You are on page 1of 81

Những điều lý thú về các vị vua Việt Nam

Những điều lý thú về các vị vua Việt Nam không chỉ được truyền tụng trong giai thoại dân
gian, dã sử mà còn được chính sử ghi chép với không ít chi tiết độc đáo, lạ kỳ.

Trần Anh Tông bị ném vỡ đầu

Trần Anh Tông là vị vua thứ 4 của nhà Trần, ở ngôi 21 năm (1293 – 1314), được sử sách đánh giá là
“khéo nối chí giữ nghiệp, cho nên đất nước được thái bình, chính trị tốt đẹp, văn vật, chế độ dần
thịnh lên, cũng là bậc vua tốt của triều Trần” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Để tiếp cận với đời sống nhân dân, vua Trần Anh Tông thường đi vi hành và có lần ông đã bị ném vỡ
đầu. Sử cho biết như sau: “Vua thích vi hành, cứ đêm đêm lại lên kiệu cùng với hơn chục thị vệ đi
khắp trong kinh kỳ, gà gáy mới trở về cung. Có đêm ra đến quân phường bị bọn vô lại ném gạch
trúng vào đầu vua. Người theo hầu thét lên: kiệu vua đấy; bọn chúng biết nhà vua mới tan chạy cả.
Một hôm thượng hoàng thấy đầu vua có vết thương, vặn hỏi, vua cứ thú thực mà thưa. Thượng
hoàng giận dữ hồi lâu” ( Đại Việt sử ký toàn thư).

Vua Tự Đức thi văn đỗ hạng… bét

Là người thông minh, giỏi văn, hay chữ nên hoàng đế thứ 4 của triều Nguyễn là Tự Đức rất tự cao tự
đại mặc dù bề ngoài luôn tỏ ra khiêm tốn. Có lần vua nói: Trẫm không đi thi nhưng nếu đi thi nhất
định trẫm sẽ đỗ Trạng nguyên.

Thấy mọi người không có vẻ tán đồng, Tự Đức liền nghĩ ra một cách, ông cùng một số vị đại khoa
làm một bài luận rồi rọc phách gửi sang nhờ vua Thanh lập ban giám khảo chấm giúp. Tự tin nghĩ
thế nào mình cũng đỗ đầu nhưng hoá ra bài văn của Tự Đức xếp cuối; trong bài của ông có lời phê
rằng: “Bài này tỏ ra tác giả là một người học rộng, khí phách, không phải là người thường nhưng là
người không có tài mấy!”.

Lý Nam Đế từng là một chú tiểu

Lý Nam Đế tên thật là Lý Bí (còn gọi là Lý Bôn) là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa năm Tân Dậu
(541) lật đổ chính quyền đô hộ, xây dựng một chính quyền tự chủ của nhà nước Vạn Xuân, ông xưng
đế và trở thành vị Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.

Lý Bí xuất thân trong một gia đình “đời đời là hào hữu”, cha là Lý Toản, tù trưởng bộ lạc, mẹ là Lê
Thị Oánh, người Ái Châu (nay là Thanh Hóa). Là con độc nhất trong gia đình, từ nhỏ đã tỏ rõ là
người thông minh, hiểu biết, thế nhưng ông sớm phải sống trong cảnh mồ côi, khi lên 5 tuổi thì cha
mất, 7 tuổi mẹ lâm bệnh qua đời; Lý Bí được người chú ruột đón về nuôi dưỡng. Một hôm có vị thiền
sư đến làm lễ tại ngôi chùa trong làng, tình cờ nhìn thấy Lý Bí. Ngắm dung mạo cậu bé khôi ngô,
thiền sư biết là người sau này có thể làm lên sự nghiệp. Biết hoàn cảnh đáng thương của Lý Bí, thiền
sư liền đến gặp người chú xin đem cậu bé về làm “con nuôi cửa Phật”. Từ đó Lý Bí trở thành chú
tiểu, theo Pháp tổ thiền sư về chùa Linh Bảo ở đất Giang Xá (nay thuộc xã Đức Giang, huyện Hoài
Đức, Hà Nội).

Được vị thiền sư hết lòng dạy bảo, lại thông minh chăm chỉ nên qua hơn 10 năm đèn sách, rèn luyện,
Lý Bí trở thành nhân vật thiên tư lỗi lạc, văn võ toàn tài. Mọi người ai cũng quý mến, tin phục, sau đó
đồng lòng suy tôn ông lên làm thủ lĩnh địa phương và sau này, chú tiểu năm nào đã phất cờ đại
nghĩa, lật đổ ách đô hộ gần 500 năm của Bắc triều, đặt những nền móng đầu tiên cho sự ra đời quốc
gia phong kiến độc lập.

Vua đầu tiên nhận lỗi với thần dân

Vua Lý Cao Tông chính là người đầu tiên làm “thiên tử” thay trời hành đạo mà lại dũng cảm thừa
nhận trước thần dân sai lầm của mình.

Dưới thời Lý Cao Tông, triều chính bắt đầu đi xuống, loạn lạc nổi lên khắp nơi. Sử chép: “Vua chơi
bời không điều độ, hình chính không rõ ràng, giặc cướp như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà
Lý từ đấy suy kém… Kinh Thi có câu: Bên trong mê sắc đẹp, bên ngoài mê săn bắn, ham rượu, thích
nhạc, nhà cao tường đẹp, người nào phạm một trong các điều ấy tất phải diệt vong, mà vua thì phạm
đủ các điều ấy, còn làm gì được…” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Đến mùa thu, tháng 8 năm Đinh Mão (1207), vua Lý Cao Tông thấy giặc cướp nổi lên như ong bèn
hối lại lỗi xưa, nhân đó hạ chiếu nhận lỗi, bài chiếu viết rằng: “Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc
lớn, ở tận nơi cửu trùng, không biết được cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời bọn tiểu nhân mà
gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã oán thì trẫm còn biết dựa vào ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi, cùng dân đổi
mới. Ai có ruộng đất, sản nghiệp bị sung công sẽ được hoàn lại” (Đại Việt sử lược).

Từ tù nhân trở thành hoàng đế

Câu chuyện lạ lùng này liên quan đến vua Lê Hiển Tông, vị hoàng đế thứ 26 của nhà Hậu Lê. Ông là
con trai trưởng của Lê Thuần Tông, sinh năm Đinh Dậu (1717), mất năm Bính Ngọ (1786), thọ 69
tuổi. Lê Hiển Tông là một trong số những vị vua có tuổi thọ cao nhất và là vị vua thọ nhất triều Hậu
Lê. Vị hoàng đế này cũng là một trong những người ở ngôi lâu nhất trong lịch sử Việt Nam và là
người làm vua lâu nhất triều Hậu Lê.

Chuyện lên ngôi của Lê Hiển Tông chứa đựng nhiều yếu tố may mắn. Khi còn là hoàng tử, vì có
người chú là hoàng thân Lê Duy Mật nổi binh đánh lại họ Trịnh nhằm khôi phục quyền lực cho vua
Lê, do đó ông bị chúa Trịnh Giang nghi ngờ đem giam cầm ở nhà viên quan nội thị Hồng quận công.
Năm Canh Thân (1740) Trịnh Doanh lên ngôi chúa mới chuyển hoàng tử đến giam ở nhà cậu mình
là Vũ Tất Thận. Đêm trước đó, Vũ Tất Thận “mơ thấy thiên tử tới nhà, cờ quạt phấp phới, nhã nhạc
vang lừng, rõ ra cảnh tượng của đời thái bình” ( Hoàng Lê nhất thống chí). Sáng hôm sau thấy quân
lính giải hoàng tử đến nhà, ông ta rất kinh ngạc cho là ứng vào giấc mộng của mình bèn kể lại với
chúa. Trịnh Doanh thấy vậy cho là người có phúc lớn bèn đón hoàng tử về tôn lên làm vua, đặt niên
hiệu là Cảnh Hưng.

Đôi mắt sáng như sao của vua Quang Trung

Vua Quang Trung sinh năm Quý Dậu (1753), hồi nhỏ có tên là Hồ Thơm, con thứ của ông Hồ Phi
Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng. Khi trưởng thành ông đổi họ Hồ sang họ Nguyễn và lấy tên là Nguyễn
Văn Thơm, sau đó được thầy học đổi tên là Nguyễn Huệ, ngoài ra ông còn có các tên khác là Nguyễn
Văn Bình, Nguyễn Văn Huệ, Nguyễn Quang Bình… Các sách sử đều mô tả Quang Trung là người cao
lớn, tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi
vật trong đêm tối.

Đôi mắt lạ nhất của Quang Trung theo sách sử cho biết nó khiến nhiều người khi thấy thần sắc của
ông “đều run sợ, hãi hùng… không một người nào dám nhìn thẳng vào mắt” (Hoàng Lê nhất thống
chí). Đôi mắt này được mô tả như sau: “đôi mắt lập lòe như ánh điện” (Đại Nam chính biên liệt
truyện), “con mắt nhỏ nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, ánh sáng từ mắt soi sáng
cả chiếu” (Tây Sơn thuật lược).

Vua Gia Long bị ngã lộn cổ xuống huyệt mộ

Cuộc đời vua Gia Long, vị hoàng đế khai sáng vương triều Nguyễn, có nhiều giai thoại kỳ lạ trong
thời kỳ bôn ba gian khổ để mưu đồ phục quốc. Tuy nhiên một chuyện lạ có thật ít người biết, đó là
chuyện vua đã bị ngã xuống huyệt mộ của mẹ mình là bà Hiếu Khang hoàng thái hậu vào tháng
giêng năm Nhâm Thân (1812) và lạ hơn nữa là cách hành xử của quan lại trước cú ngã của vua.
Sách Quốc sử di biên viết: “Trước đây sai Thị trung trực học sĩ Lê Quý Kiệt sửa sơn lăng; Quý Kiệt nói
đào đến huyệt tất có đất ngũ sắc, rồi quả nhiên đúng, vua cho là lạ ngày càng khen thưởng. Đến lúc
làm nhà bên mộ, mưa gió to, vua xảy chân ngã, quan lại đều sợ tản đi hết. Phò mã Trương Văn Minh
đỡ vua dậy đưa ra khỏi huyệt”.

Càng đi sâu vào sử cũ nước nhà, chúng ta càng khám phá thêm những điều kỳ thú về các vị
vua, từ người ít tiếng tăm cho đến những người danh tiếng lẫy lừng mà cuộc đời tưởng chừng
như đã rõ ràng nhiều chuyện.

Được làm vua nhờ… ăn vạ

Lý Cao Tông (còn có tên là Long Trát) sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tị (1173) là người được
truyền ngôi một cách may mắn nhất. Chuyện rằng ngôi Thái tử vốn thuộc về anh trai của Long Trát
là Long Xưởng, nhưng do mắc nhiều khuyết điểm nên Long Xưởng bị phế làm dân và Lý Anh Tông
chưa biết chọn ai thay vào ngôi vị thái tử.
Một hôm Lý Anh Tông đùa chơi với người con trai thứ sáu là Long Trát. Cậu bé 2 tuổi thấy vua cha
đội mũ liền khóc đòi. Vua chưa kịp tháo mũ ra thì cậu khóc thét lên, lúc cầm được mũ rồi thì cười
thích thú. Hành động của cậu bé được Lý Anh Tông cho đó là điềm lạ nên mới lập Long Trát làm
Thái tử. Đến tháng 4 năm Ất Mùi (1175) sau khi vua mất, Thái tử lên kế vị ngôi báu, trở thành vị vua
thứ 7 của triều Lý.

Vua đi chơi đêm bị cướp mất gươm, ấn

Vua bị cướp, mà vật bị cướp lại là biểu tượng của quyền lực tối cao là chuyện rất khó tin nhưng
hoàn toàn có thật, được chính sử và nhiều tài liệu ghi lại.

Trần Dụ Tông là vị vua thứ 7 của nhà Trần, tên thật là Trần Hạo , làm vua 28 năm (1341-1369). Thời
kỳ đầu ông chăm lo chính sự nhưng về sau lại lao vào ăn chơi sa đọa, ham mê tửu sắc làm triều
chính suy vi, dân tình đói khổ, giặc giã nổi lên khắp nơi… Vì là người ham chơi nên Trần Dụ Tông
hay đi thăm thú, ngoạn cảnh nhiều nơi. Vào một đêm mùa hạ, tháng 6 năm Bính Ngọ (1366), vua đi
chơi ở hương Mễ Sở (nay thuộc Hưng Yên) đến canh ba mới trở về kinh, khi đến sông Chử Gia thì bị
kẻ cướp chặn đường lấy mất cả gươm báu lẫn ấn báu.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Tháng 6, vua ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Thiếu úy Trần Ngô
Lang ở hương Mễ Sở, đến canh ba mới về. Khi tới sông Chử Gia bị cướp mất ấn báu, gươm báu”. Một
số tài liệu khác cũng chép tương tự, như Việt sử địa dư viết: “Trần Dụ Tông, niên hiệu Đại Trị năm
thứ 9 (1366), vua đi chơi hương Mễ Sở, khi trở về đến bãi Chử Gia bị cướp, mất cả ấn báu và gươm
báu”… Sau khi bị cướp, Trần Dụ Tông cho đó là điềm chẳng lành, khó mà sống lâu nên càng thả sức
chơi bời, cơ nghiệp nhà Trần ngày càng suy thoái.

Được phong làm Thái tử khi cha chưa lên ngôi

Người được chọn vào ngôi vị Thái tử là người sẽ kế thừa ngôi báu sau này, nhưng trong lịch sử
phong kiến Việt Nam có một trường hợp độc nhất vô nhị được cha phong làm Thái tử trong khi
người cha đó chưa làm vua, đó là chuyện của Hồ Hán Thương.

Hồ Hán Thương là vị vua thứ 2 và cũng là vua cuối cùng của nhà Hồ. Triều đại nhà Hồ được thành
lập vào tháng 3 năm Canh Thìn (1400) sau khi Hồ Qúy Ly cướp ngôi của cháu ngoại là Trần An
(Trần Thiếu Đế), thế nhưng trước đó, vào tháng giêng cùng năm, khi chưa làm vua nhưng Hồ Quý Ly
đã lập Hồ Hán Thương làm thái tử với ý định chọn người con thứ này nối nghiệp mình.

Vua đóng giả làm sư

Trong lịch sử Việt Nam có một số vị vua từ bỏ địa vị tôn quý để xuất gia tu hành, trở thành những vị
sư như trường hợp của Trần Nhân Tông, Lý Huệ Tông…. Riêng vua Mạc Mậu Hợp cũng làm sư,
nhưng không phải muốn “học đạo cứu đời” mà chỉ làm một ông sư giả để cứu mạng chính mình.
Năm Nhâm Thìn (1592) quân nhà Lê do Trịnh Tùng chỉ huy mở cuộc tổng phản công đánh ra bắc.
Quân Mạc thua to. Vua Mạc Mậu Hợp kinh sợ bỏ chạy khỏi Thăng Long rồi trốn vào ngôi chùa Mô
Khuê ở Phượng Nhãn (nay thuộc huyện Yên Dũng, Bắc Giang). Quân lính đi lùng bắt, được dân cho
biết “ông sư giả” này đang ẩn trong chùa đã được 11 ngày rồi. Lính kéo vào chùa “thấy một ông sư
ngồi xếp bằng gõ mõ liền hỏi, Mạc Mậu Hợp đáp: “Bần tăng tu hành từ hồi còn trẻ tuổi ở am mây
này, chén muối đĩa rau hàng ngày trai dưỡng, thắp hương thờ Phật, công đức chuyên làm. Thấy nhà
sư ăn nói hoạt bát khiêm tốn, quân lính biết ngay là Mạc Mậu Hợp liền bắt giữ” ( Đại Việt thông sử).

Sau đó Mạc Mậu Hợp bị đưa về Thăng Long treo sống 3 ngày, sau đó bị chém đầu tại bãi Bồ Đề (nay
thuộc quận Long Biên, Hà Nội), thủ cấp bị đưa vào Thanh Hóa, hai mắt bị đóng rồi bêu ở ngoài chợ.

Lê Thần Tông phải lấy bác dâu làm vợ

Cuộc đời của Lê Thần Tông, ông vua thứ 17 của nhà Hậu Lê có rất nhiều điểm đặc biệt như hai lần
làm vua, có nhiều con làm vua nhất, có vợ là người phương Tây, có con nuôi là người phương Tây…
Trong số những chuyện lạ về vua, có chuyện ông phải lấy bác dâu làm vợ.
Tháng 5 năm Canh Ngọ (1630) chúa Trịnh Tráng đem con gái là Trịnh Thị Ngọc Trúc gả cho Lê
Thần Tông, ép lập làm Hoàng hậu. Điều đáng nói, đây lại là bác dâu của vua, bà là vợ Cường quận
công Lê Trụ, bác họ của Lê Thần Tông và đã có 4 con với ông này. Sử chép: “Khi ấy, Lê Trụ bị giam
trong ngục. Vương đem Ngọc Trúc gả cho vua, vua lấy vào cung” (Đại Việt sử ký toàn thư). Thấy trái
với luân thường đạo lý, triều thần ra sức can ngăn nhưng ở thời xã hội đảo điên, vua chỉ là bù nhìn
mà thôi nên Lê Thần Tông vẫn phải cam chịu mà nói rằng: “Xong việc thì thôi, lấy gượng vậy” (Đại
Việt sử ký toàn thư).

Minh Mạng bỏ trống ngôi Hoàng hậu vì giận vợ

Nhiều người lầm tưởng rằng vua Minh Mạng đặt ra lệ “Tứ bất” là không lập Hoàng hậu, không lập
Thái tử, không phong lấy tể tướng, không lấy Trạng nguyên (có sách chép là không phong vương).
Thế nhưng không hề có văn bản nào quy định về điều này.
Riêng về trường hợp không lập Hoàng hậu, không phải vì Minh Mạng lo ngại thế lực bên họ hàng
của Hoàng hậu can thiệp vào chính sự, lũng loạn triều chính mà lý do là vì vua giận vợ. Sách Quốc sử
di biên cho biết như sau: “Chính cung húy là Kiều, con gái Doanh tượng quan… Đệ nhị cung tên húy
là Hinh, con gái Lê Tông Chất… Có lần vua hơi se mình, chính cung cùng đệ nhị cung cùng đi cầu đảo
ở chùa Thiên Mạc. Nhị cung nói rằng: Nếu phải tội với trời thì không cầu đảo vào đâu được. Đến lúc
vua khỏi, chính cung đem câu nói ấy tâu với vua. Vua giận lắm, cho nên ngôi hoàng hậu vẫn để trống,
bàn mãi không quyết định được”.

Đinh Tiên Hoàng bị giết hại thế nào?

Sau khi dẹp được “loạn 12 sứ quân”, Đinh Tiên Hoàng, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là
Hoa Lư, Ninh Bình), lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Đinh.
Vào một đêm mùa đông của tháng 10 năm Kỷ Mão (979) Đinh Tiên Hoàng sau yến tiệc, say rượu
nằm ngủ ngay giữa sân cung đình. Một viên quan hầu cận là Đỗ Thích vốn nuôi sẵn ý đồ thoán đoạt
đã lẻn vào giết chết ông. Sử sách không cho biết rõ Đỗ Thích giết hại vua như thế nào mà chỉ chép
ngắn gọn rằng: “Mùa đông, tháng 10, Chi hậu nội nhân là Đỗ Thích giết vua ở sân cung đình… Nhân
vua ăn yến ban đêm, say nằm ở trong sân, Thích bèn giết, lại giết cả Nam Việt vương Liễn” (Đại Việt
sử ký toàn thư).

Theo dã sử và giai thoại ở Hoa Lư thì Đinh Tiên Hoàng bị đầu độc, trước đây Đỗ Thích xuất thân
thấp hèn nhưng vì có công cứu vua thoát nạn trong một trận đánh thời dẹp loạn 12 sứ quân nên sau
khi nên ngôi, Đinh Tiên Hoàng đã cho Đỗ Thích làm Chi hậu nội nhân lo việc phục vụ ăn nghỉ của
vua. Vì biết Đinh Tiên Hoàng sinh thời thích ăn lòng lợn nên khi cho rằng thời cơ cướp ngôi đã đến,
Đỗ Thích dâng lên vua một đĩa lòng lợn rất ngon có tẩm thuốc độc cực mạnh, vua ăn xong trúng độc
mà mất. Chính vì câu chuyện này mà từ đó đến ngày nay, tại Hoa Lư, vào ngày giỗ Đinh Tiên Hoàng,
khi mổ trâu, bò, dê, lợn làm lễ cúng, tất cả lòng đều bỏ đi, không dùng làm cỗ. Đó là tục kị nhắc đến
món lòng tẩm thuốc độc đã làm hại vua.

Tên tục của một số vị vua

Theo quan niệm dân gian, tên tục là tên do cha mẹ đặt lúc mới sinh, chỉ gọi lúc còn bé, thường dùng
từ Nôm xấu xí, tuy nhiên cũng có tên không phải là quá xấu. Sử liệu, dã sử cũng cho biết tên tục của
một số vị vua nước ta.
Ví như Mai Hắc Đế tên hồi nhỏ là Phượng (một loài chim), vua Trần Thái Tông xuất thân từ gia đình
làm nghề chài lưới nên có tên tục là Lành Canh (một loài cá), Lê Chiêu Tông có tên tục là Huệ (một
loài hoa).

Khi sinh vua Lê Hy Tông, mẹ ông bị ghẻ lạnh. Bà phải về quê ngoại sống như dân thường, phải mò
cua, bắt ốc, hến để kiếm sống và đã đặt tên con là Cáp (nghĩa là con hến), khi lên làm vua, Lê Duy
Cáp mới đổi tên là Lê Duy Hiệp. Vua Quang Trung hồi nhỏ tên là Thơm (nghĩa là mùi hương) còn đối
thủ của ông sau này lập ra nhà Nguyễn là vua Gia Long có tên tục là Noãn (trứng). Hoàng tộc nhà
Nguyễn có lệ gọi cả con trai, con gái đều là mụ (mệ) cho dễ nuôi vì thế các vua hồi nhỏ đều có tên
tục, như vua Dục Đức lúc nhỏ được gọi là mệ Tríu, vua Hiệp Hòa là mệ Mến, vua Bảo Đại là mệ
Vững…

Vua lấy nô tỳ làm vợ

Những người được chọn làm vợ vua hầu hết đều xuất thân từ gia đình cao quý, con cháu quan lại,
một số người từ tầng lớp dân thường do may mắn mà một bước lên bậc phi tần, vương hậu. Tuy
nhiên vì những cơ duyên đặc biệt có phụ nữ ở thân phận nô tỳ, địa vị thấp hèn nhất trong xã hội
nhưng lại trở thành vợ vua. Người thứ nhất là bà Nguyễn Thị Cẩn, vợ vua Lê Hiến Tông, bà quê ở
Đông Ngàn (nay thuộc Bắc Ninh) vốn mồ côi, nghèo khổ phải đi làm người ở, sau bị bắt làm nô tỳ
phục dịch trong cung, vì có sắc đẹp mà bà được vua Lê Hiến Tông lấy làm vợ, phong làm phi, bà
chính là mẹ đẻ của vua Lê Uy Mục.

Người thứ hai là một bà phi họ Lê (không rõ tên), quê ở xã Sa Lung, châu Minh Linh (nay là huyện
Vĩnh Linh, Quảng Trị) vì gia đình mắc tội, bị bắt làm nô tỳ nhưng xinh đẹp, rất thông minh nên được
Lê Uy Mục đón vào cung phong làm phi. Sách Đại Việt thông sử cho biết bà “hầu như độc chiếm tình
yêu của vua”.
Chuyện cha con vua Lê Hiến Tông, Lê Uy Mục đều lấy nô tỳ làm vợ thật là chuyện lạ hiếm thấy trong
lịch sử Việt Nam.

Vua Minh Mạng hai lần bị người phương Tây ám sát

Là vị vua thứ 2 của nhà Nguyễn, khác với cha mình là vua Gia Long, Minh Mạng không mấy thiện
cảm với người phương Tây do nghi ngại sự nhòm ngó với ý đồ xâm lược, bên cạnh đó những việc
buôn bán thuốc phiện, truyền đạo Thiên chúa của người Tây càng khiến chính sách của vua với
những người tóc vàng, mắt xanh gay gắt hơn.

Có lẽ vì thái độ này, đặc biệt là chủ trương cấm đạo của vua mà Minh Mạng trở thành đối tượng cần
“loại trừ” của người phương Tây; không rõ có bao nhiêu âm mưu hãm hại vua, nhưng trong sách
Quốc sử di biên cho biết một đại thần là Hà Tông Quyền đã 2 lần cứu ông thoát chết: “Lúc bấy giờ
khách buôn Tây dương dâng áo gấm, giá đáng nghìn vàng. Quyền tâu nói rằng của lạ ngoại quốc
không nên vội tin, xin cho tên tử tù hãy mặc thứ áo ấy. Khi tên tù mặc áo ấy, cài cúc vừa xong thì hỏa
phát, áo cháy, tên tù bị chết cháy. Vua kinh hãi quá ban khen Quyền. Sau, lại có người nước Hoa Lang
(Hà Lan) dâng một đôi cây sáp lớn vẽ tứ linh. Quyền tâu xin cắt ngang một cây ra, thấy có chứa đạn
súng và thuốc hỏa mù. Vua càng lấy làm lạ về tài thực của Quyền”.

Trần Thái Tông ngẫu hứng xuất ngoại

Có lần vua Trần Thái Tông đi tuần biên giới, có lẽ nổi hứng muốn biết bên ngoài thế nào bèn đi sâu
vào địa giới nước Tống, qua Khâm Châu, Liêm Châu tự xưng là Trai lang. Để tiện cho việc tuần thú,
ông bỏ thuyền bè lại chỉ dùng thuyền Kim Phượng và Nhật Quang ( Đại Việt sử ký toàn thư). Khi biết
đó là vua nước Nam, người Tống liền chăng xích sắt trên sông để chặn đường. Vua trở về, nhổ vài
chiếc cọc sắt đem theo (có lẽ để làm kỷ niệm chăng?).
Chuyến “xuất ngoại” ngẫu hứng này của vua Trần Thái Tông bị sử sách chê cười: Bất quá mu”ốn
xem sông núi ở nội địa Tống, cho là người Tống không làm gì được, chung quy vì sự đi chơi này mà
gần bị người Tống làm khốn; thoát được miệng hùm là may đó” (Việt sử tiêu án).

Mạc Thái Tổ bị nhổ vào mặt

Mạc Thái Tổ, tức Mạc Đăng Dung, vốn xuất thân làm nghề đánh cá, vì có sức khỏe lại giỏi đánh vật
nên được vào làm lính hầu cận cho vua, sau dần lên đến chức đại thần lớn trong triều đình nhà Lê.
Tháng 6 năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung giết vua, cướp ngôi của nhà Lê lập ra nhà Mạc.
Nhiều quan lại trung thành với nhà Lê, người thì nổi binh chống Mạc, người thì tự vẫn để tỏ khí tiết;
người thì ở ẩn tỏ thái độ bất hợp tác. Trong số đó có Nguyễn Thái Bạt, đỗ tiến sĩ khoa Canh Thìn
(1520), làm quan đến chức Hiệu lý Hàn lâm viện. Ông bị Mạc Đăng Dung bắt ép phải vào triều kiến.
Tức giận kẻ cướp ngôi, Nguyễn Thái Bạt giả vờ mắt kém xin đến gần để được nhìn vua mới rõ hơn,
nhân thế ông nhổ nước bọt vào mặt Mạc Đăng Dung rồi lớn tiếng chửi mắng đến khi bị giết; đời sau
có nhiều tác phẩm ca ngợi nghĩa khí của ông.
Lê Chiêu Thống bị lột mất hoàng bào

Lê Chiêu Thống lên ngôi tháng 8 năm Bính Ngọ (1786), ở ngôi 2 năm. Ông là vị vua gặp nhiều bất
hạnh, quyền hành hạn chế trong thời kỳ xã hội có nhiều loạn lạc. Năm Đinh Mùi (1787) quân Tây
Sơn tấn công ra Bắc Hà để diệt quyền thần Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Chiêu Thống hoảng hốt bỏ
chạy sang Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay).
Trước cảnh thất thế của vua, viên quan Trấn thủ Kinh Bắc là Lê Cảnh Thước cáo bệnh không chịu
đón tiếp, sau đó lại còn “tung chân tay ra chặn đường cướp bóc những người đi theo xa giá, chúng
còn đuổi theo đòi lột hoàng bào của nhà vua. Nhà vua rớt nước mắt mà cởi ra để trao cho chúng”
( Hoàng Lê nhất thống chí).

Tự Đức – vị vua có hiếu nhất nhưng không có con, bị coi là “đạ i bá t hiế u”

Vua có hiếu nhất là Tự Đức (1848-1883). Trong suốt 36 năm trên ngai vàng, ông bao giờ cũng dành
ngày chẵn vào cung vấn an sức khỏe mẫu hậu, ngày lẻ thì lo việc triều đình, chẳng vì ngồi trên chỗ
vạn năng quyền thế mà lơ là phận làm con. Khi vào thì sửa mình, nén hơi, quỳ xuống hỏi thăm sức
khỏe rồi cùng mẹ bàn luận kinh sách . Bà Từ Dũ được vua săn sóc, tôn kính, vâng lời hết mực, bà
truyền bảo điều gì đáng lưu tâm, vua liền ghi ngay vào cuốn sách nhỏ luôn mang theo mình gọi là
“Từ huấn lục” (sách chép lời mẹ dạy) để nghiền ngẫm, suy nghĩ.

Không những thế, có gì lo âu vua liền thỉnh ý để được nghe ý kiến của mẹ, chính vì thế bà Từ Dũ đã
từng đề nghị giảm thuế má cho dân vào những khi gặp thiên tai, mất mùa, đói kém, nhà vua đều làm
theo. Có lần vua ham săn bắn, gặp nước lụt chảy mạnh bất ngờ, nên về cung muộn trong khi sáng
hôm sau là ngày giỗ vua Thiệu Trị, bà Từ Dũ phải cho người đi đón. Đến cung, trời còn mưa to
nhưng vua đi kiệu trần vội vào gặp mẹ xin chịu tội, ông lấy roi mây dâng lên rồi tự nằm xuống xin
chịu đòn, bà Từ Dũ tha cho mới dám đứng dậy.

Xem thế, đủ biết vua Tự Đức thờ mẹ rất chí hiếu, thế nhưng theo dân gian thì vua cũng là người bất
hiếu vì quan niệm rằng “Bất hiếu hữu tam, vô hậu chi đại” (Nghĩa là: Có 3 điều bất hiếu, không có
con là điều nặng nhất). Tự Đức có rất nhiều vợ nhưng ông lại không có người con nào, thậm chí vua
còn hạ cố lấy một bà sinh được nhiều con để hi vọng có được người nối dõi nhưng cuối cùng vua chỉ
còn cách là đành nhận mấy người cháu làm con, ngay cả bài văn bia dựng ở lăng mộ mình cũng do
vua tự viết.

Phùng Hưng dùng tiếng hò rêo để hạ thành của giặc


Căm giận sự tham lam, tàn bạo của bọn đô hộ nhà Đường, một hào trưởng người Đường Lâm (nay
thuộc Sơn Tây, Hà Nội) là Phùng Hưng đã đứng lên phát động khởi nghĩa. Ông đem quân đánh phá
nhiều nơi, bọn quan quân nhà Đường chống không nổi kéo nhau chạy về phủ đô hộ Tống Bình (nay
là Hà Nội).

Mạc Mậu Hợp mưu giết bề tôi để cướp vợ


Ở ngôi 30 năm (1562-1592), Mạc Mậu Hợp là người làm vua lâu nhất trong số các vua Mạc thời
hưng thịnh. Tuy nhiên cũng chính ông vua này khiến cho cơ nghiệp của họ Mạc suy vong. Và một
trong các nguyên nhân chính là thói hoang dâm hiếu sắc của ông.

Nếu như trong lịch sử Trung Quốc có không ít chuyện các hôn quân, bạo chúa cướp vợ của thần dân,
con em hoàng tộc hoặc bề tôi của mình để thỏa mãn dục vọng thì lịch sử Việt Nam chỉ duy nhất có
vua Mạc Mậu Hợp là dám làm chuyện như vậy.

Ông đã lập kế định giết một danh tướng trong triều để cướp vợ khiến cho một bộ phận binh lực nhà
Mạc đã theo viên tướng này về quy phục vua Lê làm cho thế lực của Mạc Mậu Hợp ngày càng suy
yếu. Sự việc này xảy ra vào cuối năm Nhâm Thìn (1592). Sách Lê triều thông sử viết: “Vợ viên trấn
thủ Nam đạo Sơn quận công Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên, tức con gái Nguyễn Quyện. Chị gái
của Thị Niên là hoàng hậu của Mậu Hợp vì thế Thị Niên thường được ra vào trong cung. Mậu Hợp
thấy Thị Niên, đem lòng yêu mến bèn ngầm tính kế giết Văn Khuê để cướp vợ y”.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết rõ hơn: “Chúa Mạc là Mậu Hợp ngày ngày say
đắm tửu sắc.

Nguyễn thị là con gái của Nguyễn Quyện và là vợ Bùi Văn Khuê, nhân có em gái là vợ của Mạc Mậu
Hợp, nên thường ra vào trong cấm cung. Mậu Hợp ưng ý Nguyễn thị vì nàng có nhan sắc, nên muốn
giết Văn Khuê để chiếm lấy nàng. Văn Khuê biết chuyện, bèn đem quân bản bộ tự ý rút về Gia Viễn,
đóng binh một chỗ, không chịu vào chầu. Mậu Hợp sai quân đến bức bách để bắt Văn Khuê sai con
trai là Văn Nguyên chạy vào Thanh Hoa, dâng lễ đầu hàng và xin cứu viện. Trịnh Tùng ưng nhận cho
hàng và mừng rỡ nói: Văn Khuê đầu hàng, thế là trời giúp cho ta được chóng thành công. Đất đai bản
triều có thể hẹn ngày khôi phục được”.

Vua Hàm Nghi hai lần làm lễ lên ngôi

Hàm Nghi là vị vua yêu nước thời Nguyễn, ông tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Lịch được triều thần
đứng đầu là Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi sau khi anh trai của ông là vua Kiến Phúc đột ngột qua
đời đầy bí ẩn.

Lễ đăng quang của vua Hàm Nghi diễn ra vào ngày 02/8/1884, triều đình Huế không thông báo sự
kiện này cho phía Pháp như theo thỏa luận trong Hòa ước Giáp Thân (06.6.1884), do đó đại diện
Pháp là Khâm sứ Trung kỳ Rheinart không thừa nhận. Để gây sức ép buộc triều đình Huế phải tổ
chức lễ đăng quang lại với sự có mặt của đại diện Pháp, ngày 16/8/1884, Tổng chỉ huy lực lượng
viễn chinh Pháp lúc đó là tướng Millot đã sai đại tá Guerrier đem 600 lính và 2 cỗ pháo đến uy hiếp
và hạn sau 12 tiếng đồng hồ phải tổ chức lại lễ đăng quang.

Dù phải nhượng bộ nhưng phải đến 9 giờ sáng 18/8/1884 triều đình Huế mới tổ chức lại lễ lên ngôi
cho Ưng Lịch với sự hiện diện của Rheinart, Guerrier, 25 sĩ quan và 160 lính Pháp. Thay mặt Chính
phủ Pháp, Guerrier đọc diễn văn (do Rheinart soạn sáng sớm hôm đó) công nhận Ưng Lịch là hoàng
đế của nước Đại Nam.
Giản Định Đế bị bắt làm Thái thượng hoàng

Thái thượng hoàng là ngôi vị mang nghĩa “vua bề trên”. Danh hiệu này được dùng từ khi người đó
nhường ngôi vua cho con trai, cháu trai, hoặc em trai, cho đến khi qua đời. Tuy nhiên trong lịch
sử nước ta, cũng có một số trường hợp tuy không làm vua nhưng vẫn được tôn làm Thái thượng
hoàng như Sùng Hiền Hầu thời Lý, Trần Thừa thời Trần… Chế độ Thái thường hoàng có từ thời Lý,
trải qua các triều Trần, Hồ, Hậu Trần, Mạc, Lê Trung Hưng có tổng cộng 17 người ở trên ngôi vị này,
trong số đó có duy nhất trường hợp của Giản Định Đế là bị bắt phải làm Thái thượng hoàng.

Giản Định đế tên húy là Trần Ngỗi, còn có tên khác là Trần Quỹ, vị vua đầu tiên của nhà Hậu Trần,
được dựng lên trong thời kỳ đầu chống ách đô hộ của giặc Minh xâm lược. Vì vua giết oan trung
thần nên con Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị, con Đặng Tất là Đặng Dung đều căm giận mới
đem quân về Thanh Hóa rước cháu của Giản Định đế là Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lập làm vua,
lấy niên hiệu là Trùng Quang. Để thống nhất lực lượng kháng chiến, vua Trùng Quang sai Thái phó
Nguyễn Súy đem quân đánh thành Ngự Thiên (nay thuộc Hưng Nhân, Thái Bình) bắt được Giản
Định đế đưa về Nghệ An vào ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Sửu (1409), “tôn lên làm Thượng hoàng, cùng
chung sức đánh giặc” ( Đại Việt sử ký toàn thư). Sự kiện này cũng được sách sử phương Bắc chép,
sách Nguyên sử viết: “Bấy giờ bọn Nguyễn Súy suy tôn Giản Định làm Thái Thượng hoàng, lập riêng
Trần Quý Khoáng làm vua, đặt niên hiệu là Trùng Quang”.

Mặc dù bị bắt làm Thái thượng hoàng nhưng Giản Định đế cũng không có phản ứng gì tiêu cực mà
vẫn hăng hái đánh giặc cho đến khi bị chúng bắt được vào tháng 7 năm Kỷ Sửu (1409) đưa về
phương Bắc giết hại. Giản Định đế là vị Thái Thượng hoàng duy nhất của thời Hậu Trần và ở ngôi
ngắn nhất tronng lịch sử (gần 4 tháng).

