sẽ là sự thật. Dân Do
Thái sau hai ngàn năm trởi về cố hương thì VN cũng phải tới ngày phục hưng ngôi vị. Một
điều nữa quí vị đã rõ là ngày nay trên thế mạnh không cần đông người, mà bộ óc tài năng mới
là yếu tố quyết định. Hơn thế nữa, nếu Việt Nam không phải là thánh địa, người Việt không
phải là dân tộc đàn anh, tinh hoa ở vùng Đông Nam Á nầy thì các Phật, Thánh, Tiên (gốc
người VN tạm mang đủ thứ quốc tịch) trở về mở hội Long Hoa để làm gì?
Vậy thì Tư Thế Con Rồng nầy ra đời cũng là góp vào vận hội phục hưng danh thơm tiếng tốt
cho quê hương ta, tôn vinh ông bà ta, mà người học cũng là đã tự rèn luyện cho chính cá nhân
mình được một ngày thêm phần sáng láng tinh hoa hầu kịp tiếp nhận lời ca ngợi tôn vinh của
các dân tộc bạn hữu trên khắp thế giới qui về ngưỡng mộ. Nếu học giả học tập giữ gìn khí tiết
cho hay thì tự cũng đã thấy mình đáng ngưỡng mộ thật. Mà thật cũng được đáng ngưỡng mộ,
vì trên đời này có mấy sắc dân, có mấy người gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nếu đã lỡ
dính bùn sớm biết mà luyện tập cũng mau sạch, nào tập thế Con Rồng cho uy nghi thân xác,
đường bệ vóc người, lợi ích quê hương…
CHUẨN BỊ: Rồng đứng hai chân song song nhau, cách nhau bằng vai, co thân rồng lại, hai
tay rồng chạm xuống mặt đất như hình 109.
Động Tác 1: Rồng co tay, co chân hạ thấp mình xuống (Hình 110).
Động tác 2: Thân rồng trượt tới trên hai tay rồi đầu rồng cất lên, lưng rồng cong lên như
muốn vướt lên mây (Hàng Không VN lấy hình ảnh nầy nên rất đẹp) mắt rồng ngước lên trời.
Hai tay rồng chống thẳng, lưng cong như nửa vòng tròn. (Hình 111)
Động tác 3: Rồng lùi trở lại động tác 2 rồi trở về động tác 1. Để tiếp tục trượt mình tới và cất
mình lên.
Động tác 1-2-3 là một lần. Làm 8 lần.
YẾU LÝ: Đã là Thế Rồng thì khi làm phải uy nghi như cốt cách của rồng, khi lên khi xuống
cốt cách như rồng thì mới đúng là rồng. Rồng thì uyển chuyển, xương sống mềm dẻo uốn éo
mà mạnh vô cùng, dài đòn. Do đó, khi cúi xuống trượt tới phải xuống như lòng chảo và lên
cũng thế, nghĩa là theo đường cung. Rồng chuẩn bị như hình 109, hoặc khi lùi về cũng đều
thở ra, lúc trượt tới thì hít vào, hít tới đỉnh cao nhất thì đầu ngước nhìn trời và ngậm kín
miệng mũi. Ngưng 6 giây đồng hồ rồi rồng lùi thân lại, thở ra cho đến tới hình 109 thì hơi
cạn. Làm quen thấy sung sướng và thư thái lạ thường.
Động tác Rồng nầy làm dẻo lưng như rồng, khí lực đầy dẫy, tập lâu thân dẻo dai như rồng.
Tập xong đứng lên thử hô hấp đều như hình 112.
. Đoạn Thứ 11: KHẤU XỈ (Cắn Răng)

