Professional Documents
Culture Documents
Tin tức - Sự kiện Pháp luật Giải trí Thể thao Kinh tế An sinh Đời sống Việc làm Tiêu dùng Du lịch Sức khỏe Giáo dục Khám phá Công nghệ
TRANG CHỦ › Giải trí › Tác giả - Tác phẩm Tìm kiếm
Khởi đăng tư liệu nhiều kỳ: “Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng”
Nguyễn Hữu Đang (1913-2007); quê: Thôn Trà Vy, xã Vũ Công, huyện Vũ Tiên (nay là huyện TIN MỚI NHẤT
Kiến Xương), Thái Bình; là một nhà báo, tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm; hai lần bị đế
quốc bắt vào tù (1930, 1944); tham gia sáng lập Hội Truyền bá quốc ngữ và Mặt trận Dân chủ
Đông Dương (1936-1939), tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào, được bầu vào Uỷ ban giải
phóng dân tộc để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa 8/1945; Cách mạng tháng Tám thành công, ông
được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ Trưởng ban tổ chức Ngày lễ Độc lập 2/9/1945 và trực Nhiều vấn đề nóng Lào trao tặng Huân
tiếp là người chỉ huy dựng Lễ đài Độc lập. Ông đã lần lượt giữ các chức vụ: Thứ trưởng Bộ được các em mạnh chương Lao động cho
dạn nêu lên Thứ trưởng Nguyễn
Tuyên truyền, Thứ trưởng Bộ Thanh niên, Chủ tịch Ủy ban vận động Hội nghị văn hóa toàn quốc, Thanh Hòa
Trưởng ban Tuyên truyền xung phong Trung ương, Trưởng ban Thanh tra bình dân học vụ...
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 1/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
Tháng 4/1958, Nguyễn Hữu Đang bị bắt cùng một số trí thức, văn nghệ sỹ liên quan trong vụ Thúc đẩy hợp tác đầu tư của Việt Nam vào
Myanmar
"Nhân văn - Giai phẩm". Tháng 1/1960, ông bị kết án 15 năm tù, ra tù ông tiếp tục bị quản thúc tại
quê nhà hơn 15 năm. Hàng trăm cảnh sát vây bắt tên cướp có súng
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Nguyễn Hữu Đang dần dần được minh oan và phục hồi
Bàn về đồng tiền và chức quyền
danh dự, được coi là "Lão thành cách mạng", được hưởng chế độ hưu trí (1990). Từ năm 1993,
Diễn viên Lan Phương bị cướp kéo lê lết trên
ông sống tại Hà Nội trong một căn hộ do Nhà nước cấp. Ông qua đời tháng 2/2007. đường
Trong bối cảnh bi tráng của lịch sử lập quốc Việt Nam thời kỳ hiện đại, chính quyền công nông
Công an Hà Nội thông báo về cái chết của anh
non trẻ vừa thành lập, chấm dứt 100 năm đất nước dưới ách nô lệ thực dân và đế quốc, đã phải Trường trong khi tạm giam
đương đầu với biết bao nhiêu thù trong giặc ngoài; rồi đi vào kháng chiến gian khổ "Chín năm Thanh Hóa: Đốt lửa hội trại hè, 75 người bị
làm một Điện Biên" và tiếp tục làm một cuộc trường chinh 30 năm chiến đấu giành lại non sông bỏng phải nhập viện
thống nhất, không khỏi có những số phận rơi vào bi thương và cay đắng như Nguyễn Hữu Đang. Chết bất thường tại công an huyện, người nhà
Lý giải điều này, một mặt là do "quán tính" của cuộc cách mạng vĩ đại. Mặt khác, cũng có cả lý vây kín bệnh viện
do chủ quan của cá nhân, như Nguyễn Hữu Đang đã từng thổ lộ: "Viết đến đây, tôi không nghĩ “Lắng nghe...” để bảo vệ, chăm sóc trẻ em tốt
về tôi; tự thương mình đã rơi vào cái hố duy ý chí từ tuổi mười lăm, rồi cứ thế càng ngày càng hơn
cuồng tín, hợm mình, tham thắng, khi biết đến cái bí quyết sống "tri túc" lấy làm đủ của đạo học VIDEO
thì đã muộn". (Trích thư của Nguyễn Hữu Đang, ngày 1/6/1990, gửi Dương Thu Hương, nhà văn
bất đồng chính kiến, hiện đang sống lưu vong ở nước ngoài).
Chiêm nghiệm từ câu chuyện Nguyễn Hữu Đang, chúng ta càng nhận ra những bước đi vĩ đại
của quá trình phát triển cách mạng, nhận ra vẻ đẹp tiết tháo của người trí thức và nhận ra cả
những kinh nghiệm sống trong đóng góp và phản biện cho hiện tại và tương lai...
Baodansinh.vn xin giới thiệu với bạn đọc tư liệu về Nguyễn Hữu Đang rút từ cuốn sách "Người
đeo lục lạc" của Nhà văn Võ Bá Cường - một nhà văn cùng đồng hương Thái Bình đã có nhiều
công sức tìm hiểu, chắp nối và nghiên cứu về Nguyễn Hữu Đang. Tư liệu sẽ được giới thiệu
Bức xúc clip mẹ đánh đập con dã
hàng ngày với khoảng gần 30 kỳ. man
Rất mong nhận được phản hồi, góp ý và chia sẻ của bạn đọc!
mưa, ở cái tuổi ngoài bảy mươi vẫn cứ hồi hộp xao xuyến, thoáng một chút gì lo sợ và tự hỏi:
Liệu có ai nhìn thấy không? Già Đang chống gậy đứng dậy, dò dẫm bước đi trong tiếng kêu xủng
xoẻng của cái "lục lạc" kết bằng các mảnh sắt vụn đeo quanh người. Ông già dừng lại, cất tiếng
ôn tồn hỏi: "Bà tìm ai?". Bà lặng thinh không nói, trong bà đang tìm lại bóng dáng chàng trai cách
đây gần năm mươi năm bà đã gọi là "chồng". Khó khăn lắm bà mới cất lời:
- Ông không nhận ra tôi nữa hay sao? Già lắm rồi phải không? Xúc động với hình ảnh chiến sĩ công
an giúp đỡ nhân dân trong lũ lụt
- Quả tình, tôi không nhớ được nữa!
Bà chép miệng:
- Buồn thật, thế mà tôi vẫn nhớ như in, ngày tôi về làm dâu nhà cụ Tổng Huyên, làm vợ anh
Đang cơ đấy!
Ông già đứng chết lặng dưới mưa bụi, lúc sau lập cập như muốn sụp xuống cảm ơn bà đã tìm
đến với mình trong lúc hoạn nạn. Gió càng về tối càng lạnh, đường quê chiều đông không một
bóng người qua lại, cảnh chùa chiền càng thêm u tịch. Già Đang rùng mình đón những cơn gió
lạnh vô tình. Bà nhìn ông, cái nhìn chất chứa sự chờ đợi bao nhiêu năm.
- Tôi làm gì có nhà mà mời bà? Chỉ ở nhờ góc nhà Tổ, cái nhà quay ngang kia kìa - Tay già
Đang run run chỉ vào ngôi nhà rêu phong với những cánh cửa gỗ ảm đạm.
- Thì ông cứ cho tôi vào một lúc để nói với nhau câu chuyện… Mấy chục năm nay…
- Thế bà không sợ liên lụy ư? Tôi lo cho bà sau khi ở cổng chùa nơi cửa Phật từ bi vừa bước ra
tức khắc bị người ta truy chụp tội "liên quan với một tên chống Đảng".
- Tôi không biết liên quan liên dân gì hết. Chống ai, hay không chống ai tôi không cần biết. Tôi là
vợ ông, có cưới xin hẳn hoi, tuy chưa được ở với nhau một đêm, chưa một lần cầm tay nhau. Vì
ông mà tôi mang tiếng đã qua một đời chồng, để sau này phải đi lấy lẽ ông Phó Phu làng Nguyệt
Giám bên Kiến Xương. Sao ngày ấy ông đanh thép cứng cỏi thế, giờ nhu nhược thế? Ông "sợ"
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 4/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
à, mà "sợ ai cơ chứ"?
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 5/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 6/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
Bức ảnh chân dung của mình và "người đẹp" Huyền Nhiên được Nguyễn Hữu Đang ghép lại
thành hai mặt đóng trong khung để trên bàn làm việc của ông những năm tháng cuối đời
Hai người già nua cũ kỹ líu ríu bước theo nhau vào gian nhà Tổ. Bà Nhuận tìm một chỗ thật
thuận tiện ngồi xuống để quan sát nơi già Đang ở. Bà nhoài người kéo cái chăn chiên rách gấp
lại để ngay ngắn trên đầu giường chép miệng:
- Cuộc sống của tôi nó là thế! - Già chỉ từng thứ trong gian nhà chật hẹp như để thanh minh cho
cái sự luộm thuộm không đáng có của mình - Đây là hũ gạo, lọ mắm, đây là chai nước cáy. Mấy
cái rổ rách hôm qua mới ngồi buộc lại, nếu không hôm nay bà nhìn thấy nó bung vành tuột cạp
lại chê tôi đoảng.
Bà già nhìn quanh, thấy đống sách vở xếp ngay ngắn trên kệ tường liền hỏi:
- Nó là cái nghiệp của đời mình. Cũng chỉ vì đống sách kia mà tôi phải ra tù vào tội.
Cạnh chỗ bà ngồi là mấy vỏ bao thuốc lá, mấy mảnh giấy xi măng, miếng nhỏ bằng hai ngón tay,
miếng to bằng bàn tay, bà cúi xuống định vo viên đem đốt. Già Đang vội kêu lên:
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 7/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
- Tù tội thế này rồi, ông còn viết lách cái gì nữa?
- Thì nghĩ được điều gì, viết ra điều đó, cái nó chợt đến rồi chợt đi ngay, nên tôi phải ghi lại. Tôi
ghi toàn những điều bàn đến đạo đức của con người, lẽ sống của con người, có lợi cho con
cháu.
Bà Nhuận như không muốn nghe chuyện ấy, bà giở tay nải buộc chéo khoe bộ quần áo cưới mà
chưa một lần xỏ tay. Bà cười bảo:
- Đây là bộ quần áo thầy mẹ anh may cho em. Hôm cưới chờ anh về để mặc. Anh cũng tệ lắm,
đã không ngó ngàng gì lại từ hôn người ta.
Bà Nhuận nói xong những câu như rứt ruột ra rồi ngó trân trân già Đang. Cả hai người đầu óc
quay cuồng ôn lại chuyện cũ, như thước phim quay chậm để hai người già quay lại hình ảnh
những ngày tháng 1938:
Cụ Tổng Huyên ốm nặng rồi mất. Hồi ấy già Đang dạy học ở Hà Đông, hay ở Thanh Hóa thì phải,
ở nhà các cụ đã cưới chạy tang bà Nhuận trước đó mấy ngày. Khi già Đang về nhà lo xong lễ
tang cho bố, khẽ nói với bà Nhuận:
- Giờ tôi nay đây mai đó, không biết sống chết thế nào? Biết bao giờ mới được về quê sum họp.
Nhiệm vụ của người thanh niên khi việc nước còn đè nặng lên đôi vai thì chưa thể nghĩ đến điều
riêng tư được. Vì thế, nếu cô ở đây sẽ lỡ làng cả cuộc đời người con gái. Hãy thông cảm với
hoàn cảnh khó khăn này.
Cô Nhuận đêm ấy chỉ ngồi khóc, nước mắt đẫm hết chiếc khăn. Con gái một gia đình gia giáo,
tử tế có tiếng trong vùng, chỉ biết lặng lẽ cúi đầu nghe theo chàng trai có chí lớn. Hôm sau ôm
khăn gói theo chồng về bên Nguyệt Lâm để thưa lại chuyện với hai cụ.
Người con gái có dáng đầm, da trắng ở vậy mấy năm, sau đi làm lẽ ông Phó Phu. Buồn thế! Bà
Nhuận sinh hạ được mấy người con, có anh giờ làm ở huyện Công an Kiến Xương, Thái Bình.
Mấy chú ngóe lọc sọc trong cái giỏ đeo gần đấy, bà Nhuận thấy động hỏi:
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 8/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
- Mấy con ngóe bắt được lúc chiều chưa kịp băm chả.
- Ông ăn ngóe à?
- Cả cóc, cả rắn nữa bà ạ. Vớ được bữa chả rắn ăn vào nhẹ mình mẩy lắm - Nói rồi, trông ra trời
chiều tối âm u, già Đang liền bảo - Thôi bà về đi, kẻo tối.
- Chúng nó có việc chúng nó, mình có việc của mình. Hôm nay tôi ở lại đây giặt giũ cho ông,
khâu vá lại đám quần áo rách cho ông. Nghe người ta nói ông ốm, tiếng ông còn nặng lắm chưa
khỏe đâu.
- Nghĩa là bà ngồi tù cùng tôi hay sao? Việc tù đày ai nào có thích gì?
- Thôi thì cái phận của tôi nó là thế, nhưng dù ông có ngồi tù thì tôi đến giúp đỡ không được hay
sao?
- Tôi chả sợ ai, chỉ sợ ông không chấp nhận sự giúp đỡ của tôi. Hay tôi không xứng với ông?
Ông đã có người khác ở trong lòng?
- Đúng vậy bà ạ! Ngày tôi ở Hà Nội, tôi có quen biết một cô gái tên là Huyền Nhiên, cô sinh ra
trong một gia đình trung lưu, mới có mười chín tuổi, khi đó cô ta chưa học hết bậc thành chung,
con người ấy cũng nết na thùy mỵ đoan trang như bà. Cô chỉ có một người bạn gái cùng trang
lứa, đôi bạn ấy sống với nhau rất chân thực, tuy là gái Hà Nội nhưng không đua đòi - Ông tâm sự
với bà Nhuận - Nhớ lại ngày đầu làm quen cô ấy, tôi có đọc cuốn văn học Pháp E. Renan đã lấy
bút ghi lại một câu vào trang sổ tay của mình "Sắc đẹp của phụ nữ là ân huệ của thượng đế ban
cho loài người. Chúng ta có nghĩa vụ kính trọng người phụ nữ đẹp". Tôi quý Huyền Nhiên theo lẽ
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 9/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
đó cho nên tới nửa năm quen nhau mà vẫn không dám chạm tay vào người Huyền Nhiên, dù chỉ
cầm tay thôi tôi cũng cho đó là sự xúc phạm, còn nói gì đến… Tôi đã mang đến không ít tặng
phẩm đều bị nàng từ chối. Tại sao? Cuối cùng tôi đem cho nàng cái vòng “sơ men” bằng bạc,
coi đấy là vật giao ước kết hôn. Nàng nín thở ngồi xem, mắt hơi nhắm lại, rưng rưng lệ, rồi nàng
lại bỏ vòng vào hộp, đóng nắp lại đưa trả cho tôi. Tôi hỏi nàng dồn dập, vì sao? Và không phải
không có câu khiên cưỡng. Nàng xua tay sợ hãi nói:
- Đừng anh! Đừng nghi ngờ như vậy! - Rồi Huyền Nhiên nghiêm chỉnh ngồi im, một lúc sau nàng
nhỏ nhẹ - Thế này anh Đang ạ. Em chỉ ước ao được gặp Cụ Hồ, được đứng gần Cụ, mà anh thì
đến chỗ Cụ luôn. Anh cho em theo đến chỗ Cụ một lần. Chỉ một lần thôi cũng được.
- Cầu kỳ ư? - Mắt nàng hơi nhướn lên nhìn tôi - Có lẽ nhân dân cả nước này cầu kỳ. Em cứ cầu
kỳ đấy! Bạn em chúng nó bảo thế nào anh chả tìm cách đưa vào gặp Cụ Hồ được. Ví như đưa
quà biếu. Em nhớ có lần người gửi cam biếu Cụ. Cụ chẳng những vui lòng nhận mà còn viết thư
cám ơn nữa.
-Thế rồi sự "cầu kỳ" ấy cũng được đáp ứng bà ạ! - Già Đang nhớn mắt nhìn bà Nhuận tìm lấy sự
đồng cảm của bà trong việc ứng xử của già với Huyền Nhiên.
Đó là một buổi sáng Cụ Hồ tiếp đoàn đại biểu "Mùa đông binh sĩ" do ông Ngô Tiến Cảnh, nhà tư
sản ở Bắc Giang này đã quen trong phong trào chống nạn thất học, đề xuất biếu Cụ tấm áo trấn
thủ mới may được, gọi là "áo trấn thủ đầu tiên mùa đông binh sĩ" trong một vạn chiếc. Huyền
Nhiên được tôi bố trí đi cùng đoàn đại biểu. Thật là cơ hội hiếm có mở đường cho cô ấy đến gặp
Cụ Hồ. Tới giờ hẹn, tôi đã dùng xe hơi đưa Huyền Nhiên về trụ sở "Mùa đông binh sĩ" rồi vào Bắc
Bộ Phủ. Cụ Hồ tiếp ở phòng khách lớn. Khi ông Cảnh nói đến câu: "Xin kính biếu Chủ tịch tấm áo
trấn thủ đầu tiên may được", Huyền Nhiên bước nhanh đến bên Cụ Hồ, nâng khay ngang mặt,
dáng điệu uyển chuyển cung kính. Cụ cầm áo xem xét kỹ lưỡng rồi khen "Tốt lắm" sau đưa cho
ông Vũ Đình Huỳnh. Cụ không quên quan tâm đến người con gái đang đứng ở cạnh đó. Cụ Hồ
đặt tay lên đầu Huyền Nhiên, vỗ nhẹ vào mái tóc uốn, nói giọng ấm áp: "Bác cám ơn cháu. Cháu
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 10/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
sẽ rủ các bạn của cháu giúp đỡ bộ đội nhiều hơn, đem lại cho họ những món quà của tình
thương yêu đồng bào".
Trên đường về, tôi với cô ấy cùng im lặng, bởi có người lái xe. Mãi đến khi bước vào nhà, Huyền
Nhiên mới trao phần thưởng cho tôi… Đó là nụ hôn nồng thắm. Từ đấy bộ vòng "sơ men" lấp
lánh trên cổ tay nàng. Sau ngày 14/11/1946, Pháp đánh Hải Phòng, rồi khiêu khích đánh lên Hà
Nội. Tình hình trở nên nghiêm trọng, Huyền Nhiên theo gia đình tản cư. Trước khi đi Huyền Nhiên
có gửi tặng tôi chiếc xe đạp cô vẫn dùng kèm theo lá thư ngắn: "Anh dùng chiếc xe xấu xí này
như Quan Vân Trường dùng ngựa Xích Thố, và mỗi khi ngồi lên xe anh vẫn coi như có em ngồi
sau lưng"…
Sự xa cách ấy là mãi mãi. Đến 1954 sau chiến thắng Điện Biên, tôi trở về Hà Nội làm việc ở báo
Văn Nghệ, hăm hở đi tìm nàng mà không thấy. Sau này nghe tin nàng sống ở xa, với một gia
đình đầm ấm, sinh hoạt đầy đủ, hình dáng có khác xưa nhưng sức khỏe thì sút kém. Tôi thông
cảm với hoàn cảnh mà nàng lựa chọn. Nàng vẫn chỉ là một dáng tiên ẩn hiện trong tôi, không có
tuổi và không bao giờ mất…
Già Đang hơi gục mặt xuống, trông vóc dáng càng thảm hại, xấu xí. Con mèo từ đâu chạy vào
đòi ăn, nó chũi chũi vào chân già. Già thò tay vào gầm giường lôi ra cái bát mẻ, vét nốt thìa cơm
đổ cho nó, không quên dằm cho nó con rốc kho vừa gắp ở niêu đất ra. Già Đang nói với giọng lừ
khừ như tiếng mèo rên với bà Nhuận:
- Nó là con mèo hoang trong làng, đêm đêm đi tìm giống khác rồi lạc vào đây, không nhớ đường
về với chủ nữa. Có nó cũng vui, đêm đêm nghe tiếng mèo gọi nhau thảm thiết thê lương lắm.
Những lúc như thế thường là nghĩ đến thân phận mình. Hồi này nó đã quen, rét thế nào cũng rúc
vào chăn rách của tôi mà ngủ. Nằm ngủ có nó ấm ra phết! Có đêm tôi nói với nó như nói với một
con người: "Mày tưởng tao sướng lắm à? Tao cũng cảnh cô quẫn, đơn độc không gia đình vợ
con, không bè bạn thân thích. Mày còn tìm đến đồng loại để nô đùa khúc khích với nhau, rỡn cợt
nhau. Sau này biết đâu lại chẳng có lũ mèo con, được người chăm sóc tử tế. Bữa ăn lại được
ăn trước, thức ăn để trong bát đĩa, chủ giành riêng cho mày. Chả bao giờ mày phải "nhạt
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 11/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
miệng". Còn tao, ăn cơm tù, bốc trên lá, uống nước ống, cơm mốc cơm thiu cũng cố mà nuốt.
Vừa ăn vừa nghe người ta chửi bới, lắm khi miếng ăn kề miệng còn bị người ta hất đi. Nuốt
chưa khỏi cổ, người ta bắt nhả ra, cũng phải cố mà nôn ra cho đủ.
- Ôi dào, tôi nghe não cả ruột, đời ông khổ thế là cùng, cô đơn cô quả thế là cùng. Thế mà nhiều
lúc tôi trách lầm ông. Cả cuộc đời ông không biết được tình cảm chồng vợ, chăn gối, buồng the
như thế nào? Năm 1958, 1959, ông đã đi tù rồi, tù đến hôm nay. Bao nhiêu năm sống độc thân,
giờ thành ông già lụ khụ. Giá ngày ấy ông cho tôi một đứa con rồi bỏ mặc tôi ở quê đi theo cách
mạng, nay gặp lại cũng còn vợ còn chồng. Tự ông đánh mất tất cả, làm lỡ làng tất cả.
Già Đang đưa tay gạt đám quần áo cũ vào góc giường nhẹ nhàng nói:
- Thôi bà đào xới chuyện cũ lên làm gì, làm khổ cả hai người, khổ cả Huyền Nhiên. Biết đâu, ở
một nơi nào bây giờ cô ấy cũng đang nghĩ về tôi.
Già Đang tiễn bà Nhuận ra cổng chùa thì dừng lại. Hai người bịn rịn mãi. Bà Nhuận nghẹn ngào:
"Nỗi oan của ông khác nào Thị Kính, khi làm vợ mang tiếng thất tiết giết chồng, lúc giả trai trốn
vào cửa Phật bị Thị Màu đổ tội trăng hoa. Chỉ đến lúc về cõi Phật người ta mới biết nỗi oan của
nàng. Còn ông, người ta vu cho chống Đảng. Tù tội suốt mấy chục năm, về làng người đời xa
lánh. Trẻ con giơ tay chửi "tên chống Đảng". Nó xói xỉa ông, đày đọa ông. Cửa Phật liệu có biết
nỗi oan cho ông. Đời ông lúc đi nắng lửa, khi về gió táp, chả lúc nào yên. Cũng chỉ vì tính nết
cứng đầu cứng cổ và đống sách mục trong nhà. Chữ nghĩa làm gì cho khổ? Cứ ngu như tôi đây
có hơn không?
Bà khẽ cúi xuống nhặt bông hoa đại thơm nhét vào bàn tay ông. Già Đang nhanh tay ngắt bông
hoa "dâm bụt" dắt vào mái tóc bà, cả hai nhìn nhau cười mà như khóc… Nhìn bông hoa đại trắng
thơm ngát, nồng nhiệt, nằm trong lòng tay mình, bỗng ông già nghĩ: Trong cuộc đời có nhiều
người xúc động vẩn vơ, có khi không cắt nghĩa nổi. Lâm Đại Ngọc là một nhân vật trong Hồng
lâu mộng, đơn độc trong tình cảm lại yếu đuối, hay mau nước mắt, hay thương cảm cho đời cho
mình đến mức như mắc một căn bệnh. Có lần buồn quá, cô nhặt hoa đem vùi dưới đất xong rồi
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 12/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
lại khóc "Chôn hoa người khóc ngẩn ngơ / Đến khi ta chết ai người chôn ta". Đọc thầm hai câu
thơ ấy trước bà Nhuận, bất chợt ông nghĩ đến cái phận mình lúc chết, không biết ai là người
chôn đây? Có lẽ ông sẽ chọn chỗ dưới gốc tre làng để chết, khỏi phiền đến ai chôn cất.
Sau này nghe người làng Vũ Công bảo: "Không biết có phải cửa Phật từ bi động lòng trắc ẩn
thương cảnh oan khuất của già Đang mà chỉ đường cho bà Nhuận lui tới trông nom ông trong
những lúc ốm đau liệt giường liệt chiếu. Khi khỏe, già Đang sang làng Nguyệt Lâm tìm nhà bà
Nhuận ăn cơm, chụp ảnh cùng con cháu bà ghi lại mối tình đầu thiêng liêng bà giành cho ông mà
ông không biết.
Thế là ông Nguyễn Hữu Đang hai lần từ bỏ mối tình của hai người con gái đi làm việc nước. Một
lần do gia đình tạo dựng, một lần do ông… Lại thêm một chuyện tình nữa cũng đầy phiền muộn
và nước mắt.
Trước lúc gặp Huyền Nhiên, chàng trai Nguyễn Hữu Đang ở nhờ một gia đình người công chức
cũ. Căn nhà đó trông sang trại lính Pháp, có một cô gái rất trẻ mới ngoài hai mươi tuổi ở với một
ông già. Xét trong cách ứng xử mọi lẽ, không tìm thấy tình cảm bố con, nhưng tình chồng vợ
chưa tới. Thời gian ở đấy người cách mạng trẻ tuổi nhận được ở cô gái mối tình ấm áp. Mỗi khi
đi công tác về, tự tay cô rót đưa cho anh cốc nước, tự tay trải lại cái chiếu, hoặc giặt bộ quần áo
cho anh. Nguyễn Hữu Đang rất có cảm tình với cô gái đó. Từ ánh mắt đến nụ cười… Càng tìm
hiểu quan hệ giữa ông già và cô gái mọi chuyện càng như được đóng kín. Sau này qua tâm sự
với cô, Nguyễn Hữu Đang đã hiểu được thân phận của con người chìm nổi. Cô bé đó vốn là đứa
trẻ ăn mày, được ông bà nhặt về nuôi dạy. Càng lớn, duyên càng thắm, sắc càng tươi, lại ở một
gia đình có học thức, nên lời ăn tiếng nói, đi đứng vào ra "thuần" Hà Nội. Lúc bà mất có cầm tay
cô trăng trối: "Cháu ở lại trông nom săn sóc ông, làm vợ ông, trông nom lấy cái gia đình bé mọn
này vì ông bà không có con”.
Họ là vợ chồng, chung nhau trong cái buồn của tuổi tác. Cô ấy lại muốn có con. Nhưng khốn
thay ông già đó không thực hiện được. Lúc phát hiện ra sự phiền muộn đó, ông Đang rất rung
động và tìm cách trốn chạy. Chuyện này ông kể với Kiều Duy Vĩnh người bạn tù từ Yên Bái lên
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 13/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
hang đá Hà Giang. Hai ông ở với nhau suốt mười lăm năm tù ngục, có lúc cùng chung một cái
khóa tay. Câu chuyện đẫm nước mắt là thế… Ông Đang bảo: Nếu không được giáo dục, không
có ý chí của người làm cách mạng và không có cuộc kháng chiến thúc đẩy sức chiến đấu của
thanh niên thời ấy thì ông sẽ trở thành người "phạm tội".
(Câu chuyện trên tôi được đích thân ông Kiều Duy Vĩnh kể lại cho nghe vào hồi hai giờ chiều
ngày 10/6/2007 tại nơi ông Vĩnh, ở ngõ 447 số nhà 469 Ngọc Lâm, Gia Lâm, Hà Nội. Hôm ấy
Nguyễn Hữu Đang là người không vợ, không con, không nhà không cửa, không một lần chung
chăn chung chiếu với người mình yêu và người yêu mình, cũng là người duy nhất ở Việt Nam
không nghe thấy tiếng máy bay, tiếng bom Mỹ, không biết ở bên ngoài có cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước vì lúc đó ông nằm liệt trong hang đá ăn mắm dòi, gạo mục, uống nước suối.