Lê Thế Tông xuất ngoại qua biên giới hội đàm

Quan hệ ngoại giao giữa các vương triều nước ta và các triều đại phong kiến phương Bắc hầu hết
đều thông qua các sứ thần, các đoàn sứ bộ, thế nhưng có một trường hợp đặc biệt xảy ra thời Lê Thế
Tông. Vị vua thứ 15 của nhà Hậu Lê này đã đích thân xuất ngoại qua ải Nam Quan sang đất Trung
Quốc hội đàm.
Khi ấy, tàn dư họ Mạc dựa thế của nhà Minh vẫn quấy rối, cát cứ ở đất Cao Bằng. Một mặt nhằm hạn
chế sự ủng hộ của nhà Minh với lực lượng của Mạc Kính Dụng, mặt khác muốn nhà Minh phải thừa
nhận danh nghĩa chính thống của nhà Lê nên vua Lê Thế Tông đã thực hiện chuyến đi ngoại giao
hiếm có trong lịch sử vào năm Đinh Dậu (1597). Sách Lê triều thông sử cho biết: “Ngày 10 tháng 4,
vua qua cửa trấn Nam Quan, cùng với quan đạo Tả Giang và quan các phủ Tư Minh, Thái Bình thuộc
Quảng Tây nhà Minh hội kiến, biện minh các lẽ rõ ràng, làm tờ kết ước. Rồi vua sai Phùng Khắc
Khoan, Nguyễn Nhân Thiệm làm sứ giả đi Yên Kinh dâng sản vật địa phương…”.

Đời vua Tự Đức từng có đại diện ngoại giao của Tây Ban Nha
Thời Nguyễn, quan hệ ngoại giao của nước ta không chỉ bó hẹp với các quốc gia láng giềng phương
Đông mà với các quốc gia Tây phương quan hệ cũng được mở rộng hơn so với thời Lê Trung Hưng.
Đã có những tiếp xúc giữa Đại Nam với các quốc gia Mỹ, Anh… nhưng do những lý do khác nhau,
quan hệ ngoại giao chưa được xác lập chính thức. Tuy nhiên có một đại diện ngoại giao chính thức
của phương Tây đã được đặt ở nước ta, đó là đại diện của Tây Ban Nha. Ngày 9 tháng 7 năm 1881,
Don Tiburcio Rodriguez đặt chân đến thành Gia Định (Sà i Gò n) với cương vị Đạ i sứ Toà n quyè n củ a
Tây Ban Nha ở Đại Thanh (Trung Quốc), Xiêm La (Thá i Lan) và Đại Nam (Viẹ t Nam).
Bấy giờ quân Pháp đang đẩy mạnh chiến tranh xâm lược nước ta, nhiều vùng đất ở miền Đông và
miền Tây Nam bộ lần lượt bị giặc chiếm đóng, vì vậy một mặt quân Pháp ở Gia Định uy hiếp đại diện
ngoại giao của Tây Ban Nha, mặt khác chính phủ Phá p phả n đó i quyết liệt viẹ c Tây Ban Nha thié t lạ p
quan hẹ ngoạ i giao với nước Đại Nam ở cá p đạ i sứ, cuối cùng Tây Ban Nha buọ c phả i bã i bỏ cơ quan
đại diện ở nước ta. Mối quan hệ ngắn ngủi giữa Đại Nam và Tây Ban Nha thời vua Tự Đức đã kết
thúc nhanh chóng như vậy.

Lê Thánh Tông đã hạ nhục bề tôi như thế nào?

Là một minh quân nổi tiếng nhưng đã có lúc do không kiềm chế được sự tức giận, vua Lê Thánh
Tông đã có hành động hạ nhục bề tôi một cách… bất ngờ.

Bấy giờ vào cuối năm Canh Dần (1470), vua Chiêm là Trà Toàn liên tục cho quân quấy phá biên
cương, sỉ nhục sứ thần Đại Việt. Vua Chiêm còn cho sứ sang nhà Minh vu cáo nước ta cướp hết đồ
cống của nước Chiêm dâng cho nhà Minh; tâu thêm là vua Lê tự xưng là Hoàng đế, ngang với Thiên
tử nhà Minh, chuẩn bị binh mã để thôn tính bờ cõi Bắc triều. Vì thế, Lê Thánh Tông đã dẫn hơn 70
vạn quân Nam chinh phạt Chiêm.
Khi đại quân đến đất Nghệ An, một số viên quan làm không đúng chức phận khiến Lê Thánh Tông
nổi giận trừng phạt. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết như sau: “Bọn Án sát sứ Đinh Thúc Thông,
Phạm Vĩnh Dụ, Bùi Thúc Sử, Nguyễn Tài tâu bàn càn bậy. Vua cho gọi đến hành tại hỏi về tội hủ nho
làm hỏng việc, bắt bỏ mũ xuống đái vào mũ để làm nhục”.
Vua Kiến Phúc buộc người đỗ đạt phải ra làm việc
Vua Kiến Phúc là vị vua thứ 7 của nhà Nguyễn, người ta thường gọi ông theo niên hiệu chứ ít ai biết
miếu hiệu của ông là Nguyễn Giản Tông. Vị hoàng đế này ở ngôi 8 tháng thì mất đột ngột vào ngày
mồng 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884) thọ 15 tuổi.
Trước khi mất không lâu, vào tháng 2 năm đó vua Kiến Phúc đã ra một quyết định chưa từng có
trong lịch sử, buộc tất cả những người từng đỗ đạt đều phải ra làm việc tại các nha môn, công đường
trên cả nước. Trong tờ dụ của mình nhà vua yêu cầu tất cả những người ở kinh đô và các tỉnh, đã đỗ
tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, tú tài đều phải ra làm việc kể cả những người đã từng làm quan nhưng đã
từ quan về quê; những người đã đỗ nhưng viện cớ không chịu ra làm quan.
Để triệt để thi hành, vua lệnh cho các quan lại địa phương phải có trách nhiệm cấp ngựa triệu họ về
kinh; ai vì ốm đau chưa về được, quan địa phương phải phái người đến tận nơi điều tra thực hư. Ai
không tuân theo dụ này sẽ bị tước bỏ văn bằng; quan địa phương không khai báo nghiêm túc có ý
che dấu, sẽ bị nghiêm trị. Ngoài ra, vua còn cho ngựa đi đón những người có khoa bảng nhưng đã bị
giáng chức, cách chức đưa về kinh chờ lệnh bổ dụng.
Giấc mộng giáng sinh lạ kỳ vua Khải Định
Các vị quân vương xưa luôn coi mình có xuất thân tôn quý, được xưng tụng là “thiên tử” (con trời).
Thế nên người đời và sử sách đã đặt ra nhiều thuyết lạ với những chi tiết li kỳ bao quanh sự ra đời
của những vị vua để tăng thêm vẻ uy nghi, oai dũng của họ nhằm quy phục và cố kết lòng người
trong thiên hạ.
Các câu chuyện nhuốm màu huyền bí đó thường đều do sử sách và người đời thêu dệt, chứ không có
một vị vua nào tự nói về điều này, ngoại trừ ông vua bù nhìn Khải Định.
Trong một bản dụ ban bố với toàn quốc ngày 2 tháng 9 năm Bính Thìn (1916), vua Khải Định “khoe”
rằng: “Tháng 9 năm Ất Dậu niên hiệu Đồng Khánh, Tiên mẫu bấy giờ đang có thai sắp sinh nở, ban
đêm buồn ngủ chợt mộng thấy Long thần chui từ dưới đất lên, nước từ vòi phun ra ướt hết cả trong
cung. Lát sau lại có bốn vị Thiên quan áo mũ cực kỳ chỉnh tề đứng thành hai hàng nghênh đón một
đồng tử áo vàng, tóc dài rủ xuống, cùng bước lên bàn hương. Rồi vị đồng tử đó nhập vào bụng Tiên
mẫu mà biến mất. Tiên mẫu hoảng hốt bừng tỉnh, rồi sau đó sinh ra quả nhân” (Theo Khải Định
chính yếu sơ tập).
Lý Anh Tông, hoàng đế đầu tiên đi tuần biển Đông

Trong khi nhiều quốc gia lân bang cùng thời kỳ chỉ quan tâm đến lãnh thổ trên đất liền, các triều đại
phong kiến Việt Nam đặc biệt chú trọng đến biển, không chỉ nhằm khai thác hải sản và các nguồn lợi
khác từ biển mà còn từng bước xác lập chủ quyền trên các hải đảo. Thậm chí có vị vua còn đi tuần
thú ra biển để xem xét và người đầu tiên thực hiện việc đó là Lý Anh Tông, hoàng đế thứ 6 của triều
Lý.

Sử chép rằng, vào tháng 11 năm Tân Tị (1161) vua sai Thái úy Tô Hiến Thành “đem 2 vạn quân đi
tuần các nơi ven biển miền Tây Nam để giữ yên bờ cõi xa” ( Đại Việt sử ký toàn thư). Năm Tân Mão
(1171) “vua đi tuần ra cù lao ngoài biển, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết sự đau khổ của
nhân dân và đường đi xa gần thế nào”; tháng 2 năm Nhâm Thìn (1172) “vua lại đi tuần ra cù lao
ngoài biển ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về” (Đại Việt sử
ký toàn thư).
Qua các lần đi này, vua Lý Anh Tông đã soạn một cuốn sách lấy tên là “Nam Bắc phiên giới đề”.

Trần Thánh Tông tranh áo với anh


Vua có mọi thứ trong thiên hạ mà lại đi tranh một chiếc áo với anh mình thì kể cũng là chuyện lạ.
Câu chuyện này liên quan đến vị hoàng đế thứ 2 của nhà Trần là Trần Thánh Tông, xảy ra vào năm
tháng 10 năm Mậu Thìn (1269)
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết cụ thể như sau: “Mùa đông, tháng 10, vua cùng anh là Tĩnh
Quốc đại vương Quốc Khang cùng vui đùa trước mặt Thượng hoàng (tức Trần Thái Tông – TG).
Thượng hoàng lúc bấy giờ mặc áo vải bông trắng. Tĩnh Quốc múa điệu múa của người Hồ, Thượng
hoàng cởi áo ban cho Quốc Khang. Vua cũng múa điệu múa của người Hồ để xin chiếc áo ấy. Quốc
Khang nói: ‘Cái quý nhất là ngôi hoàng đế, hạ thần còn không tranh với chú hai. Nay đức chí tôn ban
cho thần một vật nhỏ mọn mà chú hai cũng muốn cướp lấy chăng?’. Thượng cả cười nói: ‘Thế ra mày
coi ngôi vua với cái áo xoàng này chẳng hơn kém gì nhau’. Khen ngợi hồi lâu rồi (thượng hoàng) cho
Tĩnh Quốc chiếc áo ấy”.
Hồ Quý Ly xưng đế khi còn chưa lên ngôi
Trong kế hoạch từng bước cướp ngôi của nhà Trần, tháng 3 năm Mậu Dần (1398), Hồ Quý Ly ép
vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Trần Án mới hơn 2 tuổi, rồi lại ép vua đi tu
theo đạo Lão. Thái tử lên ngôi ngày 15 tháng 3 nhưng còn quá nhỏ nên sử sách sau này thường gọi
là Trần Thiếu Đế.
Từ đó toàn bộ chuyện quốc gia đại sự đều do Hồ Qúy Ly quyết, ông tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt
đại vương nhưng trên các văn bản ban lệnh thì đề là Trung thư thượng thư sảnh phụng nhiếp chính
cai giáo hoàng đế thánh chỉ.
Tháng 3 năm Canh Thìn (1400) Hồ Qúy Ly cướp ngôi của cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, lên ngôi vua,
đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, lập ra triều Hồ và lấy quốc hiệu là Đại Ngu. Thế nhưng vào tháng 6
năm Kỷ Mão (1399) ông đã xưng đế, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Tháng 6, Quý Ly tự xưng là
Quốc Tổ Chương Hoàng đế, mặc áo màu bồ hoàng (màu vàng như nhị hoa xương bồ – TG), ở cung
Nhân Thọ, ra vào theo lệ thiên tử, dùng 12 chiếc lọng vàng”.
Không chỉ kiên quyết bảo vệ lãnh thổ trên đất liền, các triều đại phong kiến Việt Nam đã xác
định hải giới và chú trọng bảo vệ chủ quyền trên biển.
Việc khai thác, xác lập chủ quyền và quản lý lãnh thổ trên biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa ,
Trường Sa đã được cha ông ta tiến hành từ lâu đời. Nhiều vị hoàng đế nước Việt không chỉ coi trọng
điều này vì lợi ích kinh tế mà đặc biệt hơn là vì tầm quan trọng về an ninh quốc phòng. Trong
sách Đại Nam nhất thống chí đời Nguyễn đã viết: “Phía Đông có dải đảo cát nằm ngang (Hoàng Sa
đảo) liền với biển xanh làm hào che, phía Tây khống chế vùng Sơn Man có lũy đá dài chồng chất giữ
cho vững vàng, phía Nam kề bên tỉnh Bình Định, có sườn núi Bến Đá làm mũi chặn ngang, phía Bắc
tiếp giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh sa có thể làm giới hạn”.
Không chỉ kiên quyết bảo vệ lãnh thổ, đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm, lấn chiếm trên đất
liền, các triều đại phong kiến Việt Nam kể từ khi giành quyền tự chủ lâu dài còn xác định hải giới và
chú trọng bảo vệ chủ quyền trên biển.
Đời Lê Đại Hành đã xác định biên giới trên biển của nước Việt
Hải giới của nước ta với phương Bắc đã được xác định từ lâu, nhưng sử liệu lần đầu đề cập đến “hải
giới” một cách trực tiếp là vào năm Canh Dần (990) khi sứ Tống sang, vua Lê Đại Hành “sai Nha nội
chỉ huy sứ là Đinh Thừa Chính đem 9 chiếc thuyền dẫn 300 người đến Thái Bình Quân để đón” (Đại
Việt sử ký toàn thư). Trong cuốn Hành lục tập, sứ giả Tống Cảo cũng thừa nhận điều này: “Cuối thu
năm ngoái, bọn Cảo chúng tôi đi đến hải giới Giao Chỉ, Nha nội đô chỉ huy sứ của Hoàn là Đinh Thừa
Chính đem 9 chiến thuyền và 300 quân đến Thái Bình Trường để đón. Từ cửa sông đi ra biển lớn,
xông pha sóng gió, trải bao nguy hiểm, đi nửa tháng trời đến sông Bạch Đằng…”.
Thái Bình Quân hay Thái Bình Trường là đơn vị hành chính thời Tống, sau đổi là Liêm Châu (nay là
tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc).
Lê Thánh Tông đã đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào bản đồ Đại Việt
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thời xưa thường được cha ông ta coi là một dải đảo dài nên gọi
chung bằng các tên khác nhau như Bãi Cát Vàng, Cồn Vàng, Vạn lý Hoàng Sa, Vạn lý Trường Sa, Đại
Trường Sa…
Tư liệu từ triều nhà Hồ trở về trước đã bị mất mát, phá hoại rất nhiều vào thời giặc Minh xâm lược
nước ta . Nhưng việc Lê Thánh Tông cho lập bản đồ toàn quốc gọi chung là “Hồng Đức bản đồ” vào
năm Canh Tuất (1490), trong đó có cả Hoàng Sa và Trường Sa, cho thấy trước đó hai quần đảo này
đã thuộc chủ quyền Đại Việt.
Trên cơ sở “Hồng Đức bản đồ”, một nho sinh họ Đỗ Bá hiệu Công Đạo đã soạn bộ sách Toản tập
Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư vào khoảng năm 1630 – 1653 gồm 4 quyển, trong quyển 1 có ghi: “Giữa
biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, dựng đứng giữa biển” và
có một bản đồ vẽ nhóm đảo thuộc Quảng Ngãi, phủ Thăng Hoa với chú thích chữ Nôm là “Bãi Cát
Vàng”.
Vua Gia Long đã cắm lá cờ chủ quyền trên hải đảo biển Đông
Sau khi lên ngôi, Gia Long – vị hoàng đế đầu tiên của nhà Nguyễn tiếp tục kế thừa chính sách khai
thác tài nguyên biển và bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sử sách nhà
Nguyễn chỉ chép vào năm Bính Tý (1816) vua Gia Long sai người ra hải đảo biển Đông. Nhưng theo
nhiều tài liệu của người phương Tây, vua Gia Long không chỉ quản lý mà còn trực tiếp ra cắm cờ tại
Bãi Cát Vàng. Một cố vấn người Pháp của vua là J.B.Chaigneau (tên Việt là Nguyễn Văn Thắng) trong
cuốn hồi ký “ Ghi chép về xứ Cochinchie” đã viết: “Quần đảo Paracel gồm nhiều đảo nhỏ, ghềnh và
mỏm đá không có dân cư. Vào năm 1816, vị Hoàng đế bấy giờ đã tiếp nhận chủ quyền trên quần đảo
này”.
Giám mục Jean Louis Taberd thì cho biết rõ hơn, trong sách “ Bức tranh Thế giới -Lịch sử và mô tả
các dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán của họ” xuất bản tại Paris năm 1833, có đoạn viết: “Quần
đảo Paracel mà người Việt gọi là Cát Vàng gồm rất nhiều hoang đảo chằng chịt với nhau, lởm chởm
những đá nhô lên… Những hoang đảo này đã được chiếm cứ bởi người Việt xưa Đàng Trong. Chúng
tôi không rõ họ có thiết lập một cơ sở nào tại đó không; nhưng có điều chúng tôi biết chắc là Hoàng
đế Gia Long đã chủ tâm thêm cái đóa hoa kỳ lạ đó vào vương miện của Ngài; vì vậy mà Ngài xét thấy
đúng lúc phải thân chinh vượt biển để tiếp thâu quần đảo Hoàng Sa, và chính là vào năm 1816, Ngài
đã long trọng treo tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong”.
Trong bài viết đăng trên một tờ báo tiếng Anh phát hành ở Bengal (Ấn Độ) năm 1849, Giám mục
Jean Louis Taberd một lần nữa nhắc lại sự kiện liên quan đến vua Gia Long: “Năm 1816, Ngài đã tới
long trọng cắm cờ quốc gia của ông và chính thức giữ chủ quyền các hòn đảo này mà hình như
không một ai tranh giành với ông”.
Minh Mạng – vị vua đầu tiên cho khảo sát chi tiết các đảo tại Bãi Cát Vàng
Để biết rõ hơn về các đảo thuộc Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa và Trường Sa), theo sách Đại Nam thực lục
chính biên, năm Giáp Ngọ (1834) vua Minh Mạng đã sai Đội trưởng đội Hoàng Sa là Trương Phúc Sĩ
dẫn 20 thủy thủ đi đo đạc kích thước, vẽ bản đồ, đo độ nông sâu, địa thế các đảo. Kể từ đó vua đã
nhiều lần cho tiến hành công việc này. Những người không hoàn thành nhiệm vụ đều bị xử phạt
nghiêm khắc. Như trường hợp của Giám thành Trương Viết Soái, năm Bính Thân (1836) khi về
không có bản đồ đệ trình đã bị xử “trảm giam hậu” (chém nhưng tạm giam trước)…
Bên cạnh việc khai thác, tuần phòng trên biển, vua Minh Mạng còn cho tiến hành xây dựng nơi thờ
tự (chùa, miếu), trồng cây, dựng cột, bia chủ quyền tại một số đảo vào các năm 1833, 1835, 1836…
Việc cho quân đồn trú, tiến hành thu thuế và bảo vệ ngư dân cũng đã được thực hiện. Một người
Anh tên là Gutzlaff trong bài viết đăng trên tập san “Á Châu hội” xuất bản ở Luân Đôn (London) năm
1849 cho biết: “Những đảo ấy đáng lẽ không có giá trị nếu nghề cá ở đó không phồn thịnh và không
bù hết mọi nguy nan cho kẻ phiêu lưu…Tuy rằng hàng năm hơn mười phần thuyền bị đắm nhưng
đánh cá được rất nhiều, đến nỗi không những bù hết mọi thiệt thòi mà còn để lại món lợi rất to.
Chính phủ An Nam thấy những lợi có thể mang lại nếu một ngạch thuế đặt ra, bèn lập ra những
trưng thuyền và một trại quân nhỏ ở chỗ này để thu thuế mà mọi người ngoài tới đều phải trả, và để
bảo trợ những người đánh cá bản quốc”.
Khải Định tái khẳng định chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa
Mặc dù chịu sự bảo hộ của Pháp, Nam triều mất quyền tự chủ, trong đó có quyền ngoại giao, nhưng
về danh nghĩa vẫn là đại diện cho quốc gia nên trước các yêu sách của chính quyền Quốc dân đảng
Trung Hoa và sự đề nghị cung cấp dữ kiện liên quan đến vấn đề biển Đông, ngày 3 tháng 3 năm
1925, Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề thay mặt triều đình Huế đã xác nhận chủ quyền Việt
Nam ở quần đảo Hoàng Sa bằng một văn thư, trong đó có đoạn như sau: “Quần đảo Hoàng Sa luôn
luôn thuộc về Việt Nam và đó là vấn đề không thể chối cãi được…”
Trong bản báo cáo ngày 22.01.1929, Khâm sứ Pháp ở Trung kỳ là Le Fol nhấn mạnh các quyền được
nước An Nam khẳng định và duy trì từ lâu trong diễn biến tranh chấp các đảo trên biển Đông giữa
Trung Quốc với chính quyền bảo hộ Pháp. Ông viết như sau: “Thân Trọng Huề, nguyên Thượng thư
Bộ Binh, qua đời năm 1925, trong thư ngày 3 tháng 3 năm đó, đã khẳng định rằng “Các hòn đảo đó
bao giờ cũng thuộc nước An Nam. Không có gì phải tranh cãi về vấn đề này”.
Bảo Đại, người đầu tiên thay đổi đơn vị hành chính các đảo ở biển Đông
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thường gọi chung bằng cái tên phổ biến là Bãi Cát Vàng
(Hoàng Sa) là một đơn vị của đất Thuận Quảng, qua thời gian được đổi tên là Quảng Nghĩa, Quảng
Ngãi, Nam Ngãi. Đến đời vua Bảo Đại, việc phân tách thành hai quần đảo mới được xác lập rõ ràng
hơn.
Tháng 12.1933 các đảo Trường Sa sáp nhập vào địa phận tỉnh Bà Rịa. Đến ngày 29 tháng 2 năm Mậu
Dần (1938) vua Bảo Đại ra Chỉ dụ số 10 chuyển đổi hành chính đảo Hoàng Sa: “Các cù lao Hoàng Sa
(Archipel des Iles Paracels) thuộc về chủ quyền nước Nam đã lâu đời và dưới các tiền triều, các cù
lao ấy thuộc về địa hạt tỉnh Nam Ngãi; đến đời đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế vẫn để y như cũ là vì
nguyên trước sự giao thông với các cù lao ấy đều do các cửa bể tỉnh Nam Ngãi… Nhờ sự tiến bộ
trong việc hàng hải nên việc giao thông ngày nay có thay đổi, vả lại viên đại diện chính phủ Nam
triều uỷ phái ra kinh lý các cù lao ấy cùng quan đại diện chính phủ bảo hộ có tâu rằng nên tháp các
cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên thời được thuận tiện hơn…. Chuẩn tháp nhập các cù lao
Hoàng Sa (Archipel des Iles Paracels) vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên; về phương diện hành chính các
cù lao ấy thuộc dưới quyền quan Tỉnh hiến tỉnh ấy”.
Trên cơ sở đó, ngày 5.6.1938, toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ký nghị định thành lập đơn vị
hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên và cho dựng bia chủ quyền tại đảo Hoàng
Sa.
Ghi chép của chính sử cho biết cả hai cha con vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông đều là con
cầu tự.
Hai cha con vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông đều là con cầu tự
Theo phong tục, những gia đình nào hiếm muộn con cái thì cầu tự với nhiều cách khác nhau như
nhờ thần địa lý dịch mả để tránh thế đất “tuyệt đinh”, đi lễ bái chùa miếu, đền, phủ để cầu Phật
Thánh độ cho có con… Ghi chép của chính sử cho biết cả hai cha con vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến
Tông đều là con cầu tự.
Sử sách cho biết vua Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), “mẹ vua là Quang
Thục Hoàng thái hậu Ngô Thị, người làng Động Bàng, huyện Yên Định, phủ Thanh Hóa. Trước kia,
khi còn là Tiệp dư, Thái hậu đi cầu tự, mơ thấy thượng đế ban cho một tiên đồng, thế rồi có thai. Tục
truyền rằng Thái hậu khi sắp ở cữ, nhân thử thả chợp mắt, mơ thấy mình đến chỗ Thượng đế,
Thượng đế sai một tiên đồng xuống làm con Thái hậu, tiên đồng chần chừ mãi không chịu đi, thượng
đế giận, lấy cái hốt ngọc đánh vào trán chảy máu ra, sau tỉnh dậy, rồi sinh ra vua, trên trán vẫn còn
dấu vết lờ mờ như thấy trong giấc mơ, mãi đến khi chết, vết ấy vẫn không mất (Đại Việt sử ký toàn
thư).
Còn Lê Hiến Tông sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ (1461), con trưởng của Lê Thánh Tông, vua tên
thật là Lê Tranh, còn có tên khác là Lê Huy, mẹ là Trường Lạc hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng.
Lê Thánh Tông khi mới lên ngôi vua chưa có con nối dõi nên mẹ ông là Quang Thục hoàng thái hậu
Ngô Thị Ngọc Dao rất lo lắng bèn “đến cầu ở am Từ Công núi Phật Tích (nay là chùa Thầy ở xã Sài
Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội -TG), chiêm bao thấy đến trước mặt Thượng đế cầu hoàng tự. Thượng
đế phán: Cho sao Thiên Lộc làm con Nguyễn Thị; nói rồi cho ẵm đến ngồi ở trước. Bấy giờ Trường
Lạc hoàng thái hậu ở cung Vĩnh Ninh, tức thì có mang. Đến đủ ngày tháng, chiêm bao thấy rồng vàng
từ trên trời sa xuống vào trong phòng, một lát sau thì sinh ra vua…Vua sinh ra dáng vẻ thiên tử, mũi
cao, mặt rồng, thần thái trang nghiêm, tươi đẹp khác thường…” ( Đại Việt sử ký toàn thư).
Trần Anh Tông lấy chậu nước ném con trai
Trần Anh Tông tên thật là Trần Thuyên, ở ngôi 21 năm thì nhường ngôi cho con là Trần Mạnh (tức
Trần Minh Tông) vào tháng 3 năm Quý Tị (1293) để lên làm Thái thượng hoàng trong 6 năm thì
mất, thọ 45 tuổi. Sử sách đánh giá ông là vị vua “khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình,
chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần”
( Đại Việt sử ký toàn thư).

