You are on page 1of 102

Tài liệu bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đảng viên mới được biên tập

trên cơ sở tài liệu do Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn được sử dụng rộng rãi
trong những năm qua. Mục đích của tài liệu là nhằm giúp các đồng chí đảng viên
mới nắm được những kiến thức cơ bản, cốt lõi về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; về những vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam và
nhiệm vụ của người đảng viên. Trên cơ sở đó, mỗi đảng viên mới xây dựng kế
hoạch phấn đấu, rèn luyện để trở thành đảng viên chính thức, xứng đáng danh hiệu
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

"Tài liệu bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đảng viên mới" để trang bị
cho học viên học tại làm tài liệu học tập.

Tài liệu gồm 9 bài:

Bài 1: Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng ta

Bài 2: Chủ nghĩa xã hội và phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bài 3: Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Bài 4: Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

Bài 5: Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

Bài 6: Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội

Bài 7: Tăng cường quốc phòng, an ninh, triển khai các hoạt động đối ngoại;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế

Bài 8: Tổ chức cơ sở đảng và công tác xây dựng Đảng ở cơ sở

Bài 9: Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu
người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Bài 1
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH -
NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM CHO HÀNH ĐỘNG
CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG TA

Trên con đường đi tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nghiên
cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Người khẳng định
muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn đường nào khác là con đường
cách mạng vô sản. Từ đó, các hoạt động lý luận và thực tiễn của Người hướng tới
việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 03-02-1930, Người chủ trì Hội
nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam (Đông Dương cộng sản Đảng; An
Nam cộng sản Đảng, Đông Dương cộng sản liên đoàn), thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt của Đảmg. Đảng tuyên bố lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng tư tưởng của mình.
Đến Đại hội VII của Đảng (6-1991), Đảng đã xác định “tư tưởng Hồ Chí
Minh là kết quả của sự vận dung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện cụ thể nước ta...”. Trên cơ sở đó, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” được thông qua tại Đại hội, Đảng đã
khẳng định. "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động..."1. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), được
thông qua tại Đại hội XI (01-2011) của Đảng, một lần nữa khẳng định điều này.
Đó là kết luận rút ra từ kết quả tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử của Đảng ta
và cách mạng Việt Nam từ khi thành lập Đảng. Quán triệt sâu sắc những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư
tưởng của Đảng, là nhiệm vụ của người đảng viên của Đảng.
I. BẢN CHẤT KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-
LÊNIN
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu trí tuệ của loài người
a. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin - đòi hỏi khách quan của phong trào
cách mạng thế giới

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1991, tr. 21.
2
Trong quá trình phát triển của nhân loại, nhất là từ khi xuất hiện các giai cấp
và đấu tranh giai cấp, quần chúng lao động bao giờ cũng mơ ước được sống trong
một xã hội bình đẳng, công bằng, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Nhiều
tư tưởng tiến bộ và nhân đạo đã hình thành và phát triển trong lịch sử nhân loại để
dẫn dắt cuộc đấu tranh của quần chúng cần lao.
Đến giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở nhiều
nước Tây Âu, nhất là ở nước Anh, phát triển mạnh mẽ. Giai cấp vô sản đã bước lên
vũ đài chính trị, cần có lý luận khoa học để hướng dẫn cuộc đấu tranh cách mạng
nhằm giải phóng mình khỏi những áp bức, bất công xã hội.
Trong thời điểm đó trên thế giới đã xuất hiện các tiền đề kinh tế - xã hội,
khoa học, lý luận dẫn tới sự ra đời của chủ nghĩa Mác:
+ Tiền đề kinh tế:
Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội đã ở trình độ xã hội hóa cao nhờ
những cải tiến, phát minh về kỹ thuật và công nghệ, dẫn tới sự ra đời của nền sản
xuất đại công nghiệp cơ khí. Mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là giữa tính chất
xã hội hoá của sản xuất với chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng phát
triển đã trở nên gay gắt và trở thành mâu thuẫn chủ yếu của xã hội.
+ Tiền đề chính trị - xã hội:
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản gắn liền với sự ra đời và phát triển của
giai cấp công nhân. Cơ cấu xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa có đặc trưng cơ bản
là tồn tại hai giai cấp đối lập nhau về lợi ích là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ngày càng lan rộng, phát triển từ tự
phát tới tự giác, từ đấu tranh kinh tế tới đấu tranh chính trị. Các cuộc đấu tranh của
công nhân ở Lyông (Pháp), thợ dệt ở Xilêdi (Đức)... thể hiện sự trưởng thành về
chính trị của giai cấp vô sản. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đòi hỏi bức xúc
phải có sự dẫn dắt của lý luận khoa học và cách mạng. Lý luận của Mác ra đời đáp
ứng những đòi hỏi ấy.
+ Tiền đề khoa học và lý luận:
Về khoa học tự nhiên, vào giữa thế kỷ XIX, đã xuất hiện thuyết tiến hóa
giống loài của Đác-uyn, học thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của
Lômônôxốp... Các phương pháp nhận thức khoa học như: quy nạp, phân tích, thực
nghiệm, tổng hợp... đã thúc đẩy năng lực tư duy khoa học không ngừng phát triển.