Chỉ riêng sức chịu đựng không có người đàn bà nương tựa về tâm hồn trong lúc ông bị đánh tơi
tả ấy phải chắp tay vái "cụ" ba vái. Và chúng ta tự hỏi: "Trên thế gian này có ai cô đơn hơn
Nguyễn Hữu Đang không?" chỉ thấy nổi lên ở ông điều cay cực, oan trái mà ông vẫn bình thản
ngồi đọc sách, dịch sách, tìm thấy trong Lão Tử, Trang Tử điều gì để thanh thản sống bám lấy
cuộc đời thô nhám này. Ông biết chịu đựng và sống có chừng mực. Ông bảo: "Đời là cuộc chơi
nhưng chơi không cay cú" nên lúc ông bị đày đọa, ông coi đó là cuộc chơi nên cũng không hề hé
răng hé lợi kêu than, tố khổ. Cái đáng quan tâm nhất trong cuộc đời cô đơn của ông, công việc
gì thuộc phạm trù tư tưởng ông cố làm được tất cả, thắng tất cả với cá nhân mình. Nhưng cái
đáng sợ nhất ở ông sau khi chịu tù 30 năm về ông không biết sợ cái gì cả…
Tối ấy già Đang ngồi "lê la" trước bãi cỏ cửa chùa, già thấy không mùi hoa gì thơm hơn hoa cỏ
dại. Già như người ngơ ngác bâng khuâng trong cái cảm giác lúc chia tay bà Nhuận ra khỏi cửa
tam quan. Gặp lại bà chẳng khác nào như lúc nắng hạn gặp mưa xuân, con cá đang nằm phơi
mình trên lạch cạn gặp được dòng sông chảy. Rất vui ý nghĩ hai người có nhiều sự giống nhau,
đôi bên đều được giãi bày nỗi lòng mình và tỏ ra thích thú. Chỉ có thời gian là ngắn nhất. Già
ngửa mặt nhìn trời, bỗng có ngôi sao đánh "xẹt" một vệt sáng đến tận chân trời rồi biến mất. Trời
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 14/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng
mùa xuân mưa bay lớp lớp cũng ít vì sao le lói. Cảnh tượng đó làm già xúc động. Đã gần bảy
chục tuổi rồi, biết đâu ngày nào đó già cũng như ngôi sao kia tự dưng biến mất vĩnh viễn không
còn tồn tại trên mặt đất này. Một ngôi sao trước khi biến mất còn để lại cho đời một vệt sáng…
Vậy già này đâu chịu lẳng lặng ra đi, phải làm một việc gì đó cho có ý nghĩa lúc cuối đời mình. Âu
cũng là một bước đi định mệnh đầy oan khuất.
(Còn tiếp)
VÕ BÁ CƯỜNG
Chăm sóc giấc ngủ trưa nơi công sở Miễn phí giao hàng toàn quốc
Thích và chia sẻ bài viết này trên: Theo dõi baodansinh.vn qua FB, G+:
Tag :
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang---bi-thuong-va-cay-dang-d13926.html 15/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
Tin tức - Sự kiện Pháp luật Giải trí Thể thao Kinh tế An sinh Đời sống Việc làm Tiêu dùng Du lịch Sức khỏe Giáo dục Khám phá Công nghệ
TRANG CHỦ › Giải trí › Tác giả - Tác phẩm Tìm kiếm
Khởi đăng tư liệu nhiều kỳ: “Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng”
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 1/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
VIDEO
Ông nhớ gương mặt ông Thảo, hơi bầu bĩnh, cái nhìn hồn nhiên sau cặp kính cận với cuộc đời
như ngơ ngác. Bức xúc clip mẹ đánh đập con dã
Ông Đang nắp ngọn bút Satađô cài vào bìa trang sách để ngay ngắn trên những trang bản thảo man
đang viết dở. Ông đứng dậy lại ngồi xuống mở bút ghi vào trang giấy nho nhỏ mua mấy thứ cần
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 2/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
Một con cá chép, một miếng thịt gáy và con gà thiến, một nắm hoa huệ, một hộp nến nhỏ, nải
chuối…
Kỳ thi đánh giá năng lực Làng 'không ánh sáng'
2015 của ĐH Quốc gia lênh đênh giữa lòng Hà
Ông Đang ngắm lại nơi mình ở, chỉ có mấy bộ quần áo treo vắt lung tung, một cái tủ con, một KÊNH VÌ TRẺ EM
Hà Nội đổi mới thành Nội
công
cái hòm gỗ, giữa nhà kê một cái bàn to. Cái bàn đó đã có lần cụ Nguyễn Kim Đoán lên chơi gặp
anh Văn (Võ Nguyên Giáp) và ông Đang dắt ông Đoán đi ăn trưa rồi về nằm ngủ trên đó. Hai ông
cứ quay sang nhau mà nói chuyện về những ngày làm ở Hội Truyền bá quốc ngữ, ngày Lễ Độc
lập 2/9/1945 mà hai vị gắn bó.
Khoảnh khắc bé gái 7 Tình và lý ở những Mái
Trong nhà không có bếp núc, không có sự sắp đặt của bàn tay người phụ nữ. Suốt bao năm
tuổi được giải cứu ấm tình thương
ròng, ông Đang thường ăn cơm đầu ghế nhà ông Tài Sỉu lái xe cho bưu điện Hà Nội. Nhà Tài Sỉu dưới hố sâu 13 m
giã giò chả bán, thức ăn là đậu phụ kho với thịt ba chỉ, rau luộc chấm với nước thịt kho rất ngon.
Quán cơm nhà Tài Sỉu bán chủ yếu cho dân nghèo, những người buôn thúng bán mẹt…Ông KÊNH AN SINH XÃ HỘI
Đang là thực khách quen nhà Tài Sỉu trong suốt những năm ở Hà Nội. Mỗi lần đãi khách, dù
sang dù hèn hoặc người nhà Thái Bình lên, được ông đãi cơm đều ra quán đó. Ông thích nhất là
món cá trê kho với thịt gáy của nhà Tài Sỉu. Món đó trở thành món ăn thường xuyên của ông và
cũng được coi là món ngon nhất để đãi khách “đầu ghế”. Có lần ông Mười Hương đi công tác về
ngủ lại với ông Đang, cũng ra đó ngồi trên cái ghế băng gỗ lim đen thín nhà bà Tài Sỉu, nhấm Nguy hiểm rình rập khi Kiên Giang: Rình rập tai
nháp món cá trê kho với thịt gáy sém cạnh. qua cầu treo dân sinh nạn lao động khai thác
đá
HÌNH ẢNH
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 3/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
Vì cảnh nhà như thế nên không thể tổ chức làm giỗ cho mẹ được, ông Đang mới nảy ra ý định
làm giỗ bên nhà chú Dương. Trước ngày giỗ mưa quá, mưa rả rích rả rích. Ông Đang đạp xe
xuống Nam Đồng, nơi ở của anh ruột Nguyễn Hữu Thoan. Ông đứng lại trước cái ngõ lội, mấy
con vịt cỏ đang mò ở cái ao đen sì bẩn tưởi kêu lép nhép. Cảnh tình thật hoang vu buồn tẻ. Ông
nghe rõ tiếng chị dâu than thở về cảnh nhà khó khăn. Anh em mỗi người một nơi. Bác cả
Nguyễn Hữu Ruông ở ngoài Hải Phòng. Hai bác đều là viên chức. Bác trai những ngày này đang
lặn lội ở Bạch Long Vĩ thu mua hải sản, còn chú út Nguyễn Hữu Đang nghe đâu có chuyện gì lôi
thôi chính trị, mắc mớ với Chính phủ, chắc gì đã nhớ ngày mẹ nằm xuống.
Ông Đang đứng chôn chân đầu ngõ nghe chị dâu nói và nhìn qua ô cửa sổ từ phía chái nhà, thấy
anh trai đứng bật dậy khỏi cái ghế băng và muốn nói một câu gì đấy với vợ. Chị dâu biết ý lùi lại
phía giường nằm, tiếng thở nặng chình chịch vang lên giữa bầu không khí lặng ngắt mưa bụi
tháng Hai. Ông nhìn mãi bóng bà chị dâu đưa tay áo chùi nước mắt.
Ông Thoan lại lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế băng. Khi ông Đang cũng vừa kịp nhận ra ngôi nhà
của anh tồi tàn như sắp sụp xuống. Quanh đấy chuồng lợn, chuồng gà và cái giếng nông toen
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 4/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
hoẻn nước đỏ ngầu, mấy cây chuối thân già những tàu lá rũ xuống trước sân đẫm mưa xuân.
Ông bỗng cảm thấy lòng nặng trĩu, buồn rầu xấu hổ trước cuộc sống của ba anh em.
Ông mạnh dạn bước vào đầu sân, cái xe đạp kéo theo vệt đất bùn đỏ như son trên lớp gạch
màu thâm thẫm. Con chó cụt đuôi sủa lên trời mấy tiếng vu vơ. Nhận ra ông Đang, ông Thoan
nói: “Chú vào nhà”. Ông Đang vội tháo dép vứt ở đầu sân giếng múc gầu nước cọ rửa, tiện cái
chổi lúa vứt ở đầu hè chùi qua loa bước vào ngồi xuống chiếc ghế băng. Trước mặt ông là cái
bàn nước gỗ xấu xí nứt toác.
Ông Thoan rót chén nước vối đỏ quạch ra cái chén sứt sẹo, nói với em:
Chị dâu là người tính tình mau mắn vui vẻ đã chạy ra ngồi xuống đầu ghế tiếp chuyện chú em,
ông Thoan cất lời trước:
- Trông người chú xấu quá, chắc không ngủ được, nghe đâu người ta đặt điều cho chú phải
không?
- Thời buổi thay đổi nhanh chóng quá, không biết đâu mà lường được, nó kéo theo cả lòng con
người cũng đổi thay.
Ông Đang vừa nói vừa chăm chú nhìn vào lọn tóc bạc thòi ra ngoài chỏm mũ len như đuôi con
gà trống mà anh trai đang trùm khít lên đầu.
- Giá ngày ấy chú cứ theo cụ Tố, theo cái nghề dạy học có hay không? Hội Truyền bá quốc ngữ
mãi mãi còn sống trong lòng dân chúng. Đằng này chú lại theo cái nghề làm văn làm báo chính
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 5/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
trị. Vào được chỗ ở của Cụ Hồ rồi làm Trưởng ban ngày lễ Độc Lập mà giờ nghe ra khó sống.
Con người chú vừa là của hành động nhưng lại muốn làm “chủ thuyết” nữa nên mới khổ. Sống
đến cái tuổi như chú và tôi, mới nghiệm ra một điều, cái chí thành bại của con người không mấy
khi thành đạt theo lý tưởng ban đầu. Nào là thời thế, may rủi, số phận đã dẫn đến sinh mạng của
con người còn hay mất. Giả thử như hồi đó Pháp nó bắt được chú, đày ra Côn Lôn, với tội danh
cộng sản thì giờ gia đình ta vinh dự biết bao nhiêu?
Ông Đang trả lời lập lờ anh và hình như cũng đã định nói với chính mình:
- Cũng có thể… Tôi vừa lớn, thời tuổi trẻ nông nổi quá, cái nết còn dở dở dang dang, khi trở
thành người lớn, lao ngay vào cuộc sống thật hỗn độn, lúc Tây, lúc Nhật, lúc Tàu, lúc Tưởng…
Tôi đã lựa chọn con đường đi với Đảng có xu hướng chính trị là yêu nước. Rồi được làm cán bộ
Việt Minh, ở Hội nghị quốc dân Tân Trào được cử làm Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền. Tôi ghét
các phe cánh đảng phái Việt quốc, Việt cách, có thằng tin vào cái thuyết da vàng, có thằng tin
vào thằng Nhật, nhưng thực ra Nhật tệ hơn cả Pháp. Tôi chỉ tin vào Chính phủ Cụ Hồ nên khi làm
Trưởng ban ngày lễ Độc Lập 2/9/1945, tôi đã đứng trên lễ đài dâng ấn kiếm cho Cụ Hồ. Khi nhận
được ấn kiếm, bất thần cụ giơ kiếm lên cao, nói đanh thép: “Lưỡi kiếm này là để trừng trị những
tên hại dân, phản quốc”.
Ông Đang lấy lại bình tĩnh ngồi duỗi chân rút điếu thuốc hút nhả khói lên trần nhà nói bâng quơ:
- Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, lúc đánh giáp lá cà người ta dùng gươm và lưỡi lê để đâm
chém những kẻ bỏ chạy. Cụ Hồ đã cảnh cáo những kẻ định bỏ chạy theo giặc chống lại Chính
phủ. Tôi không phải là người như thế, anh chị cứ yên tâm.
Hít một hơi thuốc với dáng vẻ trầm tĩnh, ông Đang nói tiếp:
- Lòng người đổi thay theo thời thế. Chỉ cần nhanh mắt một tý cũng nhận ra ai là người như thế
nào? Họ thay đổi đến nỗi vợ con anh em cũng phải giật mình thon thót. Nhìn họ như lạ lại như
quen. Có thằng hai mặt, nửa nạc, nửa mỡ, đầu đội mũ lưỡi trai Tàu nhưng đeo gươm Nhật. Còn
em trước sau chỉ có áo trấn thủ, mũ ca lô, dép lốp Cụ Hồ. Em của anh chị không như họ nói
đâu, khi em cắp quần áo ra khỏi nhà, mẹ dặn điều gì, thày dạy dỗ ra sao em nhớ lắm. Hồi mẹ
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 6/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
ốm, tất cả nhờ vào anh chị đây và gia đình bác Ruông hầu mẹ, hầu bố, rồi hầu bà cô, bà dì rồi lo
nuôi các cháu, bây giờ thằng Hà đã bằng này rồi. Biết đâu những ngày tới, chị dâu lại phải theo
nuôi ông em trong tù. Cái đời em, cái lý tưởng độc lập, tự do em theo đuổi cho dân cho nước…
Nếu em có sự sa xảy gì, anh chị nên tìm nơi nào ẩn thân làm ăn, xa đất Hà Nội, quên đứa em
bất hiếu với thày mẹ, bất nghĩa với anh em, không lo gì được cho các cháu…
Tay ông Đang lúc ấy bỗng quờ ra kéo cháu Hà ôm vào lòng. Bà Thục, vợ ông Thoan, tự nhiên
nấc lên mếu máo:
- Chú có tội tình gì cơ chứ? Tội tình gì mà phải vào tù. Chị nghĩ chả nhẽ các “đồng chí” của chú
lại xử tệ với chú được sao? Cụ Hồ lại để họ làm bậy bạ được sao?
- Ấy là em nghĩ vơ vẩn thế chị ạ, tình hình chưa xấu đến nỗi…
- Tôi rắp tâm từ mấy hôm nay, nếu Chính phủ không cho chú làm việc, chú cứ về đây ở với anh
chị, vì ở quê cũng chẳng còn ai mà cậy nhờ. Chú đừng nay đây mai đó bơ vơ nơi xứ lạ.
Ông Đang đưa tay lên miệng cắn móng, tranh lời chị:
- Thôi, mọi việc cứ xếp lại đã, hôm nay em xuống thưa với anh chị cho em được đứng ra lo giỗ
cho mẹ năm nay.
- Chú nói thế sao được? Việc giỗ Tết thờ cúng tổ tiên là việc của mọi người trong gia đình, ai
cũng phải có lòng thành…
- Em biết là vậy nhưng năm nay nó khác. Có thể đây là lần giỗ cuối cùng em được cúng mẹ.
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 7/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
- Em định làm ở nhà chú Dương trên phố Đinh Lễ, nhà chú rộng rãi, bạn bè con cháu đến đấy
cũng tiện. Nghe tin chú Dương nhà mình mới được bổ nhiệm Trưởng ban tài chính Trung ương
Cục miền Nam. Mấy năm rồi, mỗi lần ra Bắc, chú thồ ra cho em cả đống sách để đọc.
- Chú nói thế cũng phải, mẹ thằng Hà cứ để cho chú ấy lo. Có thế mới vơi đi được nỗi buồn của
chú.
- Chú lên ngay Đinh Lễ nói với thím Dương xem sắp xếp ra sao. Ngày mai vợ chồng tôi sẽ lên
trên ấy sớm.
Ông Đang như nhẹ lòng hơn khi thấy anh trai hiểu mình, nhưng nhớ tới mẹ già đã khuất, ông lại
than thầm: “Đúng đời là bể khổ, người trẻ lo giành danh lợi, người già lo ngày sống, lo lúc chết,
lo cả miệng đời, tiếng để… Lo cả mồ mả, gia tiên... Như thân mình đây, để bố mẹ nằm lạnh vắng
trên một khu đất, hàng năm hương nhạt khói tàn, chả hiểu cái vui cái buồn của các cụ dưới ấy ra
sao, lại luôn luôn nghĩ rằng trên đời này chỉ có mình mới nắm được chân lý, hiểu được chân lý…
Các cụ xưa thường dạy: “Con đi đâu thì đi, giỗ Tết phải về nhà thắp cho các bậc sinh thành một
nén nhang”. Giờ giỗ mẹ đi cúng nhờ nhà người khác, nghĩ mà tủi cho mẹ, không biết cụ có biết
đường về nhà chú Dương không? Bày ra thì con cháu mình ăn, các cụ được miếng nào? Ngày
còn bé, cứ có tiếng động bát đũa của mẹ dưới bếp, chơi đâu xa mấy cũng chạy về. Bây giờ trả
nghĩa mẹ thế nào đây?”.
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 8/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
Cháu Hà nãy giờ ngồi nghe rất lễ phép, rất chăm chú, có vẻ hiểu lòng chú. Chú ấy còn trẻ mà
khổ thế này. Bố mẹ mình chắc còn khổ hơn nhiều.
Chị Thục chạy vào buồng lục lọi một lúc sau đưa ra một chiếc áo mưa màu xanh vá hai miếng
chéo ở góc:
- Chú cầm lấy. Mưa lâu thấm ướt áo, dễ cảm lạnh lắm. Ngày kia lại gặp nhau trên nhà chú
Dương rồi...
- Tội nghiệp cho chú, chẳng chết ở nơi mũi tên hòn đạn lúc khởi nghĩa nhưng không khéo lại
mòn mỏi chết nơi tù ngục…
Ngày giỗ trời lạnh, ánh nắng đầu mùa xua đi sương lạnh, mọi nhà trên các phố xá phơi phóng áo
chăn sau bao ngày mưa dầm mưa dề ủ một chỗ, giờ tung ra bắt nắng. Giữa sân nhỏ nhà chú
Dương, thím Thảo ngồi rửa bát đũa chén, dội nước sôi rồi xếp gọn phơi trên chiếc chõng nhỏ.
Chỗ vòi nước cuối sân, mấy bà ngồi vặt lông gà, mổ cá, ai cũng khen con cá chép chú Đang
mua to và đẹp. Chú ấy giỏi cả mọi đường.
Thím Thảo bắt lời, bình luận cứ như một người làu thạo chính trị:
- Chú là một trí thức, một nhà văn nhà báo, lại có tài tổ chức thực hiện những nhiệm vụ lớn như
ngày lễ Độc Lập, trong thời gian ngắn nhất, đây cũng coi như trận đánh cuối cùng vào chế độ đế
quốc thực dân, cái tài huy động sức người, sức của và tài chỉ huy của chú khác gì một nhà quân
sự. Ngày lễ Độc lập là một trận đánh Cụ Hồ lãnh đạo coi như trận đánh hay, phối hợp tất thảy
các mặt.
Ông Đang đứng trong nhà lau bàn thờ, nghe chị em bàn luận, gương mặt héo, nụ cười nhợt
nhạt, ý nghĩ như tự nói một mình: “Giá hàng ngày ngồi viết lấy một câu văn hay để lại cho hậu thế
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 9/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
có hơn không? Đằng này lại thích đi làm những việc động trời động bể nên mới chết…”.
Lúc đó, ông Thoan từ bệnh viện Phủ Doãn đạp xe về đến đầu nhà, nghe mọi người bàn luận mà
héo cả ruột, ông muốn mọi người đừng nhắc gì đến sự tài giỏi của chú Đang, chỉ thêm cho
người ta ghét. Lúc nãy, ở ngoài bệnh viện ông đã nghe thấy mấy ông bác sĩ to nhỏ với nhau:
“Bọn Nhân văn - Giai phẩm là bọn chống Đảng” mà chú Đang cầm đầu. Bây giờ ông Thoan mới
thấy thèm cảnh sống yên ấm, dù thiếu thốn nhưng sống trong vui vẻ, trong lao động ví như chị
quét rác bệnh viện. Cứ sáng sớm nghe thấy tiếng chổi tre là nghe thấy chị nói cười ồn ã, cuộc
đời chẳng có gì phải lo nghĩ, nó như cái vòi nước cứ mở là chảy xối xả vào thùng. Ông Thoan
thấy trong cái thời buổi khó khăn này, vợ ông phải chịu biết bao lo lắng khốn khổ dội vào cái căn
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 10/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
nhà nhỏ bé. Thế mà mỗi bữa đong gạo thổi cơm, cô ấy phải xúc lại nửa bơ đổ vào hũ tiết kiệm
giành lúc có khách ở quê lên. Ông như thấy vợ mình đã già dần đi và có những biến đổi trong
con người… Nhiều lúc ông tự trách mình bất lực không lo nổi miếng ăn cho vợ con, giờ lại thêm
chuyện chú Đang nữa. Ông bước vào, thấy chú Đang gục đầu vào bàn thờ, hai mắt đỏ hoe. Cả
bữa hai anh em chỉ ngồi nhấm nháp và véo một tý xôi ở góc đĩa. Cuộc họp mặt cả nhà rầu rĩ
buồn tẻ. Chỉ có cu Hà cứ lăng xăng, nó không cho ai động đũa vào con cá chép chưng với cà
chua nằm chật cái đĩa lớn. Nó bảo:
- Cá chép chú Đang mua đẹp lắm, vây đuôi cá cứ như đang bơi đấy, nhất là lớp vảy cá vẫn ánh
lên đủ sắc màu....
Ông Thoan nói với con bằng cái giọng ngùi ngùi:
- Chú muốn tiên tổ giúp chú như “cá chép vượt vũ môn”. Nếu vượt qua được cửa vũ môn là hóa
rồng, vì ở đấy ghềnh thác nước ngược ghê gớm, cá phải dùng vây dùng đuôi, quẫy đạp ngược
nước mà lên. Khi đã “Vũ môn tiên đạt” sớm đỗ đạt vinh hoa rồi thì thay đổi được hoàn cảnh của
mình, của gia đình mình, quê hương mình, dân tộc mình. Nhưng tiếc thay…
Lời nói xa xôi đượm tính triết lý chỉ có ông Thoan, ông Đang và thím Thảo, chị Thục hiểu được,
còn cu Hà và bao người khác chẳng hiểu nó ra làm sao mà góp chuyện. Sau lúc ồn ã bên mâm
cơm, bây giờ ông Đang mới có điều kiện ngắm lại chân dung từng con người trong gia đình. Biết
đâu cuộc gặp mặt lần này, từ ánh mắt đến nụ cười, tiếng nói của họ sẽ in sâu vào ông...
Và đúng thế, sau ba mươi năm tù tội sau này, ông mới được gặp lại họ, và có người mãi mãi
không còn gặp nữa vì đã trở thành người thiên cổ. Chiều ấy ông Đang lại lững thững đạp xe về
nơi ở. Mở cửa vào nhà mắt ông dừng lại tên Trần Đức Thảo in trên bìa cuốn sách rồi chép
miệng: “Vụ Nhân văn này làm lôi thôi biết bao người văn nghệ sĩ, làm họ buồn chán, có người bị
dọa dẫm như sắp bị bóp cổ, rút gân thì sống sao đây, đừng nói gì đến việc sáng tạo cho nhân
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 11/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
loại học thuyết này học thuyết nọ. Họ lo sắp bị truy tố, bị săn đuổi, không biết kêu ai. Rồi ngoài
đời bao chuyện... Chuyện nào cũng kinh thiên động địa như chuyện chiến trường".
Ông mân mê ngọn bút Satođô còn mới, thoáng trong đầu nghĩ: "Cái này dành cho thằng Hà, ngòi
bút này đã viết ra những dòng chữ “vì Độc lập, vì tự do của dân tộc” giờ thành một tai họa cho
chính người dùng nó. Nhưng với lớp trẻ như thằng Hà, biết đâu được dùng nó là việc có ý nghĩa
hay?”...
Mấy hôm sau ông ghé chợ trời mua quần áo cũ, hình như ông đã chuẩn bị cho chuyến đi khổ
hạnh.
Ông ướm thử cái quần vải dầy xổ gấu. "Còn tốt lắm” - Ông lẩm bẩm rồi lom khom cúi rạp người
xuống đống quần áo cũ hỗn độn bốc mùi ẩm mốc định chọn thêm vài chiếc áo. Bỗng có tiếng
nói: “Xin mời anh về cơ quan”. Rồi hai bên là hai thanh niên khoác tay ông như bạn hữu dắt nhau
đi chơi đẩy ông lên chiếc xe bịt kín chạy vù đi. Lên xe, ông phản đối việc bắt người vô cớ. Ông
hỏi:
- Các anh bắt tôi theo lệnh ai? Giấy đâu? Hay đây là vụ bắt cóc?
- Lệnh à! - Người thanh niên há to miệng, chỉ vào mồm mình - Lệnh ở đây mà ra, tất cả ở đây!
Ông nhìn vào cái miệng với hàm răng trắng của anh ta. Từ đấy không cất lời nữa...
Chỉ đến khi đứng xem người ta lúc lọi nhà cửa, nhìn thấy cái bút Satođô người thanh niên mân
mê, ông liền bảo:
- Các anh phải để đó, liệt kê vào danh sách cá nhân tài sản của tôi bị thu giữ. Sau này tôi vẫn
khai cái bút đó với nhà chức trách. Vì đấy là kỷ vật tôi đã dùng viết vài lời trên báo chí vận động
dân Hà Nội đóng góp tài trí, vật lực xây dựng Kỳ đài Độc Lập 2/9/1945.
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 12/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
Lúc sau họ leo lên tầng hai tiếp tục khám xét nhà ông Thiếu Bảo…
Người ta đã hỏi rất nhiều chuyện liên quan đến việc ông mua quần áo ở chợ Trời làm gì? Mặc dù
ông đã nhiều lần giải thích việc mua quần áo đó là để dùng cho bản thân mình, vì ông không có
nhiều tiền mua quần áo tốt.
Tất cả lời khai của ông, người ta đã đập lại cho đó là lừa dối nhà chức trách và buộc tội ông có ý
định thay đổi hình dạng để chạy trốn…Cũng như việc đào xới tài liệu, đào xới tư tưởng, ông đã
cùng với Thụy An làm gián điệp cho Pháp, họ cứ đóng vào khung tội “chống Đảng” và làm gián
điệp bắt thừa nhận. Nhưng ông quyết không cầm bút ký cho đến khi họ đưa ông từ Hỏa Lò lên
trại giam Tân Lập, Phú Thọ, vẫn với tội danh tên tù “NH” (nguy hiểm). Khi ông đi rồi, bà Thục chị
dâu thương chú em tù tội ngày nào cũng mò vào Hỏa Lò nghe tin tức, khi có nắm cơm to tướng,
lúc thì lọ muối vừng rang vội hơi cháy. Bà Thục chan chứa nước mắt, ruột cứ xóc lên vì mọi thứ
mang vào đều được các chú bảo vệ khám xét hạch sách. Cơm thì người ta bẻ ra từng miếng
nhỏ, họ sợ trong đó có tài liệu. Đến nỗi niêu cá trê kho khô với thịt gáy, lúc ở ngoài chú Đang
thích ăn nhất, cũng bị bẻ vụn ra gói lại chuyển vào phòng giam. Mà những thứ ấy có được đến
tay chú Đang không, không rõ nữa?