Trần Anh Tông còn là người dạy con rất nghiêm khắc và khi nói đến con trai của ông là Trần Minh
Tông, sử đánh giá rằng những điều tốt đẹp của vị vua này phần lớn là nhờ vào việc rèn dạy của cha
mình. “Cái đức của Minh Tông mà nên được, tuy là do thiên tư tốt đẹp, cũng còn do sức dạy bảo của
vua cha. Khi vua ở Đông cung, đang tuổi ấu thơ, có lần nghịch làm chiếc giá đèn bằng tre, Anh Tông
đòi xem, sợ không dám dâng. Hôm khác, vào hầu tẩm điện, Anh Tông đang rửa mặt, nhân hỏi đến
trò nghịch cũ, Anh Tông giận lắm cầm ngay cái chậu rửa mặt ném vua. Vua nấp vào cánh cửa tránh
được, chậu rơi trúng cánh cửa vỡ tan. Được sự răn dạy nghiêm ngặt như vậy, cho nên tài đức của
vua do đấy mà nên” ( Đại Việt sử ký toàn thư).
Lê Thái Tổ tìm con gái bị giặc Minh bắt
Trải 10 năm gian khổ “nếm mật nằm gai”, lật đổ được ách đô hộ tàn bạo của giặc Minh, thiết lập nhà
Hậu Lê, một vương triều lớn trong lịch sử nước nhà, Lê Thái Tổ được coi như vị tổ Trung hưng thứ
2 của dân tộc. Thế nhưng tâm tư của Lê Thái Tổ vẫn canh cánh, nặng trĩu khi nghĩ về một người con
gái của mình bị giặc Minh bắt đưa về phương bắc, ông mong tìm lại con nhưng không thể thực hiện
được.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết vào ngày mồng 1 tháng 11 năm Mậu Thân (1428) “vua sai bọn
Đỗ Như Hùng sang nhà Minh tâu bày rằng con cháu họ Trần quả thực không còn ai, các quan lại,
quân nhân cùng khí giới bắt được của nhà Minh đã đưa trả hết rồi, không còn giam giữ, chứa giấu gì
cả. Lại xin trả lại người con gái của vua bị lạc. Trước kia, trong buổi loạn ly, vua bị lạc mất người con
gái nhỏ mới lên 9 tuổi. Viên nội quan nhà Minh là Mã Kỳ đem về nuôi, rồi đưa về Yên Kinh tiến làm
cung tỳ. Đến đây, vua sai sứ sang xin về”. Tuy nhiên vua Minh trả lời sứ thần nước ta rằng người con
gái đó đã bị chết vì bệnh đậu mùa.
Vua Minh Mạng đánh giá các con bằng thơ
Minh Mạng, vị Hoàng đế thứ 2 của nhà Nguyễn nổi tiếng là người có nhiều con với 78 hoàng tử, 64
công chúa, tổng cộng là 142 người. Tương truyền sở dĩ ông rất đông con một phần nhờ vào hai bài
rượu bổ là “Nhất dạ ngũ giao” và “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” mà dân gian thường gọi chung là
“Minh Mạng thang”.
Theo sách Quốc sử di biên, vào tháng 12 năm Nhâm Thìn (1832), bấy giờ vua có tròn 100 người con
bèn làm thơ đánh giá tư chất của các con mình, sách viết như sau: “Năm ấy, vua 42 tuổi, có 49 con
trai, 51 con gái. Vua ngâm thơ rằng: Bất hữu Chu Công, Chu Vũ thánh. Diệc vô Thúc Độ, Thúc Tiên
ngu…Nghĩa là: Không có con nào thánh bằng Chu Công, Chu Vũ Vương; cũng không có con nào ngu
như Thúc Độ, Thúc Tiên”.
Vua Khải Định muốn con kết thân với các đại gia
Năm Nhâm Tuất (1922) trong một buổi thiết triều, vua Khải Định phán bảo thị thần, nhất là những
người đi theo hầu thái tử ở Pháp cần lưu ý không để vị vua tương lai nhiễm các tư tưởng dân chủ tự
do và cần tích cực kết thân, giao du với các gia đình đại gia ở Pháp.
Sách Khải Định chính yếu sơ tập cho hay Khải Định truyền rằng: “An Nam đường đường là một đế
quốc, đưa Hoàng thái tử nay sang du học chính là muốn cho học hành trưởng thành để về bảo vệ,
giữ gìn đế quốc đó. Vì vậy trong khi hướng dẫn mở mang kiến thức phải cẩn thận tuyệt không được
để cho một chút tư tưởng dân chủ nào in hằn vào đầu óc Thái tử… Những nhà đại gia thuộc hoàng
tộc hoặc quan lại truyền thống ở nước Pháp, trong gia đình của họ vẫn giữ lại những luân lý vốn có.
Hoàng thái tử nay đang học tập tại nước Pháp, vào những ngày nghỉ rỗi nên giao du với những gia
đình đại gia đó cho hợp với luân thường nước Nam, chứ đừng để cho Thái tử tập quen với đầu óc tư
tưởng tự do thì thật khó cho sau này”.
Lý Thái Tông có tôn hiệu dài kỷ lục
Là vị vua thứ 2 của nhà Lý, trong 26 năm ở trên ngôi báu, Lý Thái Tông Là vị vua thứ 2 của nhà Lý,
đã có những đóng góp tích cực tới hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng quốc gia, củng cố
bộ máy nhà nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá ông “là người nhân triết thông tuệ, có đại
lược văn võ, trong lục nghệ không nghề gì không tinh tường. Vì có tài đức ấy nên có thể làm mọi
việc”.
Lý Thái Tông còn là vị vua có tôn hiệu dài nhất. Ngay sau khi lên ngôi, tôn hiệu của ông là: Khai thiên
thống vận tôn đạo quý đức thánh văn quảng vũ sùng nhân thượng thiện chính lý dân an thần phù
long hiện thể nguyên ngự cực ức tuế công cao ứng chân bảo lịch thông huyền chí áo hưng long đại
định thông minh từ hiếu hoàng đế. Tất cả có 50 chữ.
Đến tháng 6 năm Kỷ Mão (1039) vua lại tăng tôn hiệu thêm 8 chữ nữa là: Kim dũng ngân sinh, Nùng
bình phiên phục. Tháng 11 năm Giáp Thân (1044) ông lại tăng tôn hiệu thêm 8 chữ nữa là: Thánh
đức thiên cảm, tuyên uy thánh võ. Như vậy tôn hiệu của vị vua này có tổng cộng 66 chữ.
Lê Tương Dực từng bị hoạn quan khống chế
Lê Tương Dực tên thật là Lê Oanh, còn có tên khác là Lê Trừ; vị vua thứ 9 của nhà Lê sơ, lên ngôi
năm Kỉ Tị (1509). Ông là hoàng đế thông minh, giỏi giang nhưng sau “ham chơi mà không quyết
đoán, việc thổ mộc bừa bãi, nhân dân thất nghiệp, trộm cướp nổi dậy” ( Đại Việt sử ký toàn thư). Đặc
biệt vua quá say đắm nữ sắc nên bị gán cho biệt danh “vua Lợn”.
Nếu như lịch sử Trung Quốc có những vương triều từng bị khuynh đảo bởi hoạn quan thì ở Việt
Nam điều này hầu như không có, tuy nhiên có một chuyện ít người biết liên quan đến việc Lê Tương
Dực bị bọn hoạn quan khống chế định mưu đồ phế lập ngai vàng.
Lê Tương Dực lên ngôi chưa lâu, đến cuối tháng 4 năm Canh Ngọ (1510) đã gặp ngay một biến động
cung đình. Sách Đại Việt thông sử chép: “Nguyễn Khắc Hài không rõ quê quán ở đâu, được vào cung
làm thái giám, hơi được vua Tương Dực thân qúy khi mới lên ngôi. Lúc đó lòng người chưa yên,
Khắc Hài ngầm có chí khác.
Vào canh 3 đêm 25 tháng 4 năm Hồng Thuận thứ 2 (1510) Khắc Hài đem đồng đảng làm loạn, bắt ép
vua đến cung Trùng Hoa, lại đến các điện Vạn Thọ, Cẩn Đức, Kính Thiên. Nhà vua tỏ ý muốn nhàn hạ
để cho y yên chí bèn làm thơ quốc ngữ, đại thần văn võ vào hầu hoạ thơ. Đêm khuya có nội thần là
Nguyễn Lĩnh rước vua ra hồ sen. Khắc Hài lẻn ra ngoài, lấy cái xe riêng của vua đi đón Hoa Khê
Vương lập làm vua giả. Vua sai Thọ quận công Trịnh Hựu đem quân đuổi đến Đông Hà (tức Đông Hà
môn, một cửa ô của Thăng Long xưa, sau được gọi là ô Quan Chưởng) bắt giết quá nửa đồng bọn
của Hài, bắt được cả Hài, dư đảng của y trốn lên núi Tam Đảo, quan quân đuổi đánh dẹp được”.
Vua Kiến Phúc cho chế tạo súng thêo kiểu của Mỹ
Khi nói về Kiến Phúc, thường người ta chỉ nghĩ đến thời kỳ đầy biến động của vương triều Nguyễn
sau khi vua Tự Đức băng hà ngày 16 tháng 6 năm Qúy Mùi (1883) dẫn đến chuyện “tứ nguyệt tam
vương” (4 tháng 3 vua).
Kiến Phúc là vị vua ở ngôi lâu nhất (hơn 5 tháng) so với các vua ở giai đoạn “tứ nguyệt tam vương”
là Dục Đức (ở ngôi 3 ngày), Hiệp Hòa (gần 4 tháng). Trong thời gian cầm quyền ngắn ngủi của mình,
có một việc làm đáng nhớcủa vua Kiến Phúc, đó là vào đầu tháng giêng năm Giáp Thân (1884) triều
đình đã cho chế tạo thử loại súng theo kiểu của Mỹ và của Đức, đồng thời cho dệt thử các loại vải
hoa, vải thô của phương Tây.
Vua đã giao cho ông Nguyễn Xuân Phiếu phụ trách việc này cùng với 3 thợ máy, 15 thợ dệt, 20 biền
binh. Những người này đều được phái đi học tập, thí nghiệm. Sau khi đã thành thục đều được phong
thưởng: Nguyễn Xuân Phiếu, từ chức Đốc công tòng cửu phẩm thừa phái, được thưởng chức Tư vụ;
những người kia đều được thăng trật hoặc được thưởng tiền bạc.
Vua Đồng Khánh cũng có một bài thơ “Nam quốc sơn hà”
“Nam quốc sơn hà” được coi là bài thơ “thần”, là bản “tuyên ngôn độc lập” đầu tiên ra đời trong cuộc
kháng chiến chống giặc Tống xâm lược thời nhà Lý. Còn bài thơ “Nam quốc sơn hà” của ông vua bù
nhìn Đồng Khánh thời Pháp thuộc được viết vào tháng 2 năm Đinh Hợi (1887) có nội dung thể hiện
lo lắng trước thời cuộc, nhắc nhở quan lại phải hoàn thành chức phận. Nội dung của bài thơ gồm 20
khổ 80 câu thơ còn dành phần lớn để ca ngợi công lao sáng nghiệp của vua Gia Long, công tích của
triều Nguyễn với dân chúng và chỉ trích các đại thần Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường phế lập
ngôi vua, gây hấn với Pháp nên khiến đất nước binh họa binh đao, các cuộc nổi dậy “phản loạn”
khiến cho triều đình và quân Pháp phải cùng hợp sức đánh dẹp “bọn ngông cuồng”. Bài thơ còn có
đoạn nói rằng vì có ơn đức thấm lòng dân, được Pháp giúp đỡ mà Đồng Khánh được làm vua…
Bài thơ của vua Đồng Khánh được mở đầu bằng hai câu: “Nam quốc sơn hà Nam đế đô/Thần truyền
thánh kế tráng hoàng đồ” (Sông núi nước Nam vua Nam trị/Thần truyền Thánh nối rộng cơ đồ).
Người phụ nữ 3 lần từ chối làm vợ vua Lê Đại Hành
Với nhiều người, trở thành vợ vua là một may mắn tột đỉnh, thế nhưng có một người phụ nữ đã 3
lần từ chối vào cung làm vợ vua Lê Đại Hành, đó là bà Phạm Thị Hến, quê ở làng Tó (làng Tả Thanh
Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay).
Vua Lê Đại Hành gặp bà vào năm Tân Tị (981) trong lần cùng một cánh quân vận chuyển lương và
vũ khí lên phía bắc để chống quân Tống xâm lược. Thấy bà nhanh nhẹn, thông minh, giỏi võ, lại tình
nguyện tham gia đánh giặc nên vua giao đảm nhận việc trông coi, vận chuyển lương thực, khí giới
cho quân đội.
Không lâu sau, quân Tống đại bại, bà Phạm Thị Hến xin về quê chịu tang cha, hết kỳ hạn 3 năm, Lê
Đại Hành cho người rước bà nhập cung nhưng cả 3 lần, bà đều từ chối, cuối cùng vua phải đích thân
về làng Tó và chấp thuận 3 điều kiện là: Làm lễ lớn tế cha bà 3 ngày trước khi đón dâu; lễ cưới phải
tổ chức ngay tại làng Tó; địa vị của bà phải ngang hàng với 4 bà hoàng hậu của vua.
Cũng vì quá yêu người đẹp, mến tài lẫn sắc nên Lê Đại Hành chấp thuận cả 3 điều kiện. Bà Phạm Thị
Hến được phong làm Phạm hoàng hậu, người dân thường gọi bà là bà Chúa Hến. Thế nhưng, nhiều
năm ở bên vua mà bà không sinh được mụn con nào, buồn tủi bà xin về quê sinh sống và mất tại đó
khi mới 37 tuổi.
Nơi thờ bà ngày nay vẫn còn, đó là đình làng Hoa Xá. Điều thú vị là ngôi đình được dựng trên chính
nền cũ ngôi nhà kết hoa (Hoa Xá), nơi diễn ra đêm tân hôn giữa vị hoàng đế anh hùng và cô thôn nữ
làng Tó năm nào; tên làng cũng vì thế còn được gọi là làng Hoa Xá.
Trần Nhân Tông được vợ chê chở trước hổ dữ
Hoàng hậu của vua Trần Nhân Tông tên húy là Trinh, con gái lớn của danh tướng Trần Hưng Đạo,
khi chưa vào cung, bà có tước vị là Quyên Thanh công chúa. Sau khi trở thành vợ vua, bà được
phong làm Bảo Thánh hoàng hậu. Tháng 3 năm Quý Tỵ (1293), con trai bà là Anh Tông lên ngôi đã
tiến phong mẹ mình là Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng thái hậu.
Các sách như Đại Việt sử ký toàn thư còn cho biết có lần Trần Nhân Tông đã được bà che chở trước
hổ dữ: “Thái hậu nhu mì đức tốt, thông minh sáng suốt, nhân hậu với kẻ dưới. Thượng hoàng
thường làm chuồng hổ ở thềm Vọng Lâu rồi sai quân sĩ đánh nhau với hổ.
Có lần Thượng hoàng ngồi xem, thái hậu và phi tần đều theo hầu. Vì thềm lầu thấp, song chuồng và
thềm cũng thấp, con hổ bỗng nhảy ra khỏi chuồng leo lên lầu, mọi người đều sợ chạy tan cả, duy chỉ
còn có Thái hậu và bốn, năm người thị nữ vẫn ở đấy. Thái hậu nghĩ bụng không khỏi bị hại, mới lấy
chiếu che cho Thượng hoàng và cả mình. Con hổ lên lầu kêu gầm lên rồi vội vàng nhảy xuống, không
vồ hại ai cả.
Lại một lần Thượng hoàng ngự điện Thiên An xem đấu voi ở Long Trì, con voi bỗng xông vào định
lên trên điện, người hầu hai bên đều chạy tản chỉ còn mình Thái hậu vẫn ở đấy”.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nhà Hậu Lê bàn rằng: “Voi và hổ là bậc hung dữ, ai cũng phải sợ, thế mà lúc voi,
hổ hung tợn làm ngang, Hoàng hậu vẫn thản nhiên không sợ. Hoàng hậu thực sự là một anh hùng
trong đám nữ lưu vậy” (Đại Việt sử ký tiền biên).
Lê Thánh Tông lấy một cô gái gánh nước làm vợ
Vị Hoàng đế đa tài và cũng rất đa tình Lê Thánh Tông có rất nhiều giai thoại được truyền tụng trong
dân gian, trong số đó có cả những chuyện thú vị giữa vua và các giai nhân. Không rõ có bao nhiêu
điều trong đó là sự thật, bao nhiêu điều là do thêu dệt mà nên, nhưng theo danh sách những người
vợ chính của vua Lê Thánh Tông mà cuốn Đại Việt thông sử ghi chép thì tất cả các bà đều là con gái
các quan tướng trong triều, duy nhất có một người xuất thân bình dân và bà trở thành vợ vua cũng
rất tình cờ.
Người vợ này của vua Lê Thánh Tông họ Nguyễn (không rõ tên), sách Đại Việt thông sử cho biết về
duyên kỳ ngộ giữa hai người như sau: “Bà là người xã Hòa Thược, huyện Kim Trà. Khi vua Thánh
Tông đi đánh Chiêm Thành dừng lại ở xã này, thấy bà gánh nước qua, có nhan sắc, vua đem lòng yêu
bèn cho vào cung, được nhà vua quý mến. Lần lần phong đến bậc phi, về sau sinh ra Triệu Vương”.
Theo chính sử thì năm Kỷ Sửu (1469), Lê Thánh Tông đích thân dẫn quân đi chinh phạt Chiêm
Thành, như vậy người con gái huyện Kim Trà (nay là Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế) đã được
vua lấy làm vợ trong thời gian này. Kết quả mối tình giữa hai người là một hoàng tử tên là Lê Thoan,
được phong tước Triệu Vương, ông là con trai thứ 13 của Lê Thánh Tông.
Vợ Minh Mạng là con gái một danh tướng Tây Sơn
Sau khi nhà Nguyễn thành lập, các vụ trả thù những người có cảm tình với triều Tây Sơn diễn ra
khốc liệt và kéo dài nhiều năm. Ấy vậy mà một danh tướng Tây Sơn lại trở thành bố vợ một vị vua
nhà Nguyễn thì thật là lạ kỳ.
Vị vua đó là Minh Mạng, hoàng đế thứ 2 của triều Nguyễn và ông bố vợ của vua chính là tướng Ngô
Văn Sở. Theo một số tư liệu thì Ngô Văn Sở bị giết năm Ất Mão (1795) trong cuộc tranh chấp nội bộ
giữa các quan tướng Tây Sơn thời vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản). Nhưng có nguồn tư liệu
cho hay thực ra Ngô Văn Sở không chết, ông thấy triều chính Tây Sơn ngả nghiêng nên bí mật bỏ
trốn theo Nguyễn Ánh và mang một tên khác.
Khi vua Gia Long (Nguyễn Ánh) tiến hành hàng loạt vụ trả thù nhà Tây Sơn đã phát hiện ra Ngô Văn
Sở chính là viên tướng nổi danh một thời của Tây Sơn. Sách Liệt truyện cho biết Gia Long không giết
Ngô Văn Sở mà chỉ cách chức Quản đạo trấn Thanh Hoa của ông vì “Sở làm việc lâu ở đó lại giỏi nên
được tha tội chết”. Lý do nữa là Ngô Văn Sở lại là cha của bà Ngô Thị Chính, vợ hoàng tử Phúc Đảm
(sau này lên ngôi lấy hiệu là Minh Mạng).
Trong số hàng trăm phi tần, vua Minh Mạng chỉ sủng ái bà Hiền phi Ngô Thị Chính và và Lệ tân
Nguyễn Gia Thị. Bà Ngô Thị Chính đã sinh cho vua 5 hoàng tử và 4 công chúa. Sự sủng ái của vua đối
với bà còn thể hiện qua việc Minh Mạng phục chức cho nhạc phụ của mình là Ngô Văn Sở và phong
cho em trai bà Hiền phi là Ngô Văn Thắng chức Cai đội.
Vua Đồng Khánh trừng phạt các bà vợ
Giống như bao vị hoàng đế khác, trong nội cung của vua Đồng Khánh có rất nhiều cung tần, mỹ nữ.
Tháng 8 năm Ất Dậu (1885) ngay sau khi lên ngôi, Đồng Khánh đã ban dụ phong tước cho những
người vợ của mình theo các bậc khác nhau là phi, tần, tiệp dư, quý nhân, mỹ nhân, tài nhân… chia
nhau phụ trách, cai quản công việc ở tam cung, lục viện và vua căn dặn rằng: “Những người trên
phải kính cẩn thực thi nội chức để việc trong nội cung được nghiêm chỉnh. Người xưa từng nói, phải
tề gia rồi sau mới trị quốc, đó là điều trẫm vô cùng mong mỏi vậy”.
Thế nhưng chỉ hai năm sau, vào tháng 2 năm Đinh Hợi (1887) Đồng Khánh đã ban dụ nêu tội trạng
và biện pháp trừng phạt đối với các bà vợ của mình. Sách Đồng Khánh chính yếu cho biết vua bực
tức nói rằng: “Đặt ra chức vị phi, tần để chia nhau cai quản lục viện và kính cẩn cần mẫn, tiết kiệm
cái ăn cái mặc hàng ngày, ngoài việc đó ra không có gì khác gọi là báo đáp… Nào ngờ bọn sâu mọt đó
cam tâm vứt bỏ ân huệ, mỗi ngày một thêm lười biếng,… Vì vậy không thể không nghiêm khắc, tùy
theo hạnh kiểm của từng người mà phân biệt nghị xử cho nghiêm nội cung”.
Kết quả là vợ chính của vua là Hoàng quý phi do cai quản không tốt hậu cung nên bị nhắc nhở
nghiêm khắc, Giai phi vì sớm biết hối lỗi nên được tha. Còn lại các phi tần khác, người thì bị vua
đánh giá có cử chỉ thô tục, người bị coi là ham chơi bời lêu lổng, người thì bị quy kết có tính tham
lam, đố kị… nên đều bị giáng cấp. Trong bài dụ của mình vua còn răn rằng: “Nếu vẫn giữ thói ấy thì
mệnh lệnh đã đưa ra pháp luật sẽ tuân theo mà thi hành, lúc ấy khó bảo toàn được vị thứ” (Đồng
Khánh chính yếu).
Lê Hiến Tông được sứ thần phương Bắc khên “nức nở”
Trong lịch sử bang giao thời phong kiến ở nước ta, chưa có vị vua nào lại được sứ thần phương Bắc
mến mộ, khen ngợi nhiều như Lê Hiến Tông, vị hoàng đế thứ 6 của nhà Hậu Lê.
Tháng 12 năm Kỷ Mùi (1499) nhà Minh sai hai đoàn sứ, đoàn thứ nhất do Từ Ngọc dẫn đầu sang làm
lễ viếng Lê Thánh Tông và đoàn sứ thứ hai do Lương Chừ, Vương Chẩn mang sắc phong cho vua Lê
Hiến Tông.
Diện mạo, phong thái và kiến thức của Lê Hiến Tông trong cuộc gặp các sứ thần nhà Minh đã khiến
họ kinh ngạc, khâm phục và hết lời khen ngợi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết như sau: “Ngày
23, bọn Lương Trừ, Vương Chẩn, Từ Ngọc đều tới trạm Thị Cầu. Hôm ấy, vua sai bọn Đông các đại
học sĩ Đàm Văn Lễ, học sĩ Nguyễn Nhân Thiếp, Bùi Nhân tới trạm Thị Cầu cùng với bọn Lương Trừ
bàn việc làm lễ. Ngày 24, Từ Ngọc đi từ Thị Cầu đến trạm Lữ Khôi, vua ngự thuyền Tiểu Quang đến
trạm đón tiếp. Khi vua trở về cung, Trừ ra ngoài cửa trạm đưa tiễn, bảo Bùi Nhân rằng: “Hôm nay
được thấy quốc vương tuổi đã lớn, thực là tướng thánh nhân, thực là tướng trường thọ, quả là phúc
lớn của sinh linh phương Nam. Sao mà học rộng và ứng tiếp mọi việc nhanh chóng, mẫn tiệp đến
thế!”. Rồi cứ trầm trồ khen ngợi mãi không thôi”.
Đinh Tiên Hoàng là hoàng đế đầu tiên phong chức quan cho phái nữ
Dưới chế độ phong kiến vai trò của phụ nữ không được coi trọng đúng mức, tuy nhiên có một số
người bằng khả năng, tài trí của mình đã trở thành quan chức trong triều đình. Và Đinh Tiên
Hoàng là hoàng đế đấu tiên phong chức quan cho một phụ nữ – bà Phạm Thị Trân.
Theo sách “Đả cố lục”, bà Phạm Thị Trân (926 – 976) có hiệu Huyền Nữ, quê ở đất Hồng Châu (nay
thuộc tỉnh Hải Dương), là người phụ nữ nhan sắc, lại có tài múa hát nên được viên quan địa phương
tiến cử với triều đình Hoa Lư. Vua Đinh Tiên Hoàng thấy bà có tài bèn phong cho chức Ưu Bà với
nhiệm vụ dạy cho cung nữ và quân lính múa hát, đánh trống, gảy đàn, diễn các tích trò (gọi là hát trò
nhời, ngày nay gọi là hát chèo) vì thế sau này bà được tôn là bà tổ của nghệ thuật hát chèo.
Việc phong chức quan cho một phụ nữ xuất thân bình dân không chỉ cho thấy sự coi trọng của Đinh
Tiên Hoàng với phái đẹp mà còn thể hiện sự thông minh của vua khi biết sử dụng nghệ thuật ca hát,
diễn xướng phục vụ tinh thần quân đội. Vì ngoài mục đích giải trí, các hoạt động đó đã cổ vũ tinh
thần chiến đấu của quân sĩ rất hiệu quả.
Đặc biệt với chủ trương của vua, bà Phạm Thị Trân đã sáng tạo ra phép đánh trống rất hào hùng,
mạnh mẽ vừa dùng khi biểu diễn, vừa dùng trong chiến trận mà đến nay vẫn còn lưu truyền, như
tiếng trống rước: “Chinh tùng chinh, chinh tùng chinh, bất diệt thù hề, bất nguyện sinh” (Đi chiến đấu,
đi chiến đấu, không diệt được thù không thèm sống) hoặc tiếng trống chèo: “Nam chinh sát Bắc
tướng, diệt Bắc tướng. Nam thiên sinh vương, Nam thiên sinh vương thánh, thánh Đinh vương xưng
đế” (Quân Nam giết tướng Bắc. Trời Nam sinh vương, trời Nam sinh vương thánh, thánh Đinh
vương xưng đế).
Vua Khải Định từng muốn thêo quy chế “ngày làm việc 8 giờ”
Từ khi lên ngôi và trong suốt thời gian cai trị của mình từ năm 1916 đến 1925, vua Khải Định đã
ban bố nhiều chiếu dụ với nội dung học theo phương Tây một số quy tắc, chế định trong đó có quy
chế “ngày làm việc 8 giờ”, tuy nhiên việc đó cũng chỉ ở mức tương đối.
Sách Khải Định chính yếu sơ tập cho biết vào tháng 9 năm Nhâm Tuất (1922), trong một buổi thiết
triều, vua nói với quần thần rằng: “Trẫm quan sát thấy người Tây làm việc mỗi ngày tổng cộng 8 giờ
đồng hồ. Quan lại nước ta tất nhiên chẳng theo được như thế, nhưng mỗi ngày cũng nên ngồi ở công
sở cho được 6 giờ đồng hồ để làm công vụ, dẫu không có việc gì cũng nên giữ như thế cho thành thói
quen, cũng giống như đứa trẻ tập đi, cứ bước đi nhiều thì lâu dần mới trở thành tự nhiên. Như bản
thân trẫm xử lý công việc chẳng lúc nào nhàn rỗi; giả như công việc đã vãn thì không xem phiến
chương cũng lôi sách vở ra đọc, không đọc sách vở thì lại xem xét các máy móc. Tóm lại là không
bao giờ để thời gian trôi suông một cách lãng phí”.
Vua đêm vợ thưởng cho bề tôi
Câu chuyện khó tin này liên quan đến hai nhân vật nổi tiếng trong lịch sử nước ta, đó là Lý Chiêu
Hoàng, vị vua cuối cùng của nhà Lý và Trần Thái Tông, hoàng đế đầu tiên của triều Trần.
Bằng âm mưu và sự khéo léo của mình, Trần Thủ Độ đã tạo ra cuộc hôn nhân giữa cháu mình và nữ
hoàng, sau đó là chuyện Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào tháng 12 năm Ất
Dậu (1225). Khi lên ngôi, đầu năm Bính Tuất (1226) Trần Cảnh (tức Trần Thái Tông) sách phong
Chiêu Hoàng làm hoàng hậu Chiêu Thánh nhưng đến tháng giêng năm Đinh Dậu (1237) Hoàng hậu
Chiêu Thánh bị phế làm công chúa vì lý do “không có con”. Chị của Chiêu Thánh là công chúa Thuận
Thiên, vợ của Hoài Vương Trần Liễu (anh trai Trần Thái Tông) khi đó có thai 3 tháng được lập làm
hoàng hậu Thuận Thiên:
“Lập công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của Hoài Vương Liễu, anh vua, làm hoàng hậu Thuận
Thiên. Giáng Chiêu Thánh làm công chúa” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Chiêu Thánh sống trong cô đơn buồn tủi tới 20 năm. Đến đầu năm Mậu Ngọ (1258), sau chiến thắng
chống Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất, Trần Thái Tông xuống chiếu gả vợ cũ của mình cho Lê
Tần (tức Lê Phụ Trần), một vị tướng có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc vừa qua. Vậy là
người vợ bị ruồng bỏ lại trở thành “phần thưởng” mà người chồng ban cho bề tôi của mình.
Hành động này về sau bị sử sách phê phán gay gắt: “Vua tôi nhà Trần coi thường đạo vợ chồng lại
thấy ở đây lần nữa. ( Đại Việt sử ký toàn thư). Còn sách Việt sử tiêu án viết rằng: “Vua Thái Tông làm
hại nhân luân, lấy bà Thuận Thiên, Phụ Trần cũng thông gian với bà Chiêu Thánh, mình cướp vợ
anh, thì người khác lại cướp vợ mình; tuy là tự ý đem cho, nhưng cũng là trời làm cho tâm thần tối
tăm mà làm việc càn bậy đó, tạo hóa khéo thật”…
Mạc Kính Chỉ bị vợ “cắm sừng”
Mạc Kính Chỉ là vị vua đầu tiên của nhà Mạc thời suy vong. Ông là con của hoàng thân Mạc Kính Điển
và là cháu nội của vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải). Tháng 12 năm Nhâm Thìn (1592) khi nghe
tin vua Mạc Mậu Hợp bị quân nhà Lê bắt được và giết chết, ông liền tự xưng đế ở đất Nam Giản (nay
thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương) và lấy niên hiệu là Bảo Định. Làm vua chưa đầy 2 tháng thì Mạc
Kính Chỉ bị bắt ở huyện Hoành Bồ, xứ An Quảng (Quảng Ninh ngày nay) khi vừa mới đổi niên hiệu là
Khang Hựu được ít ngày.
Ngoài “kỷ lục” là vị vua Mạc ở ngôi ngắn nhất thì điều hay được nhắc đến khi nói về Mạc Kính Chỉ là
hai câu chuyện đáng xấu hổ của ông khi còn là một hoàng thân.
Thứ nhất đó là chuyện Mạc Kính Chỉ “loạn luân” với vợ của cha mình, sách Đại Việt thông sử viết:
“Mạc Kính Chỉ là con cả của Kính Điển, mới đầu được phong là Hùng Lễ Vương, vì tư thông với
người thiếp của cha nên bị giáng xuống làm thứ dân, sau đó lại khôi phục, phong là Đường An
Vương”.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư thì cho biết sự việc này xảy ra vào đầu năm Giáp Tý (1564) nhưng chép
khác một số điểm: “Bấy giờ con trưởng của Kính Điển là Đoan Hùng Vương Kính Chỉ ngầm tư thông
với vỡ lẽ Kính Điển, việc phát giác phải giáng làm thứ dân; lấy con thứ là Kính Phu làm Đường An
Vương, giao cho binh quyền. Đến khi Kính Điển chết, họ Mạc lại cho Kính Chỉ làm Hùng Lễ Công
nhưng không cho binh quyền”.
Chuyện thứ hai và việc Mạc Kính Chỉ bị vợ “cắm sừng” vào đầu năm Canh Dần (1590): “Nhà Trung
Nghĩa tướng quân Hoằng quận công của Mạc chúa chứa giấu phu nhân của Đường An Vương là Mạc
Kính Chỉ, việc phát giác, Hoằng quận công và phu nhân đều bị giết” ( Đại Việt sử ký toàn thư). Sách Lê
triều thông sử cho biết rõ hơn: “Vợ của ngụy Đường An Vương Mạc Kính Chỉ tư thông với viên tướng
dưới trướng là Hoằng quận công rồi ẩn trốn tại nhà quận công, việc vỡ lở, đều bị giết”.
“Loại đàn bà tàn nhẫn, vì muốn ít con cái để giữ lấy nhiều của, hoặc ngại việc sinh đẻ, muốn
tránh khó nhọc, thấy mình có thai, dùng kế cho sẩy thai, thương tổnh mệnh, làm hại luân
thường, cùng là những kẻ phá thai cho người khác, đều phải tra xét, trị tội theo luật pháp”.
An Dương Vương chọn đất đóng đô ở nơi… chó đẻ
Theo Ngọc phả Đền Hùng: “…Thục An Dương Vương được nước, cảm thấy sự nhường ngôi của
(Hùng) Duệ Vương công đức như trời đất, bèn dóng xe về núi Nghĩa Lĩnh, dựng giao đàn để quốc gia
phụng tự, dựng hai cột đá ở giữa núi, chỉ lên trời mà khấn rằng: Nguyện có trời cao lồng lộng chứng
giám xét soi, xin đời đời giữ gìn non sông bền vững và trông nom miếu vũ họ Hùng, sai lời thề sẽ bị
trăng vùi gió dập…”.
Sau đó An Dương Vương đã rời đô về đất Cổ Loa, xây dựng tòa thành 9 vòng theo hình xoáy ốc mà
lịch sử, huyền tích thường gọi là thành Ốc (Loa thành), Cổ Loa thành hoặc bằng nhiều tên khác như
Khả Lũ, Côn Lôn thành, Khả Lưu thành, Qủy Long thành, Tư Long thành, Trung Quy thành…
Dã sử và truyền tụng ở địa phương cho biết, ban đầu An Dương Vương chọn đất Uy Nỗ (Tó) làm nơi
xây dựng kinh đô, nhưng đàn chó của vua cứ kéo nhau sang đất Cổ Loa, trong đó có con chó quý tìm
đến một khu gò đất lót ổ đẻ con, vì thế vua cho dời đô sang Cổ Loa, dựng cung điện ngay trên gò đất
nơi chó đẻ. Với quan niệm “đất chó đẻ là đất quý” nên người dân Cổ Loa trước đây có tục làm nhà
trên khu đất chó đẻ con.
Đời Lý Thái Tổ dựng cung điện trên núi Nùng ở Thăng Long hay chuyện Trần Hưng Đạo chọn nơi
dựng thái ấp ở Kiếp Bạc cũng đều gắn với việc chó tìm đất để lót ổ sinh con…
Lý Anh Tông cho… 10 vạn quân đi dẹp trộm cướp
Lý Anh Tông là vị vua cho huy động một lực lượng đông nhất trong lịch sử để trấn áp tội phạm.
Dưới triều ông trị vì, ngoài một số cuộc khởi nghĩa, nổi loạn còn xuất hiện tình trạng binh lính đào
ngũ đi làm cướp, vì thế vào tháng 8 năm Qúy Mùi (1163) vua sai Phí Công Tín đem 10 vạn quân đi
đánh dẹp các đảng cướp.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Bọn lính bỏ trốn, rủ nhau tụ họp thành bầy cướp bóc nhân
dân trên đường bộ. Vua sai Phí Công Tín đem quân 10 vạn quân đi đánh dẹp yên được”.
Huy động cả một lực lượng khổng lồ để trấn áp chứng tỏ tình trạng cướp bóc lúc bấy giờ rất nghiêm
trọng nhưng may mắn là triều đình đã khắc phục được. Điều thú vị là người có công lớn trong việc
trấn áp tội phạm không phải là một võ tướng mà ông xuất thân từ quan văn, về sau mới chuyển sang
ban võ nắm binh quyền. Phí Công Tín làm quan dần dần từ chức Nội thường thị lên đến chức Tả ty,
rồi Chư vệ, Binh bộ thượng thư, hàm Thái bảo và được Lý Anh Tông ban quốc tính (họ Lý).
Trần Nhân Tông xêm bói quốc gia đại sự
Trong lịch sử có những vị vua rất không ưa chuyện bói toán, thuật số nhưng ngược lại có người
thậm chí còn thưởng cả chức quan, tước vị cho người đã gieo quẻ, bói trúng, đó là trường hợp đặc
biệt liên quan đến vua Trần Nhân Tông.
Tháng 5 năm Kỷ Sửu (1289), sau chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 3, vua Trần Nhân
Tông đã phong cho Phùng Sĩ Chu chức Hành Khiển, lý do là “khi người Nguyên sang, vua sai Sĩ Chu
bói. Sĩ Chu đoán rằng: Thế nào cũng đại thắng! Vua mừng bảo: Nếu đúng như lời đoán, sẽ có trọng
thưởng. Giặc yên, vua nói: Thiên tử không có nói đùa. Do đấy, có lệnh này” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Đến năm Nhâm Thìn (1292) vua lại phong cho một viên quan là Trần Thì Kiến giữ chức An phủ lộ
Yên Khang (nay là đất Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình) cũng vì ông đã bói trúng.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho hay: “Trước đây, quân Nguyên vào cướp, vua sai Thì Kiến bói, được
quẻ Dự biến sang quẻ Chấn, đoán là tốt. Mùa hạ năm sau, quân Nguyên đại bại, quả đúng như lời
đoán. Mùa thu năm Trùng Hưng thứ 2 (1285), quân Nguyên lại vào cướp, vua lại sai bói, được quẻ
Quan biến sang quẻ Hoán, Thì Kiến đoán: “Hoán nghĩa là tan, là điềm giặc tan”. Sau quân Nguyên
đến sông Bạch Đằng, quả nhiên tan chạy. Vua khen tài của Kiến, cho nên có lệnh này”.
Vua Lê Thánh Tông cấm phá thai
Trong bộ luật Hồng Đức do Lê Thánh Tông ban hành có nhiều quy định liên quan đến nghề y như
trừng phạt thầy thuốc kém đức, vấn đề về pháp y… Đặc biệt, vị hoàng đế này còn ra lệnh cấm phá
thai và ít nhất hai lần đã đề cập đến vấn đề này.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, vào tháng 3 năm Giáp Thìn (1484): “Ngày 12, nhắc lại việc đàn bà
phá thai và phá thai cho người khác. Trước đây có lệnh cấm rằng: loại đàn bà tàn nhẫn, vì muốn ít
con cái để giữ lấy nhiều của, hoặc ngại việc sinh đẻ, muốn tránh khó nhọc, thấy mình có thai, dùng
kế cho sẩy thai, thương tổn tính mệnh, làm hại luân thường, cùng là những kẻ phá thai cho người
khác, đều phải tra xét, trị tội theo luật pháp.
Thế mà chúng vẫn coi là tờ giấy lộn, không đổi lỗi trước, vẫn theo thói cũ, tệ trước càng tăng, coi