Tục truyền trên núi Tu Di bên Tàu có nhiều thần tiên không ăn thực phẩm, chỉ hút sương gió
mà sống đời ngàn năm chưa biết mệt… ai cũng tin như thế, người đời ngưỡng mộ hoài không
hết, đến nay qua tới VN, người mình vẫn còn nhớ đến và ngưỡng mộ tiếp. Nhưng có điều
chưa ai thấy cách Tiên ăn sương uống gió ra làm sao và chưa ai diễm phúc gặp mặt Tiên, dĩ
nhiên chưa ai đi đám ma Tiên bao giờ hay thăm Tiên bị bịnh vô nhà thương… nên Tiên vẫn
còn địa vị thần tiên mãi mãi…. Tiên là một huyền thoại. Và khi một vị tiên chịu nhập thế
xuống trần thì cứ già chết như ai, do đó các đạo sĩ tu tiên bảo rằng vì xuống núi ăn ngũ cốc
mới có tử vong… điều này ai mà biết được. Có điều các đạo sĩ phong cách hơn đời, thần trí
thảnh thơi, sống già mạnh khỏe mà chết cũng nhẹ nhàng ấy là nhờ có phương pháp tập
luyện… Trong phương pháp đó có môn KHẤU XỈ là cách thanh lọc uế khí (khí dơ) trong
phổi để được cường kiện suốt đời. Thì nay soạn giả xin trình bày ra để mọi người đều học tập
cho khỏe người. Cái nhai răng nầy người xưa thấy lờ mờ trong mỗi buổi sáng trên triến núi Tu
Di khi các tu sĩ luyện tập ngáp dài cứ tưởng là họ hả miệng ăn sương, uống gió… rồi thành
chuyện truyền kỳ…
Chuyện truyền kỳ của tiên hôm nay hóa ra sự thật, sự thật được kiểm chứng dưới con mắt nhà
bác học Âu Châu: rằng động tác ngáp dài, hả miệng lớn chậm rãi (Khấu Xỉ) làm nới dãn tận
cùng và kích thích hệ thống thần kinh có tác dụng làm tốt da mặt (thẳng da mặt, hồng hào)
giữ nét trẻ đẹp lâu già… các khoa thẩm mỹ học cũng áp dụng cấp thời và dĩ nhiên công việc
làm ăn nầy rất có lợi, lợi cả hai đàng. Bên Nam mình đôi khi chưa già đã chết vì đủ thứ
chuyện ngoại cảnh chẳng đặng đừng, hoặc vì thiếu thốn mà hóa ra già háp (già trước tuổi)
mới có năm sáu mươi tuổi đã ra tuồng lụ khụ… tuổi 40 mới có kinh nghiệm, mà tuổi 60 đã
chạy xuống mồ (dù sống mà bạc nhược chẳng khác gì chết) thì còn kiến tạo cái gì được, bởi
sống ít tuổi trên vùng đất đai nghèo khổ nên đã mấy ngàn năm rồi cổ nhân chẳng để lại được
lâu dài nào khả dĩ so sánh với các lâu đài bên Tây Phương… do đó ngày nay người Đông Á
phải nghiêng sự học vấn về cõi Tây Phương….Ở Tây Phương con người sống tới cả 100 tuổi
vẫn còn có ích cho đời vì thời gian đủ kinh nghiệm tới chỗ chết quá lâu dài nên đủ thời giờ
làm việc thực hiện cái toan tính. Loài người sở dĩ tiến bộ được là nhờ chỗ thực hiện được
những kinh nghiệm nối tiếp từ đời nầy sang đời khác, mà đời người xứ Đông Á nầy thật non
yếu thì làm sao nói chuyện văn minh. Nghĩ cho cùng cũng tại vùng thủy thổ (đất nước) viêm
nhiệt (nóng bức) nên sinh ra dễ èo uột khó nuôi, nuôi lớn lại làm biếng chẳng chịu làm việc…
chẳng chịu tập luyện nên mới mau chết và bất tài. Thỉnh thoảng có vài bậc hiền triết hoặc
nhân tài các giới thì tuổi thọ chất cao vì chính những nhân tài biết quí trọng đời sống của
chính mình và bản thân của nhân loại, họ là những người làm lịch sử hay sống trên lịch sử của
nhân loại. Sống yểu rất khó trở thành người giá trị, ích nước lợi dân, do đó muốn cho quốc gia
tiến bộ thì ngành luyện tập thân thể phải được nhà nước đặt thành quốc sách. Ngay như vị
nguyên thủ của quốc gia lại càng phải được sự cố vấn về sức khỏe hơn ai hết vì có sức khỏe
mới lãnh đạo sáng suốt được. Cố vấn sức khỏe không có nghĩa chỉ có đầu bếp nấu ăn ngon,
bác sĩ coi mạch giỏi mà cần phải có một chuyên viên huấn luyện sức khỏe cho vị nguyên thủ.
Ngày xưa có các nhà sư (Thiền sư) cố vấn vua về sức khỏe và kiến văn, bên Tàu cũng như
bên Nam, bên Tây bên Mỹ ngày nay trong nhà vị quốc trưỏng đều có vài vị huấn luyện viên
võ thuật và thể thao các môn sắp xếp thì giờ săn sóc thể lực cho quốc trưởng. Quốc trưởng
khỏe thì lãnh đạo tốt, dân sống khỏe, quốc trưởng bệnh lãnh đạo kém dân mệt. Mệt hay khỏe
cũng do ở sức khỏe của vị nguyên thủ mà ra cả, vì một ý kiến, quyết định trong lúc mỏi mệt
sẽ là một di họa dài dài… người có nhiệm vụ săn sóc các vị nguyên thủ trên thế giới phải hiểu
biết chuyện nầy đừng tưởng chỉ lo cho ăn no, bổ, chẩn mạch khi bệnh thôi mà đủ mà phải
huấn luyện cho vị nguyên thủ quốc gia trởi thành một lực sĩ dẻo dai, vì sự làm việc của vị
nguyên thủ tài ba cực nhọc bằng hàng ngàn hàng vạn người thường.
Tóm lại, từ trên xuống dưới, hoặc ngược lại, mọi người trong một quốc gia tân tiến (khôn
ngoan) đều biết quí trọng sức khỏe và sự sống lâu của bản thân và của những người đồng bào
của mình.
Do đó cần phải có người lãnh đạo sức khỏe cho người lãnh đạo và cho mọi người. Trong khi
chờ đợi KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN SỨC KHỎE QUỐC GIA săn sóc đến từng gia đình trong
cộng đồng quốc gia, soạn giả mời chư học giả tập tư thế Khấu Xỉ cho được trẻ lâu vui đời,
chờ đợi ngày vui mới…