Ông Đang bị bắt rồi, bác cả Ruông đang làm ở Ty Hải sản Hải Phòng cũng bị đẩy ra Bạch Long
Vĩ, còn Nguyễn Hữu Thoan bị đẩy xuống làm anh lao công quét vôi bệnh viện Phủ Doãn. Vợ con
ông Thoan quấn túm chạy lên rừng khai hoang sinh sống ở làng Cổi thuộc Châu Lạng Sơn. Ở
đấy toàn người Mường. Lúc đầu mẹ con đi làm thuê, sau vào HTX nông nghiệp. Anh Hà chữ
nghĩa khơ khớ, xoay ra dạy trẻ con học, kiếm thêm tiền sinh sống.
Ở Hòa Lò, ông Đang ngày nào cũng bị thẩm vấn, lúc vào nửa đêm, có khi khoảng ba giờ sáng,
có hôm vừa bảnh mắt đã bị lôi ra hạch sách. Vẫn là cái anh ấy, giọng đều đều như nước chảy,
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 13/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
con mắt lim dim nhìn vào được đến ruột gan người tù. Thi thoảng anh đưa ra những câu hỏi
chẳng đâu vào đâu. Trả lời hở một tí trúng cái bẫy cài mình là chết.
Ông Đang kể lại, có một cuộc thẩm vấn như thế này:
- Ông và bà Thụy An có quan hệ với nhau như thế nào? Thường xuyên liên lạc với tổ chức gián
điệp nước ngoài ra sao? Tại địa điểm nào?
- Thưa ông, tôi quen biết bà Thụy An qua số anh em văn nghệ sĩ, người ta khen cà phê bà An
ngon lắm. Thường thì chúng tôi đến đó uống cà phê, nói “bốc” với nhau chứ có để liên lạc móc
nối với ai đâu mà các ông gán cho tôi tội gián điệp, chống Đảng. Là con người tôi cũng phải biết
nghĩ chứ? Tôi có làm được cái gì cho ra tấm ra miếng đâu mà còn nói đến chống ai? Gần với
ông Cụ lúc làm việc thấy Cụ như một Thánh nhân, học được Cụ đôi ba điều, tệ lắm tôi cũng
không trở thành thằng bán nước, hoặc nhẫn tâm đi câu kết với bọn xấu…
Một trăm lần vẫn những câu hỏi như thế. Nguyễn Hữu Đang trở thành người có “án mờ”. Đã là
“án mờ” càng phải thít chặt. Anh cán bộ ngồi trên chiếc ghế, chân nọ gác chân kia đưa mắt nhìn
gườm gườm ông Đang, cái nhìn như đe dọa. Cửa phòng giam đóng sập lại… Tiếng bước chân
đi của cán bộ thật nặng nề…
Mùa thu đến. Lúc nào trời cũng trắng nước như tóc của người tù trắng xốp phơi trong kiên Hỏa
Lò.
Ông Đang được chuyển lên trại Tân Lập vào ngày mưa sét chớp sáng lòa, sấm gầm ầm ĩ. Mưa
không dứt, ông nhìn về những dãy núi Chinh trước mặt là con đường đi bộ vào vùng đất Soi Đẽn
nhạt nhòa nước trắng. Ngòi Lao, nước chảy từ phía trên trôi xuống như xé những bụi cây, như
lật hòn đá to nằm chềnh ềnh giữa suối. Núi non chìm trong mưa. Đoàn tù đi bộ phải dừng lại ngồi
xuống sườn quả đồi có nhiều cây to. Mỗi người có một chiếc mũ to che đủ chỏm tóc, còn tất cả
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 14/18
7/8/2015 Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng
phải hứng nước. Họ xây lưng chụm đầu ngồi quây lại cho đỡ rét. Cái rét của nước mưa thấm
sâu vào gan ruột người tù làm mọi người co rúm.
Trên cái nền nhà giam, đoàn tù vừa từ Hỏa Lò lên nhập trại Tân Lập, khi về đến các buồng, còn
để lại những vệt đen sũng nước... Cả đám tù trông loi ngoi như một đàn chuột nhắt bị rơi xuống
suối…
(Còn tiếp)
VÕ BÁ CƯỜNG
Chuyên gia giảm béo hàng đầu tư vấn và cung cấp giải pháp - Xem ngay
Thích và chia sẻ bài viết này trên: Theo dõi baodansinh.vn qua FB, G+:
Tag : Nguyễn Hữu Đang bi thương và cay đắng bước đi định mệnh
http://baodansinh.vn/nguyen-huu-dang-bi-thuong-va-cay-dang-d14216.html 15/18
Nhân Văn Giai Phẩm phần thứ IX : Nguyễn Hữu Đang
Thụy Khuê
Là người cộng sản, nhưng Nguyễn Hữu Đang luôn luôn tự do trong hành động và tư
tưởng của mình. Ông đã đứng lên lãnh đạo phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đã tạo được một thời
kỳ sôi nổi, trong vòng bốn tháng, trí thức và văn nghệ sĩ, dám nói, dám viết, những điều mình
nghĩ, dám chủ trương cải tiến xã hội Việt Nam thành một nước dân chủ theo đà tiến của thế giới
bên ngoài.
Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn thân tranh đấu cho tự do
dân chủ can trường nhất trong thế kỷ XX. Là cột trụ của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm,
Nguyễn Hữu Đang đã bị bắt, bị cầm tù, bị quản thúc và mất quyền tự do phát biểu trong 59 năm,
từ tháng 4/ 1958 đến tháng 2/2007, khi ông mất. Nhiều sự kiện về cuộc đời Nguyễn Hữu Đang đã
sáng tỏ hơn, sau khi ông qua đời, một số tư liệu về con người ông đã được phơi bày ra ánh sáng và
do đó chúng ta có thể tạm dựng một tiểu sử đầy đủ hơn về người lãnh đạo phong trào Nhân Văn
Giai Phẩm.
Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình.
Ông mất ngày 8/2/2007 tại Hà Nội. Theo bản "Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn
Hữu Đang" do chính tay ông viết (tài liệu của diendan.org), lúc mười sáu tuổi, Nguyễn Hữu Đang
đã tham gia Học Sinh Hội (tổ chức thuộc Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, rồi
Đông dương Cộng sản đảng), làm tổ trưởng và đã là đối tượng được kết nạp vào đảng, đó là năm
1929.
Các cột mốc quan trọng của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
Cùng trong Nhân Văn, nhưng về cách đối xử, ông được "biệt đãi" hơn cả, biệt đãi đến
phút cuối. Đám tang Văn Cao, Phùng Quán, Trần Dần, Trần Đức Thảo... đều đã được cử hành
tương đối trọng thể, dù chỉ để che mắt thế gian. Hoàng Cầm, Lê Đạt còn được đọc điếu văn khóc
bạn trước linh cữu Trần Dần. Đến Nguyễn Hữu Đang mọi chuyện khác hẳn:
Tang lễ Nguyễn Hữu Đang cũng được nhà nước cử hành, nhưng mọi sự dường như đều
đã toan tính sao cho vừa đủ lệ bộ, trong lặng lẽ, khiến người thân không biết để đến dự. Trước linh
cữu ông, hành động Nhân Văn vẫn còn bị chính thức tuyên bố là một "sai lầm".
Chỉ vài giờ sau khi ông mất, chúng tôi đã được tin, cho nên đã kịp thời liên lạc với hai
nhà thơ Lê Đạt và Hoàng Cầm để ghi âm những lời tiễn bạn qua điện thoại Paris-Hà Nội.
Riêng nhà thơ Hoàng Cầm hôm ấy, mặc dù tuổi cao, và sau khi bị ngã, chỉ nằm không
còn đi lại được nữa, đã muốn nói thật dài về con người Nguyễn Hữu Đang. Hoàng Cầm nói không
ngừng, nhưng sau khi thu thanh được gần một tiếng, vì sợ ông mệt, chúng tôi đề nghị tạm ngừng
để hôm sau thu tiếp. Nhưng cả ngày hôm sau và hôm sau nữa, không thể liên lạc lại được với
Hoàng Cầm, vì đường dây điện thoại Hoàng Cầm - Paris cũng đã bị chặn. Như vậy, tiếng nói của
những thành viên Nhân Văn Giai Phẩm, cho đến ngày Nguyễn Hữu Đang mất, 8-2-2007, vẫn còn
bị kiểm soát chặt chẽ.
Nguyễn Hữu Đang là một trong những người hoạt động rất sớm cho hội Truyền Bá quốc
ngữ, nhưng ông không phải là người đầu tiên.
Về cách hoạt động của Nguyễn Hữu Đang trong hội Truyền bá quốc ngữ, Nguyễn Huy
Tưởng ghi trong nhật ký ngày 16-6-1942: "Anh Nguyễn hữu Đang xuống làm việc cho Truyền bá
quốc ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh xin nghỉ ở sở Tài chính (Hà Nội) xuống đây làm việc nghĩa.
Đức hy sinh của anh thực không thể nào tả được. Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải phòng
chết đi nay sống lại. Anh như một ông tướng khuyến khích được cả một đạo quân chiến bại. Muốn
làm một bài thơ tặng anh ấy".
Nguyễn Hữu Đang có nhiều bút hiệu khác nhau, hiện nay chưa biết rõ ông đã dùng bao
nhiêu bút hiệu trong cuộc đời tranh đấu cách mạng, trong thời kỳ Nhân Văn Giai phẩm, vì vậy,
việc tìm lại những bài viết của ông không dễ dàng. Ngay cả khi ông viết bài "Người thuyền
trưởng" về Nguyễn Văn Tố, khoảng 1988, cũng dưới hai bút hiệu khác nhau: phần đầu ký tên
Phạm Đình Thái, phần sau Dương Quang Hiệt, nhiều năm sau mới thu thập lại làm một dưới tên
Nguyễn Hữu Đang. (Bài Người thuyền trưởng viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm Hội Truyền bá quốc
ngữ (1938-1988), đăng trong tập kỷ yếu của Hội, do nhà xuất bản Bộ giáo dục ấn hành, sau này
đăng lại trên Diễn Đàn số 78, tháng 10-1998, và diendan.org).
Nhờ những thông tin trong bài Người thuyền trưởng, chúng ta có thể xác định lại nguồn
cội của hội Truyền Bá Quốc Ngữ, khác với những gì vẫn được chính thức ghi lại.
Nguyễn Hữu Đang viết: "Mùa hè năm 1938, vào cuối tháng năm, một hôm đọc báo hàng
ngày ở một trạm Bưu điện, cách Hà Nội hơn trăm cây số, tôi thấy bài tường thuật buổi cổ động
đồng thời cũng là lễ ra mắt của Hội truyền bá quốc ngữ Bắc kỳ ở sân quần vợt Câu lạc bộ thể thao
An-Nam (CSA), mấy nghìn người tới dự, có cả đại diện Thống sứ Bắc kỳ, tổng đốc Hà Đông, đốc
lý Hà Nội, chủ tịch Chi nhánh Hội nhân quyền Pháp, bí thư Chi nhánh đảng Xã hội Pháp (SFIO),
nhiều nhân sĩ Pháp, Nam nổi tiếng, tôi chăm chú đọc." (Trích Người thuyền trưởng, bđd)
Qua nhân chứng của Nguyễn Hữu Đang, một số vấn đề sáng tỏ hơn:
- Hội truyền bá quốc ngữ được chính quyền thuộc địa chính thức công nhận từ đầu (năm
1938).
- Nguyễn Hữu Đang không phải là một trong những người sáng lập Hội như một vài tài
liệu đã ghi. Hôm khai mạc hội, ông đang dạy học ở nông thôn, nhưng ít lâu sau, về Hà Nội nghỉ
hè tình cờ gặp Đào Duy Kỳ (em trai Đào Duy Anh). Đào Duy Kỳ khuyên ông nên đến Hội Trí Tri,
phố Hàng Quạt để nhận việc dạy học giúp Hội.
- Việt Minh tham dự Hội truyền bá quốc ngữ, nhưng Việt Minh không khai sinh ra Hội
Truyền bá quốc ngữ, như các khẩu hiệu: "Diệt giặc ngoại xâm ta có chiến dịch Điện Biên Phủ,
diệt giặc dốt, ta có chiến dịch Truyền bá quốc ngữ".
- Hội truyền bá quốc ngữ thuộc Hội Trí Tri, do Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng. Trong số
những thành viên xây dựng Hội, có các trí thức như Hoàng Xuân Hãn, tác giả bài vè: i tờ có móc
cả hai...
- Trong những tài liệu chính thức, và cả trong bài viết của Nguyễn Hữu Đang, không thấy
nhắc đến vai trò chủ chốt của Hoàng Xuân Hãn trong Hội truyền bá quốc ngữ, điều này cần được
nhắc lại ở đây: Hoàng Xuân Hãn là một trong những người đầu tiên chủ trương việc truyền bá
quốc ngữ (ngay khi chưa thành hội). Từ năm 1936, khi ông ở Pháp về, ông đã nghĩ ra phương
pháp học chữ quốc ngữ, đặt những câu vè để người bình dân dễ thuộc vần quốc ngữ như: o tròn
như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu...
- Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng từ 1938 đến 1945. Nguyễn Hữu Đang cho biết: trong
"Bảy năm liền, thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố, về căn bản, đã làm tròn nhiệm vụ". Chỉ sau khi
Việt Minh lên nắm chính quyền (1945), chính phủ cách mạng lâm thời quyết định thành lập Nha
Bình dân học vụ để thay thế Hội truyền bá quốc ngữ; từ đó, vai trò thuyền trưởng của Nguyễn Văn
Tố mới chấm dứt.
Xác định lập trường văn hoá
Những bài viết của Nguyễn Hữu Đang, trên ba số đầu của báo Tiên Phong (báo của Hội
Văn Hoá Cứu Quốc, ra năm 45-46, được 24 số, do Lại Nguyên Ân và Hữu Nhận sưu tầm, nxb Hội
Nhà Văn, 1996), gồm có:
- Định nghĩa hai chữ văn hoá (viết chung với Đặng Thai Mai), Trở lực của văn hoá dưới
ách đế quốc (Tiên Phong số 1, ra ngày 10-11-45)
- Hội nghị văn hoá toàn quốc và nền độc lập Việt Nam (Tiên Phong số 2; 1-12-45)
- Nhận rõ thêm về ý nghĩa hai chữ văn hoá: văn hoá tức là... và Hội nghị văn hoá toàn
quốc sẽ tổ chức như thế nào (Tiên Phong số 3; 16-12-45).
Đó là những bài viết ngắn xác định lập trường văn hoá của Nguyễn Hữu Đang: Từ 1945,
lập trường này đã khác biệt với lập trường của Trường Chinh, trong bài Đề Cương Văn Hoá Việt
Nam (được coi là văn bản lịch sử của đảng Cộng Sản từ năm 1943, in lại trên Tiên Phong số 1).
Trường Chinh chủ trương: "Nền văn hoá mà cuộc cách mạng văn hoá Đông Dương phải
thực hiện sẽ là văn hoá xã hội chủ nghĩa"
Nguyễn Hữu Đang, trong những bài viết trên đây, đã xác định đường lối hoạt động và lập
trường văn hoá của Hội Văn Hoá Cứu Quốc, nhưng không hề đả động gì đến xã hội chủ nghĩa, và
ông coi việc xây dựng văn hoá là xây dựng đời sống tinh thần của con người, đi đôi với công cuộc
đấu tranh chống áp bức, nô lệ.
Vị thế chính trị, văn hoá và tư tưởng độc lập của Nguyễn Hữu Đang
Nguyễn Huy Tưởng bộc lộ sự thán phục Nguyễn Hữu Đang trong nhật ký, như sau:
"Nghe Đang nói chuyện, tự thẹn. Anh đã biểu lộ ngay từ bé một tính cách đặc biệt, hùng hổ và
ngang tàng. Không sợ, khinh quyền thế, biến báo giỏi, biết thân phận mình, tin ở tài mình, đó là
những tính cách của một người giỏi". (Nhật ký ngày 30-7-1942)
Năm 1945, là năm Nguyễn Hữu Đang hoạt động mạnh, về mặt chính trị, ông được chủ
tịch Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày lễ Độc Lập ở Ba Đình; về mặt văn hóa, ông
chủ trương tạp chí Tiên Phong cùng Đặng Thai Mai.
Vị thế chính trị và văn hóa của Nguyễn Hữu Đang, từ 1945 đến 1947 lên rất cao, và điều
này được Nguyễn Huy Tưởng xác định trong nhật ký: "Chuyện Tham Ý. Phục các cán bộ Việt
Minh (...) Phục Đang. Hỏi thầm một người: Có phải là cánh tay phải của cụ Hồ không? Băn
khoăn không biết bây giờ Đang về khu này thì phải vào chức gì cho xứng? Theo ý anh tham biện
ấy, thì ở đây không có một chức gì cao hơn để Đang làm cả, vì Đang trên cả uỷ ban kháng chiến"
(ngày 15/11/1947)
Bài Định nghĩa hai chữ văn hóa cho thấy những nhận thức của Nguyễn Hữu Đang về
văn hóa, thấy mối tương giao của ông với những nhà văn hóa đương thời như Nguyễn Đức Quỳnh
(trốt-kít), Đào Duy Anh. Sự giao thiệp với các trí thức trong nhóm Hàn Thuyên đã gây khó khăn
cho ông, nhưng có lẽ cũng nhờ những mối tương giao này, mà khi ra cầm đầu NVGP, ông đã được
sự ủng hộ nhiệt thành của những nhà trí thức như Đào Duy Anh, Trương Tửu.
Báo Văn Nghệ số 12 với những lời "thú nhận" của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần và
Phùng Quán
Qua lời buộc tội của Hồng Vân trong bài "Tên quân sư quạt mo: Nguyễn Hữu Đang",
chúng ta có thể hiểu rõ nguyên nhân tại sao ngay từ năm 1929 (16 tuổi), ông đã được coi là "đối
tượng kết nạp" mà mãi đến năm 1947, ông mới được kết nạp vào đảng, rồi ông bỏ đảng khoảng
một năm sau khi được kết nạp, Hồng Vân viết:
"Khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn Thuyên, thì hắn trở về mang
theo cái chủ trương cần dựa vào Nhật của bè lũ tờ-rốt-kít".
"Bất mãn với đoàn thể Văn Hóa Cứu quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại hội
văn hóa toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội văn hóa toàn quốc".
"Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì với anh em, không xin chỉ
thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này người khác, không cần biết thái độ chính
trị ra sao. Công việc đương tiến hành thì kháng chiến bùng nổ".
"Đang tổ chức thanh niên xung phong rất quy mô và tiêu tốn rất nhiều tiền (...) không
quỹ nào cung cấp cho đủ. Tổ chức thanh niên xung phong của Đang phải giải tán. Nguyễn Hữu
Đang lại được Đảng điều động về làm Thanh tra Bình dân học vụ".
"Đang tham gia phong trào đã lâu, nhưng vì đầu óc vô chính phủ và tư tưởng cơ hội
nặng nề như vậy cho nên đến năm 1947 mới được kết nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành
danh không toại, Đang sinh ra chán nản. Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại
Thanh Hoá làm "quân sư" cho nhà xuất bản Minh Đức (...) Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang đã tự
ý bỏ cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng năm 1951 thì Đảng
cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền, Đang luôn luôn chửi Đảng, chửi
cách mạng". (Hồng Vân, bđd)
Năm 1947 Nguyễn Hữu Đang được kết nạp vào đảng, và theo Nguyễn Huy Tưởng, thì
năm 1947, ông vẫn còn được coi là nhân vật quan trọng nhất nhì bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhưng trong suốt thời gian từ 1929 đến 1947, Nguyễn Hữu Đang không được kết nạp vào đảng,
vì sao? Hồng Vân đã trả lời: "Vì đầu óc vô chính phủ".
Ảnh chụp ông Nguyễn Hữu Đang vào tháng 9 năm 1997 (Ảnh : DR)
Sự thực, Nguyễn Hữu Đang không phải là người chịu tuân thủ một đường lối, một chính
sách vạch sẵn, nghĩ hộ, ông có đường lối riêng: Tuy theo cách mạng, nhưng ông luôn luôn độc
lập, không tuân chỉ thị, không nhận đường lối văn hoá xã hội chủ nghĩa, ông tự do giao tiếp với
những nhà trí thức trong các nhóm chính trị và tư tưởng ngoài đảng, hoặc chống đảng.
Vào đảng năm 1947, Nguyễn Hữu Đang đã bỏ đảng từ năm nào? Trong bài phỏng vấn
trên RFI, ông cho biết là từ lớp chỉnh huấn [lớp đầu tiên năm 1948], ông biết mình bị liệt vào
thành phần trí thức tiểu tư sản, và từ đấy ông có ý tưởng xin ra đảng.
Theo bài của Hồng Vân, thì Nguyễn Hữu Đang bỏ hoạt động từ khi cơ quan Bình dân
học vụ dọn lên Việt Bắc. Như vậy, cần xem lại: Cơ quan Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc năm
nào? Nhưng có lẽ đây cũng chỉ là cái cớ Nguyễn Hữu Đang đưa ra để ngừng hoạt động.
Bởi vì theo lời Hoàng Cầm thuật lại thì: "Vào khoảng tháng 7 năm 48, có Đại hội văn
hóa toàn quốc do ông Trường Chinh đề xướng và làm chủ tịch. Hội nghị văn hóa toàn quốc được
tổ chức để động viên và hướng dẫn trí thức và văn nghệ sĩ chuẩn bị đi sâu vào cuộc kháng chiến
(...) Tức là lúc bấy giờ hội nghị mới đề ra văn nghệ kháng chiến. (...) Sau hội nghị đó, không hiểu
vì lý do gì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa, anh về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là
anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức (...) Mãi sau này, hòa bình rồi, về Hà Nội
tôi cũng chỉ nghe phong phanh anh em bàn tán thôi chứ hỏi anh Đang thì anh cũng không nói, là
hình như trong hội nghị văn hóa toàn quốc, anh Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn
hóa với ông Trường Chinh. Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm
việc nữa, anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa" (Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI).
Nhưng theo bản tường trình của Xuân Diệu về Hội nghị văn nghệ toàn quốc, thì Nguyễn
Hữu Đang không đi dự hội nghị này. Như vậy, mối bất đồng giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu
Đang mà Hoàng Cầm nhắc đến, đã xẩy ra trước hội nghị văn nghệ toàn quốc cho nên Nguyễn
Hữu Đang mới không đi dự. Sự bất đồng ý kiến về lập trường văn hoá, như chúng ta đã thấy trên
báo Tiên Phong, năm 1945-46, và đã kéo dài trong suốt thời kỳ kháng chiến, của một người làm
chính trị, sử dụng văn hoá để phục vụ tuyên truyền như Trường Chinh và một người làm chính trị
nhưng tôn trọng văn hoá như một sản phẩm tinh thần, cần tự do để có thể phát triển, như Nguyễn
Hữu Đang.
Dù sao chăng nữa, nhiều tư liệu đều đồng quy ở một điểm: từ năm 1948, Nguyễn Hữu
Đang không còn theo cách mạng nữa.
Hoạt động trở lại
Vẫn theo lời Hoàng Cầm, sau khi hòa bình lập lại, Trường Chinh bàn với Tố Hữu rằng
anh Đang đã lâu lắm không làm gì, vậy nên mời anh ấy ra hoạt động lại. Điều này phù hợp với
việc Nguyễn Huy Tưởng mời Nguyễn Hữu Đang về báo Văn Nghệ (như lời chứng của Lê Đạt trên
RFI và như Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký).
Như vậy, trái với những gì ghi trong tiểu sử chính thức, trong 6 năm, từ 1948 đến 1954,
Nguyễn Hữu Đang đã ngừng mọi hoạt động với chính quyền cách mạng. Ông giúp Trần Thiếu
Bảo điều hành nhà xuất bản Minh Đức, tổ chức in lại những sách giá trị thời tiền chiến, đã bị cách
mạng lên án, hoặc cấm lưu hành, của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, v.v...
Năm 1954, khi Tố Hữu chính thức mời ông về hoạt động trở lại, vẫn theo lời Hoàng
Cầm, Nguyễn Hữu Đang đã từ chối chức Giám đốc Sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội, và yêu cầu
được làm biên tập viên báo Văn Nghệ (cùng với Lê Đạt).
Về thời kỳ này, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký:
"Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người có caractère, ở đâu
cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn [báoVăn Nghệ] khen là chí công, vô tư, nhưng
tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn" [Nhật ký ngày
21-4-55].
"Đầu óc nặng vì bài Đang công kích thuế. Hữu khuynh" [Nhật ký ngày 24-4-1955]
"Học tập tình hình và nhiệm vụ. Đang không học tập. Đúng hôm góp ý kiến cho Tiểu ban
thì đến. Đặc biệt đả kích mình [Nguyễn Huy Tưởng]: (đã) in Gốc đa, Gặp Bác, v.v..." [Nhật ký
ngày 23-6-1955].
Sự trở lại của Nguyễn Hữu Đang gây khó khăn cho những người lãnh đạo văn nghệ, kể
cả những người bạn thân.
Tổ chức lớp học 18 ngày
Trong thời gian này, Nguyễn Hữu Đang tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày (từ 8-8 đến
26-8-56) và trong ngày cuối, ông đã đọc một bài tham luận "nảy lửa" chỉ trích những sai lầm của
đảng và của lãnh đạo văn nghệ. Trương Tửu đánh giá bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang: "sự
việc thực là cụ thể, lời lẽ thực là tha thiết". Hoàng Cầm cho rằng tinh thần nêu những thắc mắc,
có từ kháng chiến, tích tụ lại và bùng nổ lên trong lớp học này.
Lê Đạt kể lại: "Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó
nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang (...) Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có
đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói
một câu với Nguyễn Ðình Thi (Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách
nhiệm tờ Văn Nghệ) Ðang nói rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì,
tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm".(...) tờ báo này chính là
tờ Nhân Văn". (Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI).
Nguyễn Huy Tưởng ghi lại không khí lớp học 18 ngày, trong nhật ký, như sau:
"Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về văn nghệ để làm rầy rà mình. Chính
người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang" [ngày 21/8/56].
Những bực mình và dằn vặt của Nguyễn Huy Tưởng, càng làm rõ tấm lòng và nhân cách
của ông: Mặc dù không đồng ý với Nguyễn Hữu Đang, bị Đang chỉ trích nặng nề, nhưng sau này,
ông là người duy nhất trong ban lãnh đạo văn nghệ đã đứng ra bênh vực Nhân Văn, như Lê Đạt
thuật lại và ông cũng ghi trong nhật ký: đã phản ảnh lên Trường Chinh về vụ Nhân Văn, nhưng vô
hiệu.
Nhân Văn Giai Phẩm
Vai trò chủ động của Nguyễn Hữu Đang trong phong trào NVGP đã được xác nhận từ
nhiều phía:
Những người trong ban biên tập báo Nhân Văn như Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Duy đều
xác nhận vai trò chủ chốt của Nguyễn Hữu Đang. Trần Dần ghi trong bài "thú nhận": "Nếu không
có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp
Trung ương, ra báo... mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn".
Trang bìa tập sách phê phán phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
(Ảnh : DR)
Về phía buộc tội, Nguyễn Hữu Đang được coi là lãnh tụ, "đầu sỏ". Mạnh Phú Tư viết:
"Hắn lẩn mình và... rút lui vào bí mật. Suốt bốn số báo đầu, người ta không thấy một bài
nào ký tên Nguyễn Hữu Đang! (...)
Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân Văn, nhưng
chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài nhưng
lại ký tên người khác. Hắn che lấp những nguồn tài chính, những kẻ cung cấp phương tiện bằng
hình thức dối trá là nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười! Hắn họp
hành bí mật với một số nhà văn chống Đảng, với những người tư sản và trí thức cũng đang muốn
lợi dụng thời cơ để phất lên lá cờ chính trị. Hắn luôn luôn bàn mưu, lập kế với bọn Trương Tửu
v.v... Hắn có tay chân trong một hai đoàn kịch tư nhân, ở một vài cơ quan văn hoá của Nhà nước.
Thông qua tờ báo Nhân Văn, hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội, có âm
mưu chính trị... ". (Mạnh Phú Tư, Báo Độc Lập, số 356, ngày 24/4/1958, in lại trong
BNVGPTTADL, trang 49-50).