thường pháp luật, làm hư phong tục không gì hơn thế. Nay hãy nhắc rõ lệnh trước, răn cấm nghiêm
hơn, nếu có người đàn bà nào như hạng nói trên mà mọi người đều biết, cùng là người chồng không
biết răn cấm, đều trị tội theo luật pháp”.
Vua Minh Mạng ban hành lệnh cấm thuốc phiện đầu tiên
Khó có thể biết được thuốc phiện được sản xuất, sử dụng ở nước ta từ bao giờ nhưng dần dần đến
những thập niên đầu thế kỷ 19, hoạt động buôn bán, sử dụng thuốc phiện đã gây ra những tiêu cực,
nhất là khi người nước ngoài mang thứ hàng này vào bán kiếm lời ở nước ta. Trước tình hình đó vua
Minh Mạng đã ban lệnh cấm đầu tiên nhằm ngăn cấm việc buôn bán, sử dụng thứ “thuốc độc” này.
Sách Đại Nam thực lục chính biên cho biết vào tháng 7 năm Canh Thìn (1820) vua Minh Mạng ban
dụ rằng: “Thuốc phiện là thứ thuốc độc từ ngoại quốc đem lại, những phường du côn lêu lổng mới
hút cho là phong lưu, rồi chuyển thành thói quen, thường thường nghiện mà không thể bỏ được. Vì
nó, quan bỏ cả chức vụ, dân thì phá hết sản nghiệp, thậm chí gầy yếu sinh bệnh tổn tạng, thương
sinh. Vậy nên bài để nghiêm cấm đi”.
“Lúc ấy, đình thần bàn tâu: Bất luận quan hay dân, ai nghiện hút, chứa, nấu hoặc bán thuốc phiện
đều bị xử tội đồ; ai bắt được thì thưởng 20 lạng bạc; cha anh không ngăn cấm con em, xóng giềng
biết mà không tố đều bị xử trượng…” ( Đại Nam thực lục chính biên).
Lời tấu nghị tâu lên, vua Minh Mạng sửa là quan chức có phạm tội này thì bị cách chức, còn các điều
khác thì theo lời bàn của đại thần mà cho thi hành. Tiếp đó, vào các năm Giáp Thân (1824), Nhâm
Thìn (1832), Kỷ Hợi (1839), vua Minh Mạng lại ban hành thêm quy định mới với hình phạt nghiêm
khắc hơn đối với các tội trạng liên quan đến mua bán, sử dụng thuốc phiện, như người hút thuốc
phiện bị phạt theo mức từ “đánh 100 trượng, phát lưu 3.000 dặm” đến “tịch thu toàn bộ gia sản”;
người nấu, tàng trữ thuốc phiện, bị phạt theo mức từ “sung quân đi biên viễn” đến “xử giảo và tịch
thu gia sản”…
Đồng Khánh – vị vua đầu tiên được chụp ảnh
Khi xem những bức ảnh do đoàn sứ bộ nước Đại Nam mang về từ Pháp, vua Tự Đức cho đây là một
điều đáng để học hỏi bèn truyền lệnh chọn người xuất ngoại đi Tây học cách chụp ảnh, người đó là
ông Trương Văn Sán. Đến tháng 8 năm Mậu Dần (1878) ông Sán từ Pháp về nước trình bày “tiểu
phép chụp ảnh”, vua Tự Đức sai bộ Công dựng cho ông một ngôi nhà ở kinh đô để chụp ảnh.
Mặc dù chủ trương cho học tập nghề chụp ảnh và ưu ái nghề này nhưng vua Tự Đức có lẽ do những
quan niệm lạc hậu về hồn vía nên ông đã không chụp bức ảnh nào.
Chỉ đến đời vua Đồng Khánh, khi đã bớt nặng nề về quan niệm, lại được Pháp đề nghị chụp ảnh để
gửi về Pháp “cho biết mặt, tỏ rõ tình giao hiếu”, nên vua Đồng Khánh đã cho phép thợ ảnh chụp
mình vào tháng Chạp năm Ất Dậu (tháng 1-1886). Bức ảnh vua Đồng Khánh sau đó được rửa làm 2
bản, một gửi về Pháp, một nhà vua giữ lại.
Sách Đại Nam thực lục chính biên chép rằng: “Niên hiệu Đồng Khánh, Ất Dậu, tháng 12. Bấy giờ Phó
đô thống Pháp bàn với đô thống đại thần ủy phái quan họa đồ ấn ảnh Đại Pháp đến điện đình in
chân dung của vua, gửi về nước Pháp để tỏ tình giao hiếu với nhau. Viện thần nói: Quốc tục phương
Tây, lấy việc ấy làm trọng xin nên y theo. Mới chọn ngày quang tạnh, vua mặc mũ, áo đại triều, ngồi
ở điện Văn Minh cho quan Pháp chụp ảnh. Rồi chuẩn cho in thành hai tấm ảnh, 1 tấm để lại dâng lên,
1 tấm gửi về Pháp”.
Theo dữ liệu nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, tấm ảnh này chụp vào mùa đông xứ Huế, trong điện
Văn Minh không đủ ánh sáng nên tấm ảnh lịch sử của vua Đồng Khánh gửi cho chính phủ Pháp
không rõ lắm. Vì thế về sau vua Đồng Khánh cho chụp lại, nhà vua mặc đại triều nhưng đầu lại quấn
khăn chứ không đội mũ. Tấm ảnh thứ hai này rõ hơn và được phổ biến rộng trên sách báo từ đó đến
nay.
Qua ghi chép của sử sách có thể coi vua Đồng Khánh (1885-1888) là vị vua đầu tiên cho phép thợ
ảnh chụp ảnh mình.
Trong thời gian ở ngôi, biết rõ sức mạnh vượt trội của vũ khí Tây phương nên vua Gia Long
nhiều lần sai người đi mua sắm tàu đồng, súng đạn đem về trang bị cho quân lính và thậm chí
lấy làm mẫu chế tạo theo.
Lê Long Đĩnh cho lập ụ bia ghi khoảng cách
Bị sử sách lên án là hoàng đế hoang dâm, hiếu sát, bạo tàn và gán cho biệt danh xấu là “Ngọa Triều”
nhưng chỉ trong 4 năm làm vua ngắn ngủi (1005 – 1009), vị hoàng đế thứ 3 cũng là vị hoàng đế cuối
cùng của nhà Tiền Lê đã làm được nhiều trong việc đổi mới đất nước, như chấm dứt tình trạng cát
cứ, cho đào sông khơi kênh phát triển nông nghiệp và giao thương, đổi mới hệ thống triều nghi,
khuyến khích sự phát triển của Phật giáo…
Ngoài những vấn đề lớn còn có những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt không đáng lưu tâm nhưng
thực chất lại có ý nghĩa rất thiết thực. Nếu như ngày nay trên các tuyến đường quan trọng đều có
cắm các cột mốc chỉ dẫn khoảng cách để người đi đường biết mình còn cách địa điểm phía trước bao
nhiêu km, thì hơn 1000 năm trước, vua Lê Long Đĩnh đã cho làm việc này. Chính sử chỉ ghi chép rất
ngắn gọn là vào năm Kỷ Dậu (1009), vua chấp thuận theo đề nghị của đô đốc Kiển Hành Hiến cho
đào kênh, đắp đường và lập ụ bia để ghi số dặm đường ở nhiều nơi tại châu Ái (Thanh Hóa ngày
nay).
Tuy chỉ áp dụng tại một địa phương, chưa tiến hành trên khắp cả nước nhưng điều đó phần nào
đem lại sự thuận tiện nhất định trong giao thông cho người dân châu Ái.
Vị hoàng đế xây dựng nhiều hành cung nhất
Hành cung là nơi ở của vua và các tùy tùng khi vua xuất cung đi tuần thú, đánh trận… Vì là người ưa
thích du ngoạn, thích thăm thú nên Lý Cao Tông, vị hoàng đế thứ 7 của nhà Lý thường hay đi chơi
khắp nơi trong nước, lên phía Bắc thăm Sơn lăng, xuống phía Nam săn voi nhưng không phải để cổ
vũ tinh thần thượng võ mà để thỏa mãn sự hiếu kỳ của mình. Đi đến đâu ông cũng trực tiếp phong
hiệu và sai lập nhiều miếu thờ, sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, tháng 3 năm Kỷ Dậu (1189)
“vua ngự khắp núi sông, phàm ngự đến đâu mà có thần linh đều ban hiệu và lập miếu thờ”.
Chính để thỏa mãn sở thích của mình, Lý Cao Tông đã trở thành vị vua cho xây dựng nhiều hành
cung nhất trong lịch sử; vào tháng 3 năm Đinh Tị (1197) vua cho “xây cung Nghênh Thiềm và hành
cung hơn 100 nơi” (Đại Việt sử lược). Đây cũng là một trong những lý do khiến triều chính nhà Lý
đổ nát, dần đi đến suy vong khi mà một vị vua “xây dựng không ngớt, ngao du không chừng mực,
hàng ngày cùng cung nữ dạo chơi làm vui, nghe ngoài thành có trộm cướp giả cách không biết” (Đại
Việt sử ký toàn thư).
Lê Thánh Tông, phải làm thơ mới được… làm vua
Ngày mồng 3 tháng 10 năm Kỷ Mão (1459) vua Lê Nhân Tông bị anh là Lê Nghi Dân sai người vào
cung giết chết để cướp ngôi. Làm vua được 8 tháng, vì “tin dùng bọn gian nịnh, giết hại bề tôi cũ,
pháp chế của tổ tông đổi thay hết thảy, người oán trời giận” (Đại Việt sử ký toàn thư) nên các đại
thần đứng đầu là Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã đem quân phế truất Lê Nghi Dân rồi cho người đi rước Gia
Vương Lê Tư Thành (tức Lê Thánh Tông) lên ngôi.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết vào ngày mồng 6 tháng 6 năm Canh Thìn (1460) “các đại thần
là bọn Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa diệt bọn phản nghịch Đồn, Ban. Giáng Nghi Dân xuống tước
hầu”. Sau khi “giết xong bọn phản nghịch, các đại thần cùng bàn với nhau rằng: Ngôi trời khó khăn,
thần khí rất trọng, nếu không phải là bậc đại đức, thì sao có thể kham nổi. Nay Gia Vương thiên tư
sáng suốt, hùng tài đại lược, hơn hẳn mọi người, các vương không ai so được, lòng người đều theo,
đã biết ý trời đã quyết.
Ngay ngày hôm ấy đem xe kiệu đến đón vua ở Gia Để (có sách chép là Tây Để)”.
Chính sử chép ngắn gọn như vậy nhưng theo dã sử, khi các quan đến gặp Gia vương, để thử tài xem
trình độ và tư cách của vị vua tương lai, họ đã bảo ông vịnh con cóc dưới gầm giường. Lê Tư Thành
đọc luôn bài thơ:
“Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi
Tắc lưỡi năm ba con kiến gió
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời”.
Nghe xong mọi người đều bái phục khẩu khí này, cùng nhau quỳ lạy rước ông lên kiệu về cung làm
lễ lên ngôi Hoàng đế.
Vua Gia Long bị nước Anh… đòi nợ
Trong thời gian tranh hùng với nhà Tây Sơn, chúa Nguyễn Phúc Ánh nhiều lần nhờ cậy đến sự giúp
đỡ của nước ngoài, trong đó có sự hỗ trợ của Tây phương đối với các hoạt động huấn luyện quân sự,
mua sắm vũ khí…
Ngày 2 tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), sau khi đánh thắng Tây Sơn và chiếm được toàn cõi,
Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long. Trong thời gian ở ngôi, biết rõ sức
mạnh vượt trội của vũ khí Tây phương nên vua nhiều lần sai người đi mua sắm tàu đồng, súng đạn
đem về trang bị cho quân lính và thậm chí lấy làm mẫu chế tạo theo.
Điều thú vị là chính trong những lần giao dịch đó, có năm suýt nữa triều đình Huế phải trả tiền lần
thứ 2 cho một “hợp đồng mua bán vũ khí” với người phương Tây. Sử nhà Nguyễn cho biết vào tháng
6 năm Canh Thân (1812) tàu của nước Hồng Mao (Anh) đến đòi vua trả tiền mua súng đạn năm
trước. Gia Long liền sai quan Tàu vụ đưa ra sổ sách ghi chép rõ việc đã trả đủ tiền, đuối lý nên
thuyền trưởng con tàu này đã ra lệnh nhổ neo bỏ đi.
Đồng Khánh và lá cờ bảo hộ nhục nhã
Đến thời Đồng Khánh lên ngôi thì chủ quyền quốc gia của nước Đại Nam đã hoàn toàn bị tước đoạt,
quyền lực của hoàng đế chỉ là hư vị, bản thân vua Nguyễn chỉ là bù nhìn. Chính vì được Pháp dựng
lên, do đó ngay sau khi đăng quang, Đồng Khánh đã gửi quốc thư sang Pháp cảm ơn với lời lẽ xưng
tụng thái quá, nào là “nhờ có oai linh ân sủng bảo hộ của quý quốc khiến tệ quốc chúng tôi bảo tồn
được tôn xã sau cơn suy vong, ơn huệ ấy thực là to lớn”, nào là “sông núi, cỏ cây nước Đại Nam lại có
được ngày nay đều nhờ có công của quý quốc”, “những mong quý quốc che chở, giúp đỡ để cùng
hưởng phúc hòa bình”… (Đồng Khánh chính yếu).
Sự thần phục, chấp nhận nền đô hộ của Pháp còn được vua Đồng Khánh thể hiện bằng việc cho làm
lá cờ bảo hộ để treo khắp nơi, nhất là vào những ngày lễ lớn. Một số tài liệu cho rằng lá cờ của chế
độ bảo hộ Pháp được sử dụng từ năm 1923 đến ngày 9 tháng 3 1945 nhưng thực ra vào tháng 11
năm Ất Dậu (1885) vua Đồng Khánh đã sai làm 8 lá cờ “Bảo hộ” và ra lệnh cho Viện Cơ mật, Ty Hành
nhân cùng sáu Bộ (Lại, Hộ, Hình, Lễ, Binh, Công) phải treo cờ này trong các ngày lễ Tết như: Tết
Nguyên đán, ngày Quốc khánh Pháp (14 tháng 7 dương lịch), v.v…
Lá cờ bảo hộ có nền vàng, ở góc trái trên cao là hình quốc kỳ Pháp, sách Đạ i Nam thực lụ c Chính
biên mô tả như sau: “Mẫu cờ (chia làm 4 phần): 3 phần dùng sắc vàng, trong đó một phần phía trên
ở chỗ gần mặt trên trục, 1 phần 3 dùng sắc xanh, trắng, đỏ; giao cho các địa phương tuân theo mà
làm”.
Vua Khải Định lấy một lá cờ làm đồ quốc bảo
Quốc bảo là bảo vật quốc gia, nên lá cờ được Khải Định coi là đồ quốc bảo đó phải có gì đặc biệt?
Điều đặc biệt ở đây đó là cờ được này coi là quốc kỳ, vua sử dụng làm biểu tượng trong chuyến thăm
Pháp. Theo sử sách, cuối tháng 4 năm 1922 vua Khải Định đã lên đường sang thăm nước Pháp bằng
đường thủy, sách Khải Định chính yếu sơ tập cho biết như sau: “Mùa hạ, tháng 4…Ngày 28, vua lên
tàu thủy Bột Tốc, treo lên lá quốc kỳ hình rồng vàng, nhổ neo lên đường”.
Đến “tháng 6…, ngày 19 vua lên tàu thủy An Di. Trên tàu có treo quốc kỳ hình rồng vàng, bài trí rất
sang trọng lịch sự. Quan Thượng thư bộ Thuộc địa Sa Lộ, Toàn quyền Long cùng nhiều vị quan chức
văn võ đều tới tiễn đưa”. Ngày 19 tháng 7 vua Khải Định mới về đến kinh thành Huế thì tháng 10
vua đã ban sắc cho bộ Công rằng:
“Lá cờ hiệu thêu rồng vàng đã dùng khi trẫm hồi loan trong chuyến đi sang Tây hiện đang giao ở chỗ
thị vệ cất giữ. Truyền bộ Công đóng một chiếc hòm gỗ hình vuông, ghép ván, có ổ khóa đầy đủ để cất
lá cờ này, giao cho Nội các kính cẩn cất giữ, chiếu theo lệ mà phơi phóng coi làm đồ quốc bảo” (Khải
Định chính yếu sơ tập).
Hoàng đế có mái tóc khác thường
Hoàng đế có mái tóc đặc biệt đó là Mai Kỳ Sơn, vị vua thứ 3 và cũng là vị vua cuối cùng của vương
triều họ Mai. Theo một số ngọc phả, thần tích như ngọc phả đền Điều Yêu (xã Quốc Tuấn, huyện An
Lão, Hải Phòng) thì do có mái tóc bạc bẩm sinh nên nhân dân thường gọi ông là Bạch Đầu Đế (Hoàng
đế đầu bạc).
Bạch Đầu Đế Mai Kỳ Sơn là con thứ 3 của Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan), thân mẫu là Đinh Ngọc Tô.
Theo sách “Việt điện u linh” thì ông là con thứ 2, anh em song sinh với Mai Bảo Sơn (thường được
gọi là Hoàng tử Cả). Cũng như các anh chị em khác, từ nhỏ Mai Kỳ Sơn đã được cha mẹ gửi gắm các
thầy giáo dạy văn, dạy võ, khi trưởng thành họ đều trở thành những người giỏi giang, có chí khí
mạnh mẽ.
Trong cuộc vận động, liên kết với các thổ hào khắp các vùng miền trên cả nước để tiến hành khởi
nghĩa lật đổ ách đô hộ của nhà Đường, Mai Thúc Loan đã cho xây dựng một số căn cứ quan trọng,
trong đó có căn cứ ở vùng duyên hải Đông Bắc, lấy trung tâm chỉ huy ở vùng Điều Yêu. Để tăng
cường sự gắn kết, Mai Thúc Loan đã gả con gái Mai Thị Cầu cho Phạm Quỳnh, cho Mai Kỳ Sơn lấy
Hoàng Thị Đang nhằm kết thông gia với một số thủ lĩnh địa phương.
Khi giành lại độc lập, dựng lên vương triều Mai, Mai Hắc Đế đã phong cho con gái Mai Thị Cầu làm
Ngọc Chân công chúa, Mai Kỳ Sơn là Hoàng tử và cử trấn thủ Điều Yêu.
Sau một thời gian củng cố lực lượng, nhà Đường cho quân xâm lược nhằm tái lập ách đô hộ, mặc dù
chiến đấu anh dũng nhưng do chênh lệch về lực lượng nên kinh đô Vạn An bị thất thủ, Mai Hắc Đế tử
trận, Mai Thúc Huy lên nối ngôi (Mai Thiếu Đế) rút về căn cứ Hùng Sơn (Hùng Sơn còn gọi là Núi
Đụn nay thuộc Nam Đàn, Nghệ An) tiếp tục kháng chiến.
Tháng 10 năm Qúy Hợi (723), sau khi nghe tin căn cứ Hùng Sơn thất thủ, em trai là Mai Thiếu Đế tử
trận nên Mai Kỳ Sơn được nhân dân tôn lên làm vua để lãnh đạo cuộc chiến chống giặc Đường ở
vùng duyên hải miền Đông Bắc, không lâu sau trong một trận đánh vào cuối năm Qúy Hợi (723), Mai
Kỳ Sơn trúng tên độc, tử trận trước trại giặc.
Đinh Tiên Hoàng bị sử sách gọi nhầm tên?
Đinh Tiên Hoàng là vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Đánh dẹp loạn
12 sứ quân, thống nhất giang sơn, ông trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau hơn 1000 năm
Bắc thuộc.
Các sách sử chính thống đều chép rằng Đinh Tiên Hoàng, tên húy là Đinh Bộ Lĩnh, sinh năm Giáp
Thân (924), quê ở động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Tuy nhiên
một số nguồn tư liệu khác thì cho hay tên thật của ông là Đinh Hoàn, còn Bộ Lĩnh chỉ là một chức
quan mà sứ quân Trần Lãm phong cho khi ông cùng con trai là Đinh Liễn sang nương nhờ lực lượng
này ở vùng Bố Hải Khẩu (nay thuộc huyện Kiến Xương, Thái Bình).
Theo dã sử ở vùng đất Hoa Lư thì tên gọi của Đinh Bộ Lĩnh có xuất xứ rất thú vị. Thân phụ ông là
Đinh Công Trứ là một vị tướng tham gia cuộc khởi nghĩa đánh quân Nam Hán do Dương Đình Nghệ
lãnh đạo năm Tân Mão (931) và được phong làm thứ sử Hoan Châu (thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh ngày
nay).
Năm Đinh Dậu (937) Dương Đình Nghệ bị con nuôi là Kiều Công Tiễn giết hại để cướp quyền, Đinh
Công Trứ cùng nhiều tướng lĩnh khác đem quân theo Ngô Quyền diệt tên phản bội và tham gia trận
đánh Bạch Đằng lịch sử năm (938) tiêu diệt toàn bộ chiến thuyền của quân Nam Hán xâm lược.
Khi nhà Ngô thành lập, Đinh Công Trứ tiếp tục giữ chức trấn thủ Hoan Châu, về sau do thuộc hạ bất
cẩn làm cháy kho lương nên ông bị cách chức. Buồn phiền, chán cảnh quan trường nên Đinh Công
Trứ đưa người vợ đang mang thai của mình cùng một số tùy tùng thân tín khăn gói về quê sinh
sống, họ đi bộ hàng tháng trời từ Hoan Châu, khi về đến gần làng thì dừng chân nghỉ dưới chân núi
Bái Lĩnh (còn gọi là núi Đính, nay gọi là núi Bái Đính, thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, Ninh Bình).
Chính bởi chặng đường vất vả đó mà Đinh Công Trứ nói với vợ rằng nếu sinh con trai sẽ đặt tên là
Bộ Lĩnh để ghi nhớ chuyến đi bộ gian nan, vất vả và lần nghỉ dưới chân núi Bái Lĩnh khi đặt chân về
đến quê nhà.
Lê Thánh Tông buộc dân chúng không được trùng tên
Với những cải cách mạnh mẽ được thực hiện trong thời gian làm vua, Lê Thánh Tông mong muốn
xây dựng một nước Đại Việt giàu mạnh, cường thịnh, xã hội ổn định, dân chúng ấm no.
Để quản lý tốt các mặt của đời sống đất nước, nhà vua đã ban hành nhiều quy định quan trọng, đặc
biệt là đối với vấn đề nhân khẩu để nắm rõ và quản lý dân chúng trong cả nước. Trong sách “Lê triều
quan chế” có đoạn cho biết Lê Thánh Tông đã ra một quy định rất thú vị nhằm tránh sự phức tạp,
nhầm lẫn khi thực thi quản lý đối với một cá nhân cụ thể, ở mục “Lệ đổi tên trùng nhau” viết như
sau:
“Thánh chỉ về việc đổi những người có tên trùng nhau rằng, khi làm sổ hộ tịch, những người nam
cũng như nữ có cùng họ trong một thôn, một trang, một sách, một động của xã đó không được giống
tên nhau. Giả dụ như nếu trước có tên là Nguyễn Ái thì phải thêm chữ vào giữa, hoặc cùng tên thì
phải đổi ra chữ khác, không được trùng lặp tên nhau và tên gồm hai chữ thì không được dùng hai
chữ Nhân, Đức”.
Minh Mạng hồi nhỏ từng bị vua cha đánh roi
Minh Mạng tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, còn có tên Nguyễn Phúc Kiểu là con trai thứ tư của vua Gia
Long, ông nổi tiếng là người thông minh, nhân hậu, quyết đoán, năng động, có tư tưởng cải cách.
Tháng giêng năm Canh Thìn (1820), Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mạng, trở
thành vị hoàng đế thứ 2 của nhà Nguyễn.
Sử sách ghi lại một câu chuyện, khi còn nhỏ Minh Mạng đã bị vua cha phạt đánh bằng roi, không
phải do ông lười biếng việc học hay kiêu láo mà bởi ông muốn chịu phạt thay người khác, do từ tâm
thương người của mình. Sách Quốc sử di biên viết:
“Hoàng tử Đảm vốn có lòng độ lượng rộng rãi, lúc bé đọc sách mỏi mệt mà ngủ ngày, có tên thị nhi
lấy mực vẽ vào mặt, thình lình vua đến, thị nhi chạy trốn cả. Vua cho hoàng tử soi gương, rồi hỏi sao
lại vẽ vào mặt; Hoàng tử nhận tội, vua sai Cẩm y vệ đánh cho 3 roi. Hoàng tử đứng dậy lạy tạ, không
khóc.
Các phi tần chạy đến ôm lấy và nói: Ngài vẽ thế nào vào mặt mình được, sao không biện bạch mà lại
chịu phạt?
Hoàng tử nói: Ta vẫn biết là thị nhi đùa nghịch, nói rõ thì chúng tất bị tội. Thà ta chịu tội mà khoan
tha cho lũ kia, há chả là việc thiện à! Mọi người đều phục hoàng tử là người có độ lượng”.
Vua Đồng Khánh từng dự định sang thăm nước Pháp
Trong lịch sử bang giao của nước ta với nước ngoài, vua Khải Định là người đầu tiên xuất dương
sang châu Âu, đến thăm nước Pháp vào năm 1922. Tuy nhiên ít ai biết rằng vua Đồng Khánh cũng đã
có kế hoạch sang Pháp nhưng dự định bất thành bởi ông mất vì bạo bệnh ngày 27 tháng 12 năm
Mậu Tý (1888), một năm trước khi tiến hành cuộc Tây du.
Trong sách “Khải Định chính yếu sơ tập”, có chép lời dụ của vua Khải Định, con trai vua Đồng Khánh
nói về chuyến đi bất thành của cha mình như sau:
“Sự sáng suốt, thân ái và tin cậy của Tiên Hoàng khảo chính khớp với tấm lòng của quý Đại Pháp. Vì
thế vào năm Đồng Khánh thứ 3, Mậu Tý, tức năm 1888 theo Tây lịch, Người đã hạ sắc quyết định
rằng đến năm Đồng Khánh Kỷ Sửu, tức năm 1889 theo Tây lịch sẽ ngự giá sang triều đình quý Pháp
để bày tỏ tình hữu hảo từ xưa giữa hai nước, thể hiện lòng chân thành hết mực tin cậy đối với Đại
Pháp, đồng thời nhân đó đi khảo sát các nền chính trị văn minh để khi hồi loan sẽ cùng với chính
phủ Bảo hộ mưu tính tiền đồ tiến hóa cho dân nước ta.
Ai đâu có ngờ vận hạn gian truân, chưa kịp đi tới mục đích hoàn toàn thì vào ngày 27 tháng 12 năm
Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh thứ 3, tức là ngày 28 tháng 1 năm 1889 theo lịch Tây, Tiên Hoàng
khảo Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế đã ngự lưng rồng lên làm khách trên trời. Thế là ý nguyện ngự giá
sang triều đình nước Đại Pháp biến thành niềm hư ảo mây trời, còn quốc dân đương thời cũng một
phen ngao ngán, thất vọng”.
Quân khởi nghĩa chia làm 5 đạo bao vây Tống Bình, tên quan đô hộ Cao Chính Bình đóng chặt cửa
thành không dám ra đánh. Phùng Hưng liền cho quân reo hò ầm trời giả cách sắp đánh thành; cứ
liên tục như vậy làm quân Đường “ăn không ngon, ngủ không yên” lúc nào cũng trong trạng thái
nơm nớp kinh hoàng. Cao Chính Bình sợ phát ốm rồi chết, quân giặc không đánh mà tan phải xin
hàng, Phùng Hưng chiếm lĩnh phủ thành, lên làm vua.Nhân dân suy tôn ông là Bố Cái đại vương.
Trần Dụ Tông mở sòng bạc tại cung đình
Chỉ ham vui chơi, không màng đến triều chính, Trần Dụ Tông thậm chí mở sòng để bài bạc trong
cung. Sử chép rằng vua “họp các nhà giàu như làng Đình Bảng ở Bắc Giang, làng Nga Đình ở Quốc
Oai vào cung đình đánh bạc làm vui, một tiếng bạc nghìn quan tiền…” ( Việt sử tiêu án).
Sử sách đã lên án mạnh mẽ việc làm này của vua, nhà sử học Phan Phu Tiên nhận xét: “…Dụ Tông
công nhiên làm bậy, gọi những nhà giàu vào cung đánh bạc rồi sau người trong nước bắt chước cái
dở ấy, không thể ngăn cấm được nữa. Cuối cùng vì tệ đánh bạc mà mất nước ( Đại Việt sử ký toàn
thư); trong sách Việt sử tiêu án viết: “Làm vua một nước mà mở sòng đánh bạc để lấy hồ…thật đáng
bỉ”.
Có 3 Lý Nam Đế?
Năm Nhâm Tuất (542), một hào trưởng người Việt tên là Lý Bí phát động khởi nghĩa và chỉ trong
vòng ba tháng đã quét sạch quân đô hộ nhà Lương ra khỏi bờ cõi. Sau đó ông lên ngôi hoàng đế,
xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đến năm Mậu Thìn (548) trước khi mất, ông trao
quyền lại cho Triệu Quang Phục (hiệu là Triệu Việt Vương).
Năm Đinh Sửu (557) một tướng cũ của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương
để giành quyền lại cho họ Lý nhưng không thành, hai bên giảng hòa. Năm Tân Mão (571), Lý Phật
Tử bất ngờ cho quân đánh úp, Triệu Việt Vương bị đại bại phải tự vẫn. Lý Phật Tử liền lên ngôi cũng
xưng là Lý Nam Đế, để phân biệt với Lý Bí, sử cũ gọi Lý Phật Tử là Hậu Lý Nam Đế.
Theo chính sử, năm Nhâm Tuất (602), giặc Tuỳ sang xâm lược, Hậu Lý Nam Đế chống không nổi
phải đầu hàng rồi bị bắt đưa về phương Bắc, kết thúc 31 năm làm vua; tuy nhiên theo sách Việt điện
u linh thì “Hậu Lý Nam đế làm vua 23 năm, sau bị phó tướng là Lưu Đức diệt”. Khác với chính sử,
một số tư liệu dã sử thì cho biết người quân Tùy bị bắt không phải là Lý Phật Tử (Hậu Lý Nam Đế)
mà là một vị vua khác cũng xưng hiệu là Lý Nam Đế, đó là Lý Sư Lợi, con trai thứ của Hậu Lý Nam
Đế. Lên làm vua được mấy năm, chỉ ham ăn chơi hưởng lạc vì thế vị Hậu Lý Nam Đế thứ 2 này khi
giặc chưa đánh đã xin hàng rồi bị bắt làm tù binh. Ông tự chuốc nhục vào thân, làm nước mất nhà
tan.
Mỗi vị vua có suy nghĩ, quan điểm, hành động khác nhau khi ngồi trên ngai vàng. Và số phận
của họ cũng chứa đựng những chuyện lạ kỳ rất khác nhau.
Mai Hắc Đế một mình đánh hổ
Nhắc tới chuyện đánh hổ, mọi người thường nghĩ ngay đến Võ Tòng trong tác phẩm Thuỷ Hử mà
không biết rằng ở Việt Nam ta, nơi “hào kiệt đời nào cũng có” thì chuyện đánh hổ không phải là
hiếm. Nếu như chuyện đánh hổ của Bố Cái đại vương Phùng Hưng được lưu truyền rộng rãi từ bao
đời nay thì chuyện đánh hổ cứu mẹ của Mai Hắc Đế lại ít người được biết.
Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan) là người thứ 2 trong lịch sử nước ta xưng đế sau khi lãnh đạo thắng lợi
cuộc khởi nghĩa lật đổ ách đô hộ của nhà Đường. Thuở nhỏ, một lần Mai Thúc Loan cùng mẹ vào
rừng kiếm củi, bất ngờ có một con hổ lớn lông vàng chồm ra ngoạm lấy cổ bà mẹ định tha đi. Cậu bé
họ Mai nghe tiếng thét của mẹ liền lao đến giang tay chém mạnh một nhát rìu vào đầu hổ, con hổ dữ
bị chém đòn thí mạng phải buông mồi nhưng liền nhảy tới tát mạnh vào kẻ tấn công. Mai Thúc Loan
tránh được rồi dồn sức dùng rìu chém tiếp khiến con hổ bạt vía cụp đuôi bỏ chạy vào rừng với vết
thương lớn trên người. Người mẹ thoát khỏi nanh vuốt của hổ nhưng vì vết thương trên cổ quá
nặng nên đã qua đời, Mai Thúc Loan trước đã mồ côi cha nay mất cả mẹ. Ông được một người bạn
của cha tên là Đinh Thế cưu mang, nuôi dạy. Đến khi Mai Thúc Loan trưởng thành Đinh Thế đã gả
con gái là Đinh Thị Ngọc Tô. Chính người vợ này và gia đình bà đã giúp đỡ Mai Thúc Loan rất nhiều
trong việc chuẩn bị lực lượng dấy cờ khởi nghĩa.
Những món quà “độc” của vua Lê Đại Hành
Năm Canh Dần (990), sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt, sứ giả nhà Tống là
Tống Cảo sang nước ta nối lại quan hệ ngoại giao. Trong chuyến đi này đoàn sứ giả nhà Tống đã
được vua Lê Đại Hành tặng những món quà đặc biệt, đáng nhớ suốt đời.
Một lần sau bữa tiệc, vua cho người khiêng một con trăn lớn dài vài trượng đến quán dịch nói với sứ
Tống: Nếu sứ thần ăn được thịt trăn thì vua tôi sẽ cho người làm cỗ để mời. Sứ Tống khiếp đảm từ
chối. Một lần khác, Lê Đại Hành cho người dắt tới hai con hổ dữ tặng cho sứ thần thưởng ngoạn làm
phái bộ nhà Tống lại một phen sợ toát mồ hôi.
Lý Thái Tông đề xướng “Người Việt dùng hàng Việt”
Vị vua thứ 2 của nhà Lý là Lý Thái Tông. Trong 26 năm ở ngôi báu ông đã có những đóng góp tích
cực tới hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng quốc gia, củng cố bộ máy nhà nước và để lại
nhiều dấu ấn thú vị, đáng nhớ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá ông “là người nhân triết thông
tuệ, có đại lược văn võ, trong lục nghệ không nghề gì không tinh tường. Vì có tài đức ấy nên có thể
làm mọi việc”. Tổng kết về sự nghiệp và đức độ của Lý Thái Tông, sách Việt giám thông khảo tổng
luận khen ngợi là người “trí dũng gồm hai, đánh đâu được đấy; có đức hiếu hữu, học tập lễ văn, đánh
giặc giã, dẹp man nhung, cày tịch điền, khuyên việc ruộng, dân oan có chuông, việc hình có luật; là
một bậc vua giỏi giữ nền nếp vậy”.
Là người có tinh thần dân tộc cao, Lý Thái Tông là người đi đầu trong việc bài trừ tư tưởng sùng
ngoại. Tháng 2 năm Canh Thìn (1040) “vua dạy cung nữ dệt gấm vóc. Tháng ấy xuống chiếu phát hết
gấm vóc trong kho ban cho các quan. Làm vậy để tỏ ý là vua sẽ không dùng gấm vóc của nước Tống
nữa” (Đại Việt sử ký toàn thư). Đánh giá về việc này, các sử thần nhà Nguyễn trong bộ Khâm định
Việt sử thông giám cương mục phê một câu rất ngắn gọn: Được.
Thảm cảnh của Lý Huệ Tông
Ngay từ khi còn là hoàng thái tử, Lý Huệ Tông đã phải bao phen chạy loạn khốn đốn bởi cảnh chém
giết trong triều giữa quan lại và phe phái cát cứ bên ngoài. Làm vua chẳng bao lâu thì ông mắc bệnh
điên , “có khi tự xưng là thiên tướng giáng hạ, tay cầm giáo và mộc, tóc cắm cờ nhỏ, đùa múa từ sáng
sớm đến chiều tối không nghỉ…” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Vin cớ đó, họ Trần ép vua nhường ngôi rồi bắt đi tu. Thế là từ một người tôn quý ở ngôi vị cửu trùng
“nay thì lê đôi giầy cỏ, chống cái gậy tre, thất thểu là một người nhà chùa, người có lương tâm ai
thấy đều rơi lệ” (Việt sử tiêu án). Sợ lòng người trong thiên hạ còn nhớ vua cũ, Trần Thủ Độ đã bức
tử Lý Huệ Tông.
Lê Thánh Tông xin lỗi bề tôi
Lê Thánh Tông trong 37 năm làm vua đã đưa nước Đại Việt trở thành một quốc gia hùng cường.
Dù là một minh quân, Lê Thánh Tông cũng không tránh khỏi những sai lầm nhất định.Nếu như Lý
Cao Tông dũng cảm nhận lỗi trước muôn dân thì Lê Thánh Tông cũng không vì địa vị cao sang mà
quên rằng cần phải thừa nhận những điều mình làm không đúng. Một lần vua xử phạt mấy viên
tướng bại trận, quan Ngự sử Trần Xác cho rằng việc thưởng phạt không đúng lệ định, Lê Thánh
Tông tức giận mắng ông. Ít lâu sau vua nghĩ lại thấy mình sai bèn nhận lỗi và xin được nghe tiếp
những lời thẳng thắn của Trần Xác: “Ta vì vu oan cho ngươi là kẻ biện bác để mê hoặc người, đó là ta
lỡ lời. Nay ngươi có mưu kế gì hãy cứ nói với ta, ấy cũng là như cơn mưa ngọt đến khi trời hạn, như
con thuyền đến lúc ta cần đi qua sông” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Ai làm chúa rồi lại làm vua?
Khi nhắc đến chính quyền của họ Nguyễn người ta thường nói tới “chín chúa, mười ba vua”. Điều đó
không sai nhưng chưa chính xác bởi thực ra họ Nguyễn có tới 10 đời chúa; tháng 9 năm Đinh Dậu
(1777), vị chúa thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần trong một trận đánh ác liệt với quân Tây
Sơn đã bị bắt, sau đó bị giết. Sự nghiệp phục dựng quyền bính của họ Nguyễn đặt hết lên vai Nguyễn
Phúc Ánh, đây chính là người duy nhất trong lịch sử Việt Nam làm chúa rồi lại làm vua.
Sau một thời gian tổ chức lại lực lượng, tiến hành tái chiếm nhiều vùng đất và làm chủ cả vùng Gia
Định, đến năm Canh Tý (1780) Nguyễn Phúc Ánh chính thức lên ngôi chúa và xưng vương, dùng
niên hiệu Cảnh Hưng của vua Lê trong các văn bản giấy tờ, cho đúc ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa
vĩnh trấn chi bảo” để sử dụng. Trải nhiều năm tháng với các trận chiến ác liệt, đến tháng 5 năm
Nhâm Tuất (1802) Nguyễn Phúc Ánh đánh bại nhà Tây Sơn rồi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Gia
Long (1802-1819), lập ra triều Nguyễn.
Các vị quân vương là “thiên tử” thay trời hành đạo nhưng cũng phải nếm đủ mùi vị của cuộc
sống với muôn vẻ bi hài.
Trần Nhân Tông có màu da như vàng ròng
Trần Nhân Tông là một minh quân trong lịch sử Việt Nam, là người lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Nguyên Mông xâm lược lần thứ 3, là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,