3
Về lý luận, có những thành tựu của triết học cổ điển Đức (đại biểu là Cantơ,
Hêghen, Phoiơbắc); kinh tế chính trị cổ điển Anh (Ađam Xmít và Đa-vít Ricácđô),
chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ XIX (Xanh-Xi-mông, Phu-riê ở Pháp; O-oen
ở Anh...).
C. Mác (1818-1883) và Ph. Ăngghen (1820-1895) đã kế thừa, tiếp thu có
chọn lọc và phát triển những tiền đề lý luận trên để sáng tạo ra học thuyết khoa học
và cách mạng cho giai cấp vô sản, đó là chủ nghĩa Mác. Trong học thuyết của
mình, hai ông đã hình thành nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử; làm sáng tỏ quy luật hình thành, phát triển, diệt vong của chủ nghĩa tư
bản và vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản là xóa bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác ra đời đáp ứng đòi hỏi cấp bách của phong trào cách mạng
thế giới. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác không chỉ là sự phản ánh của thực tiễn xã
hội, nhất là tình hình thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, mà là
một tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển hợp lôgíc của lịch sử tư duy nhân
loại, là thành tựu trí tuệ của loài người.
b. V. I. Lênin đã bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo toàn diện lý luận
của Mác - Ăngghen trong điều kiện lịch sử mới
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã chuyển sang giai đoạn phát
triển mới, giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư
bản làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc không thể điều hoà được, dẫn tới
chiến tranh đế quốc. Trong điều kiện đó, cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng
lợi ở một vài nước, thậm chí ở một nước tư bản kém phát triển. Do sự xâm chiếm
và đô hộ các nước thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, trên thế giới đã xuất hiện
phong trào đấu tranh chống đế quốc giành lại nền độc lập ở các nước thuộc địa. Vì
vậy, cách mạng vô sản ở các nước đế quốc và phong trào giải phóng dân tộc có
mối quan hệ khăng khít với nhau, cùng chống một kẻ thù chung.
Trong hoàn cảnh đó, V.I. Lênin (1870-1924) đã vận dụng và phát triển sáng
tạo toàn diện học thuyết Mác để giải quyết những vấn đề của cách mạng vô sản
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
V.I. Lênin đã phân tích sâu sắc về chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc, chỉ ra những mâu thuẫn nội tại không thể nào khắc phục được của
chủ nghĩa tư bản, đi đến khẳng định khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản, về
mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc. Với thắng

4
lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại và thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, V.I. Lênin đã phát triển một loạt vấn đề lý luận mới:
về xây dựng chính quyền xô viết; phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật, phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới; tiến hành công nghiệp hóa,
điện khí hoá toàn quốc; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa... Đó chính là sự bổ
sung, phát triển chủ nghĩa Mác.
Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin không chỉ phê phán không khoan
nhượng đối với mọi kẻ thù của chủ nghĩa Mác, mà còn kịch liệt phê phán chủ
nghĩa xét lại, cơ hội, tả, hữu khuynh, giáo điều, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
Mác.
Những cống hiến lý luận của V.I. Lênin trong việc phát triển sáng tạo học
thuyết Mác đã tạo nên một hệ thống lý luận thống nhất của giai cấp vô sản và các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Chính vì thế mà một giai đoạn mới trong sự
phát triển của chủ nghĩa Mác đã gắn liền với tên tuổi của V.I. Lênin, hệ tư tưởng
của giai cấp vô sản được gọi là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Với bản chất khoa học và cách mạng, ngày nay chủ nghĩa Mác - Lênin đã,
đang và sẽ tiếp tục được vận dụng, bổ sung và phát triển trong thực tiễn đấu tranh
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc trên thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tộc, phát triển và chủ nghĩa xã hội.
2. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận thống nhất được hình
thành từ ba bộ phận: triết học Mác - Lênin, kinh tế chính trị Mác - Lênin và
chủ nghĩa xã hội khoa học
a- Triết học Mác - Lênin (bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử)
Triết học là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và
tư duy. Triết học Mác - Lênin đem lại cho con người thế giới quan khoa học và
phương pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
b- Kinh tế chính trị Mác - Lênin
Kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất, tức quan hệ sản xuất. Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chỉ rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa; những quy luật kinh tế chủ yếu hình thành, phát triển và đưa chủ nghĩa
tư bản tới chỗ diệt vong. Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật

5
phát triển của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội không có áp
bức, bất công, vì tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người.
c. Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ xã hội
tư bản chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa và phương hướng xây dựng xã hội
mới. Nó chứng minh rằng việc xã hội hóa lao động trong chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
cơ sở vật chất chủ yếu cho sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội; động lực trí tuệ
và tinh thần của sự chuyển biến đó là chủ nghĩa Mác - Lênin; lực lượng xã hội thực
hiện sự chuyển biến đó là giai cấp vô sản và nhân dân lao động.
3. Những nội dung chủ yếu thể hiện bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin
Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện trên 4
nội dung chủ yếu sau:
a. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học, thể hiện trong
toàn bộ các nguyên lý cấu thành học thuyết, trước hết là các nguyên lý trụ cột
Trong chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn
liền với nhau. Sự thống nhất chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ
nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, mà cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội,
là một thành tựu vĩ đại của triết học mác-xít. Học thuyết về hình thái kinh tế - xã
hội đã chỉ rõ sự chuyển biến từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình
thái kinh tế - xã hội khác diễn ra không phải một cách tự động mà phải trải qua quá
trình đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt.
Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất thể hiện sự vận động của phương thức sản xuất. Đó là cơ sở để
khẳng định sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ
nghĩa xã hội.
Học thuyết Mác về giá trị thặng dư đã vạch ra quy luật vận động kinh tế của
xã hội tư bản - quy luật giá trị thặng dư - từ đó vạch ra bản chất bóc lột của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản đã chỉ rõ giai cấp công nhân
là người lãnh đạo cuộc đấu tranh để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế
độ xã hội chủ nghĩa, giải phóng giai cấp mình và đồng thời giải phóng xã hội.

6
b. Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan khoa học và phương pháp luận
mác-xít trong chủ nghĩa Mác - Lênin
Bản thân các quy luật, nguyên lý trong chủ nghĩa Mác - Lênin vừa có ý
nghĩa thế giới quan, vừa có ý nghĩa phương pháp luận.
Thế giới quan duy vật biện chứng giúp con người hiểu rõ bản chất của thế
giới là vật chất. Thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy vận động, biến đổi theo những
quy luật khách quan. Con người thông qua hoạt động thực tiễn có thể nhận thức,
giải thích, cải tạo thế giới, làm chủ thế giới.
Phương pháp luận đúng đắn giúp xem xét sự vật, hiện tượng một cách khách
quan, phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng. Sự thống nhất giữa thế giới quan
và phương pháp luận đã đưa chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành một hệ thống lý luận
mang tính khoa học sâu sắc và cách mạng triệt để.
c. Là học thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người với con đường, lực lượng, phương thức đạt mục tiêu đó
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ quần chúng nhân dân là chủ nhân của xã
hội, là người sáng tạo ra lịch sử. Điều đó đem lại cho loài người, đặc biệt là giai
cấp công nhân, nhân dân lao động, những công cụ nhận thức và cải tạo thế giới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, là vũ khí lý luận
sắc bén của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình, giải
phóng toàn xã hội và giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ giải thích mà còn vạch ra con đường,
những phương tiện cải tạo thế giới.
Ra đời trong thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác -
Lênin khẳng định mối liên hệ hữu cơ, biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực
tiễn cách mạng. C. Mác viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế
được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực
lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng”1.
d. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mở, không ngừng tự đổi mới, tự
phát triển trong dòng trí tuệ của nhân loại
Mang bản chất khoa học, nên chủ nghĩa Mác- Lênin không phải là một hệ
thống các nguyên lý giáo điều, bất biến mà gắn với quá trình phát triển của tri thức