Là người làm chính trị, Nguyễn Hữu Đang đã tìm đúng thời cơ: Trong nước, vị thế của
Trường Chinh và đảng Cộng sản yếu đi sau những sai lầm quan trọng trong Cải cách ruộng đất;
ngoài nước, việc hạ bệ Stalin ở đại hội XX của đảng cộng sản Liên Xô, là những lực đẩy khuynh
hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động. Nguyễn Hữu Đang, với tài tổ chức và
hùng biện trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến.
Ông nắm lấy cơ hội, đứng ra tổ chức Nhân Văn Giai Phẩm với những người bạn cùng chí hướng
từ trong kháng chiến như Trương Tửu và Trần Thiều Bảo; và Lê Đạt, Hoàng Cầm, chủ trương tạp
chí Giai phẩm mùa xuân.
Tuy không có nhiều bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của ông không thiếu trên báo Nhân
Văn:
- Những bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn
Ngữ về vấn đề dân chủ, có thể hoàn toàn do Nguyễn Hữu Đang thực hiện (Nguyễn Mạnh Tường
xác nhận là chính Nguyễn Hữu Đang mời ông trả lời phỏng vấn).
- Trong Nhân Văn số 1, có bài tựa đề: "Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng" ký tên
XYZ. Rất ít người biết XYZ là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chúng ta có thể đoán
chắc bài này do Nguyễn Hữu Đang viết (Lê Đạt chưa tham dự việc biên tập NV số 1). Trong bài
này, tác giả dùng giọng của ông Hồ để "giáo huấn" cán bộ. Vừa vinh thăng vừa giễu cợt vị chủ
tịch, có lẽ chỉ một mình Nguyễn Hữu Đang là dám làm trong thời điểm ấy.
- Bài "Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị - Trả lời bạn Nguyễn
Chương và báo Nhân Dân", trên Nhân Văn số 2, ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy, do
Nguyễn Hữu Đang viết (theo Trần Duy). Bài này xác định biệt tài bút chiến của Nguyễn Hữu
Đang. Ông trả lời từng điểm sự buộc tội Nhân Văn của báo Đảng, với một lập luận châm biếm,
sắc bén, không nhân nhượng. Chứng tỏ trong thời kỳ Nhân Văn, đã có những bài viết trực tiếp
đương đầu với những luận điểm chính quy của đảng cộng sản.
- Bài Cần phải chính quy hơn nữa, trên Nhân Văn số 4, là bài xã luận đầu tiên Nguyễn
Hữu Đang ký tên thật. Trong bài này, ông xác định lập trường chính trị của nhóm Nhân Văn và
công khai đòi tự do dân chủ, đòi thiết lập một nhà nước pháp trị.
- Bài "Hiến pháp Việt nam năm 1946 và hiến pháp Trung hoa bảo đảm tự do dân chủ thế
nào? trên Nhân văn số 5, ký tên thật, mạnh hơn nữa, ông đòi tự do dân chủ phải được thể hiện trên
hiến pháp và trên thực tế, đòi quyền sống tự do của con người trong một chính thể dân chủ,
một nhà nước pháp quyền.
Nguyễn Hữu Đang là một khuôn mặt chính trị, văn hoá và đấu tranh, hiếm có trên chính
trường Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Một người theo đảng từ lúc 16 tuổi, hiểu rõ hơn ai hết quy
luật tuân thủ của một cán bộ cộng sản. Nhưng ông đã đi ra ngoài trật tự ấy. Nguyễn Hữu Đang
luôn luôn giữ vị trí tự do trong hành động cũng như tư tưởng của mình. Chính trong tư thế tự do
ấy, ông đã đứng lên lãnh đạo phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đã tạo được một thời kỳ sôi nổi,
trong vòng bốn tháng, trí thức và văn nghệ sĩ, dám nói, dám viết những điều mình nghĩ, dám chủ
trương cải tiến xã hội Việt Nam thành một nước dân chủ theo đà tiến của thế giới bên ngoài.
Nhưng Nguyễn Hữu Đang đã thất bại. Sự thất bại của Nguyễn Hữu Đang cũng là sự thất
bại chung của một dân tộc. Và hậu quả kéo dài đến ngày nay: nước Việt là một trong những nước
cuối cùng, ở thế kỷ XXI, vẫn còn chưa biết nhận diện, để đòi hỏi những quyền cơ bản và tất yếu
nhất của con người, đầu tiên là quyền tự do tư tưởng.
______________________
Lễ đài độc lập dựng giữa quảng trường Ba Đình, có công rất lớn của nhà tổ chức Nguyễn
Hữu Đang. Ảnh: TƯ LIỆU
Nguyễn Hữu Đang – vị cách mạng lão thành - đã mất vào ngày 8-2, thọ 94 tuổi. Ông là
người hoạt động cách mạng, nhà báo, nhà truyền bá quốc ngữ nổi tiếng, có cuộc đời long đong...
Cụ Mười Hương tuổi đã ngoại tám mươi, từng làm trưởng Ban Nội chính Trung ương
xúc động nói với tôi giọng nghẹn ngào: “Cứ mỗi lần nhìn tấm ảnh lễ đài Độc lập dựng ở giữa
Quảng trường Ba Đình, nơi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, tôi lại thương anh Đang. Lần này ra
Hà Nội dự kỷ niệm thành lập Đảng và tưởng niệm anh Trường Chinh, tôi cũng có ý định cùng
mấy vị lão thành ở ngoài này lo đề nghị trên tặng một tấm huân chương cho anh Đang. Vậy mà...
anh ấy lại đi mất”. Những người dự đám tang cụ Nguyễn Hữu Đang đều thấy cụ Mười Hương có
mặt suốt từ đầu cho đến khi ra đài hóa thân hoàn vũ.
Trong đám tang, người ta cũng loáng thoáng nghe thấy câu chữ “Nhân văn giai phẩm”.
Khi gặp tôi, cụ Mười Hương nói rằng lúc xảy ra “việc đó” cụ đang ở chiến trường miền Nam,
nghe tin từ ngoài vào, chuyện khác thì không bình luận nhưng riêng cái chi tiết Nguyễn Hữu Đang
bị gián điệp lung lạc thì cụ không tin: “Anh Đang là người sống chung thủy và nghiêm túc lắm”.
Người được Bác Hồ trực tiếp giao nhiệm vụ
- Cách đây không lâu, người ta đã công bố trên báo chí một đoạn hồi ức của cụ Đang về
mối tình duy nhất và cũng là cuối cùng cách đây đã sáu mươi năm nhưng không thành, cho đến
hôm nay cụ đã mang theo xuống tuyền đài. Đó chính là thời điểm chàng trai Nguyễn Hữu Đang
mới 32 tuổi, đã được Bác Hồ trực tiếp giao trách nhiệm làm người đứng ra lo tổ chức ngày Lễ
Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Cụ Mười Hương kể lại rằng, ngay sau khi
Thường vụ Trung ương họp để thông qua văn bản Tuyên ngôn Độc lập do Bác trực tiếp soạn thảo
và quyết định sẽ chọn ngày công bố vào chủ nhật, 2-9-1945, Tổng Bí thư Trường Chinh đã gặp cụ
để trao đổi về việc làm sao có thể kịp tổ chức đúng thời điểm tuyên ngôn độc lập mà chính Bác
Hồ đã ấn định, vì không thể chậm hơn trong cuộc chạy đua thời gian với những diễn biến của thời
cuộc.
Là người hoạt động trong giới trí thức và thanh niên ở Hà Nội, chính cụ Mười Hương là
người gợi ý giao việc này cho Nguyễn Hữu Đang, lúc đó là thủ lĩnh của hai phong trào đang có
ảnh hưởng trong quần chúng và trí thức là Truyền bá Quốc ngữ và Văn hóa Cứu quốc. Tổng Bí
thư Trường Chinh thì biết quá rõ Nguyễn Hữu Đang, một cây bút quen biết trên các tờ Thời Báo,
Ngày Mới. Đời Nay thời Mặt trận Bình dân, còn cả hai phong trào trên thì Tổng Bí thư lại chính là
người trực tiếp chỉ đạo cuộc vận động văn hóa và lực lượng trí thức chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa
tháng 8-1945.
Hơn thế, ngay tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, Nguyễn Hữu Đang, người đã vào Đảng từ
năm 1943 nhưng tham gia tổ chức học sinh của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí ở
Thái Bình từ năm 16 tuổi (1929), đã được bầu vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Vì thế mà đích
thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho Nguyễn Hữu Đang lo liệu công tác tổ chức ngày
Lễ Độc lập với một mệnh lệnh: “Đây là sự kiện lịch sử lớn kết thúc Cách mạng Tháng Tám và
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” kèm theo một lời khích lệ đầy tin tưởng: “Việc khó
mới giao cho chú!”.
Là người có kinh nghiệm vận động quần chúng và trưởng thành từ thực tế phong trào
Truyền bá Quốc ngữ, Nguyễn Hữu Đang đã nhanh chóng tập hợp được nhân tài vật lực từ các kiến
trúc sư vẽ kiểu đến người thợ mộc trực tiếp thi công, từ các nhà công thương hiến tặng vật liệu
đến nhà kỹ thuật cung cấp và lắp đặt các thiết bị phóng thanh... để đúng ngày giờ ấn định, lễ đài
Độc lập đã sừng sững uy nghi giữa Quảng trường Ba Đình, nhanh chóng và trật tự tập hợp hàng
chục vạn người dân để buổi lễ diễn ra một cách trọng thể, an toàn và đầy khí thế của một cuộc
cách mạng toàn dân.
Từ trên lễ đài ấy, Cụ Chủ tịch nước tuyên bố nền độc lập dân tộc cùng sự ra đời của
chính thể Dân chủ - Cộng hòa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Và cũng từ lễ đài ấy, chiếc ấn vàng
và cây kiếm tượng trưng của chế độ quân chủ Việt Nam đã được trưng ra trước quốc dân đồng
bào, cáo chung cho triều đại phong kiến cuối cùng...
Buổi lễ để lại một ấn tượng mạnh mẽ đối với những vị khách nước ngoài có mặt khi đó là
các sĩ quan trong đơn vị Tình báo Chiến lược (OSS) của Hoa Kỳ. Trong hồi ức của mình, A. Patti,
viên thiếu tá chỉ huy trưởng OSS, đã phải thốt lên lời nhận xét về tính tổ chức cao của những
người cách mạng Việt Nam, cùng sức hưởng ứng mãnh liệt của cả một dân tộc thể hiện qua buổi
lễ lịch sử. Duy có một chi tiết chưa hoàn hảo, đó là kế hoạch truyền thanh trực tiếp buổi lễ tại
Quảng trường Ba Đình để phát trên sóng Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam đã bị trục trặc, khiến
cuộc mít tinh diễn ra đồng thời tại Quảng trường Norodom tại TP Sài Gòn đã không nghe được lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập qua làn sóng điện.
Nửa thế kỷ sau, tôi chứng kiến lần GS Trần Văn Giàu ra thăm Hà Nội gặp Nguyễn Hữu
Đang tại một sinh hoạt của Hội Sử học Việt Nam. Cụ Giàu lớn tiếng hỏi cụ Đang: “50 năm nay tôi
mới gặp để hỏi ông một câu: Tại sao hôm đó ông đã thông báo sẽ truyền thanh trực tiếp từ Ba
Đình, Hà Nội mà ở Sài Gòn bắt mãi không thấy sóng khiến tôi phải đứng lên hiệu triệu đồng bào.
May mà đến hôm sau mới nhận được nội dung Tuyên ngôn, soi lại thấy mình nói không sai với
tinh thần của Bác và Trung ương ngoài ấy?!”.
Cụ Đang chưa kịp trả lời thì cụ Nguyễn Văn Dực, con trai của học giả nổi tiếng Nguyễn
Văn Vĩnh, người phụ trách thiết bị âm thanh và phát thanh hôm đó, đỡ lời: “Thưa cụ Chủ tịch Ủy
ban Lâm thời Hành chính Nam Bộ, lý do là bị trục trặc kỹ thuật, thiết bị thì cũ kỹ, đài phát sóng ở
Bạch Mai mới tiếp quản, và cũng không loại trừ là có kẻ phá hoại ngầm. Hôm nay chúng tôi có lời
xin lỗi cụ ạ”.
Mối tình duy nhất
Sau Ngày Độc lập, Chính phủ chính thức thành lập, Nguyễn Hữu Đang được bổ nhiệm
làm thứ trưởng Bộ Thanh niên rồi thứ trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền... Sinh năm 1913, năm
Độc lập 1945, Nguyễn Hữu Đang 32 tuổi, lần đầu tiên có được một ý trung nhân. Đó là một thiếu
nữ con nhà trung lưu tên là Huyền Nhiên. Không khí chính trị phả ngay vào đời sống thường nhật
của mọi người dân khiến cô gái nhà gia giáo ấy, chỉ thách người đàn ông của mình một điều kiện,
nếu làm được sẽ coi như là đã đính hôn. Điều kiện ấy là cho cô được diện kiến Cụ Chủ tịch.
Chàng trai từng làm trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập và đang làm thứ trưởng Bộ
Thông tin bèn thiết kế cơ hội để làm đẹp lòng người đẹp. Nhân dịp lễ phát động cuộc vận động
ủng hộ áo ấm cho “Mùa đông binh sĩ”, người bạn gái của vị thứ trưởng được bố trí làm tiếp tân để
mang tấm áo tượng trưng do một doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang lên tặng Cụ Chủ tịch. Cô gái
không những được lại gần để trao áo cho Cụ Hồ mà còn được Cụ Chủ tịch ban những lời động
viên sâu sắc về địa vị của người phụ nữ trong cách mạng và trong xã hội mới...
Chiến tranh, rồi cuộc kháng chiến 9 năm, khiến cuộc hôn nhân không thành và hai người
sống cách xa nhau, nhưng lời hẹn ước thì không ai đơn sai. Ngày kháng chiến thành công trở về
với thủ đô giải phóng, cuộc sống bề bộn cùng những thách đố của lịch sử khiến hai người chưa
kịp gặp lại nhau thì đã phải mãi xa cách.
Cụ Đang không kể thêm về cuộc đời tiếp theo của người bạn gái nhưng những gì đến với
cụ ở tuổi “tứ thập nhi bất hoặc” rồi “ngũ thập tri thiên mệnh”... nên cuộc sống độc thân là điều
không thể lựa chọn... Cho đến cuối đời, khi đã vượt quá tuổi “cổ lai hy” hai giáp, mối tình ấy vẫn
là một ký ức đẹp nhất của cuộc đời Nguyễn Hữu Đang.
“Sống thêm"
Năm 1992, có một kỷ niệm đọng lại sâu sắc trong cụ. Tháng 11 năm đó, đông đảo anh
chị em văn nghệ sĩ đã tổ chức thượng thọ 80 cho Nguyễn Hữu Đang tại căn phòng mới mà cụ
được cấp. Cụ coi đó là cái mốc mà cuộc sống tiếp theo được coi là “thời gian sống thêm” với một
quan niệm rất nhân bản: “Cầu sự bình yên trong cảnh thanh bần, tìm an ủi trong tình cảm của
những người thân quen, hưởng thú vui thái độ SỐNG ĐỂ XEM” (ba chữ cuối cụ viết hoa).
Như thế là Nguyễn Hữu Đang đã có 15 năm “sống thêm”. Những năm tháng đó ngày
càng có nhiều người đến thăm cụ, các phóng viên tìm đến ghi chép lại một vài sự kiện lớn mà cụ
đã can dự như phong trào Truyền bá Quốc ngữ, Ngày Độc lập. Một số đoạn hồi ức của cụ đã lên
mặt báo. Phùng Quán đã viết những bài báo về những ngày khó khăn của cụ. Một số nhà lãnh đạo
cũng quan tâm đến những chính sách đối với cụ...
Hẳn trong “thời gian sống thêm” ấy, Nguyễn Hữu Đang đã sống và xem được nhiều điều.
Cụ thường ngồi im lặng rất lâu với nụ cười bình thản trên môi và ngày càng ít nói... Duy trong tầm
mắt cụ luôn hướng về tấm ảnh nhỏ chụp chân dung của cụ. Ánh mắt da diết ngỡ người ngoài
tưởng cụ đang say sưa soi bóng mình. Chỉ những người thân mới biết rằng lồng bên trong là tấm
ảnh người phụ nữ đầu tiên và có lẽ cũng là cuối cùng trong cuộc đời của Nguyễn Hữu Đang...
"Việc khó mới giao cho chú”
Một tháng trước ngày cụ mất, tôi có mặt trong cuộc hội ngộ của ba con người mà một
thời số phận đã gắn kết họ với nhau. Hai cụ nhà thơ Hoàng Cầm và Lê Đạt đến thăm cụ Nguyễn
Hữu Đang (không biết nên gọi là nhà gì, nhớ đến ngày 2-9-1945 có người gọi cụ là “nhà tổ
chức”!).
Cụ Đang thì đã nằm một chỗ từ lâu, cụ vẫn còn sống nhưng có lẽ không còn xem mà
cũng chẳng còn nghe được gì nữa. Cả ba người ngồi bên nhau trầm ngâm, thi thoảng là một câu
gọi khẽ: “Đạt đây Đang ơi!”, “Cầm đây Đang ơi!”.
Ngày hôm đó, những ai quan tâm đều biết hai nhà thơ đều đã có quyết định tặng Giải
thưởng Nhà nước năm nay. Nhà thơ còn có tác phẩm để đời. Còn “nhà tổ chức” thường chỉ biết
làm cho cái chung, cho người khác nên về cuối đời thường dễ là người “trắng tay”. Không biết có
phải vậy hay không? Một tấm huân chương muộn màng trong ý tưởng của những người nặng lòng
cũng không thành hiện thực? Thời gian sẽ trôi đi. Lịch sử mãi mãi sẽ chói ngời sự kiện ngày Lễ
Độc lập 1945, nhưng còn mấy ai biết đến một con người từng được Cụ Hồ Chí Minh khích lệ:
“Việc khó mới giao cho chú !”.
DƯƠNG TRUNG QUỐC - Người lao động
______________________
Ông Đang
Phạm Xuân Nguyên
Không biết có phải vì muốn tiễn Nguyễn Hữu Đang hay không mà trời Hà Nội sáng nay
có mưa sau một thời gian dài khô hanh giá rét.
Khác với hình dung của tôi trước khi đi, sân Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, số 5 Trần
Thánh Tông không đông người như những đám viếng mà người trong quan tài có cùng một thời
kỳ oanh liệt. Có người bảo, sinh 1913, bạn bè còn ít lắm, người biết thân thế sự nghiệp còn ít hơn,
nếu có biết thì cũng là những người sức đã cạn, lòng đã sẵn buồn, lại phải cái ngày trời mưa, ngày
cúng tiễn ông Công ông Táo, gần 200 người có mặt ở đây nếu không phải vì nhiệm vụ i thì toàn là
những người... hâm tỉ độ hệt như người nằm trong quan tài kia. Tôi quay sang người nói câu đó,
ông đang kể tiếp: “... kỳ thật, các chú làm ở Bộ Giáo dục-Đào tạo mà chẳng biết gì. Ông này á,
từng làm Trưởng ban Tổ chức Ngày tuyên bố Độc lập 2/9/1945 đấy, hàm bộ trưởng Chính phủ
Lâm thời nhé, Thứ trưởng Bộ Thanh niên nhé, cán bộ chủ chốt truyền bá Quốc ngữ nhé, có nghe
bố mẹ kể o tròn như quả trứng gà, ô thời đội mũ, ơ đà thêm râu không? Đấy, cách xóa mù chữ
truyền miệng của các cụ ấy đấy. Nếu... không hâm thì bây giờ... to lắm”. Lời không giống như
giọng, giọng ông đẫm nước mắt. Theo tay ông chỉ, người ta nhìn thấy các ông Lê Đạt, Dương
Tường, bà Bùi Thị Ngọc Khuê, chị Trần Thị Băng Kha (vợ và con gái Trần Dần), gia đình Phùng
Quán, Phùng Cung... “Đấy, ngoài anh em ruột thịt ra thì những người kia là chí cốt của ông ấy,
từng có thời...”
Câu nói bị bỏ giữa chừng bởi tiếng gọi loa. Đoàn viếng đầu tiên là của Bộ Giáo dục-Đào
tạo, rồi đến đoàn của Hội Nhà văn Việt Nam do ông Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội, dẫn đầu, trong
đoàn có các ông Nguyễn Trí Huân, Trần Đăng Khoa..., báo Văn nghệ (hình như đó là các cơ quan
đồng tổ chức lễ tang). Đó là các đoàn có người viếng đông hơn cả, cũng như đoàn của các thân
nhân. Tiếp sau những đoàn viếng khác là đến các đoàn nhỏ hơn, mỗi đoàn có 2-3 người: Nguyên
Ngọc đi cùng Phạm Xuân Nguyên. Vòng hoa của Dương Tường bị đám dịch vụ vòng hoa viết
nhầm là Dương Cường, có dòng chữ “Kính viếng anh”. Lê Đạt đi cùng con trai, vòng hoa của ông
mang dòng chữ “Khóc cố nhân”. Vòng hoa kính viếng ông Nguyễn Hữu Đang của đoàn do Hoàng
Hưng dẫn đầu là của talawas. Đoàn này đông hơn các đoàn vừa rồi: có Phạm Xuân Nguyên,
Nguyên Ngọc, Lê Đạt, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Quang A, Trần Thị Trường, Đinh Tuấn Minh và
một số người khác.
Trước đó, ông Nguyễn Quang A hỏi tôi: “Bạn đi với đoàn nào, tôi cùng đi được không?
Tôi muốn viếng ông ấy mà không phải họ hàng thân thích gì, cũng không phải nhà văn, nhà báo,
nhà giáo... chỉ là người ngưỡng mộ một con người... Đi vào đâu cũng không biết có được
không?”. Lúc đó, vòng hoa của talawas chưa mang tới. Tôi nói với ông: “Thế thì tôi với ông trùng
ý nghĩ, chúng ta làm vòng hoa riêng, được không?”. “Được. Tốt quá. Nhưng sao cậu lại mang
theo chai rượu? Tôi chẳng hiểu gì về việc phúng viếng”. Trong tay Nguyễn Quang A có mấy thẻ
hương, một chiếc phong bì. Tôi cười mếu: “Đọc Ba phút sự thật của Phùng Quán; Ô mai, Bến lạ
của Đặng Đình Hưng thấy các ông ấy một thời toàn uống rượu quốc lủi có pha thuốc sâu, thì hôm
nay mang rượu Việt thật đến, rẩy xuống mộ để ông biết người đời nhớ ông như thế nào...”. Vòng
hoa riêng mang tên “Nguyễn Quang A và đồng sự” được đám dịch vụ mang vào thì Hoàng Hưng
bảo: “Này các cậu, cũng talawas cả, thì đi vào đây”. Thế là đi cả vào lúc ấy...
Dòng người vào tiễn không hết 2 giờ như lệ thường. Gần cuối cùng là đoàn người mang
vòng hoa của những người dân vô danh có dòng chữ: “Vô cùng xúc động, tiếc thương, kính viếng
- Những thường dân kính viếng cụ”. Trong lúc chờ cho hết giờ đã ghi ngoài Cáo phó, thân nhân và
những người mang khăn tang trắng đi một vòng quanh sân, chắp tay thay lời, cảm động tri ân
người gần người xa... Ngoài cửa vẫn còn những vòng hoa đề tên người viếng nhưng không có
người đi cùng, ban lễ tang đã cử người ra mang vào và xướng tên trên loa. Đó là của ông Hoàng
Tùng, của ông Vũ Đình Hòe (đề rõ Nguyên phó chủ tịch Hội truyền bá Quốc ngữ), của ông Hà Sĩ
Phu và các thân hữu Đà Lạt... Lại nghe thấy giọng của cái ông ban sáng, nói: “Không biết hoa kia
có phải của ông Hoàng Tùng báo Nhân dân không, nếu thế thì khác nào Chu Du khóc Gia Cát...”.
Khi kết thúc, hoa đã được đưa vãn ra ngoài xe. Còn lại sau linh cữu, trên thềm lẽ đài
cạnh những vòng hoa xanh, đỏ, vàng, tím của các cơ quan trung ương, của Bộ trưởng đương
nhiệm Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân... có một vòng hoa trắng tinh khôi. Đại diện
Bộ Giáo dục-Đào tạo đọc điếu văn (xem phần phụ lục) và tuyên bố phút mặc niệm. Tiếp đến, ông
Nguyễn Hữu Từ, thân nhân gia đình Nguyễn Hữu Đang đọc lời cảm ơn (xem phần phụ lục).
Xong phần tang lễ. Trong lúc linh cữu của ông được đưa ra ôtô để đến nhà hóa thân hoàn
vũ, có người ghé tai tôi hỏi: “Chị có biết thì giải thích giùm tôi, tại sao trong điếu văn lại bảo cụ
mắc sai lầm tham gia nhóm Nhân văn-Giai phẩm... Theo chỗ tôi biết thì bây giờ chuyện ấy có còn
bị coi là sai lầm nữa đâu? Bây giờ là thời đại của minh bạch rồi. Cụ không sai, ai sai, thì phải nói
rõ người đó ra chứ sao lại bảo cụ sai?”. Tôi trả lời: “Bác ơi, đấy là cả một câu chuyện dài... Ai
cũng biết sự thật rất đẹp nhưng rồi ai cũng sợ sự thật. Sợ khi nhận mình sai thì mọi thứ sẽ lung
tung ồn ĩ ra...”. Tôi đã lên xe đi rồi mà ông ấy còn níu lại hỏi với: “Tôi muốn tìm sự thật. Sự thật ở
đâu? Tôi không sợ. Tôi thấy trong điếu văn có nhiều chỗ mâu thuẫn. Tại sao cụ lại mất quyền
công dân để rồi mới được trở lại? Các con tôi chúng cũng muốn biết tại sao một con người lại có
một số phận như vậy. Tài đức như thế, tại sao lại bị ta cho mất quyền công dân và địch bỏ tù?
Trước khi tôi đến đây, chúng bảo tôi, ông đi và cố nhớ về cho chúng con câu chuyện sự thật... Tôi
cũng chỉ là một thường dân nhưng tôi kính trọng người có lý tưởng đẹp, có cuộc sống giản dị
khiêm nhường, dũng cảm và chân thật như ông Đang. Hãy chỉ cho tôi con đường có sự thật”. Tôi
nghẹn lời: “Trí thức bao giờ cũng là những người giỏi giang chân thật và chỉ biết sống hồn nhiên
cho lý tưởng của mình. Con đường ấy nhiều đau thương bác ạ. Cháu cũng ngại có khát vọng mà
không đi được...”.
*
Phụ lục 1
Điếu văn cụ Nguyễn Hữu Đang
(do ông Quang Quý, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo đọc lúc 11 giờ 30 ngày 10/2/2007
tại tang lễ ông Nguyễn Hữu Đang)
Kính thưa:
Các vị lãnh đạo dại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo
Đại diện Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam
Các cụ, các ông, bà đại diện gia đình cụ Nguyễn Hữu Đang
Trong niềm tiếc thương sâu sắc, hôm nay Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tuần báo
Văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Câu lạc bộ diệt giặc dốt và gia
đình tổ chức trọng thể lễ viếng, lễ truy điệu và tiễn đưa cụ Nguyễn Hữu Đang về nơi an nghỉ cuối
cùng.
Cụ Nguyễn Hữu Đang (có bí danh là Phạm Đình Thái dùng trong thời kỳ chống Pháp)
sinh ngày 15 tháng 8 năm 1913 trong một gia đình trí thức thuộc xã Vũ Công, huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình. Từ nhỏ cụ đã tỏ ra là một người học giỏi, ham hiểu biết. Thừa hưởng nền nếp gia
đình và truyền thống yêu nước của quê hương, cậu học sinh Nguyễn Hữu Đang sớm tham gia Hội
Sinh viên thị xã Thái Bình thuộc Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Do những hoạt động yêu
nước trong phong trào thanh niên học sinh, cuối năm 1930 cụ bị thực dân Pháp bắt giam hai tháng
rưỡi tại thị xã Thái Bình. Mùa hè năm 1931, cụ bị đưa ra tòa xét xử, nhưng vì chưa tới tuổi thành
niên, nên địch không thể ghép án tù. Thoát khỏi cảnh giam giữ, cụ lên Hà Nội học Cao đẳng Sư
phạm. Cùng với học vấn được nâng cao, tầm nhìn và sự giao tiếp xã hội được mở rộng, Nguyễn
Hữu Đang đem cả tuổi xuân đầy nhiệt huyết tham gia Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Hoạt động
chủ yếu của cụ trong thời gian này là tham gia viết và biên tập cho các báo của Mặt trận Dân chủ
như Thời báo, Ngày mới và báo Tin tức của Đảng.