dòng thiền đặc trưng của Phật giáo Việt Nam.
Trần Nhân Tông còn có tên là Kim Phật, cái tên đặc biệt này xuất phát từ nước da lạ kỳ của vua.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư không ghi cụ thể về điều đó mà chỉ cho biết vua “được tinh anh thánh
nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung (tức
Thượng hoàng Thái Tông và vua Thánh Tông) đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử”.
Trong sách Thiền Tông bản hạnh thì ghi mẹ vua là Nguyên Thánh Hoàng thái hậu nằm mộng thấy
thần trao cho hai thanh kiếm và bảo bà lựa chọn rồi từ đó có mang mà sinh ra vua. Đặc biệt,
trong Thánh Đăng ngữ lục chép rõ về nước da của Trần Nhân Tông như sau: “Đến khi vua ra đời,
màu da như vàng ròng. Thánh Tông đặt tên là Kim Phật…”.
Trần Duệ Tông chết vì chủ quan
Trần Dụ Tông tên thật là Trần Kính, lên ngôi báu năm Nhâm Tý (1372). Sử sách đánh giá vị hoàng
đế này là “người ương bướng, tự theo ý mình, không nghe lời can, kinh thường quân giặc nên tai vạ
đến mình” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Chuyện rằng, vua thấy Chiêm Thành luôn xâm phạm bờ cõi, bèn thân chinh đem quân đi trừng phạt.
Tháng 1 năm Đinh Tị (1377) quân Chiêm chống không nổi liền rút lui, khi Trần Duệ Tông đến gần
kinh đô Đồ Bàn thì có người Chiêm trá hàng nói rằng vua Chiêm đã bỏ thành chạy rồi, cần tiến binh
ngay. Tướng Đỗ Lễ can ngăn, khuyên vua suy xét kỹ. Nhưng Trần Duệ Tông cho rằng Đỗ Lễ hèn nhát
rồi cứ cho tiến quân vào thành Đồ Bàn. Quân Chiêm bất ngờ đổ ra vây hãm. Quân Trần thua to. Trần
Duệ Tông và nhiều tướng sĩ chết trong trận này.
Hồ Hán Thương lập cơ quan y tế đầu tiên
Dưới triều Hồ, nhiều chính sách cải cách có những điểm rất tiến bộ. Một trong số đó là việc thiết lập
cơ quan y tế cấp quốc gia. Cơ quan y tế đó do vua Hồ Hán Thương lập ra tháng 9 Quý Mùi (1403) để
chữa trị bệnh tật cho người dân mà không có sự phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Sách Đại Việt sử ký
toàn thư viết: “Phương sĩ Nguyễn Đại Năng, người ở Giáp Sơn có thuật dùng lửa cứu hoặc lấy kim
châm để chữa bệnh cho người, Hán Thương bổ làm chức Quảng Tế thự thừa. Đặt quan thuộc Quảng
Tế bắt đầu từ đó”. Như vậy cơ quan y tế công cộng đầu tiên ở nước ta có tên gọi là Quảng Tế (một số
sách chép là Quảng Tế hựu, Quảng tế thự, Quảng tế thực…) và người đứng đầu cơ sở này giữ chức
Quảng Tế tự thừa .
Nhân vật Nguyễn Đại Năng quê ở Giáp Sơn (nay là huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) là một danh y,
nhà châm cứu tài năng, để lại một tác phẩm nổi tiếng là sách “Châm cứu tiếp hiệu diễn ca” ghi cách
chữa 130 bệnh dùng 140 huyệt châm cứu, trong đó có 11 huyệt do người Việt tìm ra. Đây là tác
phẩm chuyên ngành châm cứu đầu tiên ở nước ta.
Con hổ xám và sự ra đời của vua Lê Thái Tổ
Lê Thái Tổ tên thật là Lê Lợi. Ông sinh vào giờ Tý, ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385). Truyền rằng ở
thôn Như Áng, gần nhà vua “có một cây quế, dưới cây quế có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng
nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai. Từ khi Hoàng đế ra đời, thì không
thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho đó là một sự lạ.
Ngày Hoàng đế sinh thì trong nhà có hào quang đỏ chiếu sáng rực và mùi thơm ngào ngạt bay khắp
làng. Khi lớn lên, ngài thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt
sáng mồm rộng; sống mũi cao. Xương mi mắt gồ lên; bả vai bên tả có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng
như hổ; tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường”
(Đại Việt thông sử).
Mạc Mậu Hợp bị sét đánh suýt chết
Mạc Mậu Hợp là vị vua thứ năm của nhà Mạc, ở ngôi 31 năm (1562 – 1592). Mạc Mậu Hợp “chỉ ham
chơi bời, say đắm tửu sắc, không để ý đến việc nước” (Đại Việt thông sử) nên cơ nghiệp dần suy
vong. Kết cục phải bỏ chạy khỏi Thăng Long, con cháu sau này chỉ giữ được một phần đất nhỏ ở Cao
Bằng, Tuyên Quang mà thôi…
Mạc Mậu Hợp có lần đang ở trong cung thì bị sét đánh, tuy vua không chết nhưng bị liệt mất nửa
người, sau một thời gian chữa trị mới bình phục. Chuyện này xảy ra vào năm Mậu Dần (1578),
sách Đại Việt thông sử cho biết: “Ngày 21 tháng 2, Mậu Hợp ở trong cung, bị sét đánh vào cung,
thành chứng “bán thân bất toại”, sau chữa thuốc lại khỏi, bèn đổi niên hiệu năm ấy làm niên hiệu
Diên Thành thứ nhất”. Đến năm Tân Tị (1581) Mạc Mậu Hợp lại bị bệnh “thong manh”, mắt mờ hầu
như không nhìn thấy gì, lần bị bệnh này vua phải chữa trị đến mấy năm con mắt mới trở lại bình
thường.
Minh Mạng phải tự chèo thuyền tránh hổ
Lịch sử Trung Quốc có một số hoàng đế cho lập chợ ngay trong hoàng cung, sai cung nữ, thái giám
đóng giả người mua kẻ bán để vua đi xem nhằm tìm cái thú vui dân dã. Ở Việt Nam, vua Minh Mạng
đã từng làm như vậy. Thậm chí ông còn có sở thích xem voi và hổ đấu nhau nên đã cho xây cả
chuồng nuôi hổ, chính vì thế có lần vua bị hổ xổng ra lao đến gần khiến ông phải tự mình chèo
thuyền tránh họa. Chuyện này được sách Quốc sử di biên ghi lại tóm lược như sau:
“Vua thích làm cung điện và ngự uyển, xây nhà thủy tạ, nhà chơi mát ở phố Chợ, sai cung nhân bán
hàng, có nội giám làm cung sứ, mua bán theo giá. Vua thường ngự thủ liễn đi chơi chợ, đến thì ăn
uống để mua vui. Lại làm chuồng hổ ở núi Thiên Mạc, bốn mặt xây tường để nuôi hổ, thường ngự
trên tường xem voi đánh nhau với hổ… Một hôm, vua ngự thuyền rồng, có hổ xông ra đến gần
thuyền vua, vua tự cầm lái bơi theo để giữ mình, có người lính đánh bắt được hổ, vua gia thưởng
quân công một thứ”.
Vua Đồng Khánh thích trang điểm
Nếu như vua Khải Định là người nổi tiếng với cách ăn mặc diêm dúa, lai căng nửa Âu nửa Á thì cha
của ông là vua Đồng Khánh lại là người ưa trang điểm. Đây là vị vua thứ 9 của nhà Nguyễn, được
Pháp đưa lên ngôi năm Ất Tị (1885) lấy niên hiệu là Đồng Khánh sau khi Pháp phế bỏ vị vua yêu
nước Hàm Nghi.
Đồng Khánh là ông vua đầu tiên của triều Nguyễn thừa nhận nền bảo hộ của Pháp, tiếp xúc với nền
văn minh Tây phương và ưa thích các mặt hàng, đồ vật của châu Âu. Trong sinh hoạt thường nhật,
ông vua rất chú ý đến ngoại hình và ưa thích trang điểm.
Một người Pháp tên là F. Baille từng được gặp vua Đồng Khánh đã kể lại trong bài “Les Annamite”
như sau: “Hằng ngày một toán cung nữ được chọn trong tất cả đẳng cấp phục dịch Đức vua. Ba mươi
người chia nhau canh gác hậu cung của Ngài, năm nàng luôn ở cạnh Ngài, luân phiên săn sóc, trang
điểm cho Ngài. Các nàng thay quần áo cho Ngài, chải chuốt bộ móng tay cho dài hơn ngón tay, thoa
dầu thơm, vấn khăn lụa chung quanh đầu Ngài. Sau cùng, chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhặt quanh
Ngài sao cho thật hoàn hảo”.
Vua Dục Đức và gã ăn mày cùng chung một huyệt mộ
Tháng 6 năm Quý Mùi (1883) vua Tự Đức mất, để di chiếu cho người con nuôi lớn của mình
là Nguyễn Phúc Ưng Chân lên nối ngôi. Thế nhưng ngay trong lễ đăng quan, nhiều đại thần đứng
đầu là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường vì không ưa nên vin vào cớ di chiếu có đoạn nói mắt
Ưng Chân có tật, rồi giam lỏng ông, sau đó phế truất. Về danh nghĩa, Ưng Chân ở trên ngôi báu chưa
đầy 3 ngày.
Trở thành một tù nhân, Ưng Chân bị đem giam ở ngôi nhà học của mình trước đây là Dục Đức
Đường nên sử sách thường lấy tên đó để gọi vua là Dục Đức. Về sau ông bị giam tại ngục thất phủ
Thừa Thiên, bị bỏ đói cho đến chết vào tháng 9 năm Giáp Thân (1884), thi thể bó trong một chiếc
chiếu rách. Hai người lính và và một viên suất đội gánh xác đi chôn trong một ngày mưa gió. Đến
đầu làng An Cựu ở ngoại thành Huế thì dây bị đứt, xác vua rơi xuống cạnh một khe nước nông,
người ta tin rằng, ông đã “tự chọn” nơi yên nghỉ của mình tại đó nên chôn cất qua loa cho xong.
Vì không được quan tâm, chăm sóc, ngôi mộ dần tàn lụi như đất bằng, chẳng ai còn nhớ đó là mộ
vua. Không lâu sau, có một ông lão ăn mày qua đấy bị kiệt sức và chết gục trên nấm mộ Dục Đức.
Dân địa phương đã chôn người ăn mày ngay trên mộ vua mà không hay biết. Về sau, con của Dục
Đức bất ngờ được lên ngôi, lấy hiệu là Thành Thái.
Theo chỉ dẫn của những người am tường sự việc, Thành Thái tìm được mộ của vua cha. Khi cải táng,
lại thấy trong mộ có hai bộ xương nên đành lấp lại và cho xây dựng lăng mộ tại đó vào đầu năm
Canh Dần (1890) và đặt tên là An Lăng. Đó là lăng mộ chứa cả thi hài của ông vua xấu số và ông lão
ăn mày tốt số.
Trần Minh Tông bị ong đốt mà qua đời
Trần Minh Tông là vị vua thứ 5 của nhà Trần, được đánh giá là người “tính trời khiêm hòa, nhận
ngôi của Anh Tông nhường, để tâm vào thú hàn mặc, sính bút ở tập Thủy vân, có thơ khuyên người
hiền, có bài răn uống rượu, dường như cũng đáng khen” ( Việt giám thông khảo tổng luận).
Trong cuộc đời mình, Trần Minh Tông thấy ân hận, day dứt nhất là việc nghe lời xiểm nịnh giết oan
bố vợ đồng thời cũng là chú ruột của mình là Huệ Võ vương Trần Quốc Chẩn vào tháng 3 năm Mậu
Thìn (1328). Sau này vụ việc sáng tỏ, vua lấy làm ân hận cho khôi phục chức tước, sai lập đền thờ
Trần Quốc Chẩn, thế nhưng vụ án oan khuất đó vẫn ám ảnh ông.
Tháng 8 năm Bính Thân (1356) khi đã lên làm Thái thượng hoàng, Trần Minh Tông về thăm đền thờ
cha vợ ở núi Kiệt Đặc (thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương ngày nay). “Khi trở về, trong thuyền ngự có
con ong vàng đốt vào má phía bên trái của Thượng hoàng, rồi Thượng hoàng bị bệnh” (Đại Việt sử
ký toàn thư). Về đến Thăng Long, bệnh tình của Trần Minh Tông ngày một xấu, đến tháng 2 năm
Đinh Dậu (1357) thì qua đời. Theo dã sử, con ong vàng đó chính là oan hồn của Trần Quốc Chẩn về
báo thù.
Vua Lê Cung Hoàn: khát không nước, đói phải xé áo nhai
Lê Cung Hoàng là vị vua cuối cùng của thời Lê sơ. Ông được đưa lên ngôi tháng 12 năm Nhâm Ngọ
(1522), đến tháng 6 năm Đinh Hợi (1527) bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi, sau đó giam cầm rồi bức tử,
thọ 20 tuổi.
Thảm cảnh của vua được sách Đại Việt thông sử cho biết như sau: “Đăng Dung cướp ngôi, phế truất
vua xuống làm Cung vương, giam vua và Thái hậu vào cung Tây Nội, không cho ăn uống gì cả trong 7
ngày, đến nỗi phải xé áo mà nhai”. Còn sách Lê triều dã sử viết rõ hơn: “Giáng vua xuống làm Cung
vương, lại giam vua cùng mẹ vua là Hoàng thái hậu vào cung nội, trời tháng 7 mà một giọt nước
cũng không cho uống, đến nỗi phải xé áo mà ăn”.
Sau đó Mạc Đăng Dung sai mang dải lụa vàng bắt hai mẹ con vua phải tự tử rồi đem xác hai người
phơi bày ngoài quán Bắc Sứ (nay thuộc khu vực phố Quán Sứ, Hà Nội) rồi đưa về chôn ở lăng Hoa
Dương, huyện Ngự Thiên (nay thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình).
Lê Hiển Tông băng hà không có đồ làm tang lễ
Lê Hiển Tông là người làm vua lâu nhất triều Hậu Lê (46 năm, từ 1740 đến 1786). Tháng 7 năm
Bính Ngọ (1786) Lê Hiển Tông lâm bệnh mất. Mọi nghi thức trong lễ tang của ông đều do con rể là
Nguyễn Huệ lo liệu chu đáo. Tuy nhiên ít người biết rằng triều đình lúc đó không chuẩn bị nổi đồ
tang lễ cho vua nên phải trưng dụng đồ “hung minh khí” (quần áo, đồ dùng bằng giấy và các vật
dụng cho người chết) của một viên hoạn quan.
Sách Lê triều dã sử cho hay: “Ngày 17 mưa to gió lớn, trong thành nước dâng lên một thước, đúng
ngày hôm đó vua mất… Xét lúc bấy giờ đang lúc tan tác, cập rập, đồ khâm niệm chưa kịp sắm đầy đủ.
Có nhà viên quan Thái giám là Châu sắm trước đồ hung minh khí chưa sơn thiếp nhưng rất tinh xảo,
bộ Lễ dụ dỗ ông ta đem tiến dâng, bèn lấy dùng. Phát gấm hoa vàng trong kho nội phủ, trang trí
khảm nạm, 5 ngày thì xong, rồi mang quan tài xuống thuyền. Huệ sai Nội tán là Trần Văn Kỷ cùng
Hữu quân Chỉnh hộ tống về Thanh Hóa, chôn ở lăng Bàn Thạch”.
Trần Thái Tông đoán đúng ngày giờ mình chết
Ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu (1277) Trần Thái Tông băng hà, theo sách Đại Việt sử ký toàn
thư, trước đó một năm vị vua này đã đoán trúng thời điểm mình sẽ qua đời, khi ấy ông đã rời ngôi
báu để làm Thái Thượng hoàng được 18 năm:
“Trước đó, Thượng hoàng đến ngự đường, bỗng thấy con rết bò trên áo ngự. Thượng hoàng sợ, lấy
tay phủi nó rơi đánh “keng” xuống đất, nhìn xem thì hóa ra cái đinh sắt, đoán là điềm năm Đinh. Lại
có lần đùa sai Minh tự Nguyễn Mặc Lão dùng phép nghiệm quan nghiệm xem điềm lành hay điềm
dữ.
Hôm sau Mặc lão tâu: “Thấy một chiếc hòm vuông bốn mặt đều có chữ Nguyệt, trên hòm có một cái
kim, một chiếc lược”. Thượng hoàng lại đoán: “Hòm tức là quan tài, chữ “nguyệt” (tháng) ở bốn bên
tức là tháng 4, cái kim có thể cắm vào vật gì, tức là nhập vào quan tài, chữ “sơ” là chiếc lược, đồng
âm với “sơ” là xa tức là sẽ xa rời các ngươi”.
Lại lúc ấy đương có trò múa rối, thường có câu: “Mau đến ngày mồng 1 thay phiên”. Thượng hoàng
lại đoán: “Thế là ngày mồng 1 ta chết”. Năm trước, có một hôm thượng hoàng chợt bảo tả hữu:
“Tháng 4 sang năm ta tất chết”. Quả như vậy”.
Lý Thần Tông kiếp trước là thiền sư Từ Đạo Hạnh
Lý Thần Tông tên thật là Lý Dương Hoán, con của Sùng Hiền Hầu (em ruột Lý Nhân Tông), được Lý
Nhân Tông nhận làm con nuôi rồi truyền ngôi cho năm Đinh Mùi (1127).
Sách Đại Việt sử lược cho biết vua Lý Thần Tông chính là hiện thân kiếp sau của thiền sư Từ Đạo
Hạnh. Từ Đạo Hạnh tên thật là Từ Lộ, ông bị Lý Nhân Tông bắt tội khi yểm bùa trong lễ cầu thác sinh
có con của vua. Lúc đó Sùng Hiền Hầu đi qua, Từ Lộ đề nghị cứu giúp, “ngày sau xin ngụ thai trong
cung để báo đáp công đức này”. Nghe lời xin tha của Sùng Hiền Hầu, vua miễn tội cho, rồi Từ Lộ về
tu ở chùa Thiên Phúc (chùa Thầy, Hà Nội ngày nay). Khi vợ có thai, Sùng Hiền Hầu liền báo tin cho
Từ Lộ, ông liền tắm rửa, thay quần áo và bảo học trò rằng: Mối túc nhân của ta chưa hết, phải làm
thác sinh lần nữa ở đời, tạm làm đế vương…, dặn xong rồi đọc một bài kệ, sau đó hoá. Đồng thời khi
ấy phu nhân Sùng Hiền Hầu sinh con trai, đặt tên là Lý Dương Hoán, đó chính là Lý Thần Tông sau
này.
Dương Bình Vương có tới…3.000 người anh êm
Dương Bình Vương tên thật là Dương Tam Kha, quê ở làng Ràng, xã Dương Xá, đất Ái Châu (nay
thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hoá, Thanh Hoá), là con trai của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ,
thủ lĩnh cuộc kháng chiến chống Nam Hán, giành độc lập cho đất nước năm Tân Mão (931).
Dương Tam Kha lên làm vua đầu năm Ất Tị (945) sau khi cướp ngôi của cháu là Ngô Xương Ngập, ở
ngai báu được hơn 5 năm thì bị lật đổ, sau về ở ẩn. Ít ai biết rằng ngoài anh chị em ruột, vị vua này
có tới 3000 người anh em khác, đó là vì cha của ông là Dương Đình Nghệ “nuôi con nuôi 3000
người, mưu khôi phục cơ đồ” ( Đại Việt sử ký toàn thư).
Có thể thấy việc nhận con nuôi của Dương Đình Nghệ, trong đó có nhiều người là nghĩa sĩ, thủ lĩnh,
thổ hào ở các địa phương chính là phương cách nhằm gắn kết tình cảm, tăng cường sự đoàn kết
chống giặc. Cũng vậy mà con của ông là Dương Tam Kha, nếu tính cả anh chị em ruột gồm Dương
Nhất Kha, Dương Nhị Kha, Dương Thị Ngọc Thư (vợ Ngô Quyền) và Dương Thị Ngọc Vân thì có đến
3.004 anh chị em.
Lý Huệ Tông 3 lần mới đón được vợ
Nếu như thời Hậu Hán, Lưu Bị phải ba lần hạ mình đến lều tranh để cầu hiền, mời Khổng Minh ra
giúp mình thì ở Đại Việt vào cuối triều Lý, vua Lý Huệ Tông cũng mất 3 lần cử người vất vả ra đi
nhưng không phải cầu hiền mà là đón vợ về cung.
Thông thường ngay sau khi lên ngôi các vị vua ban chiếu đại xá thiên hạ, giảm hoặc miễn thuế, bổ
dụng những đại thần có năng lực để phụ tá…Riêng Lý Huệ Tông thì việc làm đầu tiên là lo cho… mối
tình đầu của mình. Ông sai quan phụng ngự đi đón vợ là Trần Thị Dung, người mà ông lấy khi chạy
loạn đến đất Lưu Gia (nay thuộc huyện Hưng Nhân, Thái Bình). Tuy nhiên đoàn rước bị nhà gái từ
chối. Đó là vào tháng 10 năm Canh Ngọ (1210) vua sai người đi đón vợ về nhưng anh trai của bà là
Trần Tự Khánh “không chịu cho đón” (Đại Việt sử lược). Tháng giêng năm Tân Mùi (1211) vua lại sai
người đi đón vợ nhưng Trần Tự Khánh cũng không chịu cho em gái về kinh; đến lần thứ ba, vào
tháng 2 năm đó quan phụng ngự Phạm Bố mới đưa được bà Trần Thị Dung về Thăng Long.
Vua tự mình đánh trống trận đốc chiến
Vị vua đó là Giản Định Đế (1407-1409). Ông tên thật là Trần Ngỗi, là con cháu nhà Trần, được lực
lượng kháng chiến chống quân Minh tôn lên làm vua tháng 10 năm Đinh Hợi (1407) , hào kiệt khắp
nơi nổi dậy hưởng ứng, uy thế ngày một lớn.
Hoảng sợ trước lực lượng của Giản Định Đế, nhà Minh vội sai tướng Mộc Thạch đem 5 vạn quân
sang tăng viện nhằm tiêu diệt nghĩa quân. Ngày 14 tháng 12 năm Mậu Tý (1408) tại bến Bô Cô (nay
thuộc xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, Nam Định), một trận ác chiến long trời lở đất đã diễn ra. Hơn hẳn về
lực lượng, quân Minh ngày càng chiếm ưu thế, trước tình hình đó Giản Định Đế đã tự mình cầm dùi
đánh trống đốc chiến. Quân ta được tăng thêm sĩ khí, ra sức chiến đấu, chém chết nhiều tướng giặc.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư thì trong trận đánh này 10 vạn quân Minh (gồm cả số quân cũ và
quân mới tăng viện) bị giết gần hết, tên tướng giặc Mộc Thạch một mình một ngựa thoát chết chạy
về thành Cổ Lộng.
Lê Thái Tổ có một người êm kết nghĩa dưới gốc thị
Lê Thái Tổ tên thật là Lê Lợi, người sáng lập lên vương triều Hậu Lê sau khi lật đổ ách đô hộ của giặc
Minh. Sự nghiệp của ông thành công có đóng góp không nhỏ của biết bao anh hùng hào kiệt, mưu sĩ
quân sư; có người đã để lại danh tiếng vang dội như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Lai, Nguyễn
Xí, Đinh Lễ… Nhưng trong những người danh tiếng vang dội trên không có ai vinh dự trở thành anh
em nghĩa của Lê Lợi. Vinh dự đó lại thuộc về một người ít được sử sách nhắc tới: ông là Nguyễn
Tuấn Thiện (sau được mang Quốc tính gọi là Lê Thiện).
Nguyễn Tuấn Thiện quê ở Phúc Dương (nay thuộc huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh), thủ lĩnh đội quân
“Cốc Sơn” chống giặc Minh tại quê hương, về sau đem lực lượng ra nhập nghĩa quân Lam Sơn. Thấy
ông là người tài giỏi, thông minh, trung thực, có uy tín với dân chúng trong vùng, Lê Lợi rất yêu mến
nên đề nghị kết nghĩa anh em. Hai người đã giết ngựa trắng uống máu, cắt tóc ăn thề dưới một gốc
cây thị cạnh nhà Nguyễn Tuấn Thiện. Đến nay người dân địa phương vẫn lưu truyền câu thơ: “Cắt
tóc, giết ngựa trắng/Dưới gốc thị thề nguyền/Nguyện đồng tâm đồng chí/Phá giặc xây cơ đồ”.
Vua Tự Đức thuở nhỏ đã từng mơ đỗ Trạng nguyên
Vua Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Thì, còn gọi là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm. Từ nhỏ vị vua này đã
nổi tiếng là người thông minh, hiếu học, ông rất giỏi Nho học, sử học, triết học, văn học nghệ thuật
và đặc biệt là rất sính thơ. Vua đã để lại 600 bài văn, 4.000 bài thơ chữ Hán và khoảng 100 bài thơ
chữ Nôm.
Chính vì giỏi văn chương thơ phú mà vua đâm ra tự phụ, có lần đã nói với quần thần rằng: “Trẫm
không đi thi, nhưng nếu đi thi, tất sẽ đỗ Trạng nguyên”. Thực ra mong muốn đỗ Trạng nguyên của
vua có từ hồi rất nhỏ nhưng ông đã quên mất điều đó và chỉ nhớ ra khi mẹ vua là bà hoàng Từ Dũ
nhắc lại. Trong bài văn “Khiêm cung ký” do Tự Đức viết để cho khắc trên bia đá đặt ở lăng mộ của
chính mình, ông cũng nhắc tới chuyện này: “Lúc biết nói, biết đi, ta từng cầm than viết lên tường. Có
kẻ lấy làm lạ hỏi, ta đáp đó là chữ Trạng, vì đỗ đầu Tấn sĩ, tục gọi là Trạng nguyên. Đó là việc ngày
nay mẹ ta thuật lại”.
Vua Khải Định gửi ngọc khánh tặng Giáo hoàng La Mã
Trong chuyến xuất dương sang thăm nước Pháp năm Nhâm Tuất (1922), vua Khải Định đã gửi tặng
Giáo hoàng ở Vatican một món quà do một đại thần chuyển đến. Theo sách Khải Định chính yếu sơ
tập món quà là một chiếc ngọc khánh kèm theo một bức thư có nội dung như sau: “Giáo hoàng là
chủ của một tôn giáo, dân bản quốc có rất nhiều người tín mộ. Nay quả nhân giá ngự sang triều đình
Đại Pháp để bày tỏ tình hữu hảo ngày trước. Quan đại thần đi theo hộ giá là Đông các Đại học sĩ,
Phúc Môn bá Nguyễn Hữu Bài có xin phép được sang quý thành để chiêm bái Thánh tích, nhân đó
đặc biệt ủy mệnh mang sang tặng cho Giáo hoàng một chiếc Ngọc khánh hạng cực đại cùng với dây
đeo làm kỷ niệm để bày tỏ tấm tình”.
Xét danh sách các Giáo hoàng La Mã thì vị Giáo hoàng được vua Khải Định tặng quà là Giáo hoàng
Pius XI (tên thật là Achille Ratti).
Chuyện tình ái của các vị vua Việt Nam dù không được chính sử sách ghi chép cụ thể nhưng các
nguồn tư liệu dã sử, ngọc phả và các giai thoại dân gian đã cho thấy cả một thế giới đầy màu
sắc.
Vua Bảo Đại từng bị tình địch bắn gãy chân
Vua Bảo Đại là vị hoàng đế đa tình. Khó tính hết được đã có biết bao người phụ nữ đủ các dân tộc,
quốc tịch đi qua cuộc đời ông.
Vì đa tình quá mà không ít lần Bảo Đại suýt rước họa vào thân. Sau khi làm lễ cưới với bà Nguyễn
Hữu Thị Lan (tức Nam Phương hoàng hậu), không lâu sau ông vua này lại đi “du hí” khắp nơi. Có lần
lên Đà Lạt thăm thú cô nhân tình da trắng mắt xanh, Bảo Đại bị ông chồng Tây của cô ta nổi cơn
ghen, vác súng đuổi bắn gẫy chân khiến cho Toàn quyền Đông Dương là Jean Decoux vội cho máy
bay chở vua về Sài Gòn chữa trị và tuyên bố rằng vua đi săn, bị “vấp ngã xuống hố bẫy cọp”. Vì
chuyện này mà một viên quan về hưu đã làm bài thơ trào phúng, trong đó có câu: “Bà đầm chuộng lạ
cần gia vị/Hoàng thượng ăn quen hẳn bén mùi/Thôi Chử ngày xưa còn thí mạng/Nữa là chỉ mất tý
xương thôi”.
Tính trăng hoa của Bảo Đại không chỉ gây rắc rối cho ông mà còn khiến một số người khác bị vạ lây.
Tác giả Lucien Bodart trong cuốn sách Chiến tranh Đông Dương – Sự nhục nhã (xuất bản năm 1973
tại Paris) có đoạn viết: “Nam Phương ghen tuông đã có ý định cho lái xe bắn lén vào những kẻ đang
tình tự ở Đà Lạt. Bà Decoux, vợ quan Toàn quyền đã phải hi sinh thân mình trong vụ đáng buồn này.
Bà đã đi nhanh đến chỗ hẹn hò để ngăn một vụ án mạng có thể xảy ra”.
Án mạng thì không xảy ra nhưng phu nhân Toàn quyền vì phóng xe quá nhanh để ngăn vụ bắn Bảo
Đại và người tình nên đã thiệt mạng vì tai nạn. Bà được chôn tại khuôn viên nhà thờ Vinh Sơn (nay
nằm trên đường Ngô Quyền, phường 6, TP Đà Lạt).
Lý Thái Tổ có đến… 9 bà hoàng hậu
Thái Tổ Lý Công Uẩn, vị hoàng đế sáng lập vương triều Lý, có một “kỷ lục” mà không một vị vua nào
trong lịch sử Việt Nam phá được: ông là vị vua lập nhiều hoàng hậu nhất. Sau khi lên ngôi (1009), Lý
Thái Tổ đã cho lập 6 hoàng hậu. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Lập 6 hoàng hậu, duy có đích phu
nhân gọi là hoàng hậu Lập Giáo, quy chế xe kiệu và y phục khác hẳn với các cung khác”.
Đến tháng 3 năm 1016, Lý Thái Tổ lại lập thêm 3 hoàng hậu nữa là Tá Quốc hoàng hậu, Lập Nguyên
hoàng hậu, Lập Giáo hoàng hậu. Như vậy tổng cộng là 9 hoàng hậu. (Ở đây sử chép 2 lần về Lập Giáo
hoàng hậu, theo sách Việt sử thông giám cương mục: “Điều này chắc sử có lầm, tạm chép lại đó chờ
tra cứu thêm”).
Trong số các bà hoàng hậu của Lý Thái Tổ, có một người là con gái của vua Lê Đại Hành (theo dã sử
bà tên là Phương Hoa, mẹ đẻ chính là bà Dương Vân Nga). Bà hoàng hậu này đã sinh con trai trưởng
cho vua là Lý Thái Tông.
Trần Thái Tông truy tôn vợ như… mẹ?
Tháng giêng năm 1237, Thái sư Trần Thủ Độ thấy Trần Thái Tông lấy Chiêu Thánh hoàng hậu (tức
Lý Chiêu Hoàng) nhiều năm rồi mà vẫn chưa có con, ông bèn ép vua phế Chiêu Thánh xuống làm
công chúa. Sau đó lại ép vua lấy chị dâu của mình là công chúa Thuận Thiên (vợ Trần Liễu, anh trai
vua) khi đó đang có mang 3 tháng và lập làm Thuận Thiên hoàng hậu.
Thuận Thiên hoàng hậu sau này đã sinh cho Trần Thái Tông một số người con là Trần Quốc Khang
(thực ra là con Trần Liễu), Trần Hoảng (tức Trần Thánh Tông), Trần Quang Khải…Tháng 6 năm
1248, bà Thuận Thiên mất, Trần Thái Tông truy tôn vợ mình làm Hiển Từ Thuận Thiên hoàng thái
hậu. Vì chuyện này mà sử sách đã chê cười vì tôn hiệu Hoàng thái hậu chỉ dùng để phong cho người
là mẹ vua mà thôi.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục dẫn lại lời phê của hai sử thần nhà Lê như sau: “Cả
một đời nhà Trần vẫn gọi là đời không có nghi lễ. Việc truy tôn Lý hậu làm Hoàng Thái hậu dễ
thường cũng có; hành động sai lầm như vậy, thật đáng chê cười!” (Lời bàn của Ngô Thì Sĩ). “Hoàng
hậu Lý Thị nguyên là vợ An Sinh vương Liễu, Thái Tông nhân khi Lý thị đã có thai, cướp lấy làm vợ
mình, như thế đã thương luân bội lý lắm rồi, lúc mất lại tôn là Thái hậu, thì còn có nghĩa lý gì? Có lẽ
sau này Thánh Tông lên nối ngôi vua, mới truy tôn Lý Thị là mẹ đẻ của mình, mà nhà làm sử đem
chép lầm ở đây, cũng chưa biết chừng. Nếu không thế thì cướp chị dâu làm vợ, tôn vợ lên như mẹ,
lại còn có nhân đạo gì nữa ư?” (Lời bàn của Nguyễn Nghiễm).
Lê Lợi là con rể của vua Trần Duệ Tông
Đầu năm Đinh Tị (1377) Trần Duệ Tông, vị vua thứ 10 của nhà Trần, trong một trận đánh với quân
Chiêm Thành đã chết trong đám loạn quân. Đến khi quân Minh xâm lược, vợ vua Trần Duệ Tông là
Hoàng hậu Bạch Ngọc đem con gái là công chúa Huy Chân về quê ngoại ở Thổ Hoàng (này thuộc
huyện Hương Khê, Hà Tĩnh) để lánh nạn.
Tại quê hương bà đã chiêu mộ nhân dân, khai hoang lập ấp. Bấy giờ Lê Lợi đã phất cờ khởi nghĩa ở
Lam Sơn. Bà Bạch Ngọc đem ủng hộ nghĩa quân không chỉ nhân lực, lương thực, khí giới, tiền của mà
còn gả con gái Huy Chân cho Lê Lợi. Sau khi lên ngôi hoàng đế, Lê Lợi đã phong Huy Chân làm phi.
Mạc Đăng Dung giết anh êm cọc chèo để cướp ngôi
Tháng 6 năm 1527 Mạc Đăng Dung dẫn quân từ Hải Dương về Thăng Long ép vua Lê Cung Hoàng
nhường ngôi cho mình bằng một bài chiếu giả mạo. Sau đó giam cầm vua rồi bức tử.
Chuyện thoán đoạt ngôi vị sử chép rõ, nhưng không mấy người biết rằng ông vua bị giết và kẻ giết
vua lại là anh em “cọc chèo” với nhau. Hai người này đều là con rể của đại thần Nguyễn Thì Ung.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Thì Ung có hai người con gái, một người tiến cho Thống
Nguyên đế (tức Lê Cung Hoàng-TG), một người gả cho Mạc Đăng Dung, sau được phong làm Thông
quận công”.
Vua Thái Đức có một người vợ người Bana
Trong số các bà vợ của vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc), có một người thuộc dân tộc Bana. Từ trước khi
khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc đã nhiều lần đến các vùng đất của Tây Nguyên để buôn trầu, mua gỗ, mua
ngựa…Ông kết thân với một cộng đồng người Bana ở đây và họ đã gả một người con gái tên là Ya Dố
cho ông.
Theo một số tài liệu viết về nhà Tây Sơn, bà Ya Dố còn được gọi là Cô Hầu, con gái của một tộc
trưởng ở Plây Đê Hmâu (nay thuộc xã Đông, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai). Bà đã giúp Nguyễn Nhạc
trong việc chiêu mộ quân lính thuộc các dân tộc Tây Nguyên, khai hoang ruộng đất ở nhiều nơi để
trồng cây trái làm lương thực nuôi quân. Bà được gọi là Cô Hầu đốc tướng. Nay vùng đất mà bà trực
tiếp tổ chức khai khẩn khi xưa (thuộc làng Tú Thủy, xã Nghĩa An, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai ngày
nay) vẫn được gọi là “Cánh đồng Cô Hầu”
Bố, con và kẻ thù không đội trời chung lại là anh êm cọc chèo
Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) lấy công chúa Ngọc Hân và trở thành con rể vua Lê Hiển Tông. Khi
con cả của Quang Trung là Quang Toản (tức vua Cảnh Thịnh) đến tuổi lập gia đình, công chúa Ngọc
Hân đã làm mối cho người em gái út của mình là công chúa Ngọc Bình. Vậy là hai bố con vua Quang
Trung lấy hai chị em gái và trở thành “anh em cọc chèo” của nhau.
Chuyện đời lắm nỗi éo le, năm Nhâm Tuất (1802) sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh
lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long. Khi chiếm được Phú Xuân, rung động trước sắc đẹp của
Ngọc Bình, ông đã lấy bà làm phi, phong làm đệ tam cung. Thế là Quang Trung và Gia Long, hai kẻ
không đội trời chung ấy lại là “anh em cọc chèo”. Về bà Ngọc Bình, trước những mối lương duyên lạ
kỳ đó, dân gian đã đạt câu ca rằng: “Số đâu có số lạ đời/Con vua mà lại hai đời chồng vua”.
Vua Cảnh Thịnh bị bắt giữ bởi một người điên
Vua Cảnh Thịnh tên thật là Nguyễn Quang Toản, con trưởng của vua Quang Trung. Đến giữa năm
Nhâm Tuất (1802) liên tiếp thất bại trước các cuộc tấn công của quân Nguyễn Phúc Ánh, Quang
Toản phải bỏ kinh đô Phú Xuân, chạy ra Bắc rồi bị bắt và bị xử tử thảm khốc.
Ít người biết rằng mặc dù truy lùng gắt gao nhưng quân Nguyễn Phúc Ánh không bắt được vua
Cảnh Thịnh mà phải nhờ đến sự trợ giúp của một “người điên” cầm đầu một đám ăn mày ở Lạng
Giang (nay thuộc huyện Lạng Giang, Bắc Giang). Sách Quốc sử di biên viết: “Tổng trưởng An Mẫu là
Vũ Thám và Trần Huy Dao ở Kinh Than đem hào mục hai huyện Phượng Nhãn, Lục Ngạn đến vây, 3
ngày không bắt được… Toản, Thiệu cưỡi voi vào ẩn trong rừng sâu. Lúc ấy có tên “thị cuồng” (kẻ
điên ở chợ) hét voi đứng lại, tổng Thám sấn vào, bắt được Toản, Thiệu đem dâng đại quân… Tên “thị
cuồng” trước trú ngụ ở chợ Thương, nuôi vài mươi kẻ ăn xin, sớm tối cầm canh, đánh kẻng sành để
làm hiệu lệnh. Đến bây giờ được thưởng 3 mẫu ruộng, được ban tên là Trung Nghĩa”.
Vua Lê Lợi từng “núp váy đàn bà”
Thời còn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ ách đô hộ của quân xâm lược, có lần bị thua trận, binh
tướng tan tác hết, chỉ còn một mình, Lê Lợi bị giặc Minh đuổi theo ráo riết. Chạy đến bờ đê ven một