1.
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1; tr. 580.
7
nhân loại và phong trào cách mạng trên thế giới. Chính C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.
Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông không phải là cái đã xong
xuôi hẳn, còn nhiều điều các ông chưa có điều kiện, thời gian, cơ hội nghiên cứu.
Phát triển lý luận Mác - Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những
người mác-xít chân chính. Ngay bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin trong quá trình nghiên cứu và hoạt động trong phong trào công nhân cũng đã
điều chỉnh một số luận điểm của mình.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mở. Vì vậy, nó không bao giờ là
một học thuyết lý luận cứng nhắc và giáo điều. Thế hệ này nối tiếp thế hệ khác tiếp
thu, vận dụng và phát triển sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
làm cho học thuyết của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin ngày càng được bổ sung
và hoàn thiện.
Toàn bộ học thuyết Mác - Lênin có giá trị bền vững, xét trong tinh thần biện
chứng, nhân đạo và hệ thống tư tưởng cốt lõi của nó. Đó là những kết tinh trí tuệ
của nhân loại qua các thế hệ nối tiếp nhau, để ngày càng phát triển và hoàn thiện.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - HỆ THỐNG CÁC QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
VÀ SÂU SẮC VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã vận dụng
những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn trên, tại Đại hội VII
(tháng 6/1991) Đảng ta lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm về tư tưởng Hồ Chí
Minh và khẳng định: “cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng nêu cao tư
tưởng Hồ Chí Minh” 1. Đến Đại hội IX (2001), Đảng ta đưa ra định nghĩa tư
tưởng Hồ Chí Minh. Kế thừa định nghĩa này, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)
khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá
của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta giành thắng lợi"1.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, H., 2011, tr.88.
8
2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp
thu bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Từ đó, trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong quá trình vận
dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Người đã có nhiều phát triển sáng tạo,
làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
b. Các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Tư tưởng của Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống yêu nước, ý chí độc lập, tự cường; đoàn
kết, nhân ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng; lạc quan yêu đời, cần cù, thông
minh, sáng tạo... Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước trước khi trở thành
một chiến sĩ cộng sản. Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ
Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại; và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta,
nhân dân ta và non sông đất nước ta. Người là tượng trưng cho tinh hoa của dân
tộc Việt Nam.
c. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn tìm tòi, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc, có phê phán các
quan điểm của các trường phái triết học, quan điểm tư tưởng cổ, kim, đông, tây;
tinh thần cách mạng, tinh thần độc lập tự do của các dân tộc; kinh nghiệm của các
cuộc cách mạng... để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, để trở thành tư
tưởng của mình.
Trong ba nguồn gốc trên, chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và là động
lực thúc đẩy Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam có nội dung mới, tầm cao mới, “độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng
Hồ Chí Minh, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có định hướng khoa học và cách mạng đúng
9
đắn. Chính vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và chủ yếu là sản phẩm của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu có và sâu sắc thêm chủ nghĩa yêu
nước và tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.
d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Chủ tịch Hồ
Chí Minh
Những điều kiện trên cũng đã đến với nhiều người cùng thời với Hồ Chí
Minh. Nhưng chỉ có ở Chủ tịch Hồ Chí Minh những điều kiện đó mới phát triển trở
thành tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi vì có sự tham gia của các phẩm chất cá nhân của
Người.
Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với sự nhận xét, phê
phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu.
Thứ hai, là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của
nhân loại, học tập kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong
trào công nhân quốc tế.
Thứ ba, là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành
cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ,
sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng
bào.
Cùng với những năng lực bẩm sinh, những phẩm chất cá nhân cao quý trên
đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hoá, phát triển những
tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc của mình.
3. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
Đến Đại hội IX (4-2001) Đảng ta đã nêu khá đầy đủ những nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh, gồm:
- Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;
- Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
- Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc;
- Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của
dân, do dân, vì dân;
- Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;