Từ năm 1938 đến 1945, cụ là một trong những hạt nhân tích cực trong phong trào chống
nạn thất học, là một trong những cán bộ chủ chốt của Hội truyền bá Quốc ngữ. Năm 1943 cụ
Nguyễn Hữu Đang tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc. Mùa hè năm 1944, cụ Nguyễn Hữu Đang
tham gia tổ chức và chủ trì Hội nghị Giáo khoa thư Toàn quốc họp tại Hà Nội. Mùa thu năm 1944,
cụ bị địch bắt lần thứ hai và giam giữ một tháng tại Nam Định cùng với các đồng chí Vũ Quốc Uy,
các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Như Phong, Tô Hoài... Sau khi cụ được thả cụ lại tiếp tục hoạt
động và đén tháng 8-1945 được cử đi dự Đại hội Quốc dân ở Tân Trào, được bầu vào Ủy ban Dân
tộc Giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời. Cách mạng tháng Tám thành công, cụ được
phân công làm Trưởng ban Tổ chức Ngày tuyên bố Độc lập 2-9-1945. Từ tháng 11-1945 đến
tháng 12-1946 cụ tham gia Chính phủ Lâm thời mở rộng, lần lượt được cử làm Thứ trưởng Bộ
Thanh niên, Chủ tịch Ủy ban Vận động Hội nghị Văn hóa Toàn quốc, Trưởng ban Tuyên truyền
xung phong Trung ương, phụ trách báo Toàn dân kháng chiến - cơ quan trung ương của Hội Liên
Việt. Năm 1947, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ tháng 6 năm 1949 đến tháng
10 năm 1954 được cử làm Trưởng ban thanh tra Bình dân học vụ. Từ tháng 11 năm 1954 đến
tháng 4 năm 1958 làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam. Trong thời gian
này cụ mắc sai lầm tham gia nhóm Nhân văn-Giai phẩm. Sau khi được trở lại quyền công dân, cụ
được Đảng, Nhà nước có chính sách đãi ngộ và chăm sóc chu đáo.
Gần 30 năm hoạt động cách mạng, cụ Nguyễn Hữu Đang là một nhà hoạt động văn hóa
giàu nhiệt huyết, có công đóng góp cho phong trào truyền bá Quốc ngữ và sự nghiệp phổ cập giáo
dục cho nhân dân, cụ là một nhà báo sắc sảo, một người có tài vận động tuyên truyền có ảnh
hưởng sâu sắc trong giới trí thức và các tầng lớp trên ở thành thị. Là người am hiểu sâu sắc Tây
học và Nho học, nhưng cụ luôn đề cao văn hóa dân tộc, đề cao thuần phong mỹ tục và thực hiện
đời sống mới.
Là một trong những cán bộ chủ chốt của Hội truyền bá Quốc ngữ, Nguyễn Hữu Đang là
người phấn đấu không mệt mỏi chống giặc dốt, chống lại chính sách ngu dân của thực dân Pháp,
tạo điều kiện cho quần chúng tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng. Truyền bá Quốc ngữ cũng là
truyền bá tinh thần dân tộc, ý chí tự cường, lòng yêu nước và truyền thống bất khuất của dân tộc.
Trong những ngày đầu độc lập, cụ Nguyễn Hữu Đang có nhiều hoạt động bảo vệ và ủng hộ chính
quyền cách mạng còn non trẻ. Trong kháng chiến chống Pháp, với cương vị Trưởng ban Thanh tra
Bình dân Học vụ, không quản khó khăn, nguy hiểm cụ đã đến nhiều địa phương ở miền Bắc để
vực dậy phong trào. Trong cuộc sống hàng ngày, cụ là người giản dị, cần kiệm, liêm khết, dồn hết
tâm sức cho công việc. Lúc đau yếu cụ được Nhà nước chăm sóc, cứu chữa tận tình, nhưng vì tuổi
cao, bệnh trọng, cụ đã vĩnh biệt chúng ta lúc 6 giờ 41 phút ngày 8-2-2007 hưởng thọ 94 tuổi.
Cụ Nguyễn Hữu Đang mất đi là một mất mát không gì bù đắp được của gia đình, dòng
tộc, là sự tổn thất cho giới văn hóa Việt Nam. Nhưng những gì cụ đã cống hiến cho dân cho nước
sẽ còn lại trong lòng những người đang sống. Trong giờ phút đau thương này, thay mặt Ban lễ
tang chúng tôi bày tỏ niềm xúc động và chia buồn sâu sắc với gia đình, họ tộc cụ Nguyễn Hữu
Đang.
Xin vĩnh biệt cụ Nguyễn Hữu Đang và cầu chúc cho vong hồn cụ được yên nghỉ nơi vĩnh
hằng.
Xin tất cả chúng ta dành phút mặc niệm vĩnh biệt cụ.
Phụ lục 2
Lời cảm ơn của gia đình
Kính thưa các vị
Đại diện các cơ quan, ban ngành trung ương tham gia tổ chức lễ tang
Đại diện chính quyền, đoàn thể và nhân dân ở địa bàn cư trú: Phường Cống Vị, Phường
Nghĩa Đô, tổ dân phố khu nhà B tập thể Nghĩa Đô
Các giáo sư, bác sĩ, nhân viên y tế bệnh viện Hữu Nghị
Các cán bộ, chiến sĩ Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng
Các con cháu, họ hàng thân thích
Cụ Nguyễn Hữu Đang, thân nhân ruột thịt của chúng tôi có một cuộc sống không được
bình thường như mọi người: Không vợ con. Không gia đình. Mọi hoạt động, mọi tâm nguyện đều
hướng về phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội cho đến cuối đời. Không một đòi hỏi cá nhân ích kỷ.
Thời gian gần đây, sức khỏe của cụ sút kém nhanh chóng, bệnh tình trầm trọng.
Ngoài sự chăm lo của con cháu trong họ, sự quan tâm thăm hỏi của bạn hữu già, trẻ còn
được sự chăm sóc chữa chạy tận tình của các giáo sư, bác sĩ, nhân viên y tế bệnh viện Hữu Nghị.
Nhưng tuổi đã cao, sức càng yếu nên không qua khỏi và Cụ đã ra đi về cõi vĩnh hằng với cha mẹ,
ông bà, tổ tiên và bạn bè đã đi trước Cụ, để lại cho những người còn sống là bạn bè, là thân thích
nỗi đau buồn thật là khôn tả.
Lễ tang hôm nay của Cụ, được các cơ quan ban ngành ở trung ương tổ chức chu đáo,
được sự giúp đỡ của Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, được sự thương cảm ưu ái của các thân bằng cố
hữu, của chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương, cũng như của họ hàng thân thích đối với
Cụ thật sự đã gây cho chúng tôi một sự cảm động và lòng biết ơn hết sức sâu sắc.
Xin thay mặt cho thân nhân ruột thịt của Cụ một lần nữa xin gửi tới quý vị lời cảm ơn hết
sức chân thành.
Xin trân trọng kính mời quý vị cùng chúng tôi sau đây đưa tiễn Cụ đến nơi an nghỉ cuối
cùng.
Xin trân trọng cảm ơn.
______________________
Ông Nguyễn Hữu Đang sinh năm 1913 (Quý Sửu) tại vùng châu thổ Thái Bình, phủ Kiến
Xương. Vốn là người năng nổ bẩm sinh, ông đã sớm tiếp nhận được truyền thống yêu nước của
cha ông, của dân tộc, đã tích cực tham gia hoạt động cách mạng từ tuổi vị thành niên (1929) và đã
nếm mùi tù đế quốc tại quê nhà.
Trải qua một chặng đường dài, lúc bí mật lúc công khai, cho đến Cách mạng tháng Tám
thành công năm 1945, ông được trao nhiều nhiệm vụ quan trọng và đã hoàn thành một cách xuất
sắc.
Ông là nhà báo, nhà phê bình văn nghệ theo quan điểm nhân văn, tiến bộ, đã từng cộng
tác với các bậc đàn anh như Trường Chinh, Trần Huy Liệu… trên các báo tiến bộ và cách mạng
như Tin tức, Ngay mới, Thời báo, Đời nay trong phong trào Mặt trận Dân chủ. Ông là cây bút rất
sắc bén, được bạn đọc rộng rãi mến mộ. Trong phong trào chống nạn thất học, ông cùng học giả
Nguyễn Văn Tố và những người cộng sự khác như Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp… tham gia
tổ chức, lãnh đạo Hội Truyền bá Quốc ngữ. Ông cũng đã tham gia sáng lập, gây dựng và lãnh đạo
Hội Văn hoá Cứu quốc, một tổ chức trí thức yêu nước trong Mặt trận Việt Minh. Trong bước
ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc, ông Nguyễn Hữu Đang là thành viên của Uỷ ban Giải phóng dân
tộc, được bầu ra trong Đại hội Quốc dân Tân Trào. Ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao
nhiệm vụ Trưởng ban tổ chức Lễ Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường
Ba Đình, Hà Nội. Đây là sự kiện lịch sử trọng đại, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Sau khi ra tù, ông được hai nhà thơ, hai người em kết nghĩa là Phùng Cung và Phùng
Quán hết lòng yêu quý và coi như anh ruột. Tôi có vinh hạnh gặp ông nhiều lần tại nhà anh Phùng
Quán bên bờ Hồ Tây, được nghe ông nói, được ngắm ông ăn, và được ông coi như một người em
nhỏ tuổi. Nhiều đêm cùng ông ngủ lại trên căn gác gỗ nhà anh Phùng Quán, ông rả rích kể cho tôi
nghe bao nhiêu chuyện về văn nghệ nước nhà, từ hồi tôi chưa sinh, nghe hấp dẫn và vô cùng thấm
thía.
Năm nay, ông 94 tuổi rồi mà đôi mắt còn tinh tường, giọng nói còn sang sảng, trí óc minh
mẫn vô cùng. Dường như ông không quên một điều gì đã từng xảy ra trong cuộc đời sấp ngửa ba
đào của ông, cũng như không quên điều gì trong lịch sử dân tộc. Cái phẩm chất của một nhà
CÁCH MẠNG, một nhà VĂN HOÁ trong ông thực lớn, thật đáng kinh ngạc và kính trọng.
Có lần, trò chuyện với các nhà thơ Phùng Quán, Phùng Cung, Hoàng Cầm, tôi hỏi các
ông đánh giá thế nào về ông Nguyễn Hữu Đang.
Nhà thơ Phùng Quán vuốt râu cười, rồi nói ngay:
“Tôi không nói những phẩm chất, mà nói những tư cách trong con người Nguyễn Hữu
Đang. Từ những tư cách ấy gộp lại, sẽ hiện hình nên phẩm chất của một Con Người, con người ấy
có tên là Nguyễn Hữu Đang.
Tư cách thứ nhất, Nguyễn Hữu Đang là nhà cách mạng. Ông hoạt động cách mạng từ
năm 1929, lúc ấy ông mới 17 tuổi. Rồi cứ thế mà hoạt động, cho đến năm 1958 thì bị bó buộc phải
nghỉ hẳn. (Nếu tính thời gian ba lần tù giam chặt và bị quản chế ở sinh quán thì cái thâm niên bất
hạnh ấy cả thảy là 34 năm, ba tháng rưỡi!) Cương vị cao nhất mà ông được giữ trong một thời
gian ngắn là chức Thứ trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền kiêm Trưởng Ban tổ chức ngày Lễ Độc
lập 2-9-1945”ii.
Nhà thơ Phùng Cung chậm rãi nói:
“Tư cách thứ hai của ông Nguyễn Hữu Đang là nhà báo. Không kể những tờ báo viết tay
được lưu hành trong lớp, trong trường từ năm 1927 ở Thái Bình và những năm 1934, 1935 ở Hà
Nội, thì đời làm báo của ông thực sự từ năm 1937. Ông đã lần lượt biên tập, viết bài thường xuyên
cho 9 tờ báo đương thời. Ông yêu nghề làm báo đến có thể tai nạn vì nghề, thậm chí có thể sẵn
sàng chết vì nghề, xuất phát từ quan điểm ‘báo chí là quyền lực thứ tư’ trong xã hội văn minh và
phát triển.”
Nhà thơ Hoàng Cầm im lặng từ nãy đến giờ mới lên tiếng:
“Tư cách thứ ba của ông Nguyễn Hữu Đang là một nhà lý luận phê bình văn nghệ. Trước
Cách mạng tháng Tám, trên báo Ngày mới, Nguyễn Hữu Đang đã có bài phê bình tập Thơ thơ của
Xuân Diệu, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan (dưới bút danh Nguyễn An Pha) và Làm đĩ
của Vũ Trọng Phụng (dưới bút danh Cô Kim Anh). Ông đã tranh luận về thơ, nhất là vai trò và vị
trí của Thơ Mới trên tờ Tin văn. Quan điểm của ông không giống Hoài Thanh nhưng cũng không
giống Hải Triều. Tất nhiên ông thuộc phái "vị nhân sinh".
Trong giai đoạn văn nghệ mở rộng trong và sau kháng chiến chống Pháp, ông là người
đầu tiên viết bài ca ngợi Tản Đà, Tô Ngọc Vân, Vũ Trọng Phụng. Ông đã viết nhiều bài phê bình
hội hoạ (ký tên thật trên báo Văn nghệ). Trong những bài báo ấy, Nguyễn Hữu Đang đã trình bày
những ý kiến bác bỏ xu hướng văn hoá vô sản tả khuynh ấu trĩ, gọi là “prô-lê-cun” ở Liên Xô.
Ông đã khẳng định những quan điểm tán thành khẩu hiệu “trăm hoa đua nở” nổi tiếng ở Trung
Quốc một thời.
Tư cách thứ tư của ông là nhà hoạt động xã hội. Từ năm 1938 đến năm 1945, ông là
người lãnh đạo chủ yếu của phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ, chống nạn thất học. Năm 1944,
ông tổ chức và chủ trì Hội nghị Giáo khoa toàn quốc, gồm 700 đại biểu thủ đô và các tỉnh về dự
họp. Đầu năm 1945 (Ất Dậu) ông là thành viên của Tổng hội Cứu đói toàn quốc. Ông còn là thành
viên Uỷ ban Đời sống mới.”
Nhà thơ Phùng Quán sôi nổi kết luận: "Ngoài ra, ông Nguyễn Hữu Đang còn là một nhà
hoạt động văn hoá kiệt xuất. Ông là một trong những người sáng lập, gây dựng và lãnh đạo Hội
Văn hoá Cứu quốc. Cùng với Nguyễn Đình Thi, ông là đồng tác giả cuốn Một nền văn hoá mới.
Năm 1946, ông là Chủ tịch Uỷ ban Vận động Văn hoá trong một mặt trận văn hoá rộng rãi và đã
tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội."
Nổi bật trong mọi hoạt động cách mạng và văn hoá với những tư cách nêu trên, Nguyễn
Hữu Đang luôn chú trọng và cố gắng khơi gợi những tiềm năng, nhằm gây phong trào, để từ
phong trào mà nảy nở những tài năng, xuất hiện những tác phẩm tích cực. Chính vì tận tuỵ với các
phong trào và công việc chung, Nguyễn Hữu Đang đã tự hạn chế mình trong việc thực hiện những
công trình riêng. Rõ ràng ở ông, xu hướng “vị công vong tư” bao giờ cũng được thể hiện một cách
thiết tha, mê mải. Ông là một hiệp sĩ quên mình vì nghĩa lớn, là một người năng động đầy thiện
chí, ân cần giúp đỡ các bạn đồng hành với một nhiệt tình vô tư đáng kính trọng!
Tôi còn nhớ, vào khoảng mùa thu năm 1993, mừng ông Nguyễn Hữu Đang thượng thọ -
tròn tuổi 80, vợ chồng nhà thơ Phùng Quán cùng anh Phùng Cung tổ chức một "Lễ mừng sống
dai" thật rôm rả và vui vẻ. Bạn bè của các ông kéo đến rất đông, toàn những bậc trưởng thượng,
những hào kiệt mà chỉ đọc tên lên là lũ con cháu đã “vãi linh hồn”! Trước khi vào tiệc, nhà thơ
Phùng Quán trịnh trọng đứng lên, nói với mọi người bằng chất giọng Huế đã pha màu sương gió:
“Thưa các bạn,
Vợ chồng tôi hoan nghênh từ lâu sáng kiến của anh Phùng Cung là cùng nhau tổ chức
mừng sống dai cho người anh kết nghĩa thân thương của chúng tôi là cụ Nguyễn Hữu Đang, một
con người bình thường, nhờ có cách mạng và bản lĩnh riêng, nên đã đi vào lịch sử! Nhưng vì “cái
khó bó cái khôn”, chúng tôi chưa có đủ tiền chi phí, mặc dầu vợ tôi sẵn sang đem tất cả món tiền
để dành đưa cho Ban Tổ chức vay tạm.
May sao, tôi vừa được lĩnh giải thưởng về cuốn phim Tuổi thơ dữ dội. Thế là trở lực bị
đẩy lùi. Và hôm nay, buổi họp mặt thân mật, vui chơi có tình, có nghĩa của chúng ta được diễn ra
với ba điều kiện: lòng người tốt, địa điểm tốt, thời tiết tốt!”
Thật đáng ngưỡng mộ phẩm chất con người Nguyễn Hữu Đang. Cùng với Hà Nội -
Thăng Long nghìn năm, ông cũng bước vào bách tuế. Mong sao ông vẫn khoẻ mạnh và minh mẫn
để chứng kiến đất nước ta bay lên như một con Rồng, điều ông tâm nguyện và phấn đấu suốt cả
cuộc đời!
Nào ngờ, hôm nay... Ông đã ra đi! Thương thay một Con Người!
Nguyễn Bản
Một bậc hào kiệt đã qua đời
“Một bậc hào kiệt”. Tôi dùng lại cụm từ đó đúng như Phùng Quán đã dùng để gọi Anh,
tức ông Nguyễn Hữu Đang, khi Quán kể lại với tôi về chuyện đi tìm vợ cho Anh, và riêng tôi luôn
cảm thấy Anh rất đáng gọi như vậy.
Quán kể:
“Tôi xuống Thái Bình tìm Anh. Người ta bảo Anh ở ngoài cầu ao. Tôi ra ao tìm. Anh
đang cọ rửa những viên gạch nửa, sạch đến mức đỏ au. Anh cười: để chống chuột. Anh nói để đậy
những bát hương sứt mẻ nhà chùa bỏ đi mà Anh dùng để đựng gạo, vừng, lạc... Ngay lúc đó tôi
nghĩ không thể để Anh khổ thế này. Phải lấy vợ cho anh. Anh cần phải có người chăm sóc.”
“Rồi có tìm được không?”
“Có, một bà ở ngành thực phẩm về hưu ở Thuỵ Khuê. Bà ấy hỏi: ‘Ông ấy là người thế
nào?’. Tôi trả lời: ‘Vẫn trai tân, nguyên trưởng ban tổ chức Lễ hội Tuyên ngôn Độc lập Ba Đình
2-9-1945, một bậc hào kiệt nhất nước.’ – ‘Thế thì tôi đồng ý.’”
“Rồi sao?”
“Tôi bảo: ‘Anh yên tâm. Mọi việc đã có em lo. Em nuôi được con lợn một tạ. Đủ làm cỗ
cưới. Sẽ thuê năm chiếc xích lô, năm tráp trầu cau, chè, bánh dạm hỏi, có quay camera. Hôm cưới,
em sẽ đặt một hòm như kiểu hòm công đức, ai mừng bao nhiêu bỏ vào đấy tuỳ tâm. Em chắc sẽ
không ít. Mà còn phải trừ tiền con lợn trả em chứ, em cũng nghèo mà. Còn bao nhiêu, anh để dành
cho tuổi già.’”
“Rồi sao nữa?” - Tôi hỏi.
“Anh xua tay: ‘Không được, om xòm qua, hòm công đức, camera... Vả lại thế thì còn gì
là Nguyễn Hữu Đang nữa.’”
Tôi biết đến Anh ngay sau Cách mạng tháng Tám và còn nhớ Anh có chân trong Chính
phủ Lâm thời. Năm 1948, khi tôi đang học năm thứ tư trường trung học Lương Ngọc Quyến ở
Phương Độ - Thái Nguyên, thì Anh đến nói chuyện với trường chúng tôi về bom nguyên tử. Và tới
bữa đó tôi mới biết Uranium 235 và phải làm giàu U235 thành Plutonium238 mới tạo thành nhiên liệu
hạt nhân, lại phải có một quả bom thường làm ngòi nổ trung tâm để kích hoạt v.v... Trong lòng tôi,
ngay từ đó càng thêm cảm phục anh Đang.
Rồi vụ Nhân văn-Giai phẩm nổ ra lúc tôi đã tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Văn
khoa, tôi cho một người bạn học cũ là anh Nguyễn Văn Khoả vừa mới thi đỗ vào khoa Văn, Đại
học Tổng hợp ở nhờ nhà tôi ở phố Phùng Hưng ít lâu. Anh Khoả sau này là giảng viên bộ môn
Văn học Cổ đại Hy-La ở Đại học Tổng hợp. Tôi phải nói tới anh Khoả, vì anh có họ hàng rất gần
với anh Nguyễn Hữu Đang (con chú, con bác thì phải). Những ngày Nhân văn-Giai phẩm, Khoả
thường hay qua nhà anh Đang, biết nhiều chuyện và thường về kể lại với tôi. Đặc biệt Khoả kể lại
việc anh Đang đại diện cho một số anh em văn nghệ sĩ, trí thức xin phép Quốc hội tổ chức biểu
tình yêu cầu tự do dân chủ. Khoả kể, ông Tố Hữu mời anh đến gặp và yêu cầu huỷ bỏ việc tổ chức
biểu tình. Anh không chấp nhận. Tiếp đó, ông Trường Chinh mời lên gặp. Anh nói, vì đã xin phép
Quốc hội theo đúng hiến pháp, nên không thể huỷ bỏ và sẽ tiến hành biểu tình theo đúng khuôn
khổ của pháp luật cho phép. Tất nhiên, biểu tình đã không nổ ra vì anh đã bị bắt và bị xử tù mười
tám năm, cùng với bà Thuỵ An.
Trước khi anh bị bắt, lại vẫn Phùng Quán kể với tôi: anh Phạm Văn Khoa, nguyên Tổng
biên tập báo Sự thật, lúc đó đã là đạo diễn điện ảnh, bạn học của anh Đang từ hồi cùng học trường
tiểu học Hàng Vôi, mang theo một chai rượu và một con gà luộc đến nhà anh Đang:
“Tao với mày vốn là bạn học từ thời để chỏm, lại cùng hoạt động Việt Minh bí mật với
nhau, tao rất quý mày, hôm nay đến đây, uống rượu với nhau, chỉ để hỏi mày, làm những việc vừa
qua ở Nhân văn-Giai phẩm, mày có thấy chút ân hận nào không?”
Anh Đang cười:
“Khoa ơi, lúc nào tao cũng coi mày là người bạn tốt nhất, lúc nào mày cũng cứ ngây thơ
như ngày xưa. Đó cũng lại là điều khiến tao càng quý mày. Cho nên hãy uống với nhau về tình
bạn thôi, đừng nói đến những chuyện đó làm cho nó hoen ố đi.”
Mười tám năm sau, khi anh Đang mãn hạn tù, vẫn Quán kể, anh Khoa lại mang rượu và
gà đến và nói:
“Mười tám năm trước, tao đến hỏi mày rằng mày có ân hận gì không về Nhân văn-Giai
phẩm, còn bây giờ, mười tám năm sau, tao lại mang rượu đến để uống với mày chỉ để được nói
với mày một câu: ‘Tao rất ân hận vì đã hỏi mày câu hỏi đó.’”
Một số người tốt như anh Khoa ít ra cũng đã tỏ ra ân hận, dám nói thẳng ra điều đó. Một
số người gặp chỗ, gặp lúc, có thể nói cũng ậm ờ mấy câu cho nhẹ lương tâm.
Nếu quả thật, có thế giới bên kia, tất cả rồi sẽ gặp lại nhau, liệu có được bao nhiêu người
biết đỏ mặt, bao nhiêu người hớn hớn làm bộ vui mừng xuý xoá: “Quên quá khứ, hướng tới tương
lai, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giàu mạnh”.
Xin ghi lại một số những kỷ niệm và những chuyện được nghe kể có thật để tưởng nhớ
đến một con người mà Phùng Quán và tôi đều tôn vinh là một bậc hào kiệt.
© 2007 talawas
Điếu văn cụ Nguyễn Hữu Đang
(do ông Quang Quý, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo đọc lúc 11 giờ 30 ngày 10/2/2007
tại tang lễ ông Nguyễn Hữu Đang)
Kính thưa:
- Các vị lãnh đạo dại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Đại diện Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam
- Các cụ, các ông, bà đại diện gia đình cụ Nguyễn Hữu Đang
Trong niềm tiếc thương sâu sắc, hôm nay Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tuần báo
Văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam, Câu lạc bộ diệt giặc dốt và gia
đình tổ chức trọng thể lễ viếng, lễ truy điệu và tiễn đưa cụ Nguyễn Hữu Đang về nơi an nghỉ cuối
cùng.
Cụ Nguyễn Hữu Đang (có bí danh là Phạm Đình Thái dùng trong thời kỳ chống Pháp)
sinh ngày 15 tháng 8 năm 1913 trong một gia đình trí thức thuộc xã Vũ Công, huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình. Từ nhỏ cụ đã tỏ ra là một người học giỏi, ham hiểu biết. Thừa hưởng nền nếp gia
đình và truyền thống yêu nước của quê hương, cậu học sinh Nguyễn Hữu Đang sớm tham gia Hội
Sinh viên thị xã Thái Bình thuộc Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Do những hoạt động yêu
nước trong phong trào thanh niên học sinh, cuối năm 1930 cụ bị thực dân Pháp bắt giam hai tháng
rưỡi tại thị xã Thái Bình. Mùa hè năm 1931, cụ bị đưa ra tòa xét xử, nhưng vì chưa tới tuổi thành
niên, nên địch không thể ghép án tù. Thoát khỏi cảnh giam giữ, cụ lên Hà Nội học Cao đẳng Sư
phạm. Cùng với học vấn được nâng cao, tầm nhìn và sự giao tiếp xã hội được mở rộng, Nguyễn
Hữu Đang đem cả tuổi xuân đầy nhiệt huyết tham gia Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Hoạt động
chủ yếu của cụ trong thời gian này là tham gia viết và biên tập cho các báo của Mặt trận Dân chủ
như Thời báo, Ngày mới và báo Tin tức của Đảng.
Từ năm 1938 đến 1945, cụ là một trong những hạt nhân tích cực trong phong trào chống
nạn thất học, là một trong những cán bộ chủ chốt của Hội truyền bá Quốc ngữ. Năm 1943 cụ
Nguyễn Hữu Đang tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc. Mùa hè năm 1944, cụ Nguyễn Hữu Đang
tham gia tổ chức và chủ trì Hội nghị Giáo khoa thư Toàn quốc họp tại Hà Nội. Mùa thu năm 1944,
cụ bị địch bắt lần thứ hai và giam giữ một tháng tại Nam Định cùng với các đồng chí Vũ Quốc Uy,
các nhà văn Nguyễn Đình Thi, Như Phong, Tô Hoài... Sau khi cụ được thả cụ lại tiếp tục hoạt
động và đén tháng 8-1945 được cử đi dự Đại hội Quốc dân ở Tân Trào, được bầu vào Ủy ban Dân
tộc Giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời. Cách mạng tháng Tám thành công, cụ được
phân công làm Trưởng ban Tổ chức Ngày tuyên bố Độc lập 2-9-1945. Từ tháng 11-1945 đến
tháng 12-1946 cụ tham gia Chính phủ Lâm thời mở rộng, lần lượt được cử làm Thứ trưởng Bộ
Thanh niên, Chủ tịch Ủy ban Vận động Hội nghị Văn hóa Toàn quốc, Trưởng ban Tuyên truyền
xung phong Trung ương, phụ trách báo Toàn dân kháng chiến - cơ quan trung ương của Hội Liên
Việt. Năm 1947, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ tháng 6 năm 1949 đến tháng
10 năm 1954 được cử làm Trưởng ban thanh tra Bình dân học vụ. Từ tháng 11 năm 1954 đến
tháng 4 năm 1958 làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ - Hội Nhà văn Việt Nam. Trong thời gian
này cụ mắc sai lầm tham gia nhóm Nhân văn-Giai phẩm. Sau khi được trở lại quyền công dân, cụ
được Đảng, Nhà nước có chính sách đãi ngộ và chăm sóc chu đáo.