ngôi làng bên bờ sông Mã, ông thấy có một quán nước liền vào hỏi thăm đường và nói rõ tình cảnh
của mình. Cụ bà bán nước biết tình thế rất nguy mới nói rõ mọi ngả đường quanh đó đều bị quân
giặc án ngữ cả, không còn lối thoát. Bà nói, nếu không tị hiềm gì thì chỉ còn cách để ông ngồi núp sau
lưng mình rồi trùm váy lên che kín, nhờ vậy mà giặc Minh đi qua không nghi ngờ gì, bà cụ còn chỉ
hướng sai cho chúng đuổi bắt trong vô vọng.
Sau này, khi sự nghiệp đã thành, nhớ ơn bà cụ bán nước, vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đã đón về Thăng
Long phụng dưỡng, tôn làm Quốc mẫu. Khi bà mất, vua cho làm lễ tang trọng thể và xây ngôi đền
thờ phụng gọi là đền Quốc mẫu; ngôi đền này nay vẫn còn ở xã Hoằng Xuân, huyện Hoằng Hoá,
Thanh Hoá. Theo dã sử địa phương, bà cụ tên thật là Hà Thị Diệu Cai, quê ở thôn Quan Nội (nay
thuộc xã Hoằng Anh, huyện Hoằng Hoá).
Trần Anh Tông dùng… chân cứu nhiều người thoát chết đuối
Năm Nhâm Tý (1312) vua Trần Anh Tông dẫn quân Nam chinh đánh Chiêm Thành thắng trận. Khi
trở về ông cho làm lễ thắng trận lại các lăng vua đời trước ở phủ Long Hưng (nay thuộc huyện Hưng
Hà, Thái Bình). Sau đó vua cùng đoàn tùy tùng theo đường thủy trở lại Thăng Long.
Chuyến đi này đã gặp trở ngại và câu chuyện vua dùng chân cứu người được sách Đại Việt sử ký
toàn thư cho biết như sau: “Khi về đến sông Thâm Thị (một đoạn sông Hồng chảy qua huyện Thanh
Trì, Hà Nội ngày nay- TG), bỗng gặp mưa gió sấm chớp, ban ngày mà tối đen như đổ mực, trong
khoảng gang tấc cũng không nhìn thấy nhau. Dây buộc thuyền đều bị đứt cả, thuyền ngự chìm ở
giữa dòng. Vua bám lấy đầu thuyền leo lên mui, lấy chân cho các cung nữ, nữ quan bám lấy để cùng
leo lên mui.”
Sợ giặc cướp bóc, vua Phế Đế mang tiền đi giấu
Vị vua bị sử sách chê cười về hành động này là Trần Phế Đế, ông là vua thứ 11 của nhà Trần, tên thật
là Trần Hiện, do bị phế truất nên sử thường gọi là Phế Đế.
Thời gian trị vì của Trần Phế Đế, triều chính bất ổn, đất nước suy vi, cướp bóc nổi lên nhiều nơi, lân
bang xâm lấn. Vào năm Mậu Ngọ (1378) quân Chiêm Thành từ phía nam tấn công ra bắc, chiếm
được cả Thăng Long, cướp bóc đốt phá hết rồi mới rút… Lo sợ giặc cướp, năm Kỷ Mùi (1379) vua
Trần Phế Đế đã hai lần sai người mang tiền đi giấu, sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Tháng 9,
sai quân dân chở tiền đồng giấu vào núi Thiên Kiện (núi Thiên Kiện trước gọi là núi Địa Cận, tục
truyền có cây tùng cổ, rồng quấn ở trên, Trần Thái Tông dựng hành cung ở đó). Mùa đông, tháng 10,
giấu [tiền] ở khám Khả Lãng thuộc Lạng Sơn, là vì sợ nạn người Chiêm đốt cung điện”.
Sử thần nhà Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên đánh giá về việc này như sau: “Thiên tử có cả bốn biển, kho tàng
phủ khố đâu chẳng phải là của mình? Đương khi nước nhà nhàn hạ thì làm tỏ chính hình, sửa sang lễ
nghĩa, ví như con chim đi lấy rễ dâu ràng buộc cửa tổ (ý nói phải đề phòng sự biến lúc chưa xảy ra),
thì ai làm nhục mình được? Thế mà sợ tai nạn Chiêm Thành đốt cướp, đem chở tiền của giấu tận
hang cùng núi thẳm, làm kế tránh giặc, thực là nhử giặc đến, chuốc lấy tiếng chê cười của đời sau”
(Đại Việt sử ký toàn thư).
Vua Gia Long được xóm “cái bang” cứu giúp
Vị vua sáng lập vương triều Nguyễn là Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) khi đánh với quân Tây Sơn đã
nhiều lần thất bại, bị truy đuổi gay gắt và không ít lần rơi vào hoàn cảnh quấn bách, nguy khốn
nhưng đều may mắn được cứu giúp.
Thú vị nhất là chuyện Nguyễn Phúc Ánh được những người ăn mày thuộc một xóm “cái bang” giúp
đỡ qua cơn hoạn nạn. Một lần thua trận, chỉ còn một thân một mình Nguyễn Phúc Ánh trốn vào khu
cư ngụ của đám ăn mày ở làng Nhơn Ngãi ngoại thành Gia Định (nay thuộc phường Phạm Ngũ Lão,
quận 1, TP HCM). Không rõ vì biết thân thế hay vì cảm thương một người sắp lâm vào cảnh chết
chóc, hoặc cũng có thể do tính nghĩa hiệp mà họ đã ra tay cứu giúp Nguyễn Phúc Ánh.
Những người ăn mày đưa ông đi ẩn nấp rồi gọi cả nhóm “cái bang” la hét ầm ĩ, đánh trống, đập
thùng, gõ xoong chảo… làm như nơi đây có binh hùng tướng mạnh khiến cho toán quân Tây Sơn
đang truy đuổi sợ gặp phục binh của chúa Nguyễn bèn rút lui.Về sau, khi đã lên ngôi hoàng đế, nhớ
tới ơn xưa, vua Gia Long đã ban thưởng cho những người ăn mày từng cứu giúp mình. Ông cho phép
họ lập thành xóm rồi ban cho ba chữ Tân Lộc Phường lấy làm tên xóm.
Vua Tự Đức lấy trẻ con làm lính thị vệ
Lính thị vệ là những người bảo vệ vua được tuyển chọn rất cẩn thận. Họ phải đảm bảo ít nhất hai
yêu cầu: tuyệt đối trung thành và giỏi võ nghệ. Thế nhưng có trường hợp đặc biệt, vua Tự Đức đã
đặc cách phong hai đứa trẻ làm thị vệ.
Bấy giờ, vào năm Kỷ Mùi (1859), ở Quảng Trị có một khu trại tre rộng hơn một mẫu, có rất nhiều
chim về làm tổ. Biết vua thích săn bắn, các quan địa phương đã niêm yết cấm dân thường vào đó
phá phách, để dành riêng nơi đây cho vua hàng năm ra săn bắn. Một lần vua Tự Đức ra Quảng Trị,
ông không muốn kinh động nên truyền cho tùy tùng đứng ở xa đợi, còn vua mặc thường phục, một
mình mang súng vào bắn chim. Bỗng đâu xuất hiện hai đứa bé chăn trâu chừng 11- 12 tuổi, chúng
giằng súng, níu áo không cho bắn, nói là làm như thế cả làng sẽ bị tội và cho biết ở đây chỉ có vua
được bắn chim thôi.
Vua Tự Đức rất bất ngờ, ông liền quay ra gọi các quan và sai trở về kinh, mang theo 2 đứa
trẻ , phong chúng làm Ngũ đẳng thị vệ. Vua còn ban tiền bạc khen ngợi cha mẹ chúng vì đã đẻ con có
nghĩa, biết dạy con lòng trung thành.
Trần Nhân Tông giữa đường xử kiện
Tháng 10 năm Canh Thìn, vua Trần Nhân Tông đang đi trên đường thì có người dân đón
đường mong được minh xét. Vua đã xử án ngay giữa đường, phát hiện ra một số quan lại
lộng quyền ức hiếp người dân.
Là người nắm uy quyền tối cao nên mặc dù đặt ra cơ quan chuyên phụ trách việc hình án, xử lý kiện
tụng nhưng trong một số trường hợp nhất định, có những vị vua Việt Nam đã trực tiếp xử án. Như
trường hợp vua Trần Nhân Tông, nhưng chuyện ông xử án rất đặc biệt, không phải tại cung đình,
trong công đường mà ở giữa đường.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” cho hay, vào tháng 10 năm Canh Thìn (1280) khi vua đang đi trên
đường thì phải dừng xe lại để xử kiện: “Em Đỗ Khắc Chung* là Đỗ Thiên Thư kiện tụng với người
dân, tình lý đều trái. Người dân kia đón xa giá để kêu bày.
Vua hỏi quan xử kiện. Viên quan đó trả lời: “Án xử đã xong, nhưng hình như quan thoái thác không
chịu chuẩn định đó thôi”.
Vua nói: “Đó là do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy!”. Ngay lúc đó, vua sai Chánh trưởng nội thư hỏa
là Trần Hùng Thao kiêm chức kiểm pháp quan để chuẩn định. Thiên Thư quả nhiên làm trái, Quan
áo xanh (tức là hoạn quan) được làm việc kiểm pháp bắt đầu từ Hùng Thao.
Đánh giá về câu chuyện này, nhà sử học thời Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên viết: “Người kiện có điều oan
uổng mà được dễ dàng kêu bày, hình quan để chậm án, không thấy có lời trách hỏi, hoạn quan nội
thần lạm cử làm pháp quan, vua làm việc này có có ba lầm lỗi kèm theo, nhưng như vậy thì dân tình
được thấu lên trên. Việc cai trị dân, thà sai để khoan thứ để cho án kiện đọng lại được xử ngay, cũng
đủ thấy được lòng trung hậu của vua” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Lê Ý Tông – vua đầu tiên cấp lính hầu cho người đỗ Tiến sĩ
“Trị nước tất phải nhờ ở nhân tài, mà cầu tìm nhân tài ắt phải do đường khoa mục”(Bia Tiến sĩ khoa
Bính Tuất – 1706).
Nhận thức được tầm quan trọng của nhân tài, nhà Hậu Lê đã đề ra rất nhiều chính sách ưu đãi thể
hiện qua việc ban ơn kèm theo những hình thức tôn vinh, đề cao những bậc hiền tài như treo bảng
vàng, xướng tên, ban yến tiệc, ban mũ áo cân đai, cho vàng bạc, vật phẩm, dựng nhà cho ở, khắc tên
trên bia Tiến sĩ…. Trong cuốn sách Kiến văn tiểu lục của mình, Lê Qúy Đôn đã dẫn ra một số đãi ngộ
của triều đình đối với người thi đỗ tiến sĩ và nhấn mạnh rằng: “Bản triều từ lúc trung hưng đến nay,
đối với người đỗ khoa tiến sĩ, đãi ngộ rất hậu, bổ dụng rất cao, … Ân điển này, so với việc đặt khoa
mục ở Trung Quốc từ xưa đến nay chưa từng có”.
Ngoài các ưu ái đó, giữa năm Bính Thìn (1736) vua Lê Ý Tông quy định mức hẫu đãi cấp cho các tiến
sĩ lính hầu với số lượng khác nhau: “Định lệ xuất lính theo hầu quan văn có thứ bậc, khoa thi tiến sĩ
đỗ Trạng nguyên thì được lính hầu 55 suất, Bảng nhãn 50 xuất, Thám hoa 45 xuất, Hoàng giáp mỗi
người 40 xuất, tiến sĩ mỗi người 35 suất. Khoa thi Đông các, trúng cách thứ nhất được 30 suất, trúng
cách thứ nhì 25 suất, trúng cách thứ ba 20 suất” (Đại Việt sử ký tục biên).
Lê Chiêu Thống không có chìa khóa phải đứng chờ ngoài cửa thành
Nếu như vào cuối tháng 3 năm 2011 vừa qua, truyền thông thế giới truyền đi hình ảnh Tổng thống
Mỹ Obama không thể mở cửa vào phòng làm việc của mình tại Nhà Trắng vì cửa văn phòng bị khóa,
nhân viên không được thông báo Tổng thống đã trở về sớm hơn dự định sau chuyến công du tới các
nước Mỹ Latinh, sự kiện này được coi như là một câu chuyện thú vị.
Còn ở Việt Nam, vị hoàng đế cuối cùng của nhà Hậu Lê là Lê Chiêu Thống cũng có lần rơi vào tình
cảnh phải đứng chờ ở ngoài kinh thành vì không có chìa khóa mở cửa. Lý do xuất phát từ sự chậm
trễ của một vị quan tên là Nguyễn Bá Lan, ông quê ở Cổ Linh, huyện Gia Lâm (nay thuộc quận Long
Biên, Hà Nội), đỗ tiến sĩ khoa Ất Tị (1785).
Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” cho biết về tình huống này như sau: “Đinh Mùi, Lê
Mẫn Đế, năm Chiêu Thống thứ nhất (1787). Đời nhà Thanh, năm Càn Long thứ 52. Tháng giêng, mùa
xuân, làm lễ tế Giao. Theo thể lệ cũ, khi tế Giao, xa giá nhà vua từ cửa Đại Hưng đi ra. Mở, đóng cửa
này do viên Phủ doãn Phụng Thiên giữ chìa khóa. Bấy giờ Nguyễn Bá Lan làm Phủ doãn, theo hầu
ngự giá nhưng đi sau. Kịp khi nhà vua về cung phải chờ chìa khóa hồi lâu, không vào được. Triều
thần muốn trị tội Bá Lan nhưng nhà vua đặc cách tha cho”.
Tình cảnh bi đát của vua Quang Toản trước khi bị bắt
Tháng 9 năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung đột ngột qua đời, thọ 39 tuổi, triều thần tôn người
con thứ của ông là Nguyễn Quang Toản lên ngôi, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh, đến tháng 8 năm Tân
Dậu (1801) đổi niên hiệu thành Bảo Hưng.
Nguyễn Quang Toản là Hoàng đế cuối cùng của triều Tây Sơn. Trong thời gian ở ngôi của vị vua trẻ
tuổi này, họ ngoại chuyên quyền, triều chính suy vi, các đại thần mâu thuẫn qua giết hại lẫn nhau tạo
cơ hội cho Nguyễn Phúc Ánh đem quân phản công, chiếm được kinh đô Phú Xuân.
Vua Quang Toản chạy ra Bắc rồi để mất Thăng Long, cuối cùng phải chạy lên Lạng Giang thì bị bắt.
Tình cảnh trước khi bị bắt của vua được sách “Quốc sử di biên” chép lại như sau: “Toản cùng em là
Thiệu đội mưa mà đi, sai Tư mã Dụng đem quân Vũ lâm, đô đốc Di đem quân Dực lâm đều cầm
gươm vàng, kích bạc; Thiếu úy Lương, Đô đốc Thận cùng đi theo. Đến Bắc trấn, nghe nói tiên phong
của đại quân (Nguyễn) đã vào thành Thăng Long, mà hào mục bốn phương đón đánh khắp nơi, quân
dân lìa tan, vừa đi vừa chửi, bèn chạy cả lên Lạng Giang. Đến Thọ Xương, cầu bị dân phá, Toản ngoái
nhìn những người tả hữu mà than rằng: ‘Lũ ngươi ngày thường tuyên giương đức hóa, không biết
làm được những việc gì mà để dân tình như thế!’. Bèn cưỡi coi sang sông, người đi theo chỉ còn vài
trăm”.
Vua Tự Đức làm vè châm biếm các quan
Có lẽ Tự Đức, hoàng đế thứ 4 của nhà Nguyễn là vị vua duy nhất trong số các đế vương nước Việt
làm vè, càng lạ hơn qua nội dung của bài vè này vua đã châm biếm các đại thần của mình.
Sự tình bắt đầu từ việc tháng 4 năm Bính Tý (1876), vua Tự Đức cùng triều thần ra cửa Thuận An
(còn được gọi là cửa Eo, cửa Nộn cách Huế khoảng 15 km) để quan sát dân tình. Bỗng xuất hiện 2
chiếc thuyền của bọn cướp biển Tàu Ô tấn công 9 chiếc thuyền chở hàng của quân Nguyễn. Chúng
bắn giết khiến thuyền của triều đình bỏ chạy tán loạn, những thuyền chiến được cử ra đánh thì súng
thần công bắn không tới, phát thì trượt, phát thì không nổ. Không những thế bọn cướp bắn lại khiến
cho quân ta nhiều người bị thương vong, sau một hồi cướp giết, thuyền Tàu Ô bỏ đi.
Tận mắt thấy cảnh trớ trêu, bi thảm, tinh thần yếu kém bạc nhược của quan quân, vua Tự Đức ngao
ngán trở về triều nhưng không ban lệnh trách phạt ai cả. Trái lại vua dùng “đòn bút” làm cho những
người có liên quan phải hổ thẹn bằng một bài vè châm biếm, trong đó có đoạn:
“Nghênh ngang võng võng, dù dù
Bài vàng xiêm mũ xuân thu tháp đầu
Cũng không tài cán chi đâu
Rồi ra múa mỏ, vểnh râu một bè
Phen này mắt thấy, tai nghe
Tham sinh quý tử một bề như nhau
Ăn thì giành trước giành sau
Đến khi có giặc thụt đầu, thụt đuôi
Cũng xưng rằng đấng làm tôi
Cớ sao chẳng biết hổ ngươi trong mình!”.
Bảo Đại – vua duy nhất phản đối chế độ đa thê
Cuộc đời vị hoàng đế cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam thường được gắn với những
chuyến thăm thú, vui chơi và nhất là những câu chuyện tình ái với biết bao bóng hồng tuyệt sắc Á,
Âu. Tuy nhiên ông cũng chính là vị quân vương duy nhất trong lịch sử công khai tuyên bố phản đối
chế độ đa thê.
Chuyện kể rằng để lấy được người đẹp Nguyễn Hữu Thị Lan, vua Bảo Đại đã phải chấp nhận 4 điều
kiện của bà. Trong đó điều đầu tiên là phải tấn phong hoàng hậu ngay trong ngày làm lễ thành hôn.
Vị hoàng đế đa tình đã chấp nhận tất cả để rồi cô con gái của một hào phú Nam bộ đã trở thành
Hoàng hậu Nam Phương. Đáng lẽ ra bà Nguyễn Hữu Thị Lan còn đặt thêm điều kiện “chỉ một vợ một
chồng, vua không được có nhiều phi tần”, nhưng bà không đưa ra điều kiện này vì trong một buổi
bàn về chuyện hôn nhân của vua, Bảo Đại là nói với triều thần rằng ông chống lại tục đa thê.
Sau này, trong cuốn hồi ký “Le Dragon d’ Annam” (Con rồng An Nam) của mình, chính Bảo Đại cũng
đã cho biết lý do ông phản đối tục đa thê: “Như tôi đã có dịp nói, tôi đả phá chế độ đa thê đang thịnh
hành ở Việt Nam. Khi phong tôi làm Đông cung Thái tử, không có gì khó khăn vì tôi là hoàng tử độc
nhất của Hoàng phụ tôi. Nhưng tôi biết đã xảy ra nhiều tấn bi kịch đẫm máu vì sự tranh chấp kế vị,
nhiều khi rất hèn hạ xấu xa giữa anh em ruột hay anh em cùng cha khác mẹ. Tôi không muốn giẫm
lên vết xe đổ ấy nữa”.
Do xuất thân từ nghề đánh cá nên tên của con cháu họ Trần đều đặt theo tên các loài cá, chính
vì vậy khi làm sách “Hoàng tông ngọc điệp”, Trần Thánh Tông đã cho đổi tên Nôm thuộc bộ cá
(Ngư) sang tên chữ Hán
Lý Thánh Tông đổi niên hiệu vì được dâng voi trắng
Niên hiệu là danh hiệu của vị vua được đặt khi lên ngôi để thần dân trong nước gọi thay cho tên
chính, đồng thời để tính năm trị vì. Theo các từ trong niên hiệu, người ta thấy niên hiệu bắt nguồn
từ triết lý vương quyền trong Nho giáo, theo lý thuyết này, vua trị nước là do mệnh trời vì thế niên
hiệu đều mang ý nghĩa tốt đẹp. Khi có một sự kiện lớn, hoặc nhằm giải trừ những điều không may
mắn, một vị vua có thể cho cải nguyên (đổi niên hiệu).
Với Lý Thánh Tông, vị hoàng đế thứ 3 của triều Lý, trong 18 năm trị vì (1054 – 1072) ông đã 5 lần
đặt niên hiệu; đó là: Long Thuỵ Thái Bình (1054 – 1058), Chương Thánh Gia Khánh (1059 – 1065),
Long Chương Thiên Tự (1066 – 1068), Thiên Huống Bảo Tượng (1068 – 1069), Thần Vũ (1069 –
1072). Đặc biệt niên hiệu thứ 4 được vua đặt liên quan đến một vật cống của đại thần, sử chép rằng
vào tháng 2 năm Giáp Thân (1068), “châu Chân Đăng dâng 2 con voi trắng, nhân thế đổi niên hiệu là
Thiên Huống Bảo Tượng thứ 1” (“Đại Việt sử ký toàn thư”).
Đây là lý do đổi niên hiệu rất lạ, niên hiệu này có nghĩa là Trời ban cho con voi quý; mặt khác niên
hiệu Thiên Huống Bảo Tượng là một ẩn ý gắn với sự tích Hoàng hậu Ma-Da nằm chiêm bao thấy voi
trắng 6 ngà còn non từ trên không bay xuống và chui vào hông phải, sau đó bà thọ thai, đủ tháng đủ
ngày sinh hạ ra hoàng tử Tất-Đạt-Đa (sau này tu hành đắc đạo trở thành đức Phật Tổ Thích Ca Mâu
Ni).
Trần Thánh Tông làm gia phả, đổi tên của tổ tiên
Gia phả là bản ghi chép tên họ, tuổi tác, vai trò và công đức của cha mẹ, ông bà, tiên tổ… trong thời
đại mà họ đã sinh ra và lớn lên của một gia đình hay một dòng họ. Đối với các quân vương, gia phả
của vương triều thường được gọi là Ngọc phả, Thế phả, Ngọc điệp…
Năm Bính Dần (1266), vua Trần Thánh Tông sai làm gia phả của hoàng tộc nhà Trần, gọi là “Hoàng
tông ngọc điệp”; điều thú vị ở đây là tên của tổ tiên họ Trần đều được đổi lại. Sách “Đại Việt sử ký
toàn thư” cho biết về nguồn gốc của Trần Thái Tông, vị vua đầu tiên của nhà Trần như sau: “Trước
kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến ở hương
Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá.
Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, Kiến Gia thứ 8 triều Lý”.
Do xuất thân từ nghề đánh cá nên tên của con cháu họ Trần đều đặt theo tên các loài cá, chính vì vậy
khi làm sách “Hoàng tông ngọc điệp”, Trần Thánh Tông đã cho đổi tên Nôm thuộc bộ cá (Ngư) sang
tên chữ Hán với bộ Nhật, bộ Sơn, bộ Mộc. Trong cuốn “Đông A liệt thánh tiểu lục” cho biết Trần Kinh
tên thật là Kình (cá kình), Trần Hấp tên thật là Chắm (cá chắm), Trần Lý tên thật là Chép (cá chép),
Trần Thừa tên thật là Dưa (cá dưa), Trần Liễu tên thật là Nheo (cá nheo), Trần Cảnh tên thật là Canh
(cá lành canh)…
Lê Thánh Tông làm thơ… cầu được mưa
Cuộc đời hoàng đế Lê Thánh Tông có rất nhiều giai thoại lạ kỳ được lưu truyền trong dân gian, dã
sử, thần tích, tuy nhiên cũng có những chuyện được ghi chép trong chính sử, như câu chuyện vua
làm thơ cầu được mưa.
Tháng 2 năm Bính Thìn (1496), đi thuyền từ Thăng Long về quê hương ở xứ Thanh Hoa để làm lễ
bái yết, tấu cáo tại lăng tẩm các tiên vương đời trước. Ngày 14 tháng đó, vua nghe nói trời không
mưa đã nhiều ngày bèn làm lễ cầu đảo, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép rằng: “Trời không mưa,
vua cầu đảo, tự tay viết ra 4 tờ tập thơ đã soạn, sai Nguyễn Đôn đem dán ở vách đền thần. Hôm ấy
trống canh một, trời mưa nhỏ, đến canh 5 mưa to, nước tràn trề. Vua liền đề thơ ở miếu Hoàng Hựu
rằng :
“Cực linh anh khí chấn dao thiên
Uy lực nghiêm đề tạo hóa quyền
Khấu vấn sơn linh năng nhuận vật
Thông vi cam vũ tác phong niên.”
Nghĩa là:
“Rung trời anh khí rất thiêng liêng
Tạo hóa trong tay nắm giữ quyền
Thần núi nếu hay nhuần thấm vật
Hóa làm mưa ngọt được mùa liền”.
Vị vua đầu tiên dùng tranh vẽ bằng sơn trong cung đình
Không rõ việc dùng sơn để vẽ tranh ở nước ta có từ bao giờ nhưng trên một số di vật thuộc di chỉ
thời Đông Sơn như Việt Khê (Hải Phòng), Đồng Dù (Thanh Hóa)… đã có sử dụng sơn. Sau này sơn
càng được sử dụng rộng rãi, không chỉ sơn son thiếp vàng ở cung vua, phủ chúa mà còn được dùng
trong sản xuất hàng hóa như tráp gỗ, mái chèo…hoặc trang trí tượng thờ, vẽ tranh.
Theo một câu chuyện ghi lại trong gia phả họ Đào ở làng Thọ Vực (xã Bảo Vực, huyện Văn Giang,
Hưng Yên) thì có lẽ bức tranh sơn dầu đầu tiên được trang trí trong cung đình là do vua Lê Dụ Tông
đặt vẽ. Chuyện rằng có người thợ vẽ tên là Đào Thúc Kiên vốn làm nghề nhuộm, giỏi pha mầu di cư
lên Thăng Long, trú tại phường Nam Ngư, tổng Vĩnh Xương, huyện Thọ Xương (nay thuộc phường
Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) làm nghề sơn dầu, vẽ tranh. Ông vẽ rất đẹp, tiếng đồn truyền
vào tận trong cung, vua Lê Dụ Tông sai người đến đặt ông vẽ bức tranh quả dưa bở có cành lá, hạn 5
ngày phải xong.
Do là người ham uống rượu nên cứ lần khân mãi, khi chỉ còn 1 ngày nữa là đến hạn hoảng quá ông
liền mang bút vẽ nhưng không đủ thời gian cho sơn kịp khô, chẳng biết làm sao ông Kiên mang bức
tranh ra sân phơi, không ngờ lớp sơn dày gặp nắng từ xanh chuyển sang hoe vàng, nứt rạn tạo
thành quả dưa bở nứt rạn tự nhiên như quả dưa thật. Nhìn bức tranh ai cũng đều tấm tắc khen ngợi,
vua Lê rất hài lòng liền cho triệu ông vào cung phụ trách các thợ lo việc trang trí nội điện.
Vua Minh Mạng phong chức quan cho một người ngủ ngoài hè đường
Là hoàng đế rất nghiêm túc trong việc tuyển chọn người có phẩm hạnh, tài năng để phong chức
quan lo việc quản lý tại các công đường, dinh thự trên khắp cả nước, nhưng có lần vua Minh Mạng
đã cho một người làm quan trong một tình huống rất lạ, người đó là Đỗ Công Lãm.
Sách “Quốc sử di biên” cho hay: “Lãm trước kia là học trò, ở kinh, trọ nhờ tại Thái y viện để dạy học.
Một hôm, ngủ ngày ở hiên ngoài, xe vua đi qua, Lãm không biết, bị lính Cẩm y vệ quát tháo. Lãm
thức dậy vội vàng chạy tránh, sau lại quay về lạy, nhận tội. Vua khen là người có nho hạnh, bảo Thái
y viện cử giữ chức Mậu uẩn. Chưa được bao lâu, vua triệu vào, bổ làm Huấn đạo, cai quản huyện
Hiệp Hòa, rồi thăng làm Tri phủ Ninh Giang”.
Khải Định kêu gọi dân chúng mua công trái
Công trái là hình thức nhà nước vay vốn của người dân, trong thời hạn nhất định người cho vay
được quyền thu lại vốn và hưởng lãi theo quy định. Trước đó người cho vay chuyển tiền cho nhà
nước và được nhận công trái là loại giấy tờ có ghi mệnh giá, đây được coi là tờ giấy bảo đảm bảo
đảm trong khâu thanh toán cả gốc lẫn lãi của nhà nước.
Công trái xuất hiện ở nước ta từ cuối thời Nguyễn, giai đoạn bị Pháp đô hộ; theo sử sách thì trước
tình hình khó khăn tại chính quốc, chính quyền bảo hộ Pháp đã ép triều Nguyễn phải mua công trái.
Tháng 10 năm Đinh Tị (1917) vua Khải Định dụ rằng: “Chia sẻ lo buồn với bạn mà còn lần lữa lâu
ngày thì còn gì là tình nghĩa lân bang. Hơn nữa đây lại là cho vay lấy lãi, nhẽ phải dốc hết của nhà ra
mới gọi là tận tình, tận nghĩa. Khổ nỗi nhìn lại kho quỹ nước ta rỗng tuếch, khắp các hạt đất cằn, dân
nghèo khiến ý nguyện khó thành, đúng là giàu lòng mà không giàu của, nghĩ cũng thấy vô cùng xấu
hổ. Đành chỉ nên trích ra cho trẫm 1 vạn đồng bạc gọi là một chút tình của trẫm đem ra trợ giúp, còn
các quan trong triều cũng nên trích ra một phần bổng, … Còn trong dân gian cũng đã thực hiện vận
động mua công trái, tất cũng có triển vọng tốt, không cần nói đến ở đây” (Quốc sử di biên). Đến
tháng 9 năm (1918) Khải Định lại kêu gọi “người nước ta từ các quan lại xuống đến các tầng lớp sĩ
công nông thương, nếu ai còn dư của thì đều nên kịp thời mua công trái để giúp đỡ, vừa được thu lãi
lại vừa được vinh dự vẻ vang”.
Đầu năm Canh Thân (1920), Khải Định lại dụ dân chúng “quyên mộ quốc trái” của Pháp để “làm tròn
nghĩa vụ với nước bạn”. Đến tháng giêng năm Nhâm Tuất (1922), theo yêu cầu của Pháp, vua Khải
Định cho mở khoản công trái 6 triệu đồng để có tiền xây dựng tuyến đường sắt nối từ Thành Vinh
(Nghệ An) với Đông Hà (Quảng Trị). Bài dụ có đoạn: “Xây dựng tuyến giao thông đường sắt giữa Bắc
Kỳ và Trung Kỳ là rất hợp thời, nếu không vất vả một phen thì làm sao có cái an nhàn mãi mãi,
không chịu phí tổn nhất thời làm sao có được yên ổn lâu dài. Các bậc hào phú ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ
hãy xét cho dụng tâm kinh tế của triều đình mong muốn có toàn dân hưởng lợi lạc, từ đó mở lòng
nộp vào công trái cho đủ số tiền” (Quốc sử di biên).
Nguyễn Công Trứ nổi danh thiên hạ vì tài kinh bang tế thế, về tài thơ và tính ngông nghênh
ngạo đời. Ông thường tổ chức hát xướng, tổ tôm, đàm đạo thơ văn, xưng mình là Lão Trang, tỏ
ý khinh thường danh lợi. Chuyện đến tai vua Minh Mạng…
Lý Huệ Tông hai lần tự cắt tóc, cạo đầu định đi tu
Tháng 10 năm Giáp Thân (1224), trước sức ép của thế lực họ Trần đứng đầu là Trần Thủ Độ, vua
Lý Huệ Tông đã xuống chiếu truyền ngôi cho con gái thứ là Lý Phật Kim (Chiêu Hoàng) rồi đi tu ở
chùa Chân Giáo trong hoàng thành Thăng Long với pháp hiệu là Huệ Quang thiền sư.
Ông xuất gia tu hành kể từ đó cho đến tháng 8 năm Bính Tuất (1226) thì bị bức tử, thọ 32 tuổi. Thực
ra trước khi xuất gia, Lý Huệ Tông đã hai lần định cắt tóc, cạo đầu với ý muốn đi tu, lần đầu là vào
tháng 2 năm Nhâm Thân (1212). Lúc đó sau nhiều lần chạy lánh nạn trước cảnh các thế lực cát cứ
đánh giết lẫn nhau, triều đình không thể chế ngự được, theo sách “Đại Việt sử lược” vì chán nản Lý
Huệ Tông đã “tới trước bàn thờ Phật thề rằng:
– Trẫm là người đức bạc, thẹn nối cơ đồ quý báu, đến nỗi loạn ly, gần sụp đổ mất cơ nghiệp của
người xưa, để cho cung giá phải nhiều lần đổi dời. Nay trẫm muốn thoái lui nhường ngôi trời cho
người hiền đức.
Nói đoạn vua cầm dao định cắt tóc để đi tu. (Trần) Tự Khánh và quần thần đều khấu đầu khóc lóc,
vua mới thôi”.
Tháng 5 năm Ất Hợi (1215) tình hình xã hội ngày càng rối loạn, Lý Huệ Tông lại nói với quần thần
rằng:
– Trẫm muốn thoái vị, các khanh thấy thế nào?
Quần thần đều khóc lóc can ngăn, vua không nghe, bèn cùng Thái hậu dùng dao cạo tóc (Đại Việt sử
lược). Tuy nhiên ý định của Lý Huệ Tông không thực hiện được, quân phản loạn tấn công kinh
thành, đốt cháy cả cung điện khiến vua một lần nữa phải chạy loạn, đến ở nhà một viên đại thần,
thậm chí có lần phải sai người dựng nhà tranh mái lá để ở. Cuối cùng chẳng còn cách nào khác, vua
đành dựa vào anh em họ Trần để đánh dẹp các phe phái khác, dần dần để quyền lực mất về tay
chính dòng họ này, đến nỗi mất ngôi, mất mạng.
Trần Thái Tông uống rượu, ca hát cùng các quan
Khi nói về sức mạnh của Đại Việt giúp làm lên chiến thắng oanh liệt trước giặc Nguyên-Mông hung
bạo, danh tướng Trần Hưng Đạo cho rằng đoàn kết nội bộ là một nhân tố cực kỳ quan trọng tạo
thành sức mạnh đó, ông nói: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà chung sức”.
Việc vua tôi nhà Trần đồng lòng, đồng sức được thể hiện rất rõ, như câu chuyện xảy ra trong một
buổi yến tiệc vào tháng 3 năm Tân Hợi (1251) là minh chứng tiêu biểu. Khi đó vua Trần Thái Tông
“ban yến ở nội điện, các quan đều dự. Đến khi rượu say, mọi người đứng cả dậy, dang tay mà hát.
Ngự sử trung tướng (sau đổi là Trung úy) Trần Chu Phổ cũng dang tay theo mọi người nhưng không
hát câu gì khác, chỉ nói: “Sử quan hát thế thôi, sử quan hát thế thôi!” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Đánh giá về chuyện này, sử thần nhà Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên bàn rằng: “Xem thế đủ thấy bấy giờ vua
tôi cùng vui, không gò bó vào lễ phép, cũng là điều giản dị, chất phát của phong tục, nhưng không có
tiết độ”.
Lê Thánh Tông quy định tuổi “nghỉ hưu” của các quan
Chế độ trí sĩ (hưu trí) cho quan lại được quy định lần đầu tiên dưới thời Lê Thánh Tông, với độ tuổi
65. Từ đời Lê Trung Hưng trở về sau nâng lên 70 tuổi; thực tế nếu ai muốn xin nghỉ sớm phải làm tờ
tâu lên vua để được xem xét, chuẩn y.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết vào tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462) vua “ra sắc chỉ cho cả
nước rằng: Kể từ nay, các quan viên văn võ làm việc đến 65 tuổi muốn nghỉ việc, các lại điển, giám
sinh, nho sinh, sinh đồ tuổi từ 60 trở lên muốn về làm dân, thì đều cho người đó nộp đơn ở Lại bộ
rồi xếp loại tâu lên để thi hành”.
Đến đời Lê Trung Hưng mới có sự thay đổi, theo sách “Lê triều hội điển” ở mục “Trí sĩ” có viết: “Từ
Trung Hưng đến nay, quan văn đến 70 tuổi, cho trí sĩ. Viên nào đến 69 tuổi, cuối năm phải làm tờ
khai viện lệ trình xin để đưa ra cho các quan bàn, kê khai người nào đáng được thăng chức cùng các
sự lệ, đề đạt để làm… Niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 13 (1719) chuẩn cho võ quan được dự ban chầu và
nội giám, từ Đồng tri, Giám sự trở lên đến 70 tuổi cho viện lệ về trí sĩ. Từ lục phẩm trở xuống cho
cáo lão. Định lệ giống với thể lệ danh cho quan văn”.
Lê Hiển Tông: làm vua không cần đọc sách
Lê Hiển Tông tên thật là Lê Duy Diêu, con trưởng của Lê Thuần Tông, được chú ruột là Lê Ý Tông
truyền ngôi vào ngày 21 tháng 5 năm Canh Thân (1740), vua ở ngôi 46 năm và chỉ đặt một niên hiệu
là Cảnh Hưng (1740 – 1786), ông mất vào tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), thọ 69 tuổi. Lê Hiển Tông
chính là vị hoàng đế thọ nhất và ở ngôi lâu nhất so với các vị vua của vương triều Hậu Lê.
Sử sách cho biết Lê Hiển Tông là người nhân từ, điềm tĩnh, thông minh, đa tài nhưng vì sống ở thời
buổi xã hội đảo điên, quyền lực nằm cả trong tay chúa Trịnh nên vua không thể thi thố được gì mà
chỉ yên phận với cuộc sống nhàn tản mà thôi.
Theo Đại Việt sử ký tục biên thì trước khi làm vua, Lê Hiển Tông đã “nếm trải đủ mùi gian khổ
nhưng trời cho người theo, bèn được lên ngôi báu. Phàm mọi việc đều chịu thuận theo mệnh trời,
tính thâm trầm sâu kín, người ta tưởng không thấy được góc cạnh nhưng mà bên trong vua không
phải là không nắm được gì. Nếu cái thiên tư ấy, lại thêm có học vấn thì sự thành tựu chưa dễ lường
được.
Thế nhưng vua thường nói: “Học là để thi thố ra các công việc, trẫm khoanh tay rủ áo trông đợi
thành công, cần gì đọc sách. Hàng ngày chỉ ca múa để mua vui mà thôi”.
Lê Chiêu Thống đốt phủ chúa Trịnh để trả thù
Vào tháng Chạp năm Bính Ngọ (1787), sau khi được Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân giúp đánh bại lực
lượng ủng hộ chúa Trịnh, đuổi vị chúa cuối cùng của họ Trịnh là Trịnh Bồng khỏi Thăng Long, vì
căm giận họ Trịnh đè nén vua Lê mấy trăm năm, lại sợ Trịnh Bồng có thể trở lại nên Lê Chiêu Thống
đã sai người phóng lửa đốt phủ Chúa. Thế là bao lâu đài cung khuyết lộng lẫy nguy nga chìm trong
biển lửa, khói bốc ngút trời, hơn mười ngày sau vẫn chưa cháy hết, tất cả cuối cùng chỉ còn là một
đống tro tàn.
Sự kiện này xảy ra vào ngày 8 tháng Chạp, sách “Hoàng Lê nhất thống chí” viết: “Sớm hôm sau,