CHUẨN BỊ: Đứng hai chân song song, hai tay buông xuôi hai bên thân, đùi như mọi động tác
chuẩn bị khác.
Động tác 1: Đầu ngước cao, mắt nhìn lên 45 độ tức nhìn xéo lên, miệng từ từ há ra lớn dần
đến tận lực, hai gò má thẳng cứng. Mắt vẫn mở tỏ. (Hình 113)
Động tác 2: Buông nhẹ hai hàm răng tự động nhập lại cái cụp (nhẹ nhẹ), ngậm miệng kín lại
hít đầy hơi bằng mũi. Kế hả miệng ra thật cực lớn đồng thời phà hơi ra… Làm 36 lần thì
nghỉ, số nước miếng (bọt) ra trong miệng được ngậm lại cho thấm nhuần trong giây lát rồi
nuốt vào từ từ.
YẾU LÝ: Đoạn nầy làm 36 lần và nếu tiện nên làm từ hai lần 36 tức (36x2) rồi nuốt nước bọ
từ từ. Chính nước bọt nầy là thứ thuốc bổ không thể mua đâu cho có, vì mỗi người chỉ có thể
tự chế ra cho mình xài thôi, loại thuốc nầy thấm mát Ngũ Tạng Lục Phủ và nuôi dưỡng cho
mọi tế bào lâu già giúp cho sống lâu.
Điều tốt hơn hết là mỗi buổi sáng thức giấc nên làm phép Khấu Xỉ nầy ngay khi bước xuống
giường. Đến ngay cửa sổ thoáng khí, hoặc ra sân khấu liền đừng nhổ nước miếng ra uổng
lắm. Nhiều người cho là nước miếng đó dơ lắm vì có mùi, thật ra không phải vậy, mùi là do
thức ăn trong kẻ răng phát ra và mùi trong bao tử người bệnh phát ra. Nếu người lành mạnh
hoàn toàn mỗi tối đánh răng trước khi ngủ thì đâu có mùi, mà nếu có chút đỉnh mùi thì làm
phép Khấu Xỉ độ 10 lần (10 lần hả miệng) thì chẳng còn mùi vị gì, phần còn lại là nước Cam
Lồ, một loại nước thánh bổ dưỡng châu thân vô tiền khoáng hậu nhân loại chẳng thể cướp
quyền tạo hóa để xây nhà máy tối tân nào mà có thể chế ra loại nước Cam Lồ nầy được. Nên
nhớ là trong kinh Phật có dạy Phật Bà Quan Thế Âm có nước Cam Lồ tưới mát nhân loại, trừ
mọi ưu phiền… mà Phật Bà như Đức Mẹ bên Ky Tô là đấng Mẹ hiền, đấng Mẹ hiền ngày xưa
nhai cơm mớm cho con ăn, trong đó Mẹ đã rưới cho con trẻ nước Cam Lồ nên đứa con nào
cũng dễ dạy dễ nuôi, rất có hiếu có nghĩa. Còn ngày nay thì quý vị đã thấy hết rồi khỏi nói.
Người xưa viết sách, kinh không phải tầm thường, mỗi đoạn mỗi nhân sự đều có ẩn tàng bài
giáo hóa nhân sinh, nhưng người đời thường là kẻ cực đoan thiển cận gọi chung là phàm phu
nên chẳng thể hiểu được các ngụ ý hữu ích mà học hành. Còn các bậc tu hành đắc đạo bận lo
tu dưỡng nên ít nói, có khi nói ra lại bị người đời chê cười nên rồi cũng phó mặc cho Trời….
Mà Trời ở tại lòng người, chân thiện sẽ thiện chân, u mê ra hàng u mê, đó là đời, đời là như
vậy đó

1. Đoạn Thứ 12: THỞ BẰNG BỤNG

CHUẨN BỊ: Đứng hai chân song song khoảng cách giữa hai bàn chân rộng bằng vai, hai tay
đặt sau mông đít như hình 114.