Gần 30 năm hoạt động cách mạng, cụ Nguyễn Hữu Đang là một nhà hoạt động văn hóa
giàu nhiệt huyết, có công đóng góp cho phong trào truyền bá Quốc ngữ và sự nghiệp phổ cập giáo
dục cho nhân dân, cụ là một nhà báo sắc sảo, một người có tài vận động tuyên truyền có ảnh
hưởng sâu sắc trong giới trí thức và các tầng lớp trên ở thành thị. Là người am hiểu sâu sắc Tây
học và Nho học, nhưng cụ luôn đề cao văn hóa dân tộc, đề cao thuần phong mỹ tục và thực hiện
đời sống mới.
Là một trong những cán bộ chủ chốt của Hội truyền bá Quốc ngữ, Nguyễn Hữu Đang là
người phấn đấu không mệt mỏi chống giặc dốt, chống lại chính sách ngu dân của thực dân Pháp,
tạo điều kiện cho quần chúng tiếp thu ảnh hưởng của cách mạng. Truyền bá Quốc ngữ cũng là
truyền bá tinh thần dân tộc, ý chí tự cường, lòng yêu nước và truyền thống bất khuất của dân tộc.
Trong những ngày đầu độc lập, cụ Nguyễn Hữu Đang có nhiều hoạt động bảo vệ và ủng hộ chính
quyền cách mạng còn non trẻ. Trong kháng chiến chống Pháp, với cương vị Trưởng ban Thanh tra
Bình dân Học vụ, không quản khó khăn, nguy hiểm cụ đã đến nhiều địa phương ở miền Bắc để
vực dậy phong trào. Trong cuộc sống hàng ngày, cụ là người giản dị, cần kiệm, liêm khết, dồn hết
tâm sức cho công việc. Lúc đau yếu cụ được Nhà nước chăm sóc, cứu chữa tận tình, nhưng vì tuổi
cao, bệnh trọng, cụ đã vĩnh biệt chúng ta lúc 6 giờ 41 phút ngày 8-2-2007 hưởng thọ 94 tuổi.
Cụ Nguyễn Hữu Đang mất đi là một mất mát không gì bù đắp được của gia đình, dòng
tộc, là sự tổn thất cho giới văn hóa Việt Nam. Nhưng những gì cụ đã cống hiến cho dân cho nước
sẽ còn lại trong lòng những người đang sống. Trong giờ phút đau thương này, thay mặt Ban lễ
tang chúng tôi bày tỏ niềm xúc động và chia buồn sâu sắc với gia đình, họ tộc cụ Nguyễn Hữu
Đang.
Xin vĩnh biệt cụ Nguyễn Hữu Đang và cầu chúc cho vong hồn cụ được yên nghỉ nơi vĩnh
hằng.
Xin tất cả chúng ta dành phút mặc niệm vĩnh biệt cụ.
Phụ lục 2
Lời cảm ơn của gia đình
Kính thưa các vị
- Đại diện các cơ quan, ban ngành trung ương tham gia tổ chức lễ tang
- Đại diện chính quyền, đoàn thể và nhân dân ở địa bàn cư trú: Phường Cống Vị, Phường
Nghĩa Đô, tổ dân phố khu nhà B tập thể Nghĩa Đô
- Các giáo sư, bác sĩ, nhân viên y tế bệnh viện Hữu Nghị
- Các cán bộ, chiến sĩ Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng
- Các con cháu, họ hàng thân thích
Cụ Nguyễn Hữu Đang, thân nhân ruột thịt của chúng tôi có một cuộc sống không được
bình thường như mọi người: Không vợ con. Không gia đình. Mọi hoạt động, mọi tâm nguyện đều
hướng về phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội cho đến cuối đời. Không một đòi hỏi cá nhân ích kỷ.
Thời gian gần đây, sức khỏe của cụ sút kém nhanh chóng, bệnh tình trầm trọng.
Ngoài sự chăm lo của con cháu trong họ, sự quan tâm thăm hỏi của bạn hữu già, trẻ còn
được sự chăm sóc chữa chạy tận tình của các giáo sư, bác sĩ, nhân viên y tế bệnh viện Hữu Nghị.
Nhưng tuổi đã cao, sức càng yếu nên không qua khỏi và Cụ đã ra đi về cõi vĩnh hằng với cha mẹ,
ông bà, tổ tiên và bạn bè đã đi trước Cụ, để lại cho những người còn sống là bạn bè, là thân thích
nỗi đau buồn thật là khôn tả.
Lễ tang hôm nay của Cụ, được các cơ quan ban ngành ở trung ương tổ chức chu đáo,
được sự giúp đỡ của Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, được sự thương cảm ưu ái của các thân bằng cố
hữu, của chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương, cũng như của họ hàng thân thích đối với
Cụ thật sự đã gây cho chúng tôi một sự cảm động và lòng biết ơn hết sức sâu sắc.
Xin thay mặt cho thân nhân ruột thịt của Cụ một lần nữa xin gửi tới quý vị lời cảm ơn hết
sức chân thành.
Xin trân trọng kính mời quý vị cùng chúng tôi sau đây đưa tiễn Cụ đến nơi an nghỉ cuối
cùng.
Xin trân trọng cảm ơn.
______________________
Nhà thơ, nhà báo Hoàng Hưng vừa chuyển cho talawas hai lá thư ông Nguyễn Hữu Đang
gửi cho ông, cũng là gửi cho các đồng nghiệp ở báo Lao Động vào năm 1993 - 1994. Được sự
đồng ý của Hoàng Hưng, talawas công bố toàn văn hai lá thư này để bạn đọc thấy được tinh thần
kiên nhẫn, lạc quan của người cựu lãnh đạo phong trào Nhân văn-Giai phẩm trong hoàn cảnh đói
nghèo cũng như tính cách nghiêm túc, cẩn trọng của một nhà báo lão thành đối với công việc viết
và làm báo, khi ông ở tuổi 80, và 20 năm sau khi ra tù.
talawas
Thư số 1
Hà Nội, ngày 10-11-1993
Anh Hoàng Hưng thân mến,
Tôi gửi vào lời ân cần hỏi thăm sức khoẻ, sinh hoạt và công việc của anh và của các bạn
tốt đã quan tâm đến đời sống của tôi với tình nhân ái cao quí. Một lần nữa, tôi khẳng định lòng
biết ơn sâu sắc của tôi đối với thịnh tình của các bạn. (Xin nói rõ: tôi đã rất phấn khởi nhận được
đầy đủ các món quà của các bạn mà anh em ngoài này gọi là “lộc” iii).
Hôm anh trở về, tôi không biết trước để đến cùng anh chia tay, tôi rất tiếc và xin anh thứ
lỗi. Từ sau buổi gặp anh, tôi vẫn có ý muốn gửi vào trong ấy một cái gì làm món quà mọn tỏ mối
quan hệ thân thiện giữa chúng ta, mối quan hệ mà tôi mong càng ngày càng phát triển tốt đẹp.
Các bạn hãy coi như chúng ta gặp nhau, cùng nhau nói chuyện vui vẻ, thân mật và tôi cao
hứng cho các bạn nghe một bài thơ, kể cho các bạn nghe một câu chuyện yêu đương thời còn trẻ.
Quà suông thế đấy!
Thơ thì tôi ít lắm nhưng cũng có sẵn một bài làm trong trại giam năm 1960 nhân nghe
một người đồng cảnh ngâm mấy câu thơ của Vũ Hoàng Chương là bạn học với tôi hồi còn nhỏ.
Tôi chép gửi vào để các bạn đọc cho biết một vài cảm nghĩ của tôi, cách đây ba mươi ba năm, về
tình nhân loại vẩn đục những tội ác của chủ nghĩa Xtalin, chủ nghĩa Mao Trạch Đông, chủ nghĩa
đế quốc Mỹ… chủ nghĩa phát xít đã qua hay biến dạng và những hành động duy ý chí tổn hại vô
ích.
Chuyện thì có đoạn hồi ký tôi mới viết gần đây. Tôi ghi lại hoàn toàn đúng sự thật, có
sai chệch chút ít thì cũng chỉ trong chi tiết nhỏ, thí dụ lời lẽ những câu đối thoại (trí nhớ không thể
trung thành như máy ghi âm). Nếu các bạn thấy câu chuyện “có vẻ tiểu thuyết” thì lý do chính
bản thân sự việc nó như thế, nó giống nội dung một cuốn tiểu thuyết nào đó một cách ngẫu nhiên
chứ không do tôi thêu dệt. Các bạn biết đấy, sự thật nhiều khi vượt xa hư cấu hoặc trùng hợp với
hư cấu.
Cũng xin bộc lộ là chính vì lý lo cái “vẻ tiểu thuyết” dễ gây nghi ngờ mà trong đoạn hồi
ký này tôi đã phải bới đi hai tình tiết có thật không quan trọng:
1. Trên thực tế, trong buổi đầu tôi gặp Huyền Nhiên ở giữa đường, có cả cô em Huyền
Nhiên xấp xỉ tuổi chị. Trong bài viết tôi phải loại bỏ sự thật có mặt của cô ta để khỏi giống đoạn
đầu Truyện Kiều.
2. Trên thực tế, còn có một người anh họ xa của Huyền Nhiên cũng yêu Huyền Nhiên tha
thiết mà không được Huyền Nhiên đáp lại. Trong bài viết tôi phải loại bỏ sự tồn tại của anh ta để
khỏi giống Đoạn tuyệt của Nhất Linh có nhân vật Thân (tầm thường) bên cạnh nhân vật Dũng
(xuất sắc) cho Loan so sánh, lựa chọn trong lòng.
Ngoài ra, để tránh sự phản ứng có thể sẽ có ở phía chồng và các con của Huyền Nhiên
đang sống ở Sài Gòn – do câu nệ hay hẹp hòi, không muốn ai nói động đến chuyện yêu đương cũ
dù là đúng đắn của người thân đã khuất, tôi gọi chệch các tên thật (… iv). Thế thôi.
Tôi gửi bài hồi ký vào, trước nhất để các bạn đọc cho vui, nhưng nếu anh thấy có thể
đăng báo và chuyển đến tờ Lao Động mà các bạn đang góp sức đẩy mạnh, thì tôi càng hoan
nghênh. Tôi vẫn có thiện cảm với tờ báo ấy.v
Trong trường hợp đăng được, tất nhiên tôi phục tùng quyền sửa chữa và quyết định tối
hậu của Ban biên tập, nhất là việc cắt bớt thì không nên dè dặt, miễn là có chỉ rõ chỗ cắt bằng ba
dấu chấm (…).
Về đầu đề, có thể dùng "Bộ vòng xơ-men" hoặc "Bộ vòng giao ước", tùy Ban biên tập
chọn.
Bài hơi dài, không nhất thiết phải đăng ngay, có thể giữ lại, đăng vào số Tết có nhiều
trang.
Trong trường hợp không đăng được, anh cứ tin là vẫn vui vẻ cả và anh hãy yên tâm giữ
bản thảo lại làm vật lưu niệm (tôi đã viết sẵn câu đề tặng vi). Anh chỉ cần báo cho biết càng sớm
càng tốt bằng thư gửi qua Phùng Quán (Ngõ số 10, cạnh trường Chu Văn An, đường Thụy Khuê,
quận Ba Đình, Hà Nội.)
*
Dưới đây là đôi nét về tình hình tôi hiện nay mà dĩ nhiên là bài Phùng Quán viết về tôi
không thể nào nói rõ vì Quán đến thăm tôi đầu năm 1991, từ bấy đến nay đã gần ba năm, trong
thời gian ấy người ta đã có thay đổi một phần cách đối xử với tôi cũng như với những anh em
Nhân văn khác, xin báo cáo tỉ mỉ cùng các bạn quí:
1. Người ta không chính thức công bố sửa sai, phục hồi theo tinh thần Đại hội VI, cứ đối
xử khác đi để ai chú ý thì ngầm hiểu như thế. Vấn đề là giữ ý thế nào đó.
2. Người ta trả lại chế độ hưu trí nhưng ấn định mức lương một cách tuỳ tiện chứ không
kể cấp bậc, không tính thâm niên. Đáng lẽ, phải xếp tôi tối thiểu chuyên viên 7, nhưng chỉ xếp
chuyên viên 5.
3. KGB không còn gây phiền hà hay xử sự thô bạo như trước. Ít ra, bề ngoài tôi cũng
bình thường như mọi người dân lương thiện.
4. Hoạn quan, bồi bút không còn lên gân đả kích, qui chụp, chỉ thỉnh thoảng nói mơ hồ
“vụ Nhân văn–Giai phẩm đã giải quyết xong rồi”.
5. Hội Nhà văn thay Hội Văn nghệ cũ nhận là cơ quan chủ quản của tôi (được coi là cán
bộ biên tập của Hội đã về hưu).
Hằng năm, đến Tết có biếu quà mừng tuổi. Vào dịp kỷ niệm 40 năm xuất bản báo Văn
Nghệ có mời đến chiêu đãi riêng và tặng 100.000 đ. Nhân dịp anh em văn nghệ sĩ mừng thọ tôi 80
tuổi, có cử Hữu Mai đại diện đến chúc mừng và tặng quà.
6. Nhà xuất bản Văn Hoá đã ký hợp đồng ấn hành một tập hồi ký 200 trang của tôi.
7. Một số tờ báo sẵn sàng đăng bài hiền lành nhưng tôi chỉ mới hứa hẹn (trừ tờ Nghệ
thuật Điện ảnh đã đăng hai bài).
8. Chưa được hưởng trợ cấp lão thành cách mạng tuy có đủ tiêu chuẩn. Vì đã phạm kỷ
luật nghiêm trọng (Không cần biết việc thi hành kỷ luật đã được xét và sửa sai).
9. Chưa được phân phối một căn hộ hai phòng để có chỗ sống là phụ, có chỗ chết là
chính. Đã tích cực đề nghị mà chưa được trả lời
10. Nói tóm tắt một câu thì việc sửa sai, phục hồi đối với tôi mới chỉ được thực hiện nửa
vời, chiếu lệ.
Chắc chắn tôi sẽ chết trước khi được xã hội trả lại đầy đủ sự công bằng theo lương tri
chứ không phải sự “công bằng” theo những nguyên tắc qui định của một tổ chức.
Song song với cách đối xử mới của người ta bước đầu như trên, tôi đã tự mình xây dựng
cuộc sống chuyển hướng trên cơ sở:
1. Sức khoẻ tốt: không có bệnh mãn tính nặng, không hay ốm đau lặt vặt. Cơ thể có suy
nhược theo tuổi già như tai, mắt răng, đầu gối, động tác phản ứng… đều kém đi nhưng cũng còn
tạm đủ dùng ở mức trung bình. Có bốn cái khoẻ: ăn khoẻ, ngủ khoẻ, nói khoẻ, đi xe đạp khoẻ.
Trong lứa tuổi tám 80, thuộc loại khá.
2. Trí tuệ minh mẫn tuy trí nhớ yếu. Việc cũ nhớ nhiều, nhớ kỹ, việc mới hay quên. Còn
đủ năng lực viết lách, viết báo, thuyết trình, thảo luận.
3. Sinh hoạt hàng ngày theo nếp “ba ít”: ít vật chất, ít quan hệ, ít quan tâm. Tiêu dùng
đại tiết kiệm. Thiếu sách báo, tài liệu để bồi dưỡng kiến thức. Không có đồng hồ, rađiô, tivi. Quần
áo, chăn màn tạm đủ. Xe đạp tồi. Đối nhân xử thế sòng phẳng, chung sống hoà bình.
4. Tình cảm: sống với bạn bè là chính, tìm được ở những người thân tình yêu thương,
quí trọng, giúp đỡ ân cần. Ngoài ra cũng có nhiều người quen biết hay không quen biết tỏ thiện
cảm. Đó là niềm an ủi. Tự xét mình lương thiện, chưa bao giờ làm hại cá nhân hay xã hội. Đó là
niềm tự hào.
5. Tư tưởng, về căn bản theo học thuyết Lão, Trang. Chấp nhận, phục tùng khách quan;
thích ứng với môi trường; coi nhẹ các vấn đề đấu tranh cải tạo, cống hiến, công bằng xã hội, tiến
hoá loài người v.v… Cụ thể về chính trị, cứ nhắm mắt theo đuổi tuyệt đại đa số quảng đại quần
chúng nhân dân; làm nghĩa vụ công dân ở mức độ tối thiểu cần thiết; không cần phân biệt chủ
nghĩa nào, chế độ nào, đảng phái nào. Chỉ cần hai chữ “bình yên”.
Trong hoàn cảnh tuổi già, thanh bần, đứng ngoài lề xã hội, lý do tồn tại của tôi những
năm còn lại là sống để xem và thưởng thức cái xem.
6. Hoạt động tinh thần: nói thưởng thức cái xem là nói cảm nghĩ trong khi xem. Tôi
tranh thủ những giờ nhàn rỗi (không xem) để viết những cảm nghĩ trong khi xem. Viết chơi như
người ta chơi cây cảnh, không khẩn trương, không cố gắng xuất bản hay không xuất bản không
thành vấn đề. Không cần danh, lợi hay ảnh hưởng.
7. Để dành tiền: một câu hỏi lớn day dứt là “sẽ chết ở đâu?” Bởi vậy những món tiền mà
bạn bè và những người thương yêu san sẻ, giúp đỡ, tôi không dám tiêu ngay. Phải gửi ngân hàng
để tích lũy, phòng xa người ta nhất định không phân phối cho một căn phòng, cùng đường phải tự
lực làm một gian bán mái bám vào chái nhà ai đấy thì tôi cũng có thể góp phần mình với các nhà
hảo tâm.
Tình hình tôi mọi mặt hôm nay đại thể là như thế. Không dám chắc rồi đây tôi sẽ có thêm
được cái gì tốt hơn không. Dù sao tôi cũng đã quen chịu đựng số phận bất hạnh, chỉ mong khổ vừa
vừa. (Tiện đây cũng xin báo cáo thêm là tôi tin có định mệnh và do đó tôi nhận thức loài người là
một bầy con rối.)
Anh Hoàng Hưng ạ,
Trên kia tôi có nói về tư tưởng tôi theo học thuyết Lão, Trang song nói cho thật đúng thì
là tôi hướng theo, mà lại chỉ mới hướng theo ở một vài điểm nào đấy thôi. Học thuyết ấy quá cao
siêu, tôi không có đủ trình độ và bản lĩnh để lĩnh hội được hết và áp dụng được thoả đáng. Nói
nôm na, tôi chỉ mới dựa vào quan niệm “vô vi” để kiên định thái độ “tiêu cực cầu an”, không còn
sợ “tiêu cực cầu an” là hèn. Trái lại, tôi ngang nhiên khoe mình “tiêu cực cầu an” vì đó là chân lý,
là con đường đi tới hạnh phúc – “tiêu cực cầu an” có lý tưởng, có lập trường vậy.
Chưa cần tìm hiểu sâu xa gì lắm, chỉ cần biết một điểm này: Lão Đam khuyên dạy người
đời cái lẽ “tri túc”: Hãy tự lấy làm bằng lòng với những cái gì mình đang có. Đấy là bí quyết
để sung sướng, ít ra cũng là bí quyết để tránh bấp bênh, vất vả, bảo đảm bình yên.
Tôi thật lòng muốn học đòi “tri túc” để biến cái thiếu khách quan, phàm tục thành cái
đủ chủ quan tiên tử.
Chúc các bạn trong ấy vui, mạnh, thành công và “tri túc”.
Xiết chặt tay và mong gặp lại
Nguyễn Hữu Đang
Phụ lục - Bài thơ gửi kèm thư số 1
Quán trọ hành tinh
Trong bản báo cáo của ông Khơ-rút-sốp trước Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô có một
đoạn nói vắn tắt, gần như lướt qua, mà thực ra rất quan trọng.
Đoạn đó nói về sự quan tâm đặc biệt của Trung ương Đảng đối với vấn đề củng cố nền pháp trị xã
hội chủ nghĩa và kết luận:
“Những tổ chức của Đảng, của Nhà nước và các công đoàn phải chú ý với một tinh thần cảnh giác
đến việc tôn trọng pháp luật Xô-Viết và tố cáo, vạch mặt bất cứ ai phạm vào nền pháp trị Xô-viết và những
biểu hiện phi pháp và độc đoán nhỏ.”
Tại sao sau ba mươi năm kiến thiết chủ nghĩa xã hội với hai lần đặt hiến pháp và nhiều lần chỉnh lý
pháp luật cũng như sửa đổi hệ thống và lề lối xét xử của toà án, bây giờ sắp bước vào giai đoạn kiến thiết chủ
nghĩa cộng sản, Liên–Xô còn phải đặt vấn đề pháp trị một cách nóng hổi như vậy?
Chính là vì trong bao lâu Stalin đã lạm dụng quyền hành, dung túng bè lũ phản cách mạng Beria,
lấy uy thế chính trị mà lũng loạn bộ máy nhà nước, vi phạm nghiêm trọng chế độ pháp trị. Coi thường pháp
luật trở thành một tác phong của nhiều cán bộ, của nhiều cấp uỷ Đảng hay cơ quan chính quyền. Biết bao
nhiêu công dân lương thiện và đảng viên tốt - kể cả Trung ương uỷ viên của Đảng – đã bị tù đầy, bắn giết oan
trong tình trạng đó? Cho nên Đại hội đã phải quan tâm đặc biệt đến việc bảo vệ chế độ pháp trị nó là hiện
thân của tinh thần nhân văn, tinh thần dân chủ, tinh thần kỷ luật trong một nhà nước văn minh.
Điều này ở xã hội ta không phải ai cũng công nhận dễ dàng. Vì lòng khinh bỉ của chúng ta đối với
pháp lý tư sản lớn quá đến nỗi ở một số đông người nó đã trở thành lòng khinh bỉ pháp lý nói chung. Vì
trong cuộc kháng chiến kéo dài và gian khổ, chúng ta đã quen giải quyết mọi công viêc to nhỏ trong không
khí gia đình, với tinh thần tuỳ tiện. Chúng ta đã quen dùng cái “linh động” để gỡ cho công việc trôi chảy
được mỗi khi vấp phải điều quy định chính xác. Chúng ta đã quen dùng cái “lập trường” để thay cho luật lệ
cụ thể.
Và kháng chiến đã thành công, độc lập và dân chủ ít ra đã thực hiện trên một nửa đất nước, nên
chúng ta cũng dễ chủ quan, tự mãn tưởng rằng nền nếp cũ vẫn còn có giá trị
Nhầm to. Nếu hiện tượng trên là tất yếu đối với hoàn cảnh chiến tranh du kích thì trái lại, nó không
có một lý do tồn tại nào trong hoàn cảnh hoà bình.
Hoà bình lập lại đã hai năm, dù cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước có phức tạp, gay go
thế nào thì cũng không thể coi miền Bắc như ở một hoàn cảnh bất thường để duy trì mãi tình trạng thiếu một
nền pháp trị hẳn hoi.
Trong Cải cách Ruộng đất, những việc bắt người, giam người, tra hỏi (dùng nhục hình dã man), xử
tù, xử bắn, tịch thu tài sản, hết sức bừa bãi, bậy bạ, cũng như việc bao vây đến làm chết đói những thiếu nhi
vô tội trong các gia đình địa chủ (hoặc chính là nông dân mà bị quy sai thành phần), không phải chỉ hoàn
toàn do sự lãnh đạo kém cỏi mà còn do thiếu chế độ pháp trị hẳn hoi. Giá các Đoàn Uỷ lúc nào cũng thấy
trên đầu họ con mắt dõi theo của thần công lý, giá lúc nào họ cũng thấy văng vẳng bên tai câu nhắc nhở của
toà án: "hễ làm trái pháp luật là bị truy tố đấy" thì chắc chắn là họ đã thận trọng hơn và nhiều tai vạ đã tránh
được cho nhân dân rồi.
"Giết nhầm sẽ bị kiểm thảo", ý nghĩ ấy có thể là nghiêm chỉnh, nhưng nó mới nhẹ nhàng, thoải mái
làm sao!
Sẽ có những người nói: "Sở dĩ nên nông nỗi ấy là vì họ không vững lập trường".
Vững lập trường! Điều đó rất quí nhưng chưa đủ. Không phải cán bộ nào, công dân nào cũng vững
lập trường. Và ngày những người thực sự vững lập trường mà không có nền pháp trị tinh vi làm mực thước
thì cũng chỉ mới có bảo đảm nhận thức được một cách chung chung về phương hướng và yêu cầu của công
việc chứ không có bảo đảm biết làm cho đúng phương pháp, cách thức để đạt tới yêu cầu đó.
Sẽ có những người lo xa: "Đặt ra lắm luật lệ rất dễ đưa đến những bệnh quan liêu, máy móc, hình
thức".
Không phải thế. Quan liêu, máy móc, hình thức là những bệnh do thiếu lý luận cách mạng, thiếu
đạo đức cách mạng, thiếu nhiệt tình cách mạng. Chẳng biết ít lệ luật sẽ giúp cho việc tránh các bệnh ấy được
đến đâu nhưng nhất định không ai có thể chối cãi điều này: ít lệ luật là một điều thuận tiện cho sự lạm quyền,
độc đoán.
Nhiều lệ luật cũng vẫn có kẻ lạm quyền, độc đoán được. Những điều đó chỉ dễ thực hiện trong chế
độ cũ, luật lệ đã mang sẵn tính chất thực tế thì không biết mà dùng, không có đủ thế lực mà dùng. Còn trong
chế độ ta, nhân dân có đủ cả quyền hành, ý thức và lực lượng để dùng luật lệ, bảo vệ luật lệ, thì họ sẽ không
để cho những kẻ kia lạm quyền, độc đoán mãi.
Một nền pháp trị đầy đủ sẽ là một bảo đảm vững chắc cho tính chất dân chủ của chế độ ta. Nó sẽ là
đường “rày” cho đoàn xe lửa chở dân tộc ta chạy lên chủ nghĩa xã hội thật nhanh mà không trệch.
*
Do pháp trị thiếu sót mà Cải cách Ruộng đất hỏng to đến thế. Do pháp trị thiếu sót mà quân đội
chưa có chế độ binh dịch hợp lý, công an hỏi giấy giá thú đôi vợ chồng ngồi ngắm cảnh trăng lên ở bờ hồ, hộ
khẩu rình bên cửa sổ khiến người ta mất ăn, mất ngủ, cán bộ thuế tự tiện vào khám nhà người kinh doanh, ở
khu phố có chuyện đuổi nhà lung tung hoặc ép buộc người ở rộng phải nhường lại một phần nhà cho cán bộ
hay cơ quan ở. Do pháp trị thiếu sót mà nhiều cơ quan bóc xem thư của nhân viên và một ngành rất quan
trọng nọ đòi thông qua những bài báo nói đến mình, làm như một bộ phận của Nhà nước lại có quyền phục
hồi chế độ kiểm duyệt mà chính Nhà nước đã bãi bỏ. Do pháp trị thiếu sót, người ta đã làm những việc vu
cáo và đe doạ chính trị trắng trợn, ngăn cản việc mua đọc báo Nhân văn, hành hung báo Trăm hoa v.v…
Tưởng đã đến lúc nhân dân phải tích cực bảo vệ chế độ bằng cách tố cáo những hành động phi pháp
ở bất cứ trường hợp nào đã có luật lệ rồi.