10
- Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân;
- Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
- Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau;
- Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa
là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân...
III. VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC-
LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Các yêu cầu cần nắm vững trong việc vận dụng và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Trên cơ sở nắm chắc bản chất cách mạng và khoa học, để vận dụng đúng
đắn, thích hợp vào thực tiễn nước ta, cần thực hiện các yêu cầu sau:
Một là, cần nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
đang còn nguyên giá trị, như Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội; Học thuyết
giá trị thặng dư…Khi vận dụng một quan điểm lý luận cụ thể của chủ nghĩa Mác -
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm chắc bối cảnh ra đời, phạm vi nhiệm vụ
mà tư tưởng, nguyên lý đó phải giải quyết. Không thể chỉ dựa vào một câu nói,
một luận điểm tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong khi không rõ bối cảnh ra đời của nó, để bê nguyên xi vào tình hình
thực tiễn, bởi vì những câu nói, bài viết của các nhà kinh điển luôn gắn liền với
hoàn cảnh thực tiễn của nó.
Hai là, khi vận dụng, phải nắm chắc đặc điểm nước ta, xuất phát đầy đủ từ
tình hình thực tiễn đất nước, xác định rõ những yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn cần
giải quyết, bối cảnh quốc tế, trong đó nhiệm vụ được thực hiện.
Ba là, phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đất nước, tham
khảo có chọn lọc kinh nghiệm các nước, từ đó khái quát thành những bài học cho
cách mạng nước ta trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện thực tiễn nước ta hiện nay đang là vấn đề được Đảng ta hết sức quan tâm, coi
đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh phải đi liền với bổ sung và phát triển dựa trên những vấn đề
thực tiễn đặt ra. Sự nghiệp đổi mới đang đi vào chiều sâu, nhiều vấn đề mới như

11
kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, nhà nước pháp quyền, hội nhập... là những vấn
đề rất mới, cần được nghiên cứu, giải đáp về lý luận và thực tiễn. Đại hội X xác
đinh: phải chăm chú phát hiện, tổng kết thực tiễn để tìm ra cái mới của lý luận, bổ
sung cho kho tàng lý luận mác-xít, dùng nó như một kim chỉ nam dẫn đường chứ
không phải kinh thánh để rơi vào giáo điều.
Bốn là, muốn vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng
ta cần phải nắm vững hệ thống các quan điểm tư tưởng của Người, nắm chắc mục
tiêu, yêu cầu từng giai đoạn, gắn chặt với tổng kết thực tiễn. Phải hiểu sâu sắc quá
trình hình thành hệ thống quan điểm tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam.
Chỉ thông qua quá trình đó, chúng ta mới có thể phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đúng đắn và khoa học.
2. Kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích,
phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
có giá trị bền vững nằm trong một hệ thống và thể hiện trong các học thuyết trụ
cột. Bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là bảo vệ tính hệ thống,
toàn vẹn của những nguyên lý cơ bản đó.
Để đấu tranh có hiệu quả với những luận điểm phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần:
- Nắm chắc nội dung, bản chất từng luận điểm gắn với hoàn cảnh lịch sử và
yêu cầu cụ thể cần giải quyết. Đồng thời, phải tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới; đưa những tư tưởng, quan điểm
đó vào thực tế cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực, thực hiện thắng lợi mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", chứng minh sự đúng đắn
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tế. Đó là cách tốt
nhất để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo thủ, giáo
điều. Đấu tranh chống chiến lược "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng - văn
hóa với những hoạt động phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc, bôi đen
những thành quả của chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đòi bỏ Điều 4 trong Hiến pháp, đề cao hệ tư tưởng tư sản, xã hội tư sản.
- Đấu tranh với các hành động xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, hoặc đối
lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất là muốn phủ nhận
cả chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh...

12
Trong cuộc đấu tranh tư tưởng này, hơn ai hết, đảng viên phải là những
người đi đầu, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, bảo vệ sự lãnh đạo
của Đảng. Muốn vậy, điều trước hết và chủ yếu là đảng viên phải có lập trường tư
tưởng vững vàng, không mơ hồ, dao động; phải nói và làm theo nghị quyết, thực
hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước; kiên định những
vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng.

CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Phân tích bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
2. Phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
3. Cần làm gì để vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh ?