Động tác 1: Từ từ hít hơi vão bằng mũi, đầu cúi xuống, phình bụng dưới ra rồi nín hơi giữ
trong 30 giây đồng hồ. (Hình 114)
Động tác 2:… Thóp bụng lại thổi hơi ra bằng miệng, bụng tóp lại. Xong từ từ hít hơi vào
bằng mũi như động tác 1. (Hình 115)
Mỗi sáng thở 30 lần là tốt rồi, có thể thở trước khi Khấu Xỉ.
YẾU LÝ: Động tác thở bằng bụng nầy giúp võ gia tăng thêm lực lượng và sức chịu đựng lâu
dài, nói tiếng chuyên nghiệp gọi là tăng khí lực. Khi dồn khí thì bụng dưới to lên, thở ra thì
xẹp. Làm như thế rất lợi ích cho sự điều hòa Ba Tùng, ngoài ra tăng trưởng phổi đến tận cùng
thì ai cũng biết khỏi nói. Khi tập quen thì bụng phình lên xẹp xuống mũi miệng thu phát phì
phò làm buổi tập trong đêm hoặc lúc bình minh có thêm phần sinh khí, vui thật là vui. Đời
người tưởng chẳng có gì vui hơn là Đạo Tu Dưỡng, vì tu dưỡng mới lành mạnh, lành mạnh
mới thực hiện đủ thứ chuyện lợi ích. Xưa kia Khổng Phu Tử dạy Tu Thân làm đạo khởi đầu là
đúng vậy. Khổng Tử chết già và đi vào lịch sử, một tiên hiền thuộc nhà Nam Bách Việt.
Phép tập Phúc Hô Hấp từ mới tập thở nín hơi 30 giây sau tăng dần 3 hay 5 phút… Lúc mới
vào buổi tập độ 10 hơi giống đầu thở mau, sau nín lâu dần…

LỜI DẶN CẦN THIẾT

Đạo Dưỡng Sinh là đạo của con người, loài vật sống tự nhiên nên không có đạo, nhưng đã có
sẵn Đạo Tự Nhiên nên cũng sống. Con người không biết Đạo Dưỡng Sinh chẳng thể sống
được, mà cũng chẳng thể sống như vật được, do đó thánh nhân dạy Đạo Dưỡng Sinh. Có
nhiều sách dạy tự cổ xưa, rất nhiều, nhưng nay với sách nầy là phổ thông hơn hết. Nhưng dù
là phổ thông (trên thế giới người quan trọng nào cũng tập) cũng cần có sự chỉ dẫn sơ qua mới
mau lãnh hội. Sau đây là đại lược cách tập những bài tập trong cuốn sách nầy:

1. Trước nhất mỗi sáng phải tập Phúc Hô Hấp và Khấu Xỉ


2. Tập tiếp 10 đoạn tập Phụ Thuộc
3. Tập tiếp 8 đoạn của Bát Đoạn Cẩm
4. Tập xong uống một ly nhỏ nước trà ấm ấm hoặc nước lạnh càng hay
5. Đi tắm và chà xát thân thể, tắm bằng nước lạnh từ đầu tới chân, và chỉ tắm 5 phút mà
thôi
6. Ngủ trước 12 giờ và thức trước 6 giờ, mỗi đêm ngủ 7 giờ là đủ, người đủ sức lực nhờ
luyện tập Bát Đoạn Cẩm, Nội Công chỉ ngủ 5-6 giờ là đủ
7. Trước khi lên giường ngủ nên tắm bằng nước lạnh hoặc nước ấm ấm, hoặc lau mình
và rửa chân bằng nước lạnh, sau khi đã vận động 8 đoạn đầu của 12 đoạn tập phụ
thuộc, số lần vận động tùy thích gia giảm tối đa bằng phân nửa số lần tập mỗi buổi
sáng
8. Ngủ trong phòng có cửa sổ thoáng khí, và phòng ngủ nên để trống trái đơn giản thì tốt
nhất
9. Và chỉ ngủ sau bữa ăn tối thiểu là hai giờ trở lên. Bữa cơm chiều nên ăn ít và chỉ ăn
chất dễ tiêu hóa.

Trên đây là 10 điều cần thiết cần được thực hiện để tạo sức khỏe lâu dài. Nhưng dù sao một
cuốn sách vẫn chẳng thể đáp ứng đủ những kiến thức cần thiết cho chư học giả cao kiến. Để
cho đời sống được mở rộng tầm nhìn và an lạc vui tươi, học giả có thể tham cứu thêm cuốn
THUẬT TRƯỜNG SINH do soạn giả soạn theo kinh nghiệm và học vấn cùng các bậc Đại
Thiền Sư đắc đạo. Soạn giả thường không soạn điều cao minh mà chú trọng cho thích dụng.

₪ HẾT ₪

You might also like