Hoàng thượng mới biết là Án Đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm sai người phóng hoả
đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt”. Sách “Đại Việt
sử ký tục biên” cũng viết như sau: “Vua lo Trịnh Bồng lại đến, có người nói nên đốt phủ chúa đi cho
mất đường về. Vua cho là phải, sai đốt lầu gác phủ chúa, lửa khói bốc lên ngất trời hơn mười ngày
chưa hết”.
Vua Minh Mạng gọi Nguyễn Công Trứ là “thằng cuồng”
Nguyễn Công Trứ là một vị đại thần và là một nhà thơ nổi tiếng thời Nguyễn. Với tư cách một nhà
thơ, điều đặc biệt ở Nguyễn Công Trứ là dù xét ông ở tư cách nào, người ta cũng bắt gặp một điểm
chung nhất khái quát, đó là thái độ ngông ngạo với cuộc đời. Ông thể hiện rõ điều đó qua các sáng
tác, có những câu thơ rằng: “Đù mẹ nhân tình đã biết rồi/ Nhạt như nước ốc bạc như vôi” (Thế tình
bạc bẽo). Hay như lúc về hưu, đi chơi ông không dùng ngựa mà đi xe bò lại còn úp một mo cau phía
sau đuôi bò để “bưng miệng thế gian”.
Cái ngông của Nguyễn Công Trứ nổi tiếng, từ dân đen đến hoàng đế đều biết, chính vì thế có lần
nghe chuyện về ông, vua Minh Mạng đã gọi ông là thằng cuồng. Sách “Quốc sử di biên” có đoạn viết:
“Trứ vốn tính hào phóng, thường đắp phương trượng tam sơn sau công đường, trên núi làm chùa,
đào hồ thả sen, bắc cầu trên hồ, nuôi 25 đồng nữ sớm tối cúng Phật.
Trước kia đóng đồn ở Vân Trung, bắt được 3 trai, 7 gái người Thổ nuôi làm gia thuộc, cho hát
xướng, ngày đêm cùng tân khách và bè bạn đánh tổ tôm, hút thuốc, nghe truyện Kim Vân Kiều, tự
xưng là Lão Trang. Thường ngày họp nhau uống rượu, làm thơ ca quốc âm, có ý coi rẻ lợi danh. Việc
này lọt đến tai vua, vua cười nói rằng: Thói cũ thằng cuồng vẫn hào phóng như thế đấy!”.
Vua Khải Định đi xê điện, ban lệnh cấm dân mặc quần áo màu vàng
Là ông vua rất thích thú và ưa chuộng các sản phẩm của Tây phương nên trong thời gian ở ngôi,
Khải Định đã đặt mua nhiều vật dụng được sản xuất tại Pháp, từ vải vóc, nước hoa, đồ thủy tinh cho
đến xe cộ… Năm Bính Thìn (1916) có lần vua đi xe điện, dân chúng hiếu kỳ ra xem chật đường gây
cảnh lộn xộn nhưng bỏ qua đề nghị xử lý các quan không làm tròn trọng trách hộ tống, vua Khải
Định lại ban một lệnh cấm không liên quan gì đến vụ việc nói trên.
Sách “Khải Định chính yếu” viết: “Vua ngự trên xe điện đi qua cây cầu sắt, dân chúng hai bên đường
chen chúc nhốn nháo kéo tới xem rất lộn xộn, trong khi các viên quan dẹp đường của phủ Thừa
Thiên không có ai ra đàn áp. Bộ Lễ tâu xin truyền chỉ phạt lỗi Phủ thần. Vua nhân đó phê rằng:
– Ngày trước khi trẫm còn là Hoàng tử thấy dân chúng có nhiều người ăn mặc áo màu vàng, như thế
là phạm luật. Nên đồng thời lệnh cho phủ Thừa Thiên yết bảng nghiêm cấm từ nay trở đi nhân dân
không được ăn mặc quần áo có màu vàng và những màu sắc gần với màu vàng để có sự phân biệt”.
Sau khi đánh bại cuộc xâm lược Đại Cồ Việt của nhà Tống, đầu năm Nhâm Ngọ (982), vua Lê
Đại Hành đã lập Thái hậu Dương Vân Nga của triều Đinh làm một trong 5 Hoàng hậu của ông,
phong hiệu là Đại Thắng Minh hoàng hậu. Theo thần tích, Hoàng hậu Dương Vân Nga có cô con
gái tên là Lê Thị Phất Ngân, được vua đã gả cho Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn.
Vua Lý Thái Tổ là con rể vua Lê Đại Hành
Ít người biết rằng Lê Đại Hành, vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê lại là cha vợ của Lý Thái Tổ, vị vua
sáng lập nhà Lý. Theo chính sử, sau khi đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt của nhà
Tống, đến đầu năm Nhâm Ngọ (982), vua Lê Đại Hành đã lập Thái hậu Dương Vân Nga của triều
Đinh làm một trong 5 Hoàng hậu của ông và phong hiệu cho bà là Đại Thắng Minh hoàng hậu.
Chính sử không cho biết Lê Đại Hành và Hoàng hậu Dương Vân Nga có bao nhiêu người con, nhưng
theo các thần tích ở cố đô Hoa Lư thì hai người có một cô con gái tên là Lê Thị Phất Ngân. Khi đến
tuổi trưởng thành, vua đã gả công chúa Phất Ngân cho Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn (người sau
này trở thành người khởi nghiệp dựng lên vương triều Lý).
Hiện nay, tại đền vua Lê ở Trường Yên, huyện Hoa Lư (Ninh Bình), bên trái hậu cung thờ vẫn còn
ban thờ công chúa Phất Ngân; các nhà nghiên cứu cho rằng việc phối thờ cùng vua cha và mẹ cho
thấy công chúa phải có công tích, đức hạnh nổi tiếng mới được nhân dân đánh giá, tôn vinh như
vậy.
Ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý (1000) tại kinh đô Hoa Lư, công chúa Phất Ngân hạ sinh một người
con trai, đặt tên là Lý Phật Mã. Tháng 9 năm Kỷ Dậu (1009) Lý Công Uẩn được quần thần nhà Tiền
Lê tôn lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Lý, lúc này công chúa Phất Ngân trở thành một trong số những
hoàng hậu của vua. Tháng 3 năm Mậu Thìn (1028) Lý Thái Tổ mất, để lại di chiếu truyền ngôi cho
con trưởng là Thái tử Lý Phật Mã. Thái tử lên ngôi (tức Lý Thái Tông) đã tôn phong mẹ mình làm
Linh Hiển thái hậu.
Người ta cho rằng, vị hoàng đế từng có tuổi thơ 10 năm gắn bó với vùng đất cố đô trước khi về với
Thăng Long nên Lý Thái Tông sau này xây chùa Một Cột, đền Đồng Cổ, đền Phạm Cự Lượng ở Thăng
Long; đào kênh Lẫm, đầm Lẫm ở Thần Phù (Hoa Lư) và thực hiện nghi lễ cày ruộng tịch điền đều noi
theo truyền thống từ thời ông ngoại của mình là vua Lê Đại Hành.
Trần Anh Tông dạy con cách ăn cơm
Trần Anh Tông là vị vua thứ 4 của triều Trần, ông tên thật là Trần Thuyên, lên ngôi tháng 3 năm Quý
Tị (1293), làm vua 21 năm (1293 – 1314) thì nhường ngôi cho con là Trần Mạnh (tức Trần Minh
Tông) để lên làm thượng hoàng 6 năm (1314 – 1320). Sử sách đánh giá ông là “vua khéo biết kế
thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh
vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Bộ chính sử “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi lại một câu chuyện lý thú về việc Trần Anh Tông dạy con là
Trần Minh Tông cách ăn cơm như sau: “Thượng hoàng có lần ban bữa ăn cho vua. Vua nhai rất kỹ,
Thượng hoàng nói: “Đàn ông phải ăn như rồng nuốt, cọp cắn, cần gì phải nhai kỹ?”. Khi ban bữa ăn
cho các vương hầu, thượng hoàng cũng bảo như thế”.
Lê Tương Dực và mối liện hệ lạ lùng với Quốc Tử Giám
Lê Tương Dực là vị hoàng đế mà thời kỳ ở ngôi của ông chia làm hai giai đoạn: tốt và xấu. Sách “Đại
Việt sử ký toàn thư” viết như sau: “Vua khi mới lên ngôi, ban hành giáo hóa, cẩn thận hình phạt,
cũng đáng gọi là có làm. Song ham chơi mà không quyết đoán, việc thổ mộc bừa bãi, nhân dân thất
nghiệp, trộm cướp nổi dậy, dẫn đến nguy vong là bởi ở đấy”.
Một trong những việc làm được đánh giá có ý nghĩa là vào giữa năm Tân Mùi (1512) Lê Tương Dực
“Sai Nguyễn Văn Lang trung tu Sùng Nho điện ở Quốc Tử Giám và hai giải vũ, sáu nhà Minh Luân,
nhà bếp, phòng kho, cùng làm mới hai nhà bia bên đông và bên tây, mỗi gian đặt một tấm bia bên tả,
một tấm bên hữu. Năm này, dựng hai nhà bia đề tên các tiến sĩ khoa Ất Sửu năm Đoan Khánh thứ 1
và khoa Mậu Thìn năm Đoan Khánh thứ 4”. (Đại Việt sử ký toàn thư).
Một đại thần được vua sai viết bài văn trên bia Tiến sĩ là Thượng thư, Đông các đại học sĩ, Nhập thi
kinh diên Đỗ Nhạc đã có những dòng ca ngợi vua như sau: “Thánh học ngày càng cao minh, thánh
đức ngày càng thuần tuý. Hơn nữa, đến nhà Thái học hỏi về đạo trị nước, ra nơi điện đình thi chọn
bọn học trò, then máy cổ võ lại càng chu đáo lắm. Đã sai quan trùng tu Quốc tử giám và làm mới nhà
bia, lại nghĩ tới hai khoa Ất Sửu, Mậu Thìn chưa có dựng bia, liền sai quan khắc bia soạn ký để dựng
lên. Như vậy có thể thấy được cái ý tôn sùng đạo học, khuyến khích hiền tài sâu sắc dường nào!”.
Tuy nhiên có một điều oái oăm là mấy năm sau đó, số phận của vua Lê Tương Dực lại kết thúc cũng
chính ở Quốc Tử Giám mà nguyên nhân xuất phát từ chính sự ham chơi, thích xây dựng đền đài của
ông. Đầu tháng 4 năm Bính Tý (1516) “Trịnh Duy Sản giết vua ở cửa nhà Thái Học. Trước đây, Duy
Sản vì nhiều lần can ngăn trái ý vua, bị đánh bằng trượng. Duy Sản mới cùng với bọn Lê Quảng Độ,
Trình Chí Sâm mưu việc phế lập” (“Đại Việt sử ký toàn thư”), sau đó những người này đem hơn
3000 quân đánh vào cung Bắc Thần.
Lê Tương Dực nghe tin có biến liền cưỡi ngựa tắt qua cửa nhà Thái Học (tức Quốc Tử Giám) thì bị
Trịnh Duy Sản ngăn lại rồi sai võ sĩ dùng giáo đâm vua ngã xuống rồi giết chết.
Lê Ý Tông định lệ ai nộp tiền sẽ được làm quan
Việc mua quan bán tước trước thời Hậu Lê đã diễn ra, nhưng vào giai đoạn Lê Trung Hưng, loạn lạc
xảy ra liên miên, vua chúa chỉ ham cảnh sống xa hoa khiến cho ngân khố quốc gia lúc nào cũng thiếu
hụt, nghiêm trọng nhất là thời chúa Trịnh Giang chuyên quyền, bạo ngược.
Thực quyền nhà Lê giai đoạn Trung Hưng đều nằm trong tay chúa, vua chỉ là hư vị, tuy nhiên nhiều
quy định “tai tiếng” được ban hành lại nhân danh vua khiến không ít vị hoàng đế nhà Lê phải chịu
tiếng oan, như trường hợp của vua Lê Ý Tông.
Cuối năm Bính Thìn (1736) triều đình dưới thời vị vua này “định lệ ai nộp tiền thì được bổ làm
quan. Cho quan văn võ cùng trăm họ nộp tiền, sẽ được bổ chức phẩm. Chức quan cao hay thấp, việc
nhiều hay ít đều tùy theo số tiền nộp nhiều hay ít mà bổ khác nhau. Triều ban quan lục phẩm trở
xuống, ai nộp tiền 600 quan thì được thăng chức một bậc, dân gian ai nộp tiền 2800 quan thì được
bổ thực chức Tri phủ, nộp 1800 quan bổ thực chức Tri huyện” (“Đại Việt sử ký tục biên”).
Tuy nhiên một bộ sử thời Nguyễn thì không nói rằng đó là lệnh từ vua Lê Ý Tông mà chỉ thẳng rằng
đó là ý của chúa Trịnh Giang: “Giang hạ lệnh: Quan và dân ai nộp tiền sẽ được thăng chức hoặc bổ
làm quan… Lúc ấy, Giang chơi bời, xa xỉ phóng túng, của cải ngày một hao mòn, bán quan mua tước,
không việc gì hắn không làm. Vì thế mà sau này sinh ra họa loạn” (Khâm định Việt sử thông giám
cương mục).
Lê Thuần Tông và mối duyên tình với con gái ông thợ vẽ
Đời Lê Dụ Tông đã tuyển được một người thợ rất giỏi vào cung phụ trách việc trang trí nội điện, đó
là ông Đào Thúc Kiên quê ở làng Thọ Vực, huyện Văn Giang, phủ Thuận An, thừa tuyên Kinh Bắc
(nay thuộc xã Bảo Vực, huyện Văn Giang, Hưng Yên).
Do vừa phải trực tiếp vẽ, pha mầu lại phải trông nom nhiều việc trang trí, thiết kế nên Đào Thúc
Kiên xin phép vua cho con gái của mình là Đào Thị Ngọc Nhiễm được mang cơm rượu vào cung cho
cha, đồng thời phụ giúp thêm cho ông trong việc bút, màu.
Bấy giờ nghe tiếng về người thợ vẽ tài hoa, hoàng tử Lê Duy Tường rất tò mò muốn xem con người
đó thế nào, một hôm hoàng tử đến xem ông Đào Thúc Kiên và toán thợ sơn vẽ, trang trí hoàng cung,
tình cờ hôm đó lại gặp đúng lúc cô Nhiễm mang cơm vào. Ngỡ ngàng trước một thiếu nữ xinh đẹp,
duyên dáng, hoàng tử đem long yêu mến rồi không lâu sau đó đã lấy cô làm vợ.
Khi vua Lê Dụ Tông mất, thái tử Lê Duy Phường lên nối ngôi, lấy hiệu là Vĩnh Khánh, làm vua mới
được 3 năm thì đến ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Tý (1732) chúa Trịnh Giang kiếm cớ phế truất Lê
Duy Phường và đưa em trai của ông là Lê Duy Tường lên làm vua đặt niên hiệu Long Đức (tức vua
Thuần Tông).
Chồng trở thành hoàng đế, Đào Thị Ngọc Nhiễm lúc này cũng trở thành một hoàng phi, tháng 4 năm
Đinh Dậu (1717) bà sinh cho vua một hoàng tử đặt tên là Lê Duy Diêu (sau được tôn làm vua, đó là
Lê Hiển Tông).
Minh Mạng lén múa may vì quá hứng khởi
Thời vua Minh Mạng chấp chính nổ ra rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ trong đó có cuộc nổi dậy
của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc do thủ lĩnh người Tày là Nông Văn Vân đứng đầu. Lực lượng
này giương cờ chống lại triều đình trong thời gian chỉ hơn 1 năm, từ tháng 7 năm Qúy Tị (1833) đến
giữa tháng 10 năm Giáp Ngọ (1834) nhưng đã khiến vua quan nhà Nguyễn mất ăn mất ngủ vì quy
mô và tầm ảnh hưởng rộng của nó.
Sách “Bắc Kỳ tiễu phỉ” chép: “Thổ phỉ Tuyên, Cao, Thái, Lạng lan tràn, chỗ nào cũng có đứa hùng
trưởng, mà đều lấy giặc Vân làm chủ…”, hay như sách “Đại Nam thực lục” có đoạn viết: “Việc nổi
loạn là do Nông Văn Vân xướng xuất, tù trưởng các châu đều họa theo và đều nhận chức quan của
Vân”.
Binh lính của 5 tỉnh được huy động để đánh dẹp với quân số lên đến hàng vạn người, rất vất vả mới
chiếm được các đồn trại, thành lũy của quân khởi nghĩa, Nông Văn Vân trốn vào rừng Thẩm Pát (nay
thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng). Quân triều đình vây kín rồi phóng hỏa đốt rừng, “Nông Văn
Vân bị thiêu chết, rơi xuống hang đá Thẩm Pát, bên cạnh xác chết còn có một thỏi vàng và một con
dao găm mạ vàng bạc” (“Bắc Kỳ tiễu phỉ”).
Nghe tin thắng trận, vua Minh Mạng mừng rỡ vô cùng với những hành động rất bất ngờ, sách “Quốc
sử di biên” cho biết như sau: “Mùa đông, tháng 10, Nông Văn Vân chết, Cao Bằng được yên. Vân tiến
thoái đều cùng đường, bị đốt mà chết; quan quân chặt lấy đầu, truyền đưa các tỉnh. Bắt được mẹ và
thê thiếp của Vân đều giải về kinh.
Vua mừng lắm, truyền mở tiệc rượu mua vui, sai cung tần, quanh tay nhau làm kiệu, rồi vua lén mà
múa, hô liền mấy tiếng: Cao Bằng yên rồi! Cao Bằng yên rồi!”.
Vua Lê Gia Tông lên ngôi năm 10 tuổi, đến năm 14 tuổi bị bệnh qua đời, ở ngôi chỉ có 4 năm,
chưa có sự nghiệp gì.
Trần Minh Tông học đá cầu
Trần Minh Tông tên thật là Trần Mạnh, con thứ 4 của Trần Anh Tông, ông không chỉ nổi tiếng là vị
vua tài giỏi mà còn là người rất đa tài, trong đó có tài đá cầu. Những tài năng này của ông có được
phần lớn nhờ công dạy dỗ của quan Độc bạ là Trần Cụ.
Tháng giêng năm Ất Tỵ (1305) lúc bấy giờ hoàng tử Trần Mạnh được phong làm Thái tử, vua Trần
Anh Tông đã sai Trần Cụ làm thày dạy cho vị vua tương lai bởi ông thấy “Trần Cụ tính khoan hậu,
cẩn thận, thật thà, giỏi nghề đánh cá, bắn nỏ và chơi cầu” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Loại cầu mà thái tử Trần Mạnh (sau là vua Trần Minh Tông) được học đá có cấu tạo gần như một
quả bóng da, nó được Trần Cụ làm bằng cách khâu ghép các múi da thành mười hai múi cân nhau,
duy ba múi ở miệng cầu là chỗ bỏ cái bóng lợn vào thì hơi mỏng và nhẹ, để cân với sức nặng ở đầu
bong bóng, cho nên khi đá cầu, múi nào ở trên đến lúc rơi xuống đất lại nguyên như cũ, không bao
giờ chuyển khác.
Lê Thánh Tông xử lý nạn cường hào
Từ khi chế độ phong kiến đi vào ổn định và phát triển, nhất là ở thời kỳ đầu của nhà Hậu Lê, bộ máy
quản lý tại xã thôn đã được định hình rõ nét với những quy định cụ thể. Tuy nhiên, bên cạnh những
yếu tố tích cực của bộ máy quản lý cấp cơ sở đã nảy sinh một bộ phận những kẻ có quyền thế lợi
dụng địa vị của mình để đè nén, áp bức nông dân cả một vùng, chúng câu kết với một số địa chủ
nhằm lũng đoạn toàn bộ đời sống làng xã, tình trạng này nghiêm trọng nhất ở giai đoạn chính quyền
phong kiến suy thoái.
Trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” đã viết: “Cái hoạ quan lại là một, cái hoạ cường hào là
hai. Chúng làm cho vợ con người ta thành goá bụa, con người ta thành mồ côi”.
Thời suy thoái đã vậy nhưng ngay cả khi chế độ phong kiến phát triển cực thịnh thì nạn cường hào
vẫn hoành hành khiến triều đình lo lắng, Lê Thánh Tông chính là vị vua đầu tiên tìm cách hạn chế
tình trạng xấu này. Theo sách “Thiên Nam dư hạ tập”, vua đã răn rằng: “Nếu cậy chức quyền, âm
mưu kiếm lời, những lo đơn độc mưu gian chẳng thành, mà lôi kéo bè đảng làm hại người làm cho
phong tục đồi bại. Nếu ai vi phạm vào điều này thì cho phép người biết rõ nộp đơn tố cáo. Nếu tội
nhẹ thì phạt trượng, tội nặng thì bị biếm. Nếu Xã trưởng làm việc không đúng pháp luật cũng cho
phép chọn cử người khác”.
Tháng 11 năm Tân Mão (1471) Lê Thánh Tông lệnh cho các quan ở Thừa tuyên Sơn Nam đi tra xét
tình hình tại các phủ, huyện, xã, nhất tấu tình về tình trạng “cường hào thao túng, xúi giục kiện tụng,
phong tục kiêu bạc, dân sinh đau khổ” (Đại Việt sử kí toàn thư).
Ngày 14 tháng 11 năm Ất Tị (1485) vua ban lệnh: “Nếu các cường hào cậy thế đánh người bị
thương, chiếm đoạt ruộng đất tài sản, cày phá phần mộ của người khác từ 3 lần trở lên thì rõ ràng là
cường hào lộng hành thì phải trừng trị và nghị tội theo luật” (Thiên Nam dư hạ tập). Sách Đại Việt
sử kí toàn thư gọi đây là nạn “cường hào hoành hành” và cho biết vua ban lệnh trên theo lời tâu của
Tả đô đốc Trung quân phủ, tước Kinh Dương bá Lê Quyền.
Lê Thần Tông lấy đỗ vị Tiến sĩ cao tuổi nhất lịch sử khoa cử
Lịch sử khoa cử Nho học nước ta trải qua 844 năm (1075-1919), trong khoảng thời gian đó, các
triều đại phong kiến đã mở được 185 khoa thi, lấy đỗ 2898 đại khoa và người trở thành tiến sĩ cao
tuổi nhất là Quách Đồng Dần. Khoa thi mà Quách Đồng Dần ứng thí được Lê Thần Tông mở trong
thời kỳ làm vua lần thứ nhất của mình (1619- 1643), khoa thi này vua chỉ lấy 5 người đỗ Tiến sĩ và
ông cũng không biết rằng một trong số đó là tiến sĩ cao tuổi nhất lịch sử.
Quách Đồng Dần quê ở xã Phù Khê, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Phù
Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), dù tuổi đã già, gia cảnh gặp nhiều khó khăn mà vẫn không chịu
rời đèn sách, kinh sử.
Cuối cùng những nỗ lực không ngừng của ông đã được đáp lại, khoa thi Giáp Tuất niên hiệu Đức
Long thứ 6 (1634), ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khi đó đã 68 tuổi, tiếng tăm lừng lẫy
cả nước. Tại lễ vinh quy Quách Đồng Dần có làm bài thơ tự thuật, trong đó có câu: Lễ đăng cao đệ
thế xưng kỳ/ Nam quốc toàn tri lão bất suy (Nghĩa là: Người khen tuổi lão đỗ cao/ Biết cho tuổi lão
nhưng nào có suy).
Sau khi đỗ Quách Đồng Dần được vua cho giữ chức Tri huyện, rồi làm quan đến chức Hữu Thị lang
Bộ Lễ, Tả Thị lang Bộ Lễ rồi về trí sĩ. Ông mất năm Canh Dần (1650) tại quê nhà, thọ 83 tuổi; vua Lê
Thần Tông thương tiếc đã ban tên thụy cho ông là Phúc Giang và sai người về tế lễ.
Lê Gia Tông- vị hoàng đế yểu mệnh nhất
Vị hoàng đế có tuổi thọ ngắn nhất trong số các đế vương nước Việt là Lê Gia Tông, vua tên thật là Lê
Duy Cối, còn có tên khác là Lê Duy Khoái, sinh năm Tân Sửu (1661) là con thứ của Lê Thần Tông, mẹ
là Lê Thị Ngọc Hoàn.
Sau khi Lê Huyền Tông mất không có con nối, chúa Trịnh Tạc cùng triều thần lập em vua là Lê Duy
Cối lên ngôi vào ngày 19 tháng 11 năm Tân Hợi (1671) khi mới 10 tuổi. Đến ngày 3 tháng 4 năm Ất
Mão (1675) Lê Gia Tông bị bệnh mất, thọ 14 tuổi, ở ngôi 4 năm (1671-1675). Sử đánh giá về vua
như sau: “Vua tướng mạo anh vĩ, tính thời khoan hoà, có đức độ của người làm vua, tiếc rằng ở ngôi
không lâu, chưa thấy sự nghiệp gì” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Tháng 6 năm đó, triều đình làm lễ rước linh cữu Lê Gia Tông về an táng tại quê mẹ ở xã Phúc Lộc,
huyện Thụy Nguyên, xứ Thanh Hoa (nay là Thanh Hóa) và xây lăng gọi là lăng Phúc An. Theo Đại
Việt sử ký toàn thư, chúa Trịnh cùng vợ con và triều thần “đến làm lễ viếng, khóc rất thương
xót…Các quan văn võ trông thấy đều chảy nước mắt”.
Lê Hy Tông sai làm xê nước để tưới ruộng cho dân
Là quốc gia nông nghiệp, trồng lúa nước là chủ yếu nên việc tưới tiêu cho ruộng đồng không chỉ là
mối quan tâm lớn của người nông dân mà được cả các vị quân vương nước Việt đặc biệt chú trọng
bởi nông nghiệp là ngành sản xuất chủ đạo của quốc gia: “Phi nông bất ổn” (Không có nông nghiệp
thì xã hội không ổn định).
Để giảm bớt sự khó nhọc cho nhà nông, tạo thuận lợi hơn trong hoạt động mùa màng, nhất là trong
hoàn cảnh hạn hán ở nhiều nơi trong cả nước nên tháng 10 năm Đinh Mão (1687) vua Lê Hy Tông
đã sai làm ra một loại phương tiện tưới tiêu gọi là xe nước.
Sử sách chép rằng: “Mùa đông, tháng 10, không mưa. Triều đình sai các quan ở kinh đô đi về các đạo
xem xét địa thế, làm xe nước để tưới ruộng, khám những ruộng lúa bị thiệt hại, bàn việc khoan xá
bởi năm đó lúa má thu hoạch ít, giá gạo tăng vọt” (Đại Việt sử ký tục biên).
Không rõ xe nước ban đầu được chế tạo như thế nào, có hình dạng ra sao nhưng có lẽ cũng không
khác mấy so với xe nước vẫn còn được sử dụng tại nhiều vùng nông thôn, miền núi ở nước ta như
vùng Tây Bắc, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi…
Xe nước thường được dựng ở các khe nước, sông nhỏ, được làm chủ yếu bằng tre gỗ làm trục, giá
đỡ, máng… và dựa vào sức đẩy của nước để quay tròn những bánh xe. Trên những bánh xe có gắn
nhiều ống có độ nghiêng thích hợp, bánh xe quay múc nước vào ống rồi đổ vào hệ thống máng nước,
từ máng nước theo mương nước để chảy vào đồng ruộng.
Tùy theo cường độ và lưu lượng của dòng nước mạnh hay nhẹ và nhu cầu nước cung cấp cho ruộng
đồng mà người ta làm xe nước có nhiều hay ít bánh xe, ống nước.
Trần Nghệ Tông lập êm trai làm Thái tử
Trần Nghệ Tông tên thật là Trần Phủ, là vị hoàng đế thứ 9 của triều Trần, ông vốn không có ý muốn
làm vua mà chỉ thích sống an nhàn. Bấy giờ các hoàng thân nhà Trần căm tức việc Dương Nhật Lễ
giết Thái hậu, cầm quyền chính mà “rượu chè hoang dâm, hàng ngày chỉ vui chơi, thích chơi các trò”
(Đại Việt sử ký toàn thư) nên đã cùng nhau hợp quân thảo phạt.
Khi đó Cung Định vương Trần Phủ vì có con gái làm Hoàng hậu của Dương Nhật Lễ, sợ bị vạ lây bèn
trốn tránh lên trấn Đà Giang; em gái ông là công chúa Thiên Ninh biết được mới trách rằng: “Thiên
hạ là thiên hạ của tổ tông mình, sao lại bỏ cho người khác, tôi nên hành động đi, tôi đem bọn gia nô
theo sẽ dẹp yên được”.
Sau đó công chúa Thiên Ninh cùng một người em khác của Cung Định vương Trần Phủ là Cung
Tuyên vương Trần Kính và các hoàng thân khác họp quân ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa tôn Trần
Phủ làm minh chủ, ngày 15 tháng 11 năm Canh Tuất (1370) khi đi đến phủ Kiến Hưng (nay thuộc
Nam Định) thì tôn lên làm hoàng đế rồi tiến về Thăng Long phế truất, giết chết Dương Nhật Lễ.
Cũng bởi không thích làm vua nên Trần Phủ (tức Trần Nghệ Tông) chỉ ở trên ngai vàng hai năm
(1370 – 1372) thì nhường ngôi để làm Thái thượng hoàng. Trước đó vào tháng 4 năm Tân Hợi
(1371) Trần Nghệ Tông lập em trai là Trần Kính làm Hoàng thái tử, làm tập sách Hoàng Huấn gồm
14 chương để ban cho, lại phong vợ cả của Hoàng thái tử làm Hoàng thái tử phi.
Chuyện một vị vua lập em làm Thái tử khá đặc biệt vì thường chỉ có lập con, lập cháu mà thôi. Lý do
là bởi khi Nghệ Tông chưa làm vua, còn đi lánh nạn thì việc tôn ông làm minh chủ, việc chỉ huy quân
lính, tập hợp lực lượng, chuẩn bị lương thảo khí giới để đánh Dương Nhật Lễ đều cho em ông là
Trần Kính phụ trách, “cho nên Nghệ Tông đem ngôi nhường cho” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Lê Thái Tông cấm mang vào hoàng cung dù chỉ là 1 cái kim
Để bảo đảm sự an toàn đặc biệt cho Hoàng cung, tránh những nguy cơ đe dọa đến vua và hoàng tộc
nên vào ngày 28 tháng 8 năm Giáp Dần (1434) vua Lê Thái Tông đã ban lệnh chỉ cho các tướng hiệu,
quân nhân, nữ nhân, nội nhân giữ các cửa hoàng thành và cung cấm rằng:
“Từ nay về sau, nếu có cung nhân ở các điện và đại thần, tổng quản, hành khiển cùng bọn nữ quan vào
chầu, khi đến cửa cấm thì người coi cửa phải chuyển tâu trước, đợi có sắc chỉ mới được vào. Đàn bà
không có phẩm tước đều không được cho vào.
Nội nhân, nữ quan, nô tỳ ở các điện nếu không có việc gì, không được lui tới các điện khác. Nếu người
canh cửa không cẩn thận, lấy tình riêng dung túng cho vào bậy, cùng là người nào mang các thứ đồ
sắt từ một cái kim trở lên vào trong cung cấm mà không chuyển tâu trước thì phải chiếu luật trị
tội” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Vua Lê Trang Tông lên ngôi ở Lào
Vị vua duy nhất lên ngôi ở nước ngoài này là Lê Trang Tông (1533-1548), ông tên thật là Lê Ninh,
còn có tên khác là Lê Huyến, là vị hoàng đế đầu tiên của triều Lê Trung Hưng.
Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, giết hai vua Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng; một viên quan
trung thành là Lê Quán đã đưa con của Lê Chiêu Tông là Lê Ninh đi trốn, sau đó tướng Nguyễn Kim
tìm được, đưa sang đất Ai Lao (nước Lào ngày nay) tôn làm vua vào tháng giêng năm Qúy Tị (1533),
mở đầu thời kỳ hỗn chiến Lê -Mạc (Nam-Bắc triều).
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép ngắn gọn sự kiện lên ngôi của Lê Trang Tông ở nước ngoài như
sau: “Vua là con của Chiêu Tông, cháu xa đời của Thánh Tông, mẹ là Phạm thị, tên húy là Ngọc Quỳnh,
người sách Cao Trĩ, huyện Thụy Nguyên. Khi Đăng Dung cướp ngôi, tiếm hiệu, vua tránh về Thanh
Hóa. Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim sai người dò tìm, đón vua sang nước Ai Lao tôn lập”.
Trong sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của triều Nguyễn viết về việc Nguyễn Kim
lập vua Lê Trang Tông ở Ai Lao với nhiều nội dung hơn:
“Trước kia, khi Đăng Dung thí nghịch và tiếm ngôi, Triệu Tổ Tĩnh hoàng đế ta (tức Nguyễn Kim – tác
giả) lánh nạn sang ở tại châu Sầm Nưa thuộc Ai Lao, chiêu tập những người trung dũng, đầu tiên
dựng lá cờ nghĩa, quyết chí diệt Mạc để khôi phục nhà Lê, bèn tìm khắp mọi nơi kiếm lấy cho cháu họ
Lê, thì tìm được con nhỏ của Chiêu Tông là Ninh, lập làm vua, lên ngôi ở Ai Lao, đặt niên hiệu là
Nguyên Hòa. Từ đó, hội gió mây lôi cuốn, tiếng chính nghĩa lẫy lừng, quân trẩy đến đâu chẳng ai là
không hưởng ứng. Công nghiệp trung hưng nhà Lê thực bắt đầu từ đấy”.
Lê Dụ Tông thay đổi cách ra đề, trừ bỏ tiêu cực trường thi
Thời Lê Trung Hưng, về cơ bản vẫn kế tục nền giáo dục, thi cử như thời Lê sơ nhưng việc tổ chức thi
không còn giữ được sự nghiêm túc dẫn đến tình trạng “Các học giả chỉ chuộng nắn nót từng câu, văn
chương ngày càng kém cỏi, chỉ học thuộc lòng rồi theo đúng sách viết ra… Thơ phú, tứ lục đều chép
theo bài cũ, không sợ giống nhau” (“Lịch triều hiến chương loại chí”).
Bấy giờ các quan trường thường dùng lại các đề có sẵn của các lần trước không thay đổi gì vì vậy có
nhiều người làm bài sẵn mang bán để nho sinh học thuộc, thậm chí làm thành tài liệu đem vào
trường thi sao chép, các quan chủ khảo cứ chấm theo đó để lấy đỗ. Kết quả không chọn được người
thi có thực tài.
Chính vì vậy vào tháng 10 năm Tân Mão (1711), Lê Dụ Tông đã tìm cách bài trừ tình trạng này bằng
quy định mới. Sử chép rằng:
“Theo lệ cũ, quan chấm thi nghĩ soạn sẵn, đề thi thường lấy trong Tứ thư và sử; về thể văn tứ lục
không quá mươi bài; về thể phú không quá 4-5 bài, đều làm thành đề thi, không có sự thay đổi gì, gọi
là “sách mẫu” (sư thư). Học giả nhiều kẻ soạn thành phiếu tóm tắt (thiếp quát) rồi chuyển cho nhau để
bán chác, sĩ tử đi thi đua nhau tìm mua, học thuộc thể văn để lén đưa vào trường thi, y theo thế mà
chép ra; quan chấm thi cứ tùy theo bài văn mà chọn lấy đỗ, không kể trùng lặp gì.
Cho nên việc lén đem văn vào trường hay nhờ người làm thay, tuy có lệnh cấm nghiêm ngặt nhưng
vẫn xảy ra, mà những người trúng tuyển đại loại là hạng không có thực tài. Đến khoa này, triều đình
mới ra lệnh cho các quan chấm thi không được noi theo lệ cũ. Thói xấu ở trường thi nhờ thế dần dần
được sửa đổi” (“Đại Việt sử ký tục biên”).
Gia Long đặt điểm trợ cấp cho người nghèo, kẻ ăn xin
Nhận thấy đất Bắc Hà (nay là miền Bắc Việt Nam), theo bản tấu trình của các quan trấn nhậm tâu về
cho biết còn nhiều người dân lâm vào hoàn cảnh khó khăn, cùng cực cần phải giúp đỡ, vua Gia Long
đã ngay lập tức thiết lập các điểm trợ cấp các đối tượng này.
Theo sách “Quốc sử di biên”, vào tháng 12 năm Nhâm Thân (1812), vua Gia Long cho “đặt điếm
Đoàn Đầu ở chợ Đông của Bắc Thành (Hà Nội ngày nay- tác giả) làm điểm cấp dưỡng những kẻ ăn xin
ở các trấn. Lại ban tiền kẽm ân tuất cho các phủ, huyện mỗi nơi 50 quan. Hễ lữ khách đi qua bị bệnh
hoặc chết thì lấy tiền ấy cấp cho. Cứ cuối năm, làm sổ sách tâu lên. Cấp cho điếm Đoàn Đầu mỗi tháng
một phương gạo, một quan tiền”.
Khải Định phong hàm tước cho “ông vua đường thủy” Bạch Thái Bưởi
Vua Khải Định đặc biệt phấn khởi với chiếc tàu thủy do Bạch Thái Bưởi đầu tư làm, với chất
lượng không thua kém tàu thủy Châu Âu. Nước Nam vốn kém trong ngành “máy móc kỹ xảo”,
vì thế vua đã phong hàm tước cho ông Bưởi để nêu gương và khích lệ người dân.
Bạch Thái Bưởi, một thương nhân, một nhà tư sản dân tộc được nhiều người kính trọng, ngưỡng mộ
vì đã ông khẳng định doanh tài nước Việt, từ hai bàn tay trắng vươn lên thành một doanh nhân kiệt
xuất, là một trong “tứ đại gia” giàu có nhất Việt Nam đầu của thế kỷ XX. Tiếng tăm của ông khiến vua
Khải Định cũng phải khâm phục.
Vào tháng 11 năm Canh Thân (1920), trong một lần bàn việc với các quan bộ Lại, vua Khải Định
than phiền về sự lạc hậu, kém cỏi của đất nước trong ngành “máy móc kỹ xảo” nên “việc gì cũng chỉ
làm theo sau các nước”. Bấy giờ nghe tin về thành công của Bạch Thái Bưởi, vua lấy làm mừng rỡ
cho là việc cần khen thưởng để khuyến khích nên truyền bảo như sau:
“Xem như việc Bạch Thái Bưởi ở Bắc Kỳ mới chế tạo được chiếc tàu thủy gọi là Bình Chuẩn rất khéo,
tốt không thua kém gì công nghệ bên châu Âu. Chiếc tàu này là do tay thợ nổi tiếng Nguyễn Văn Phúc
làm ra, cả chủ và thợ đều là người Nam cả.
Ngày 23 tháng 7 vừa qua, khi trẫm tới thăm quý Toàn quyền và thăm quan tàu chiến ở Đà Nẵng thì
vừa gặp lúc tàu này cũng vừa cập bến vào cảng nên có may mắn được ngắm xem, quả nhiên tàu ấy là
do chủ ta, thợ ta đồng lòng hợp sức mà chế tạo ra.
Nước ta vốn dĩ của ít, thợ vụng, nếu không có Bưởi dám bỏ tiền ra thì đâu có việc cho Phúc thi thố, mà
không có tài khéo của Phúc thì tiền của Bưởi cũng thành uổng phí mà thôi. Hai người này đã nêu cao
tấm gương về sự tiến bộ, văn minh cho người nước ta mai sau soi vào.