Về mặt xúc tiến xây dựng ngay một chế độ pháp trị đầy đủ, tinh vi, chúng tôi đề nghị:
1. Thi hành Hiến pháp (hoặc là Hiến pháp 1946 sửa đổi cho thích hợp với hoàn cảnh ngày nay, hoặc
là Hiến pháp mới sẽ đặt ra). Trên cơ sở Hiến pháp, Quốc hội sẽ biểu quyết những đạo luật thay các sắc lệch
và nhiều văn kiện khác.
2. Quốc hội họp đều, sáu tháng một kỳ. Không có lý do trong hoàn cảnh hoà bình mà công việc của
Quốc hội vẫn khoán trắng cho một Ban thường trực gần như không hoạt động gì.
3. Chấn chỉnh ngành tư pháp, chủ yếu là tăng quyền hành thực sự của Bộ tư pháp.
Chúng tôi tin rằng toàn thể các tầng lớp nhân dân đều đồng tình với chúng tôi về ba đề nghị trên. Vì
nhân dân thiết tha mong được sống trong một xã hội chính quy hơn nữa.
Để mọi quyền làm ăn, sinh hoạt và tự do dân chủ khỏi bị xâm phạm.
Để được thoải mái góp phần kiến thiết quốc gia.
12-10-56
Nguồn: Báo Nhân văn số 4, trang 1 và trang 5, số ra ngày 5.11.1956. Bản điện tử do talawas thực
hiện.
______________________
Anh Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ mấy chục năm trước, nhưng rất ít khi được truyện
trò với anh. Mỗi lần tòi được anh hỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê người, đâu không khiến mà chân cứ rút
về thành tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm lính trinh sát mỗi cân được chính uỷ sư đoàn hỏi chuyện.
Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì mà được một người như Nguyễn Hữu Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang,
người đã tham gia cách mạng từ khi tôi còn chưa đẻ, nhà hoạt động công khai của Đảng cùng thời với
Trường Chinh, Trần Huy Liệu, một trong những người lãnh đạo và chủ chốt của Hội truyền bá quốc ngữ
cùng thời với Phan Thanh, cụ Nguyễn Văn Tố. Một trong những người sáng lập và tồ chức Hội Văn Hoá
Cứu Quốc cùng với Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, người được cử đi dự đại hội Tân Trào và đứng
tên trong danh sách Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Và cuối cùng là trưởng ban tổ chức ngày Đại Lễ của
đất nước: 2-9-1945.
Cách đây khoảng 15 năm, anh từ cao nguyên Hà Giang trở về, tá túc tại quê nhà. Hàng năm vào dịp
giáp tết lại thấy anh đảo lên Hà nội trên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên xô. Anh mang đến cho mấy bạn cũ mỗi
người một cân gạo nếp. Một lần tôi cũng được anh cho một cân. Tôi cảm động ngạc nhiên hỏi anh:
- Anh kiếm đâu ra gạo nếp cho chúng em thế?
Anh cười:
- Anh sống ở nông thôn cũng phong lưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu bạn lại có cả thóc và
rơm cho nông dân vay.
- Hiện nay anh đang làm gì ở đó?
- Anh nghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô qua bản tiếng Pháp.
Đối chiếu, thấy bản dịch in sai nhiều quá.,
Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà nội nữa. Mấy anh em quen cũ chúng tôi hỏi nhau:
“Không biết anh Đang có gặp chuyện gì trắc trở dưới đó?”. Nỗi lo lắng này thường xuyên ám ảnh tôi. Nhân
thể muốn tìm hiểu về công trình Lễ Đài Độc Lập, năm đó tôi nhất quyết phải về quê thăm anh, mặc dầu đã
gần giáp Tết.
Vừa đi tàu, vừa ô-tô xe đạp. Sáng 26 tết tôi có mặt ở thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm,
tôi hỏi đường đến Sở Văn Hoá và Hội Văn Nghệ Tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự ngạc nhiên thấy nhiều
anh chị em cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn Hữu Đang là ai. Có vài người biết nhưng lại rất lơ
mơ. “Hình như ông ta ở Quỳnh Phụ, Kiến xương hay Tiền Hải gì đó...” May tôi gặp được một nhà thơ trẻ.
Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: “Cháu sẽ đưa chú ra cái quán thịt chó nổi tiếng, ở đó thường có
mấy anh cán bộ về hưu trạc tuổi chú lui tới hỏi thế nào cũng có người biết.” Tôi theo anh bạn thơ trẻ ra quán
thịt chó, và phải cắn răng lại vì số tiền còm cõi trong túi, gọi một đĩa thịt luộc và hai chén rượu cho phải
phép. Đợi chừng nửa tiếng, có một người đã đứng tuổi để chiếc xe “cúp”, trước cửa, đi vào quán. Nhà thơ trẻ
đứng bật dậy, nói với tôi:
- Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏi chắc ông biết.
Tôi vội níu tay anh lại, dặn nhỏ:
- Cậu nhớ đừng giới thiệu mình là ai, sẽ rách việc!
- Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn.
Anh bạn trẻ đi đến gặp ông ta, nói cái gì đó và chỉ tay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi cười bắt
tay tôi, ngồi đối diện và tươi cười hỏi:
- Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ được bao nhiêu tuổi ạ?
Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi án vận nhếch nhác: quần áo bà ba nâu, chân dép lốp, râu tóc bạc trắng,
nên hỏi vậy. Tôi liền nói phứa lên:
- Cám ơn đồng chí - tôi cười - Cũng thất thập cổ lai hy rồi đồng chí ạ!
- Trước cụ có làm công tác ở đâu không ạ?
- Tôi làm thường trực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà nội... về hưu đã gần được chục năm
rồi.
- Cụ là thế nào với ông Nguyễn Hữu Đang ạ?
- Tôi có quen biết gì với ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi có một
cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôi về thăm đứa cháu họ công tác giáo viên ở
Quỳnh Côi ông cụ gần tôi mười ngàn bạc gửi biếu ông ấy mà giao hẹn phải đưa tận tay, tôi tưởng ông ấy ở
thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết...
Anh cán bộ cười:
- Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở thôn Trà Vy, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương, cách
đây gần hai chục cây số. Ngược gió này mà cụ đạp xe về tới đó cũng vất vả đấy...
Thấy tôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở:
- Nói để cụ biết, trước kia cái ông Đang ấy cũng là người hoạt động cách mạng có tên tuổi... Nhưng
rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn chống đối Đảng và Nhà nước, bị xử phạt mười lăm năm tù ngồi, đưa
lên giam trên trại tù ở Hà Giang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy ông ta vẫn thuộc
diện đối tượng... Cách đây mấy năm, ông ta lén sang Nam Định không có giấy đi đường đến nhà một đối
tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liền phối hợp, hỏi giấy đi đường rồi bắt giam bốn tháng ở
nhà lao hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả cho về...
Tôi tỏ ý sợ hãi, gãi đầu gãi tai:
- Chà... Biết rắc rối thế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa... Đem tiền về trả lại thôi...
Anh cán bộ xuề xoà:
- Không sao đâu, cụ ạ, chính sách của ta bây giờ là đổi mới tư duy. Nghe đâu bây giờ ở trên cũng
đang sửa soạn cho ông ấy được hưởng lương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi chỉ đường
cho cụ.
Anh cán bộ chấm ngón tay vào ly rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã
về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lên rối rít cảm ơn anh...
Con đường đá mười mấy cây số chi chít ổ gà. Gió cuối đông buốt như kim châm táp thẳng vào mặt.
Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩ ngợi miên man về sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện dấn thân
vì nghĩa lớn, nên con đường như cũng bớt xa... Đến chỗ ngã ba rẽ vào trường phổ thông cấp 1, 2 xã Vũ Công
- nơi anh Đang tá túc - tôi vào cái quán bên đường, uống ly rượu cho ấm bụng. Ông cụ chủ quán khi biết tôi
từ Hà nội về tìm thăm anh Đang, rót rượu mời tôi và nói:
- Ông ấy thỉnh thoảng vẫn ngang qua đây, tôi đều mời vào uống nước. Ông ấy tần tiện khét tiếng cái
xã Vũ công này. Mới cách đây mấy hôm, ông ấy đèo sau xe cái giỏ tre ràng buộc rất kỹ. Ông ấy kể với tôi,
tối qua bắt được con rắn gì dữ lắm, phun phì phì, bò vào nhà. Định làm thịt ăn nhưng tiếc, chở lên huyện bán
cho một tay buôn rắn độc, kiếm lấy mấy nghìn mua mấy lạng mỡ lá.
Tôi phì cười:
- Ông ấy bây giờ lại thêm cái tài bắt rắn độc, mà mất công đạp xe mi-ni những mười mấy cây số để
đồi lấy mấy lạng mỡ lá... Vui thật!
Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn, chết lâu rồi, làm câu thơ mới nghe thật vô nghĩa,
nhưng cứ bất chợt lại hiện ra trong trí nhớ tôi: “Cuộc đời vui quá không... buồn được!”. Ông chủ quán rót
thêm ly rượu nữa, giọng hào hiệp:
- Ly này tôi đãi cụ! Mà khổ, ông ấy có bán được đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về, phàn nàn: nó
không chịu mua, nó bảo loại rắn này không nằm trong bộ Tam Xà!
Tôi cười ngất.
Anh Đang ở gian đâu hồi nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao cá Bác Hồ của xã.
Đứng bên kia bờ ao, một cô giáo chỉ cho tôi:
- Bác ấy đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửa cái gì mà chăm chú thế không biết...
Tôi dắt xe đạp qua sân trường, vòng ra gần sát sau lưng anh. Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những
viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo
mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần áo lao động mầu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao
su đen nom như hai vòng cùm sắt, chắc chắn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng xuống
hình chữ C viết nghiêng... Tôi chợt nhớ cách đây không lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh
kể: Hồi mặt trận Bình dân, Nguyễn Hữu Đang là cán bộ được Đảng cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang
trọng như một công tử loại một của Hà Thành, thắt cà-vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai
phong, hùng biện, tuyên truyền cách mạng... Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu Đang
có thể đến bất cứ một nhà tư sản Hà nội nào giàu có vay vàng, tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho
anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâu sắc rằng trao vàng, tiền cho anh, là trao tận tay cho
Cách mạng... Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không vợ không con, không còn không nhà, lưng
khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rửa những viên gạch vỡ - Chẳng hiểu để làm gì - Như người bõ già trong
chuyện Hương Cuội của Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuội trắng để tẩm kẹo mạch nha vào dịp tất niên...
Miên man nghĩ vậy và tôi bật phì cười.
- Anh Đang!
Tôi nghẹn ngào gọi. Anh quay lại, chớp chớp mắt nhìn tôi rất lâu. Gương mặt già nua với mái tóc
bạc húi cao, cằm mép lốm đốm những chân râu hạt vừng, vụt rạng rỡ hẳn lên. Anh cười để lộ hai hàm răng
vàng xỉn, cùn mòn gần nửa vì năm tháng...
- Phùng Quán? Chú về đây từ lúc nào thế!
Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao. Cả hai gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ...
Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng khoảng năm mét vuông, chất kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây
sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái, trên vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may ô thủng
nát, quần lao động vá víu, cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc vỏ hộp dầu cao su Sao vàng xuyên
thủng, buộc giây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc kêu lên reng reng nghe rất vui tai.
Sau đó, tôi được anh giải thích tác dụng của chùm lục lạc. Đi lại trong đường làng những đêm tối trời, anh
thường bị cánh thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm xầm vào, làm anh ngã trẹo tay, sầy gối. Học tập
sáng kiến của đồng bào các dân tộc Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu - “Trâu gõ mõ, chó leo thang” - Anh Đang
chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ tránh xa. Tác dụng thứ hai quan trọng không
kém... Mỗi lần đạp xe trên đường văng, nghe tiếng lục lạc loong cong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ
đơn độc... Chính giữa gian trái kê chiếc tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng không khép kín được, khoá một
chiếc khoá lớn như chiếc khoá của nhà kho. Trên nóc tủ xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà nội
người ta thường quẳng vào đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân, bốn chân giường được củng cố
thêm bốn chồng gạch. Trên giường một đống chăn bông trần rách thủng. Và một xấp quần áo cũ làm gối...
Sát chân giường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi giây thép buộc
treo vào tường. Mặt bàn lát bằng nan tre. Anh nói giọng Lão Trang:
- Một cái bàn bốn chân là một con vật. Khi nó chỉ còn lại hai chân nó là một con người.
Trên mặt bàn xếp kín những chai lọ, vỏ đồ hộp, hai cái đèn dầu làm bằng lọ mực Cửu Long, vài con
dao làm bằng mẩu lưỡi liềm gẫy, và ba bốn cái bát hương, nắp đậy là những viên gạch vỡ. Anh chỉ nắp đậy,
giới thiệu với giọng trang trọng của thuyết trình viên giới thiệu hiện vật trong các bảo tàng nghệ thuật:
- Nó là loại gạch nung rất già, gần đạt tới tiêu chuẩn của các sành sứ cồ. Sức nặng và độ bàn của nó
làm cho tất cả các loại chuột, mối, gián phải kính nể.
Bây giờ thì tôi đã hiểu anh cọ rửa những viên gạch vỡ để làm gì.
Dưới bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đứt quai, được bó thành từng bó, hai cái vại muối dưa
rạn nút, sứt miệng, một đống bản lề cửa, sắt vụn, đinh cong queo, mẩu giây thép han rỉ... Tất cả những đồ lề
đó, phủ lên một lượt bụi tro...
Lúc tôi bước vào, gian buồng mờ mịt khói. anh giải thích:
- Giờ này các cô giáo nấu ăn. Bếp tập thể ở sát bên kia tường. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những
khe hở sát mái, nhưng khói vẫn cứ lọt sang - Anh cười - Chịu khó một chút nhưng cũng có cái lợi. Thỉnh
thoảng lại được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng... Trong việc dở nào cũng có việc
hay và ngược lại.
- Để em đạp xe ra chợ mua cái gì về ăn...
- Thôi khỏi cần, chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay tôi vừa chế biến được một mẻ thức
ăn, ngon vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm, còn nóng
nguyên. À, tôi lại có cả rượu cho chú, rượu cam xuất khấu hẳn hoi, quà của Hội nhà văn gửi biếu vào dịp tết
năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấy thầy giáo mấy chén, còn đủ cho chú say sưa suốt mấy ngày ở chơi.
Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá buộc chung với chùm lục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc
mắt nhìn vào mấy ngăn tủ. Những xấp quần áo cũ nát dể lẫn với những chồng báo, giấy má, sách vở ố vàng.
Ngăn dưới cùng để rất nhiều chai lọ, vỏ dỗ hộp, vỏ bia lon, và nhiều chồng các loại vỏ bao thuốc lá.
Anh lúi húi lục tìm một lúc khá lâu mới lôi được chai rượu cam còn già nửa.
- Đây rồi! Bây giờ già hoá lẩm cẩm. Để chỗ này lại tìm sang chỗ kia.
Tôi cười, nói:
- Nhìn anh, em cứ tưởng là một nhà quý tộc Nga thời Sa Hoàng, tự tay tìm chọn loại rượu quý cất
giữ một trăm năm trong hầm rượu, để đãi khách quý.
Tôi chỉ những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi:
- Anh chơi sưu tập vỏ bao thuốc lá à? Thế mà em không biết. Trên nhà em, các bạn đến chơi, hút
các loại thuốc lá ngoại hảo hạng, vỏ bao vất lung tung, vợ em ngày nào cũng phàn nàn vì phải dọn nhặt đem
đốt.
Anh kêu lên:
- Thế có tiếc không. Lần này chú về trên đó nhớ dặn cô ấy, có vỏ bao thuốc lá ngoại cứ cất giữ cho
anh Đang, càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu của tôi đấy...
- Hàng đối lưu? Tôi ngạc nhiên hỏi.
- Để tôi dọn cơm ăn rồi tôi giảng cho chú nghe thế nào là hàng đối lưu. Tôi xem ra chú mù tịt về
môn kinh tế chính trị học.
Tôi ngắm nhìn bao quát căn nhà độc thân của anh, hỏi:
- Hơn mười lăm năm qua anh đã sống ở gian buồng này à?
- Ngày tôi mới về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác xã. Chẳng là cán bộ xã cũng thông cảm hoàn
cảnh khó khăn của tôi, nên đề nghị ra đó trông coi giúp như nhân viên của trại. Ở đó có một gian nhà kho
cũng thoáng mát, tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với việc trông coi trại. Mỗi mùa hợp tác xã trả
công điểm mấy chục cân thóc, mấy chục cân rơm làm chất đốt. Số thóc, rơm này tôi không phải dùng đến,
trong mấy năm tiết kiệm được hai tạ ba thóc, hai trăm sáu chục cân rơm cho bà con vay. Ngoài ra, vào dịp tết
Hợp tác xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp, đem lên Hà nội biếu các chú. Khi tôi bất tay vào dịch cuốn lịch sử
Đảng cộng sản Liên Xô, tiếng lợn kêu ầm ĩ quá làm tôi mất tập trung tư tưởng, nên phải xin thôi công việc
trông coi trại, chuyển về đây để được yên tĩnh hơn.
Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy đặt lên miệng xô miếng gỗ dán:
- Đây là bàn ăn - Anh giới thiệu, và vần tiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng - còn đây là ghế ngồi.
Bà con nông dân nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt thế này mà đem quẳng bụi tre... tôi nhặt về
cọ rửa sạch sẽ lật đít lên, làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem, có khác gì
ngồi trên đôn sứ đời nhà Minh.
Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái bát hương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm, sáu viên gì đó
tròn tròn, đen xỉn, nom rất khả nghi. Anh chỉ vào mỗi đĩa, giới thiệu thực đơn đãi khách:
- Đây là chả thịt cóc băm viên. Đây là chả thịt nhái... Có cả mỳ chính, hạt tiêu nhá! Mười mấy năm
nay nhờ bồi dưỡng thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khỏe, còn khỏe hơn cả chú.
Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoong cơm đã ăn một góc mà anh giới thiệu vẫn
nóng nguyên. Nói đúng hơn là một thứ cháo rất đặc, có thể xắn thành từng miếng như bánh đúc:
- Ba năm trở lại đây tôi phải ăn cơm nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôi nấu cơm với nước vo
gạo nên rất bổ. Chẳng là các cô giáo thường đổ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước
vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý của gạo nằm trong nước vo, bỏ đi thật phí
phạm.
- Nhưng cóc nhái đâu ra mà anh bồi dưỡng được thường xuyên thế?- Tôi hỏi.
- Ấy, chỗ này mới là bí quyết. Phải huy động lực lượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi. Biết
các cháu ở đây thích chơi vỏ bao thuốc lá, nhất là các loại vỏ bao đẹp, mỗi lần lên thị xã hoặc sang Nam
Định chơi, tôi nhặt nhạnh về, đổi cho các cháu lấy cóc nhái. Cũng có khi đổi một vỏ bao lấy ba con cóc hoặc
năm con nhái, các loại khác hai cóc, ba nhái, bởi vậy tôi mới gọi là hàng đối lưu, chú hiểu chưa... Mỗi tháng
tôi chỉ cần ba bốn chục cái vỏ bao thuốc lá là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp... Hôm nào chú về tôi
gửi biếu cô, chú Cung, mỗi nhà mấy viên nếm thử. Cô chú ăn thịt cóc của tôi rồi sẽ thấy các thứ thịt khác đều
nhạt hoét!
Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc, nhái bỏ vào bát cho tôi, ân cần, âu yếm, trang trọng, làm tôi
ứa nước mắt, anh hỏi:
- Chú đi đâu mà lại lặn lội về tận đây vào lúc tết nhất sắp đến nơi?
- Em về đây chỉ một mục đích là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anh lên Hà nội, chúng em
rất lo, không biết anh đau ốm gì, liệu anh có còn sống không? Vê đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh, em rất
mừng... Anh là nhân chứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh chết đi, tàn lụi như cỏ cây,
không nhắn gửi lại gì cho thế hệ sinh sau, theo em là một tổn thất không gì bù đắp được...
Tôi lấy anh xem một số tư liệu liên quan đến ngày Đại Lễ 2-9-1945, vừa sao chụp được:
- Từ lâu, em vẫn mơ ước viết một cái gì đó, một thiên trường ca chẳng hạn, về công trình Lễ Đài
Độc Lập thật tráng lệ, thật hào hùng... Anh là trưởng ban tổ chức Ngày Độc Lập như trong tư liệu hiện còn
lưu giữ được. Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỷ niệm, những hồi ức mà anh cho là sâu sắc
nhất... Mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin...
Anh im lặng rất lâu, đùng đũa tém lại những mảnh vụn thịt cóc, nhái trong đĩa, gắp bỏ vào bát mình
những mảnh khác rớt xuống mâm ván. Anh chăm chú nhìn vào cái đĩa đã tóm gọn, như đang gắng đọc những
hồi ức in lại trong lớp men sành... Anh chợt nói, mắt vẫn không rời cái đĩa:
- Thấp thoáng thế mà đã bốn mươi bẩy năm trôi qua... - Anh chợt nói - Tôi còn nhớ như in hôm đó
là ngày 28 tháng 8... Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử phải được tính từng phút một... Năm đó, tôi
bước vào cái tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp phiên cuối cùng tại Bắc Bộ Phủ để quyết định
ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào... Tôi tính rất nhanh trong đầu: Tháng 8 có 31 ngày, như vậy chỉ còn có 4
ngày nữa thôi... Tôi suy nghĩ cân nhấc trong một phút, hình dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi
phải vượt qua để tổ chức được một ngày Đại Lễ như vậy, trong khi đó mình chỉ có hai bàn tay trắng...
- Ông Đang ơi! Ông Đang!... Tiếng con nít gọi nheo nhéo ngoài cửa, ngắt ngang câu chuyện của
anh.
Tôi nhìn ra thấy hai chú bé trạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre, đầu cành tre thõng thượt một
con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao, đâu bị đập dập còn nhỏ máu tươi.
- Ông có đổi rắn nước không ạ?
Anh Đang bỏ bát đũa ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn nước. Rồi hỏi:
- Các cháu định đổi như thế nào?
- Ông cho cháu mỗi con hai cái vỏ bao ba số.
- Các chú đừng có giở thói bắt chẹt! - Giọng nói và thái độ của anh đã chuyển hẳn sang giọng của
dịch vụ đổi chác - Mỗi con rắn này chỉ trị giá bằng hai con cóc. Nhưng thôi thì ông đành chịu thiệt vậy, mỗi
con bằng một vỏ bao ba số, các chú có chịu đổi thì đổi, không đổi thì thôi!
Hai chú bé ngần ngừ một lúc, rồi nói:
- Chúng cháu đổi ạ!
Anh quay vào mở khoá tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chú một chiếc, và cầm lấy
hai con rắn. Hai chú bé cũng xem xét hai cái vỏ bao cẩn thận không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một
chú nói:
- Ông đổi cho cháu cái vỏ bao khác, cái này bên trong không có tờ giấy vàng.
Anh cầm cái vỏ bao xem lại, cười:
- Được, ông sẽ đổi cho cái vỏ bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì nhà nước không
phải chịu thua thiệt.
Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà. Mặt tươi hẳn lên, như người buôn bán vừa vớ
được món hời:
- Thịt rắn còn bổ hơn thịt cóc. Tối nay tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ, ăn vào chú sẽ thấy tăng
lực gấp đôi, có thể đạp xe một mạch lên đến bến phà Tân Đệ.
Tôi ở lại chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phó nháy ở xã trên xuống chụp chơi mấy “pô”
làm kỷ niệm. Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ buồn. Vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn chát nổi muối
trong đĩa, anh vừa nói:
- Hiện tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký, thuật lại tất cả những gì có liên quan đến thế sự, kể
từ khi tôi bước chân vào con đường hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gần đây... Trong hồi ký,
tôi sẽ đề cập đến những việc mà từ trước đến nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo tuyên ngôn
của ông Hồ viết... Còn hay mất, nếu còn thì bây giờ ở đâu. Hoặc ông định sửa hai câu trong bản tuyên ngôn,
nhưng không kịp vì bản chính đã đưa đi in mất rồi. Là trưởng ban tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách in ấn
những tài liệu có liên quan đến vận mệnh của đất nước này... Như chú biết đấy, hiện nay trong bảo tàng Hồ
Chí Minh cũng như bảo tàng Lịch sử, không có bản Tuyên ngôn Độc lập... Tôi sợ sẽ làm không kịp mất, gần
tám chục tuổi đâu rồi còn gì, mà lại không có điều kiện làm việc, ban đêm coi như chịu chết, đèn đóm tù mù,
đúng là đóm thật...
Anh im lặng một lúc lâu rồi ngẩng lên nhìn tôi, nói tiếp:
- Chú có biết điều lo lắng nhất của tôi hiện nay là gì không? - Không đợi tôi đoán, anh nói luôn -
Tôi lo nhất là không biết chết ở đâu. Lúc sống thì tôi ở nhờ nhà ai mà chẳng được ở đây cũng như ở trên Hà
nội... Những lúc chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không phải ruột rà
máu mủ chết ở nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng vậy, tôi nằm chết sẽ làm phiền nhà trường, các thầy
cô giáo, các cháu học sinh. Bởi vậy mà hai năm nay tôi không muốn lên Hà nội. Ở đây, tại quê hương bản
quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết... Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng nhìn thấy...
Tôi theo anh ra đứng lên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa Đông Bắc lạnh thấu xương thổi thốc
vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một búi tre gần cuối xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang
vật vã trong gió buốt:
- Đấy, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ đây lá tre rụng, rất vừa người
tôi... Tôi sẽ nằm ở đó chết để khỏi phải phiền ai... Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó
trước khi nhắm mắt xuôi tay...
Trở vào nhà, cả người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là vì bị cảm lạnh. Tôi dốc hết rượu ra bát uống ực
một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung mang về tặng anh:
Mắt già rộng chớ
Rắc mãi phong lưu
Góp nhặt đem về thúng củ
Quỳ dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lượng
Chút thổ phần
bò xéo
cuối thôn...!
Phùng Quán - Tháng 12, 1992
Là người ham mê xem chiếu bóng, tôi nhớ mãi đợt chiếu phim ngày Tết năm 1934 (hay 1935, tôi
không nắm vững nữa) ở Hà Nội, còn để lại đến tận bây giờ những ấn tượng sâu sắc về cả ba mặt thẩm mỹ, tổ
chức và kinh doanh.
Trước Cách mạng tháng Tám, trong những ngày Tết Nguyên đán, nếu không nói đi mừng tuổi và ăn
uống mà nói vui chơi thì xem chiếu bóng được coi là cái thú thanh lịch mới mẻ. Công chúng đông đảo nhất,
bén nhạy nhất, nhiệt thành nhất và năng động nhất của màn bạc thời ấy - mà có lẽ cả bây giờ - là tầng lớp
thanh niên. Đối với họ, được đón xuân bằng một buổi chiếu phim đặc sắc là nhu cầu thiết yếu, quan trọng,
vừa là sinh hoạt văn hóa vừa là phương tiện xã giao ở thời điểm tâm hồn người ta hứng khởi, cởi mở và thân
thiện. Nói không ngoa, họ chờ đợi nó như các tín đồ chờ ngày hội thánh. Họ là con công đệ tử của bà chúa
xi-nê.
Từ lâu, nhu cầu ấy vẫn được đáp ứng. Hãng chiếu bóng Ciné-Théâtre rất thức thời đã đặt thành lệ
hàng năm dành cho dịp Tết Nguyên đán cuốn phim mới nhập hay nhất trong chương trình cả năm, chiếu ở
thủ đô trước tiên, tại rạp Majestic (bây giờ là rạp Tháng Tám). Cuốn phim ấy chẳng may mà xoàng thì cái
Tết của thanh niên Hà Nội trở thành tẻ nhạt. Một lỗ trống không cái gì bù lấp được. Phim phải hay đã đành,
tổ chức chiếu cũng phải cầu kỳ, công phu, chu đáo hơn ngày thường trăm lần. Nào cổ động rầm rộ. Nào
trang hoàng sang trọng. Nào đón tiếp lịch sự, ân cần. Tốn của và tốn công. Ấy thế mà giá vé không tăng.
Hãng Indochine Film bất đắc dĩ phải cố gắng đua theo, nhưng vẫn cứ chịu thua một bậc. Rõ ràng là ông chủ
Ciné-Théâtre còn quan tâm hơn cả người xem. Nhất định phải có cái gì cao hơn đồng tiền cùng tác động với
đồng tiền.
Hồi ấy tôi là một học sinh lưu trú một trường trung học. Ngày chủ nhật, được ra phố chơi, bao giờ
tôi cũng để ý ngay đến những áp phích quảng cáo chiếu bóng, vì việc chính trong ngày bao giờ cũng là xem
chiếu bóng. Một lần, ngoài những áp phích thường lệ, tôi còn thấy nhan nhản khắp nơi một loại pla-két, có
vẻ bí mật, chỉ ghi một từ “Tarzan” (Tác-dăng) kiểu chữ viết ngoáy, phóng tay vội vàng. Quái! “Tarzan” nghĩa
là gì nhỉ? Thách đố hay hứa hẹn cái gì? Ở đâu? Lúc nào?
Chủ nhật sau, bên cạnh tờ pla-két úp úp mở mở kia đã xuất hiện một áp-phích mới, lớn bằng nửa
chiếc chiếu trải giường đôi, phía trên đề “nay mai” (prochainement), rồi lừng lững từ Tarzan chữ to, nét đậm;
dưới có dòng chữ nhỏ hơn nhưng không kém nổi bật: “Một cuốn phim đồ sộ về một cuộc phiêu lưu ly kỳ
giữa núi rừng bí hiểm châu Phi”, dưới nữa là tên nhà đạo diễn Van Dyke và tên hai ngôi sao diễn viên Johnny
Weissmuller và Maureen O’Sullivan.
Ngày 27 tháng Chạp âm lịch, học sinh bắt đầu nghỉ Tết. Tôi đến ngay rạp Majestic để biết tình hình
tổ chức chiếu phim Tết có gì mới không. Trên đường phố tấp nập, người và xe cộ qua lại như mắc cửi, hai
chiếc ô tô của hãng Ciné-Théâtre vẫn tiếp tục lượn và phát những âm thanh kỳ dị của rừng thẳm châu Phi,
tuyệt đối không nói một lời. Bước vào rạp, tôi giật mình sửng sốt: gian ngoài của rạp đã biến thành một góc
rừng với những cây cổ thụ chặt ngắn bớt, những dây leo chằng chịt, những mô đá nhấp nhô và vô số dã thú
giả, giống như thật, từ Mỹ đưa sang. Tôi xúc động đến ngơ ngác rồi bước nhanh vào giữa khu “hoang dại”
mà một bàn tay nghệ sĩ đã tạo nên giữa nơi đô hội, dạo đi dạo lại, tưởng tượng một ngày kia mình có thể đến
được hồ Chad và thung lũng sông Congo.
Ba giờ chiều mùng hai Tết, tôi mặc bộ quần áo chững nhất của mình, cùng hai người bạn đi xem
Tarzan, vé đã mua được từ ba hôm trước. Chúng tôi hồi hộp như đi nghe xướng danh kết quả một kỳ thi đã
dự. Theo ảnh, một anh bạn đố tôi đoán được tại sao tóc Tarzan lại ngắn thế và con dao găm anh ta có được
bằng cách nào, làm cho chúng tôi tranh cãi nhau suốt dọc đường. Mới đến đầu phố Hàng Bài đã thấy không
khí hội hè. Người đi xem phim ùn ùn kéo đến, một số tiến về phía Tràng Tiền để xem buổi chiếu của rạp
Palace (bây giờ là rạp Công Nhân), một số đông hơn tiến về phía Majestic. Khoảng ba trăm mét chạy dọc
trước cửa Majestic người đông quá đến tắc nghẽn đường, xe cộ không qua lại được. Mà sao họ diện đẹp đến
thế! Tôi nghĩ: ở Paris, cái cảnh tưng bừng, nhộn nhịp và sang trọng của buổi diễn đầu một vở kịch nổi tiếng
thế giới trên sân khấu rạp Opéra cao quí cũng đến thế này là cùng! Tất cả Hà Nội vui vẻ trẻ trung, hào hoa
phong nhã đã đổ đến đây, tập trung trong quang cảnh ngày hội. Đúng là ngày hội chiếu bóng.
Có chen chúc nhưng không gay lắm vì đa số vé đã bán trước. Đáng chú ý là không hề có tệ nạn đầu
cơ vé, tuy không khỏi có những trường hợp vé phải đi đường vòng, nhưng không thể nói đến vé chợ đen. Xe
máy hầu như không có. Xe ô tô để đằng xa. Người ta đến đầu phố bằng xe tay. Phần lớn người ta đi bộ, đi
thong thả. Đi chơi ai lại vội vàng, hấp tấp? Đặc biệt là không ai đi xe đạp, vì đi xe đạp là không chững chạc,
sang trọng, lại hại những quần áo quí. Cái làm đẹp lòng người đi xem nhất là trật tự. Đông là thế mà không
lộn xộn, ồn ào. Càng không có những lời văng tục, gây gổ, những cử chỉ thô bạo, hung hãn. Bọn côn đồ trộm
cắp do áp lực quần chúng và thái độ cảnh sát, không dám bén mảng. Công chúng hoan nghênh ông chủ hãng
linh lợi, luôn luôn có mặt để theo dõi tình hình, giám sát nhân viên phục vụ và can thiệp mau lẹ để bảo vệ
chẳng những sự nghiêm chỉnh, chu đáo của rạp mà cả cái phong cách văn minh của khán giả.
Trong rạp, không có ai đội mũ, nói to hay gác chân lên ghế, không có ai phì phèo thuốc lá, thả khói
chung quanh. Thoang thoảng mùi nước “ét săng” chanh thơm nhẹ. Bên cạnh màn trắng, một tấm bảng trên
phủ lụa đỏ đề: “Chúc mừng năm mới”. Bên kia, một cành bích đào sai hoa cắm trong lọ độc bình.
Chuông réo mười phút liền, báo buổi chiều bắt đầu. Mọi người ổn định chỗ ngồi, im lặng. Một sự
im lặng sâu như kính cẩn. Đèn tắt. Không gian thu hẹp trong mấy mét vuông trước mặt. Thời gian dừng lại.
Qua hình tượng, cuốn phim thu hút người xem đắm đuối, không thể có ý niệm những cảnh đang diễn ra dưới
mắt mình lại đã được dựng lên ngay ở Hollywood.
Tarzan là ai? Nhà bình luận thấy nhân vật Tarzan hơi giống nhân vật Mowgli trong cuốn sách của
nhà văn Anh Rudyard Kipling. Mowgli lạc vào rừng từ thuở măng sữa. Chàng lớn lên trong những điều kiện
sinh sống của sói và trở thành dân sói gốc người! Còn Tarzan con nuôi của bầy khỉ thì sao? Nhưng cuối cùng
chàng cũng tự tách ra khỏi bầy chứ không đồng hoá được. Chàng trở lại sống cuộc sống người với đầy đủ
tính người.
Dựng xong cuốn phim Tarzan, nhà đạo diễn Van Dyke đã thực sự xây được đài vinh quang của
mình. Sau phim Tarzan của Van Dyke, người Mỹ chẳng những thấy nó là một thành công vĩ đại về kỹ thuật,
nghệ thuật mà còn là một thắng lợi oanh liệt về kinh doanh, nên họ đã tung tiền đầu tư quay một chuỗi phim
Tarzan khác.
Nguồn: Tạp chí Nghệ thuật điện ảnh, số Tết Tân Mùi 1991
______________________
Về đoạn phim ghi lại ngày lễ độc lập 2-9-1945: Góp thêm một giả thiết
TTCT - Bài viết của nghệ sĩ Đặng Nhật Minh “Một bí ẩn vẫn đang chờ câu trả lời” (TTCT 9-2007)
đã đặt lại vấn đề tác giả (hay chủ nhân) của đoạn phim lịch sử quay ngày lễ độc lập trên quảng trường Ba
Đình ngày 2-9-1945.
Đây là một vấn đề không chỉ lý thú từ một cuộc điều tra, mà kết luận của nó còn chứa đựng nhiều ý
nghĩa khiến những người nghiên cứu lịch sử cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 quan tâm.
Trong bài viết, nghệ sĩ Đặng Nhật Minh chủ yếu nhắc lại những thông tin và lập luận của vị trưởng
ban tổ chức ngày lễ độc lập Nguyễn Hữu Đang, một thành viên của Chính phủ lâm thời vào thời điểm đó
(vừa qua đời ở tuổi 95). Ở cương vị có thể coi là “toàn quyền” trong việc tổ chức buổi lễ mà cụ Đang phải
“thú thật ngay rằng tôi chưa biết đích xác ai là người quay bộ phim đó. Tôi cũng chỉ có thể đoán theo hai khả
năng mà cũng chưa dám nghiêng hẳn về phía nào: hoặc là hiệu Hương Ký quay hoặc là phái đoàn Patti
quay”.
Thử phân tích theo hai giả thiết của cụ Đang. Patti, với tư cách là người đứng đầu cơ quan Cục
Công tác chiến lược (OSS - tiền thân của CIA), đến Hà Nội ngày 22-8-1945 khi Việt Minh đã giành được
chính quyền ở thành phố này từ trước đó vài ngày.
Nhưng ngay từ tháng 7-1945, một đơn vị đặc nhiệm OSS mang bí danh “Con Nai (The Deer)” đã
nhảy dù xuống khu vực Tân Trào để phối hợp với Việt Minh chống phát xít Nhật theo thỏa thuận giữa Hồ
Chí Minh và tướng Mỹ Chelnault, người đứng đầu lực lượng Đồng minh tại vùng Hoa Nam, Trung Quốc.
Đơn vị đặc nhiệm này đã được lãnh tụ Hồ Chí Minh tiếp đón và hợp tác chặt chẽ. Một đại đội Việt - Mỹ đã
được thành lập, có mặt trong lễ xuất quân sau Đại hội Quốc dân Tân Trào, tham gia vây quân Nhật tại Thái
Nguyên và về Hà Nội ngay sau khi giành chính quyền không bao lâu.
Còn ông Patti từ Côn Minh đến sân bay Gia Lâm ngày 22-8, sau đó tiếp xúc với nhiều lực lượng
chính trị và có những quan hệ tốt đẹp với Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, như trong hồi ức
ông Patti cho biết nhiệm vụ của mình là đại diện Đồng minh đến để giám sát tình hình chuẩn bị cho các quan
chức cao cấp của các nước Đồng minh đến thực hiện việc giải giáp quân Nhật, do vậy họ hết sức giữ ý không
vượt quá thẩm quyền.
Đơn vị “Con Nai” cũng được lệnh chấm dứt những hợp tác quân sự để đợi lệnh rút về. Do vậy, ở Hà
Nội những người Mỹ đã tránh tham gia những hoạt động chính thức. Vì thế ông Patti mặc dù nhận được lời
mời đứng vào hàng quan khách dự lễ độc lập, nhưng ông đã khéo từ chối để đóng vai người quan sát và
tránh tiếp cận khu vực lễ đài. Tuy nhiên như ông thuật lại, trong ngày 2-9-1945 những người Mỹ có mặt ở
Hà Nội đã tranh thủ hòa vào đám đông dân chúng để quan sát một biến cố quan trọng, và có chụp ảnh quang
cảnh chung trên đường phố và ở khu vực Ba Đình. Nhưng không thấy ông nói đến việc quay phim.
Nửa thế kỷ sau, tôi có may mắn được tham dự hai cuộc tiếp xúc giữa các cựu thành viên OSS của
đơn vị “Con Nai” với các cựu chiến binh VN đã hợp tác với đơn vị này tại Hà Nội (1995) và New York
(1997). Tôi cùng với một số nhà sử học nước ngoài (Mỹ, Na Uy, Đức) tham dự cũng có đề cập tới những
nguồn sử liệu bằng hình thì họ cho biết có chụp được một số ảnh nhưng đến nay cũng thất lạc nhiều và phim
quay thì không có.
Trong nhiều năm qua tôi tiếp tục tìm kiếm các hình ảnh liên quan đến những người Mỹ này, thì có
nhận được một số lượng không đáng kể và vẫn chưa có thông tin nào về việc quay phim cả. Vả lại, nếu phía
Mỹ có thì trong một số bộ phim tài liệu lớn về chủ đề chiến tranh VN được xây dựng trong thời gian qua,
những tư liệu lịch sử này đã được công bố chính thức. Phía người nước ngoài khi sử dụng những đoạn phim
mà chúng ta đã công bố đều ghi rõ là tài liệu của VN.
Như vậy, còn lại giả thiết tác giả là người VN, cụ thể là người của hiệu ảnh Hương Ký. Phân tích
những tình tiết có liên quan mà cụ Đang cung cấp thấy có nhiều điều hợp lý, vì việc sử dụng máy quay phim
đến thời điểm này tuy còn hiếm nhưng cũng không xa lạ gì đối với người VN. Nhưng điều quan trọng hơn
hết là hiện nay có được tấm ảnh từ dưới hướng lên lễ đài chụp Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đọc Tuyên ngôn
Độc lập, đứng bên phải Cụ có một người cầm ô và đáng chú ý là từ phía bên trái có một người đang quay
phim hướng ống kính về phía Cụ Hồ.
Góc quay này ứng với đoạn phim quay Người đọc Tuyên ngôn nhìn nghiêng mà chúng ta đã được
xem. Quan sát trên ảnh thấy đó không phải là người nước ngoài. Như thế thông tin từ bài báo của cụ Đang có
một chi tiết chưa chính xác vì đã nói là không ai được phép lên lễ đài quay phim.
Tấm ảnh này chúng tôi được ông David Marr, một nhà nghiên cứu sử học Úc gốc Mỹ, cung cấp và
theo ông cũng do người Mỹ chụp (công bố trong sách Why Vietnam?, bản gốc tiếng Anh). Như vậy chính
những thước phim ấy là do hiệu ảnh Hương Ký thực hiện và diễn biến thái độ chính trị của ông chủ Hương
Ký trong bối cảnh đất nước nhiều biến động như vậy có thể dẫn tới việc những thước phim này không được
chuyển cho ban tổ chức ngay thời điểm đó.
Bởi thế, cho dù phải ngót ba thập kỷ sau (1974) “châu mới về hợp phố”, những thước phim ấy được
trao cho Nhà nước Việt Nam một cách toàn vẹn về chất lượng cũng là một biểu thị đáng mừng và đáng trân
trọng của những người VN - dù đã có thời không đồng hành nhưng vẫn gìn giữ những chứng tích quí giá về
cuộc cách mạng và vị lãnh tụ của cuộc cách mạng đó. Dẫu sao đây cũng vẫn còn là một giả thiết để tiếp cận
với kết luận cuối cùng, và mong rằng những người là nhân chứng của cuộc tiếp nhận này (ví như nhà báo
Hồng Hà) nên công bố rõ hơn những gì còn phải giữ bí mật vì phải thực hiện cam kết với người trao những
thước phim này.
Đã hơn ba thập kỷ kể từ lúc nhận di sản này, cũng đã đến thời khắc giải mật để đáp lại việc làm đầy
trách nhiệm của một trong những người Việt Nam có thể khác chính kiến nhưng đầy trách nhiệm với lịch sử
dân tộc.
DƯƠNG TRUNG QUỐC
______________________
Những điều còn bí ẩn quanh việc quay bộ phim Ngày Độc lập 2-9-1945
Trong bài "Một bài thơ không thành" viết về ông Nguyễn Hữu Đang có chi tiết nhắc đến sự vui
mừng của ông khi được in hai bài viết đầu tiên ký tên thật sau khi ra tù. Để bạn đọc có thêm tư liệu về thời
kỳ cuối đời của nhân vật lịch sử này, chúng tôi xin giới thiệu hai bài viết nói trên.
Talawas
***
Nguyễn Hữu Đang
Một ngày trung tuần tháng 9-1990 vừa qua, đến chơi nhà một người bạn thân, chưa kịp ngồi yên
chỗ, tôi đã được ông bạn đưa cho tờ Nghệ thuật điện ảnh số 6-1990 mới tinh.
“Biếu anh số báo này. Trong đó có liên quan đến anh đấy!”.
Tôi đưa tay đón tờ báo hơi ngỡ ngàng, chưa hiểu việc gì của ngành điện ảnh lại có thể liên quan đến
mình. Mở ra… thì ở ngay trang 1, bài của bạn Trung Sơn có cái đầu đề nổi bật "Ai là người ghi hình phim
ngày Tết Độc lập 2-9-1945?". Đúng là có liên quan đến tôi thật. Là trưởng ban tổ chức ngày tuyên bố Độc
lập 2.9.1945 - sau này đi vào lịch sử, nó được gọi bằng cái tên ngắn gọn "Ngày Độc lập" - tôi có trách nhiệm
trả lời câu hỏi của bạn Trung Sơn và báo Nghệ thuật điện ảnh cũng là câu hỏi chung của hàng mấy chục triệu
người đã được xem cuốn phim ấy.
Xin thú thật ngay rằng tôi chưa biết đích xác ai là người đã quay bộ phim đó. Tôi chỉ có thể đoán
theo hai khả năng, mà cũng chưa dám nghiêng hẳn về phía nào:
Một là hiệu Hương Ký quay;
Hai là phái đoàn Patty quay.
Tất nhiên thiên hạ chẳng ưa gì cái lối trả lời lửng lơ nước đôi. Song quả là vấn đề rắc rối và hiện
nay chưa có đủ chứng cứ để khẳng định dứt khoát một bề. Xin các bạn quan tâm đến vấn đề cho tôi được
trình bày dưới đây những điều tôi "nhớ lại và suy nghĩ", mong giới thiệu được vài ba dữ kiện cần thiết để giải
một bài toán.
Trước hết, xin các bạn hình dung sự khẩn trương, tất bật của chúng tôi trong thời gian vẻn vẹn bốn
ngày (từ 28.8 - 1.9) để chuẩn bị xong, một buổi lễ qui mô toàn quốc mà trọng tâm là cuộc mít tinh lớn, ban
đầu dự kiến sẽ thu hút chừng hai phần ba dân số nội, ngoại thành. Cả nhân viên chuyên môn, tiền, dụng cụ,
vật liệu đều hầu như bắt đầu bằng số không. Tiếp theo thông cáo của Bộ Tuyên truyền, Ban kêu gọi rộng rãi
trong đồng bào ai có nhiệt tình tham gia tổ chức đến ghi tên tại quán Hội Trí tri (phố Hàng Đàn). Chúng tôi
theo dõi từng phút, từng phút việc ghi tên nô nức, nhộn nhịp rồi căn cứ vào nghề nghiệp, sở trường, vào
phương tiện sẵn có, vào cả khả năng chạy vạy của người tình nguyện mà giao việc, nhờ cậy.
Về phần chụp ảnh, ông Vũ Văn Lai, nhà nhiếp ảnh nghiệp dư trẻ tuổi đã sốt sắng nhận nhiệm vụ đi
liên lạc các bạn đồng nghiệp, mời bằng được hiệu Hương Ký, một hiệu ảnh bậc đàn anh, chẳng những mời
chụp ảnh mà còn mời quay phim hơn nữa, yêu cầu Hương Ký quay phim là chính. Chúng tôi sẵn sàng nhận
những điều kiện dù là nặng mà Hương Ký có thể đưa ra. Vì theo chúng tôi biết - bấy giờ ở Hà Nội, ngoài
hãng Indochine Film (của người Pháp) không hoạt động được, Hương Ký là cơ sở kinh doanh nghề ảnh duy
nhất có máy quay phim. Cũng may, Hương Ký đã không lợi dụng độc quyền để bắt bí.
Chủ hiệu Hương Ký đã trên dưới sáu mươi tuổi nhưng còn tráng kiện, linh lợi, vốn có tay nghề
vững. Ông nhận lời làm; nói cho đúng ông sẽ chỉ đạo con hay thợ trực tiếp làm. Từ nhiều năm ông đã là một
nhà tư sản bề thế ở thủ đô, thôi lao động, sống giàu sang, lại hay tham gia chính trị một cách nhẹ dạ. Lúc mời
ông cộng tác, tôi coi thường cái quá khứ chính trị hời hợt của ông, chỉ chú trọng việc quay phim. Và tôi tin
tưởng ông cũng lấy làm thích thú được quay phim dịp này còn quan trọng gấp triệu lần khi ông được vinh dự
chụp đám tang Khải Định rồi đám cưới Bảo Đại. Vẻ nhiệt thành, hồ hởi của ông cộng với phong thái đạo
mạo, lịch thiệp ở một cụ già càng khiến tôi yên tâm.
Cũng như tất cả các bạn đồng nghiệp của mình, hai người của Hương Ký, một chụp ảnh, một quay
phim đã hoạt động thoải mái trong khu vực mít tinh. Duy đến sát lễ đài thì không được; cứ phải ở ngoài hai
vòng bảo vệ, đó là quy định chung.
Độ một tuần lễ sau "Ngày Độc lập", không thấy Hương Ký cho biết kết quả quay phim, tôi đến hỏi
thì được trả lời là không quay được vì máy trục trặc. Một sự thất bại dường như hoàn toàn do khách quan,
không ai chịu trách nhiệm. Tôi bình tĩnh chấp nhận sự rủi ro. Nhưng chỉ ít ngày sau, quân tàu Tưởng đưa bọn
Vũ Hồng Khanh về âm mưu cướp quyền, lật đổ thì ông chủ Hương Ký liền theo Quốc dân Đảng, chống Việt
Minh. Lập tức tôi nghi ngờ ông ta đã không thật lòng, đã không quay phim, rồi đổ lỗi cho cái máy - nó
không biết cãi.
Phải chăng vì tư tưởng đối lập với cách mạng ở ông ta chưa bộc lộ rõ ràng trước khi cách mạng
thành công nên chúng tôi đã mất cảnh giác? Từ đấy, suốt ba mươi năm, mỗi khi nhớ đến "Ngày Độc lập", tôi
cảm thấy vấn vương một chút ân hận. Ân hận và băn khoăn tự hỏi: Hương Ký có quay phim không? Có quay
mà hỏng thật hay quay được mà giữ lại?
Thời gian trôi đi. Có người nghĩ đến một bộ phim truyện trong đó dựng lại cảnh tuyên bố độc lập
đúng như thật. Bỗng một hôm, vào quãng giữa những năm 70, tôi nghe tin cuốn phim tài liệu lịch sử "Ngày
Độc lập" đang được chiếu ở Hà Nội. Tôi mừng rỡ và kết luận như đanh đóng cột: Hương Ký đã quay được
nhưng giữ lại. Tôi yên trí là qua mấy đợt bán đi, mua lại, cuốn phim bảo vật lưu lạc phương xa, nay trở về
quê hương với "con rồng, cháu tiên" vẻ vang mà gian khổ, nhờ lòng tốt của một Việt kiều yêu nước nào đó,
hoặc do nhà nước ta bỏ ra một số tiền để chuộc lại. Một sự tưởng tượng mà nếu ông Kỳ Nam biết chắc ông
phải mỉm cười.
Còn có khả năng thứ hai…
Khả năng này chỉ mới xuất hiện trong đầu tôi khi tôi đọc, trên một tờ báo, đoạn hồi ký của tướng
Patty (đã về hưu) nguyên trưởng phái đoàn Mỹ đến Hà Nội dưới danh nghĩa đồng minh liền sau tổng khởi
nghĩa của ta thắng lợi. Ông tường thuật cuộc mít tinh khổng lồ ngày 2.9.1945 tại Quảng trường Ba Đình với
những chi tiết hết sức đúng, có cả một chi tiết từ trước tới nay sách, báo ta chưa nhắc đến lần nào. Sự mô tả
chính xác chứng tỏ ông và một số nhân viên của ông đã chứng kiến buổi lễ, đã đi lại trong khu vực mít tinh
để, như ông kể lại, "chụp ảnh và quay phim". Thật bất ngờ đối với tôi, kẻ mang nặng trên vai trách nhiệm
điều hành buổi lễ và kiểm soát cuộc mít tinh, mà không biết có những hoạt động của người ngoại quốc ngay
trước mắt mình. Bấy lâu, từ khi phim tài liệu lịch sử "Ngày Độc lập" về nước, giá có ai đoán là nó có thể do
phía đoàn Patty quay thì tôi bác bỏ ngay. Bởi lẽ hôm ấy, theo đề nghị của chúng tôi, để bảo vệ an ninh, thành
phố ra lệnh giới nghiêm gần như thiết quân luật: từ mười giờ sáng đến năm giờ chiều, ngoài hàng ngũ những
người đi dự mít tinh có chỉ huy và bảo vệ chặt chẽ, tuyệt đối không người nào hay xe cộ nào được đi trên
đường phố (kể cả vỉa hè) - cố nhiên quân đội, công an, cứu hoả và cấp cứu bệnh viện được ở ngoài lệnh cấm.
Người Mỹ mà quần chúng dễ lẫn với người Pháp lại càng không thể ra khỏi nhà: nếu họ muốn đến chỗ mít
tinh, nhất định họ phải được ban tổ chức đồng ý và hướng dẫn. Còn chụp ảnh và quay phim, lẽ nào trong cả
cuộc mít tinh cực lớn mà không lộn xộn như vậy lại không có ai nhìn thấy?
Bấy lâu tôi đã chủ quan, suy xét một chiều, một mặt, chỉ biết mình mà không biết người, nên không
thể dung thứ khả năng thứ hai. Ngày nay có bằng chứng cụ thể tôi cố tìm xem cái gì đã giúp phái đoàn Patty
hoạt động được. Và tôi nhớ ra là hồi ấy, mỗi khi ra đường, người Mỹ bao giờ cũng đeo trên cánh tay trái, chỗ
gần bắp vai, một mảnh biểu trưng cờ Mỹ (écusson) to bằng nửa bàn tay. Chính miếng biểu trưng ấy là cái
"bùa hộ mệnh" giúp họ chẳng những có thể đi lại tương đối tự do trong thành phố, ra ngoại ô và về cả các địa
phương nữa, mà còn được nhân dân tỏ thiện cảm, tiếp đãi thân mật và giúp đỡ nếu cần. Cũng dễ hiểu thôi. Ta
đang tranh thủ sự ủng hộ của đồng minh. Quan hệ Việt - Mỹ đang hữu nghị hơn bao giờ hết. Tuy ban tổ chức
không biết trước sự hoạt động của họ để có chủ trương giúp đỡ, tất cả bộ máy bảo vệ an ninh và giữ trật tự
đã tự động dành cho họ mọi sự dễ dàng. Tự động rất đúng chính sách.
Còn tại sao họ chụp ảnh, quay phim mà không ai biết thì có thể tìm được câu giải đáp ở chỗ trong
phái đoàn Patty, trước đóng ở Côn Minh, vẫn có một đơn vị của cơ quan tình báo Mỹ OSS tiền thân của CIA.
Đơn vị này ắt được trang bị đầy đủ phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất (so với trình độ đương thời) và có
trong biên chế của nó những chuyên gia điêu luyện để thực hiện chụp ảnh và quay phim kín đáo tới mức cần
kín đáo, dù không có ý kín đáo, sự kín đáo vẫn diễn ra do năng tính của dụng cụ tình báo và thói quen nghề
nghiệp của con người tình báo.
Để tránh sự hiểu lầm về mục đích hạn chế của bài này mà tôi đã trình bày trong đoạn đầu, tôi nhấn
mạnh một lần nữa: trở lên trên chỉ là dữ kiện, là phỏng đoán, là giả thiết, là khả năng, còn phải nghiên cứu,
được nêu ra nhằm gợi hướng xác minh. Xác minh được ai đã quay cuốn phim tài liệu lịch sử "Ngày Độc lập"
mà chúng ta đang cố phải dựa trên cơ sở kết quả của một cuộc điều tra công phu mà tôi cho là không khó
khăn lắm. Đầu mối không còn bí ẩn và không xa tầm tay, chẳng bao lâu nữa tạp chí Nghệ thuật điện ảnh sẽ
được hài lòng nếu ngày mai ở đâu đó xuất hiện một quyết tâm tìm ra sự thật về bàn tay nào, qua ống ca-mê-
ra nào đã ghi lại những hình ảnh sống động đánh dấu thời điểm ra đời của một giai đoạn mới, một Nhà nước,
một chế độ mới ở Việt Nam.
Nguyễn Hữu Đang
Nguồn: Tạp chí Nghệ thuật Điện ảnh số 8 năm 1990
______________________