Vậy truyền chuẩn thưởng trao cho Bạch Thái Bưởi hàm Hàn lâm viện Thị độc, Nguyễn Văn Phúc hàm
Hàn lâm viện Kiểm thảo để hai người được đội ơn mà càng thêm khích lệ phấn đấu hơn nữa” (Khải
Định chính yếu).
Nếu xét theo thứ bậc hàm cấp trong quan chế phong kiến thì hai hàm này thuộc bên Văn giai (tức
bên quan văn), theo đó hàm Hàn lâm viện Thị độc của Bạch Thái Bưởi thuộc Chánh ngũ phẩm, còn
hàm Hàn lâm viện Kiểm thảo của Nguyễn Văn Phúc thuộc Tòng thất phẩm.
Quân nhà Lê Trung Hưng đánh dẹp các tàn dư của nhà Mạc, mà lực lượng mạnh nhất là của
Mạc Kính Cung. Mạc Kính Khoan thế lực nhỏ không “được” để ý, nên tự xưng vua. Nhưng do
hoàn cảnh thiếu thốn nên nơi thiết triều của ông vua này chỉ là một ngôi điện lợp mái tranh sơ
sài.
Trần Anh Tông nằm mộng thấy Lý Chiêu Hoàng
Chuyện kể rằng một lần vua Trần Anh Tông đi kinh lý vùng Dâu đã đến làng Giao Tự (tên Nôm là
làng Chè) thuộc tổng Kim Sơn, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc (nay thuộc xã Kim Sơn,
huyện Gia Lâm, Hà Nội). Đêm đó ông nằm mộng thấy bà Lý Chiêu Hoàng hiện về, sáng hôm sau vua
thức giấc đã triệu dân làng đến kể lại giấc mộng của mình và ban cho dân làng 5 thỏi vàng, 5 nén bạc
và truyền cho dân làng lập miếu thờ bà Lý Chiêu Hoàng. Sau này dân tu bổ, mở rộng miếu thành
đình, tôn Lý Chiêu Hoàng làm thành hoàng làng Giao Tự.
Một thuyết khác thì cho rằng ngôi đình Giao Tự đã có trước đời Trần Anh Tông. Vào thời ông trị
nước, quân Nguyên xâm lược nước ta. Vua chỉ huy 5 vạn quân tiến đánh giặc, qua làng Giao Tự dừng
chân nghỉ lại. Đêm vua ngủ nằm mơ thấy Thành hoàng làng, xưng tự hiệu là Phật Kim, xin phù giúp
nước lập công nên ông đã ban cho dân vàng bạc để tu bổ đền thờ, phong Thành hoàng là: “Phật Kim
Thượng Hoàng Thái Hậu linh ứng phụ quốc hiến hựu khang nhân chi thần”.
Lê Thánh Tông quy định cách xưng hô thêo danh hiệu
Để tránh việc xưng hô lộn xộn, không thống nhất giữa các danh hiệu quan chức nên vào ngày 28
tháng 4 năm Đinh Mùi (1487), vua Lê Thánh Tông “nhắc rõ lệnh về xưng hô danh hiệu: Như thân
vương thì người dưới xưng là điện hạ, tự thân vương xưng là phủ hạ; công, hầu, bá, phò mã và nhất
nhị phẩm thì xưng là các hạ; nhị phẩm, tam phẩm xưng là môn hạ; tứ, ngũ, lục phẩm xưng là đại
nhân; thất, bát, cửu phẩm xưng là quan trưởng… Kẻ nào còn dám xưng hô tiếm vượt như trước thì
người gọi và người nhận đều phải đánh 5 roi, phạt 10 quan tiền” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Thời Lê Trang Tông đã “nhập khẩu” đậu Hà Lan
Đậu Hà Lan (tên khoa học là Pisum sativum) là loại đậu hạt tròn thuộc chi đậu Hà Lan được dùng
làm rau ăn, trồng theo vụ vào mùa có khí hậu mát mẻ tại nhiều nơi trên thế giới. Có lẽ ít người biết
rằng loại đậu này được du nhập vào nước ta thời nội chiến Nam – Bắc triều giữa nhà Lê Trung Hưng
và nhà Mạc.
Loại đậu Hà Lan cùng một số mặt hàng khác được người Hà Lan lần đầu tiên đem đến buôn bán ở
nước ta, ban đầu là ở phía Nam thuộc địa bàn quản lý của vua Lê Trang Tông vào năm Qúy Tị, niên
hiệu Nguyên Hòa thứ nhất (1533). Triều đình, từ vua Lê cho đến quan lại, dân chúng đều ưa thích
các mặt hàng Tây phương này nên tạo điều kiện cho việc kinh doanh cho người Hà Lan (khi đó dân
ta quen gọi là Hòa Lan).
Sau đó người Hà Lan lại đem hàng hóa ra cả miền Bắc, đến vùng Sơn Nam (nay thuộc địa phận Thái
Bình, Nam Định) là địa bàn quản lý của nhà Mạc để buôn bán. Chính từ các hoạt động này mà giống
đậu Hà Lan đã được “nhập khẩu” vào nước ta.
Sách Lê triều dã sử cho biết cụ thể như sau: “Năm đầu niên hiệu Nguyên Hòa, người nước Hòa Lan ở
Tây Dương, còn gọi là Hoa Lang, từ sở hội thương ở Ma Lục Giáp, Tân Gia Ba (nay thuộc Malacca của
Malayssia và Singapore – tác giả) đến Gia Định xin thông thương mua bán hàng hóa, xin chịu nộp
thuế. Lại từ Gia Định vượt thuyền đến vạn Lai Triều ở trấn Sơn Nam cư trú, mở chợ buôn bán. Các
thứ hàng quần áo nhung vải rất tinh xảo, giá cũng rất đắt nhưng được người trong nước ưa chuộng.
Tương truyền nước ấy có một giống đậu, vị béo ngọt, nhỏ như lá tre, màu xanh mượt, hạt như đậu
trắng. Người nước ta chọn được giống ấy, phần nhiều gieo trồng, nhân đó gọi là đậu Hòa Lan, có lẽ
lấy tên nước đặt cho nó”.
Mạc Kính Khoan thiết triều trong cung điện “tranh trê nứa lá”
Mạc Kính Khoan là một trong những vua của nhà Mạc thời suy tàn, ở ngôi 15 năm (1623 – 1638),
đặt niên hiệu là Long Thái.
Bấy giờ quân nhà Lê Trung Hưng đang tập trung đánh dẹp các tàn dư của nhà Mạc mà lực lượng
mạnh nhất do Mạc Kính Cung chỉ huy nên chưa chú ý đến các thế lực nhỏ như của Mạc Kính Khoan,
vì thế nhân cơ hội đó Kính Khoan tự lập làm vua. Do hoàn cảnh thiếu thốn nên nơi thiết triều của
ông vua này không quy mô, đẹp đẽ mà chỉ là một ngôi điện đơn giản, mái lợp bằng lá tranh mà thôi.
Sách Đại Việt thông sử ghi rằng: “Riêng có Kính Khoan trước sau vẫn giữ vùng đất riêng, chưa từng
dám ló ra. Khi quan quân kéo đến thì giải tán vào núi, giấu kín tung tích, khi quan quân rút đi thì lại
ra dồn tụ. Triều đình cũng thấy nó suy yếu, không đáng lo lắm, chỉ chú ý tới Kính Cung. Do đó y được
trộm sống trong vùng thảo dã trải hơn 20 năm rồi mới lên Cao Bằng, tiếm hiệu là Long Thái, lập điện
ngụy bằng tranh lá ở xã Vu Toàn”.
Lê Hiển Tông phong người giỏi bói toán làm quan
Có những vị hoàng đế coi việc bói toán là hoạt động mê tín, lừa bịp tiền bạc của người nhẹ dạ cả tin
nên không ưa thích, thậm chí còn ban lệnh hạn chế hành nghề, cấm đoán việc in ấn các sách có liên
quan. Thế nhưng vào thời gian trị vì của mình, vua Lê Hiển Tông đã tổ chức cuộc tuyển chọn những
người giỏi bói toán, ai được chấm đỗ sẽ được phong quan chức.
Sách Đại Việt sử ký tục biên cho biết vào cuối năm Bính Dần niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7 (1746), vua
ban lệnh “khảo trong cả nước, có người nào tinh thông thuật thiên văn, phong vũ, thái ất, bói toán,
bấm độn. Ai trúng thì trao cho quan chức”.
Lê Chiêu Thống đánh Trịnh Bồng
Nhà Lê Trung Hưng gây dựng lên trong sự nghiệp đánh Mạc, về sau dần từng bước bị các đời chúa
Trịnh tước đoạt quyền bính, chèn ép. Đến thời Lê Chiêu Thống, sau khi quân Tây Sơn diệt Trịnh, ủng
hộ việc lên ngôi của vua Lê, rồi rút về Nam giao lại quyền cai trị đất Bắc Hà, ông vua này cũng muốn
tự lập, tự quyết nhưng không ngờ các phe cánh ủng hộ họ Trịnh đã hợp nhau ép ông phải phong cho
Trịnh Bồng làm Yến Đô vương, tái lập tình trạng cung vua phủ chúa như trước.
Do không có chỗ dựa nên Lê Chiêu Thống dù rất căm giận nhưng đành phải miễn cưỡng chấp thuận.
Không lâu sau đó, nhờ lợi dụng được mâu thuẫn trong phe chúa Trịnh, lại có được một số quan
tướng đem quân ủng hộ nên Lê Chiêu Thống đã cho binh lính tiến đánh Trịnh Bồng. Đây là lần đầu
tiên vua Lê lại có sự mạnh tay với chúa Trịnh như vậy.
Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tháng 8 năm Đinh Mùi (1787), Lê Chiêu Thống
sai em là hoàng đệ Lê Duy Trù đem thân quân cấm vệ đi đốc chiến, quan Nội hàn Bùi Dương Lịch
làm tham tán việc quân đem lực lượng tiến đánh chúa Trịnh ở Đông Quan (nay là xã Đông Quan,
huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình). Ngoài ra còn có thêm binh lính của Hoàng Viết Tuyển, Nguyễn
Như Thái cùng kéo tới đánh kẹp lại khiến Trịnh Bồng thua to phải bỏ chạy rồi trốn đến vùng Yên
Quảng (nay thuộc Quảng Ninh), không lâu sau chạy đến Lạng Sơn, lại bị thổ dân xua đuổi. Không nơi
náu thân, Trịnh Bồng bèn trốn về đất Hữu Lũng (nay là một huyện thuộc Lạng Sơn) giáp giới với đất
Bắc Giang. Nghĩ đến cơ nghiệp của cha ông không thể cứu vãn, khôi phục được nữa, Trịnh Bồng
chán nản trốn đời bỏ đi tu rồi biệt tích sau không rõ kết cục ra sao; còn vua Lê Chiêu Thống sau này
khi giặc Mãn Thanh bại trận trước Tây Sơn đã chạy theo giặc về phương bắc, sống nhục nhã ở đó
cho đến cuối đời.
Vua Minh Mạng bắt các địa phương trồng mít
Nhận thấy để đất bỏ hoang không trồng cấy gì rất lãng phí, không đem lại lợi ích thiết thực nên vào
tháng 3 năm Tân Mão (1831), vua Minh Mạng đã ban chiếu bắt các địa phương phải trồng mít và
một số cây khác, vừa có thu hoạch hoa lợi lại góp phần bảo vệ đê điều giữ yên cho đời sống người
dân.
Theo sách Quốc sử di biên, tờ chiếu của Minh Mạng có đoạn viết như sau: “Chiếu sai các thành trấn,
thành phủ và đường quan đều trồng cây mít, cách 5 thước trồng một cây. Đê sông lớn, đê sông nhỏ
đều trồng cây liễu; các vườn tược bỏ hoang đều phải trồng đay gai”.
Khải Định được vua Ai Cập tặng đôi sư tử con
Có một món quà đặc biệt mà vua nước A Mi Xuy Nê (Ai Cập) gửi đến vua Khải Định thông qua người
Pháp. Theo sách Khải Định chính yếu thì tháng 9 năm Nhâm Tuất (1922), sau khi nhận được đôi sư
tử non, vua Khải Định đã truyền lệnh cho các đại thần nhờ Khâm sứ Pháp đánh điện cho Toàn quyền
Pháp ở Đông Dương, “chuyển hộ lời phúc đáp tới Hoàng tử xứ ấy được biết, nói rằng quý Điện hạ có
lòng nhiệt thành, từ nơi xa xôi vẫn nghĩ tới chúng tôi, lại không tiếc mà đem tặng cho thứ sản vật đặc
sản nổi tiếng của quý bang. Qủa nhân chân thành cảm ơn thịnh tình của Điện hạ và hảo ý của quý
Khâm sai đại thần vô cùng. Cũng có một vật nhỏ mọn, xin được gửi thư riêng nói rõ sau. Từ xa, xin
chúc quý Điện hạ ngày thêm mạnh khỏe, sáng suốt”.
Đến tháng 11 năm đó, vua Khải Định sáng tác bài thơ ngắn 8 dòng và nói với các triều thần rằng
“Quốc vương nước A Mi Xuy Nê ở xa có gửi tặng một đôi sư tử non, đặt cho tên gọi là Ngũ Phong sư
và Thập Vũ sư, đem nuôi nay đã thuần, ta vui mừng nên có làm một bài thơ” (Khải Định chính yếu).
Lý Thái Tông cho dựng biển chỉ đường
Hoàng đế thứ 2 của nhà Lý là Lý Thái Tông, tên húy là Phật Mã, trong thời gian 26 năm nắm quyền
cai trị quốc gia ông đã thực hiện nhiều chính sách rất thiết thực cho đời sống xã hội. Ngày nay trên
đường phố, chúng ta không lạ khi nhìn thấy các biển chỉ dẫn về khoảng cách, hướng đi đến các địa
điểm khác nhau. Nhưng đó là điều mới mẻ ở thời Lý Thái Tông, khi ông cho cắm biển chỉ đường
nhằm giúp người dân đi lại thuận tiện.
Lý Thái Tông là vị vua đầu tiên cho dựng biển chỉ đường tại các địa phương; tháng 11 năm Nhâm
Ngọ (1042), vua xuống chiếu cho dân “đắp đất làm ụ, cắm biển gỗ ở trên để tiện cho việc đi về 4
phương” (Đại Việt sử ký toàn thư). Không chỉ vậy, ông còn là vị vua đầu tiên cho lập hệ thống đưa
tin trên toàn quốc, sau khi cắm biển cho chỉ đường không lâu, vào năm Qúy Mùi (1043) vua chia
đường cái quan thành từng cung đoạn và đặt các trạm để chạy công văn.
Lê Thánh Tông cấm để chiến thuyền trống trải, bẩn thỉu
Thủy quân Đại Việt thời Lê Thánh Tông không chỉ là một lực lượng đông đảo mà rất hùng mạnh có
khả năng tác chiến xa, bảo vệ tốt chủ quyền trên biển Đông. Có được điều đó là nhờ vào sự chú trọng
phát triển, sự quan tâm từ việc lớn cho đến những chi tiết rất nhỏ của vị hoàng đế anh minh, lỗi lạc.
Tại điều 200 thuộc chương Chức chế của bộ Quốc triều hình luật (luật Hồng Đức) do Lê Thánh Tông
sai soạn thảo, ban hành là một minh chứng rõ nhất về điều này.
Nội dung điều luật quy định như sau: “Những người giữ chiến thuyền mà để trống trải, bẩn thỉu,
không để tâm coi ngó, giữ gìn thì bị đánh 50 roi, biếm một tư. Sắp xếp chiến thuyền không đúng
phép, có khi bị hư hại, hễ ít thì tội nặng hơn tội trên một bậc, nếu hư hoảng nhiều thì bị tội đồ. Quan
chủ ti không hay biết thì bị phạt biếm. Nếu thuyền quan bị hư hỏng thì thêm một bậc tội”.
Lê Chân Tông quy định việc xử kiện phải thêo trình tự các cấp
Lê Chân Tông là hoàng đế thứ 18 của nhà Hậu Lê, tên thật là Lê Duy Hựu, ở ngôi vua 6 năm, đặt một
niên hiệu là Phúc Thái (1643-1649). Trước thời Lê Chân Tông cầm quyền, các quân vương đã có
quy định khác nhau liên quan đến việc giải quyết các vụ án mà cấp thấp xét xử, nhất là do quan
huyện tiến hành. Đến năm Ất Dậu niên hiệu Phúc Thái thứ 3 (1645), vua ban lệ cho cấp xã được xét
việc kiện tụng trước tiên, sau đó mới đến các cấp cao hơn.
Lệ này có nội dung như sau: “Chuẩn định, phàm các vụ kiện về hộ khẩu, hôn nhân, ruộng đất, trước
hết phải từ xã trưởng, thứ đến phải qua các nha môn quan phủ, quan huyện, Thừa ty, Hiến ty, Cai
đạo, Ngự sử; theo thứ tự điều tra giải quyết. Đối với các vụ tạp tụng như đánh chửi nhau, đòi nợ
cũng cáo lên nha môn để khám xét, giải quyết. Theo thứ tự mà phúc cáo, cũng như lệ đối với các vụ
kiện về hộ khẩu, hôn nhân, ruộng đất” (Lê triều hội điển).
Gia Long thưởng cho tàu nước ngoài dâng bản đồ Hoàng Sa
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, trở thành vị vua
đầu tiên của vương triều Nguyễn. Ngay từ khi lên ngôi, mặc dù còn rất nhiều vấn đề cần giải quyết
nhưng vua đã cho tái lập lại các đội Hoàng Sa, Bắc Hải như dưới thời các chúa Nguyễn để tiếp tục
quản lý, khai thác, bảo vệ và khẳng định chủ quyền của nước Việt Nam trên biển Đông, đặc biệt là tại
quần đảo Vạn lý Hoàng Sa (tên gọi chung của Hoàng Sa, Trường Sa trước đây).
Những việc làm của Gia Long thể hiện sự quan tâm của chính quyền đến các hải đảo, một phần lãnh
thổ không thể tách rời của quốc gia. Không chỉ vậy, đối với những hoạt động góp phần vào việc tìm
hiểu, thu thập thông tin liên quan đến Hoàng Sa đều được trọng thưởng không có sự phân biệt, như
một chuyện được sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ (quyển 55) cho biết.
Vào tháng 6 năm Đinh Sửu (1817) vua Gia Long đã có một lệnh: “Tháng 6, thuyền Ma Cao đậu ở Đà
Nẵng, đem địa đồ đảo Hoàng Sa dâng lên. Thưởng cho 20 lạng bạc”.
Đoạn chép nói trên tuy ngắn nhưng có thể cho ta suy đoán rằng thuyền Ma Cao ở đây có lẽ là thuyền
buôn của người Hoa hoặc người Bồ Đào Nha (lúc đó đang thống trị Ma Cao), ngoài ra nó còn là minh
chứng thể hiện rằng từ lâu nhiều người nước ngoài đã thừa nhận chủ quyền của nước Việt đối với
các hải đảo tại biển Đông.
Minh Mạng cho “tập trận, bắn đạn thật” trên biển
Vua Minh Mạng rất quan tâm phát triển thủy quân, cho đóng nhiều tàu thuyền, mua một số
kiểu tàu bọc đồng, thuyền chạy bằng hơi nước của Tây phương để làm mẫu để đóng theo. Để
tăng cường sức chiến đấu cho thủy quân, Minh Mạng thường tổ chức thao diễn, luyện tập, đặc
biệt vào năm Canh Tý (1840) vua cho mở cuộc tập trận có mục tiêu giả định lần đầu tiên.
Là vị hoàng đế rất quan tâm đến phát triển quân đội, trong đó có lực lượng thủy quân; ngoài việc
cho đóng nhiều tàu thuyền, vua Minh Mạng còn mua một số kiểu tàu bọc đồng, thuyền chạy bằng
hơi nước của Tây phương, lấy đó làm mẫu để đóng theo.
Bên cạnh đó, để tăng cường sức chiến đấu cho thủy quân, Minh Mạng thường tổ chức thao diễn,
luyện tập, đặc biệt vào năm Canh Tý (1840) vua cho mở cuộc tập trận có mục tiêu giả định lần đầu
tiên.
Theo truyền thống trước đó, lực lượng thủy quân thường rèn luyện các phép bày trận, chèo thuyền,
tấn công…; đến đời Minh Mạng ông đã cho tập trận bắn đạn thật vào mục tiêu.
Sách Đại Nam thực lục cho biết như sau: Một cái bè nổi giả làm hình thuyền, dài độ 3 trượng, ngang
hơn 1 trượng, dựng phên nứa làm giả lá buồm được dựng lên. Đặt bè ở biển xa bờ, xung quanh thả
neo để khỏi bị trôi. Những thuyền tham gia diễn tập đậu cách bè chừng 50 trượng, tất cả đều chỉnh
tề đợi lệnh.
Khi thành Trấn Hải treo cờ đỏ thì cuộc thao diễn bắt đầu, các thuyền đều nhổ neo kéo thuyền chạy
về phía bè. Khi đến quãng giữa thì thuyền đến trước sẽ mang súng hồng y lên ngắm vào bè nổi, bắn
liền 3 phát rồi tiến quá phía trước bè ngoài 500 trượng lại quay trở về.
Các thuyền đi tiếp sau cũng làm như thế, khi đến chỗ quy định lại bắn súng như trước và chèo
thuyền về chỗ bày hàng ban đầu. Bắn xong 3 đợt thì cờ trên thành Trấn Hải hạ xuống, truyền lệnh
thu quân, các thuyền cuốn buồm và hạ neo.
Một câu đối độc đáo của vua Khải Định
Có những điều bất ngờ về vua Khải Định, vị hoàng đế bị mang tiếng là bù nhìn, nịnh Tây. Ông vua
này có nhiều thú giải trí, ngay từ hồi chỉ là một thân vương đã múa bút tự trào bằng đôi câu đối dài
và độc đáo.
Câu đối này, vế đầu viết bằng chữ Nôm nói về các thú chơi đời thường, vế sau viết bằng chữ Hán
nhắc đến chuyện quốc gia, đến những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử nước nhà:
- Xuân xanh tuổi ngoài đôi chục, chơi đục trần ai, khi bài khi bạc, khi tài bàn vác, khi tổ tôm quanh, khi
năm canh ngồi nhà hát, khi gác cổ ả đào, khi ghẻ tàu con đĩ xác, khi nằm rạp thuốc phiện tiêm, hoanh
ra dáng, dạng ra rồng, ngông ra phết, cóc biết chi tồi, miệng én đưa qua mùi gió thoảng;
- Quốc gia lịch tứ thiên dư, do truyền nhân vật, như Tô như Duật, như Phật tử Quân, như Trần Quốc
Tuấn, như Phạm công Thượng thướng quân, như Bạch Vân Phu tử, như Ngự sử Lê Cảnh Tuân, như
công thần Nguyễn Công Trứ, tài chi tuấn, thời chi tế, thế chi sừ, khỉ nhưng nhiên phủ, thân long đắc vũ
tiện vân đằng.
Cụ Vương Hồng Sển trong hồi ký Hơn nửa đời hư (tr.289, NXB Văn Nghệ, California, 1995) khi dẫn
lại những giai thoại văn chương về Khải Định đã cho rằng nếu quả đúng vua là tác giả của câu đối
này thì phải thừa nhận ông là người thông minh, có học.
Lê Ngọa Triều cho róc mía trên đầu nhà sư
Lê Long Đĩnh (còn gọi là Lê Ngọa Triều) là con thứ 5 của vua Lê Đại Hành. Để cướp ngôi, Lê Long
Đĩnh đã giết hại Lê Trung Tông (Lê Long Việt) anh cùng cha khác mẹ. Đây là một vị vua tàn bạo, lại
dâm ô vô độ nên sinh bệnh không ngồi được lâu, khi thiết triều thường nằm để văn võ bá quan chầu
lạy và nghe tấu trình công việc. Vì vậy mà nhân dân và sử sách thường gọi ông là Lê Ngọa Triều.
Sự nghiệp làm vua của Lê Long Đĩnh kéo dài được 4 năm (1005-1009) nhưng không để lại một dấu
ấn gì, có chăng chỉ là một hình ảnh của một ông vua tàn bạo lấy việc tra tấn người làm thú vui tiêu
khiển. Lê Ngọa Triều đã nghĩ ra nhiều cách tra tấn dã man để hành hạ người phạm tội, kể cả tội nặng
và tội nhẹ.
Lê Ngọa Triều từng sai lấy rơm tẩm dầu quấn quanh những người phạm tội rồi đốt, bắt tù nhân trèo
lên cây cao rồi sai người chặt gốc cho cây đổ…
Đặc biệt, vua sai người dùng dao sắc róc mía trên đầu Tăng thống Quách Mão – một vị Quốc sư được
nhân dân kính trọng làm đầu nhà sư máu chảy lênh láng. Lê Ngọa Triều chết sớm, khi mới có 24
tuổi.
Hồ Nguyên Trừng – ông tổ của súng thần công
Là con trai đầu của Hồ Quý Ly nhưng Hồ Nguyên Trừng đã không nối nghiệp cha làm vua mà
nhường cho em của mình là Hồ Hán Thương. Hồ Nguyên Trừng là một người giỏi về nhiều lĩnh vực,
nổi bật nhất là việc ông đã chế tạo được súng thần công và được xem là ông tổ chế tạo súng thần
công. Sau này, mỗi khi chế tạo xong một khẩu súng thần công thì người ta thường lập bàn thờ –
chính là để tưởng nhớ Hồ Nguyên Trừng.
Trong cuộc kháng chiến chống nhà Minh xâm lược, Hồ Nguyên Trừng đã nhiều lần thân chinh đi
đánh giặc, ông từng nói với cha mình: “Thần không sợ đánh mà chỉ sợ lòng dân không theo”. Câu nói
đó phản ánh nguyên nhân cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của cha con Hồ Quý Ly thất bại chính là
không tập hợp được sức mạnh của nhân dân.
Cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược của nhà Hồ thất bại, năm 1407, Hồ Nguyên Trừng cũng
với gia tộc bị bắt và giải sang đất Minh nhưng Hồ Nguyên Trừng đã không bị sát hại. Ngược lại, Hồ
Nguyên Trừng lại được nhà Minh trọng dụng vì khả năng chế tạo vũ khí. Đến đời Minh Tông Anh, Hồ
Nguyên Trừng được phong làm Tả thị lang Bộ công. Tuy vậy lòng ông vẫn hướng về quê hương nên
đã viết cuốn “Nam ông mộng lục.
Lê Lợi được Nguyễn Chích dâng kế tiến vào Nghệ An
Nguyễn Chích quê ở Đông Sơn – Thanh Hóa, là một trong những công thần góp công to lớn trong
thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng. Khi giặc Minh xâm lược nước ta,
Nguyễn Chích đã tập được hơn 1.000 nghĩa quân, lập căn cứ ở núi Hoàng Nghiêu đánh nhau với giặc
trong nhiều năm.
Năm 1420, khi biết tin Lê Lợi đứng dậy khởi nghĩa, Nguyễn Chích đã đem toàn bộ lực lượng xin gia
nhập nghĩa quân Lam Sơn. Sau 6 năm đứng dậy khởi nghĩa nhưng vẫn chưa có tiếng vang, Nguyễn
Chích đã thấy rằng cuộc khởi nghĩa không nên chỉ loanh quanh ở vùng đất Lam Sơn nhỏ hẹp mà
phải phát triển rộng ra nhằm đề phòng biến cố.
Là người hiểu tường tận vùng đất Nghệ An, Nguyễn Chích đã hiến kế cho Lê Lợi: “Nghệ An là đất
hiểm yếu, đất rộng người đông. Nay ta trước hãy lấy Trà Lân chiếm cho được Nghệ An để làm chỗ
đứng chân rồi dựa vào nhân lực, tài lực ở đấy rồi quay ra đánh Đông Đô thì có thể tính xong việc dẹp
yên thiên hạ”.
Đó là một kế sách rất thông minh của Nguyễn Chích, nghĩa quân Lam Sơn đã mở rộng được căn cứ
và tiến ra Đông Đô với một sức mạnh ngút trời để rồi làm nên chiến thắng lẫy lừng của khởi nghĩa
Lam Sơn. Có thể nói Nguyễn Chích là tiền đề trong chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khởi
nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Nguyễn Chích được nhà vua ban quốc tính (Lê Chích) và được phong tước
Đình thượng hầu, đứng thứ 8 trong số 93 đại công thần.
Một nhà có 3 anh êm làm vua
Triều Nguyễn đến thời vua Tự Đức thì tình hình xã hội đã rất rối ren do sự xuất hiện của người
Pháp. Tự Đức bị bệnh đậu mùa nên không có con nhưng khi mất đi có lẽ ông không thể ngờ được
rằng 3 người con nuôi của mình lại trở thành 3 ông vua nối ngôi nhau liên tiếp. Điều đáng nói nữa là
3 người con mà Tự Đức nhận làm con nuôi đều là con của Kiên thái vương Hồng Cai (em khác mẹ
với vua Tự Đức).
Thế nhưng 3 ông vua này lại có 3 số phận hoàn toàn khác nhau. Nguyễn Phúc Ưng Đăng lên ngôi lấy
niên hiệu là Kiến Phúc nhưng do có mâu thuẫn với đại thần Nguyễn Văn Tường nên đã bị Tường
đầu độc chết khi mới làm vua được 8 tháng.
Sau đó Nguyễn Phúc Ưng Lịch (em vua Kiến Phúc) mới 13 tuổi lên làm hoàng đế lấy niên hiệu
là Hàm Nghi. Đây là một vị vua yêu nước, chính Hàm Nghi khi bị Pháp đuổi bắt đã bôn tẩu ra Quảng
Trị và hạ chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp để mở đầu cho hàng loạt cuộc
khởi nghĩa chống pháp trên khắp cả nước.
Sau đó Hàm Nghi bị thực dân Pháp bắt, chúng ra sức dụ dỗ ông nhưng không được. Cuối cùng Pháp
đã đày Hàm Nghi sang Angiêri (một thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi). Năm 1943, sau 54 năm bị đày,
Hàm Nghi mất tại Angiêri, thọ 72 tuổi.
Khi Hàm Nghi bị thực dân Pháp truy đuổi phải chạy ra Quảng Trị thì Nguyễn Phúc Ưng Đường (anh
của vua Kiến Phúc và Hàm Nghi) được Pháp đưa lên làm vua, lấy niên hiệu là Đồng Khánh. Tuy
nhiên đây là một ông vua không có quyền lực gì. Đồng Khánh làm vua được được 3 năm, chết lúc 25
tuổi.
Khi Đồng Khánh lên làm vua, ở xứ Huế đã có hai câu thơ nói về sự kiện này vẫn còn lưu truyền cho
đến ngày nay: “Một nhà sinh đặng ba vua/ Vua còn, vua mất, vua thua chạy làng”. Vua còn là Đồng
Khánh, vua mất là Kiến Phúc, vua thua chạy làng là Hàm Nghi.
Vua ban lệnh khi chuyển đi nơi khác, các quan không được lấy đồ đạc của nhà công mang theo,
nhà công phải được trông coi chờ quan mới đến dùng.
Lý Thái Tông có 4 chàng rể người dân tộc thiểu số
Là một quốc gia gồm nhiều thành phần dân tộc sống gắn bó, đoàn kết, trải hàng ngàn năm lịch sử
cùng chung sức xây dựng và bảo vệ đất nước, do đó các chính quyền Việt Nam từ xưa rất coi trọng
vấn đề dân tộc.
Thời nhà Lý, kế thừa chính sách của các triều đại trước, đối với vùng núi rừng xa xôi, nơi cư trú của
các dân tộc ít người, Lý Thái Tổ vẫn áp dụng chính sách “cơ mi” (ràng buộc lỏng lẻo).
Ngoài ra để tăng cường và đẩy mạnh mối quan hệ, liên kết; bên cạnh việc phong chức tước, quyền
hạn; ban thưởng tiền bạc, triều Lý còn thông qua các cuộc hôn nhân, gả công chúa cho các tù trưởng
lớn có thế lực để qua vai trò của họ tập hợp cư dân thành khối thống nhất quanh nhà nước quân chủ
trung ương tập quyền.
Trong số các hoàng đế của triều đại này, Lý Thái Tông là vị vua gả nhiều con gái cho các tù trưởng,
thủ lĩnh người dân tộc nhất. Tháng 3 năm Kỷ Tị (1029) vua gả công chúa Bình Dương cho Thân
Thiệu Thái, châu mục châu Lạng (nay là Lạng Sơn). Năm Bính Tý (1036) gả công chúa Kim Thành
cho châu mục châu Phong (nay thuộc Vĩnh Phúc, Phú Thọ) là Lê Thuận Tông; gả công chúa Trường
Ninh cho châu mục châu Thượng Oai (nay thuộc Sơn Tây, Hà Tây) là Hà Thiện Lãm; gả công chúa
Ngọc Kiều cho châu mục châu Chân Đăng (nay thuộc Vĩnh Phúc, Phú Thọ và 1 phần Sơn Tây).
Lê Thánh Tông quy định việc sử dụng “nhà công vụ”
Nhà công vụ hiểu một cách đơn giản là nhà ở thuộc tài sản công được dành cho quan chức (và gia
đình họ) sử dụng trong thời gian nhất định khi đảm nhiệm một vị trí cụ thể tại một địa phương. Đến
lúc không còn làm quan hoặc được chuyển đổi đi nhận vị trí khác thì người đó phải trả lại nhà công
vụ để bố trí cho người mới.
Tuy nhiên vẫn có những người muốn biến công thành tư. Cách đây 500 trăm năm, hoàng đế Lê
Thánh Tông để ý việc này, và đưa ra các cách thức xử lý cụ thể, ông trở thành nguyên thủ đầu tiên
quy định chế độ sử dụng “nhà công vụ” và tài sản công.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, tháng 4 năm Bính Tuất (1466), vua ban lệnh “cấm các quan
đổi đi chỗ khác không được lấy các thứ đồ dùng ở nhà công”. Đến tháng 2 năm Canh Tuất (1490) Lê
Thánh Tông “định lệ quan đổi đi nơi khác phải giao lại nhà công. Từ nay trở đi, quan các nha môn
nào đổi thăng đi, về nghỉ để tang hay ốm chết…thì chỗ nhà ở và các đồ vật giao cho quan lại sai
người coi giữ, đợi khi quan mới đến dùng”.
Lê Thần Tông chấm đỗ người không làm hết bài thi
Trong thi cử Nho học thời xưa có nhiều quy định rất chặt chẽ, khắt khe, bài thi nếu chỉ phạm một
chữ húy thì dù có viết hay đến mấy cũng bị đánh trượt, hoặc dù có làm hết bài nhưng chưa chắc đã
vượt nổi tài thơ văn của những người cùng thi khác. Ấy thế mà một thí sinh vào thi, làm không hết
bài vẫn được chấm đỗ, không những thế còn là người đỗ đầu khoa thi, đó là câu chuyện của Nguyễn
Minh Triết quê ở xã Lạc Sơn, huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, xứ Hải Dương (nay thuộc xã An Lạc,
huyện Chí Linh, Hải Dương).
Khoa thi Hội năm Tân Mùi (1631) đời Lê Thần Tông, đề thi gồm 2 phần: Phần đề phú có nội dung
“Lấy đức làm chính trị”, phần đề thơ là “Tiêu Hà đứng đầu”; tất cả gồm 12 mục. Lọt vào kỳ thi Hội chỉ
có 60 người, do thời gian ngắn mà đề mục lại nhiều nên 59 người đều làm sơ lược, tính toán miễn
sao cho đầy đủ 12 mục.
Riêng Nguyễn Minh Triết thì lần lượt làm từng mục, dẫn giải cụ thể, biện luận rõ ràng vì thế khi hết
giờ, phải nộp bài thì ông mới chỉ xong được 4 mục. Vua Lê Thần Tông xem bài thi thấy ý tứ rất hay
bèn hỏi các khảo quan và nữ học quan Nguyễn Thị Duệ, mọi người nói nếu chấm thì rất xứng đỗ
đầu. Cuối cùng vua truyền bảo: “Thơ chỉ hay một câu, phú chỉ hay một đoạn mà còn được, huống chi
bốn mục. Bài nếu đáng đỗ đầu thì cứ để đỗ đầu”.
Vậy là dù bài thi không hoàn thiện nhưng thí sinh Nguyễn Minh Triết lại được chấm đỗ Đình nguyên
Thám hoa. Ông chính là người cao tuổi thứ nhì trong số gần 80 vị đỗ Thám hoa trong lịch sử nước
ta.
Lê Ý Tông ban hành âm nhạc trong các ngày đại lễ
Âm nhạc được sử dụng trong các nghi lễ cung đình từ rất lâu nhưng còn đơn giản, chưa thống nhất,
chưa phân định cụ thể đối với từng nghi thức. Đến đời Lê Ý Tông (1735-1740), lần đầu tiên âm nhạc
được quy định sử dụng với các tiết tấu, thanh điệu khác nhau ở những ngày đại lễ khác nhau.
Sách Lê triều hội điển cho hay: “Theo pháp điển hồi quốc sơ, chỉ làm lễ rước và lạy mừng, nhạc
chương chưa đủ. Vĩnh Hựu năm thứ nhất (1736) mới kính vâng ngự chế, báo rõ bá quan rằng: Các lễ
Diên Thọ, Chính Đản, Yết Giao, Tế Cờ, xét về nhiều mặt được coi là đại lễ. Hợp các nhạc chương lại
để cùng diễn tấu. Như vậy ngước lên thấy tình văn tuyên xướng (được phô bày thỏa thích), tiết tấu
ung dung. Gây dựng được cái tự cổ chưa từng có. Thánh đức cùng thiên địa đại đồng, ấy là cái thể
nghiệm sự ứng dụng vậy”.
Theo đó, nhạc chương dùng trong các ngày đại lễ có 5 chương, là: Từ bình, Thanh bình, Hòa bình,
Thăng bình, Thừa bình.
Minh Mạng cho cắm biển ghi tên đường phố tại kinh đô
Ngày nay, không chỉ tại các đô thị lớn mà các thị trấn nhỏ đều có những tấm biển đề tên của các con
đường, con phố tạo thuận tiện rất nhiều trong việc xác định vị trí, tìm địa chỉ, quản lý hành chính…,
thậm chí còn có tác dụng nhắc nhớ, tri ân đến những chiến công, địa danh, con người cụ thể.
Nếu như việc dựng biển chỉ hướng đi các nơi, lập cột mốc đánh dấu khoảng cách đường đi đã được
một số vị vua thời Tiền Lê, Lý tiến hành thì việc đặt tên đường phố, dựng biển ghi tên lần đầu được
thực hiện dưới triều vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Sách Đại Nam thực lục cho biết vào tháng 5 năm
Canh Thìn niên hiệu Minh Mạng thứ nhất (1820), vua cho “đặt đường phố ở Kinh thành có khắc
biển, ghi tên”.
Vua Khải Định ban thưởng cho những người đại thọ
Tôn kính, trọng vọng người già là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam từ hàng ngàn năm
qua. Chính vì vậy sử sách ghi chép rất nhiều đến việc các quân vương nhiều triều đại từng ban yến
tiệc, thưởng tiền bạc, lụa là cho các bậc phụ lão trong nước. Thậm chí vào đời Trần, triều đình còn
hỏi ý kiến của người già nên làm gì trước cuộc xâm lược của giặc Nguyên Mông: lịch sử đã ghi nhận
về “hội nghị Diên Hồng” với tiếng hô: “Quyết đánh” của các bô lão.
Thời Khải Định ở ngôi, có một sự kiện độc đáo liên quan đến người cao tuổi, đó là vào tháng 5 năm
Kỷ Mùi (1919) vua ban thưởng cho 8 người đại thọ, trong đó có một nhân vật rất nổi tiếng là cụ
Đoàn Tử Quang, người được coi là thí sinh cao tuổi nhất trong lịch sử thi cử nước ta.
Sách Khải Định chính yếu viết: “Tháng 5, chuẩn ban thưởng biển ngạch cùng tiền bạc với mức khác
nhau cho 8 vị quan viên cao thọ, gồm: Cấm binh, phó vệ úy Trịnh Văn Hòa ở tỉnh Quảng Nam (94
tuổi); nguyên Thống chế về hưu Nguyễn Như Cung ở phủ Thừa Thiên (81 tuổi); Quang lộc tự Thiếu
khanh Trương Thỉnh ở tỉnh Quảng Nam (81 tuổi); Đoàn Tử Quang hàm Trước tác đang an dưỡng tại
quê nhà thuộc tỉnh Hà Tĩnh (101 tuổi); Thái Tân, dân thường cao thọ ở tỉnh Hà Tĩnh (101 tuổi);
Phạm Văn Châu ở tỉnh Quảng Nam (101 tuổi); Nguyễn Văn Hỗ ở tỉnh Quảng Nam (101 tuổi); Đồng
Vũ ở tỉnh Bình Định (101 tuổi)”.

You might also like