13
Bài 2
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

I. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI-MỘT SỰ
LỰA CHỌN HỢP QUY LUẬT, HỢP LÒNG DÂN
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn xuyên suốt quá
trình cách mạng Việt Nam, là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta và dân tộc
Việt Nam đã lựa chọn.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần một thế kỷ qua cho chúng ta nhận thức
sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự gắn kết giữa
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là con đường tất yếu khách quan,
hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lòng người. Đó là sự lựa chọn của
lịch sử, của nhân dân ta đi theo Đảng, Bác Hồ, làm nên những thắng lợi vĩ đại, đưa
dân tộc lên tầm cao mới của thời đại.
1. Sự lựa chọn khách quan của lịch sử
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp
đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Từ 1858 đến năm 1930, đã có hàng trăm
cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước diễn ra dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các
nhân sỹ, trí thức, nông dân, binh lính yêu nước diễn ra theo nhiều khuynh hướng
chính trị khác nhau. Đó là các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của nông dân Nam Bộ
dưới sự lãnh đạo của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực,
các cuộc chiến quyết tử bảo vệ thành Gia Định, thành Hà Nội của Nguyễn Tri
Phương, Hoàng Diệu, phong trào Cần Vương, các phong trào Đông Du, Đông
Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám, Trịnh Văn
Cấn, Nguyễn Thái Học... Dù tràn đầy lòng yêu nước, đức hy sinh, nhưng các cuộc
khởi nghĩa, các phong trào đó đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Vấn
đề độc lập dân tộc không được giải quyết, trước hết là do không có đường lối cách
mạng đúng đắn dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách
mạng. Đó là sự khủng hoảng đường lối cứu nước.
Tháng 6 năm 1911 người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn
Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua nhiều nước,
nhiều châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh

14
nghiệm của các nước, rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích, là cơ sở cho sự lựa
chọn con đường cách mạng của mình.
Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc đến
Nguyễn Ái Quốc. Nhưng bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người là khi được đọc
Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin
(1919), tác phẩm lý luận bàn về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản. Người đã tìm thấy con đường duy nhất
đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là
con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; cách mạng giải phóng dân tộc từng nước gắn
với phong trào cách mạng thế giới... Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"1. Từ
niềm tin đó, Người tổ chức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, sáng lập
và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành được hết thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Toàn dân ta đi theo Đảng. Vì vậy, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
Căn cứ chủ yếu của sự lựa chọn đó thể hiện ở các điểm sau:
Một là, cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành công
đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng hiện
thực cho những dân tộc lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những khả năng hiện
thực này giúp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa đang bế
tắc về hướng đi.
Hai là, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp vô sản và
nhân dân lao động khỏi bóc lột, ách áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở thành những
người làm chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa xã hội thì mới
vững chắc. "Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc" như Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr. 314.
15
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ
chính trị, lựa chọn con đường và mô hình phát triển, độc lập cả về chính trị, kinh
tế, văn hóa.
Chủ nghĩa xã hội thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; con người được phát triển toàn diện, có năng
lực và điều kiện làm chủ, xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch của dân tộc này
với dân tộc khác về chính trị, kinh tế và tinh thần.
Chủ nghĩa xã hội tạo ra sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước
dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì
một thế giới không có chiến tranh, không có sự hoành hành của cái ác, của những
sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho con người sống trong an ninh và hạnh phúc.
2. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo đã
khẳng định: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn
Trong hơn 80 năm qua, Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục
tiêu này. Nhờ vậy, mà cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử và thời đại:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là kết quả tổng hợp của các phong
trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào
Xô viết Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến cao trào giải phóng
dân tộc 1939-1945. Cách mạng Tháng Tám đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong
kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, đưa đất nước từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

16
minh"; củng cố vững chắc hơn độc lập dân tộc, từng bước đưa nước ta lên chủ
nghĩa xã hội.
Bài học lớn, được đặt ở vị trí hàng đầu qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng,
là bài học phải "kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
3. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Cương
lĩnh năm 1991 xác định:
- Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, đi lên chủ nghĩa xã hội, lực
lượng sản xuất rất thấp.
- Đất nước trải qua chiến tranh ác liệt kéo dài nhiều chục năm, hậu quả xã hội
do chiến tranh để lại rất nặng nề.
- Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại.
Đó là những khó khăn khách quan trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, cho thấy thời kỳ quá độ ở Việt Nam là một thời kỳ lịch sử lâu dài,
phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp, chưa có tiền lệ.
Bên cạnh đó, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa cũng có nhiều thuận lợi:
- Đất nước hoà bình và thống nhất.
- Dân tộc Việt Nam có truyền thống anh hùng, bất khuất, nhân dân có lòng
yêu nước và cần cù lao động.
- Chúng ta đã có một số cơ sở vật chất ban đầu.
- Thời cơ phát triển do cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế quốc tế
hoá đời sống kinh tế thế giới tạo ra.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định:
- Quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là một quá trình cách mạng sâu
sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về
chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan

17
xen (Cương lĩnh năm 1991 chỉ nêu yêu cầu về sự cần thiết phải có bước đi, hình
thức, biện pháp thích hợp).
- Chỉ rõ những thuận lợi cơ bản:
+ Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh
nghiệm lãnh đạo (bổ sung so với Cương lĩnh năm 1991).
+ Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân
ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao
động và sáng tạo, luôn luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng (kế
thừa, trình bày rõ hơn Cương lĩnh năm 1991).
+ Chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất
quan trọng (kế thừa Cương lĩnh năm 1991).
+ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát
triển kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một
thời cơ để phát triển.
II. VỀ MÔ HÌNH XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA MÀ NHÂN DÂN TA
XÂY DỰNG
Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nhận thức ngày
càng rõ hơn những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Bắt đầu từ Đại hội VII
(tháng 6 năm 1991), Đảng đã khái quát các đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Đại hội X và XI của Đảng đã bổ sung, phát triển các đặc trưng trên.
1. Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội năm 1991
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991 đã khái quát 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu (quan hệ sản xuất dựa trên "chế độ

18
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu" chính là quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa).
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới1.
2. Sự bổ sung, phát triển tại Đại hội X
Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới, trên nền
Cương lĩnh 1991, Đại hội X đã bổ sung và phát triển, nêu lên 8 đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Một là, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh (đây là đặc trưng mới mà Cương lĩnh
năm 1991 chưa đề cập; sự bổ sung phản ánh yêu cầu diễn đạt chủ nghĩa xã hội một
cách khái quát, ngắn gọn, dễ hiểu nhất).
Hai là, do nhân dân làm chủ (so với Cương lĩnh 1991, bỏ cụm từ "lao động"
cho đúng với thực tế khi đã xây dựng về cơ bản chủ nghĩa xã hội).
Ba là, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (so với
Cương lĩnh năm 1991, bỏ cụm từ: "dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu" và thay bằng cụm từ mới "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất" nhằm tránh sự hiểu lầm, xuyên tạc về đường lối
kinh tế của Đảng ta. Cách diễn đạt này không trái với Cương lĩnh năm 1991 vì
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất hiện đại trong điều kiện
nền kinh tế phát triển cao chính là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa).
Bốn là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện (so với Cương lĩnh năm 1991, bỏ đoạn
1.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb, Sự thật,
Hà Nội, 1991, tr. 8-9.
19
"bóc lột" xuất phát từ thực tế khi kết thúc thời kỳ quá độ và do khái niệm "bóc lột"
còn có ý kiến khác nhau).
Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ (so với Cương lĩnh năm 1991, bổ sung thêm cụm
từ tương trợ).
Bảy là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (đặc trưng này chưa được đề
cập trong Cương lĩnh năm 1991; sự bổ sung thể hiện nhận thức rất mới của Đảng
về Nhà nước xã hội chủ nghĩa).
Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Như vậy, so với Cương lĩnh năm 1991, về số lượng, Đại hội X bổ sung thêm
2 đặc trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa và sửa đổi một số ý trong 6 đặc trưng
nêu trong Cương lĩnh năm 1991. Đó là bước phát triển mới của Đảng trong nhận
thức lý luận và tổng kết thực tiễn về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng.
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã
hội ở nước ta
Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XI tiếp tục bổ sung, hoàn thiện thêm nội dung các
đặc trựng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, gồm :
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh (so với Đại hội X,
đưa "dân chủ" lên trước "công bằng" cho phù hợp về lý luận và thực tiễn mối quan
hệ giữa dân chủ và công bằng);
- Do nhân dân làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp (thay đổi so với Đại hội X trong cách diễn đạt về quan
hệ sản xuất nhằm khẳng định quả quyết hơn về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
khi kết thúc thời kỳ quá độ vì để tránh khả năng có quan hệ sản xuất phù hợp mà
không phải xã hội chủ nghĩa);
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

20
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện (so với Đại hội X, bỏ cụm từ "con người được giải phóng khỏi áp bức,
bất công" cho phù hợp với thực tế khi kết thúc thời kỳ quá độ);
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển (so với Đại hội X, bổ sung thêm các cụm từ "tôn trọng"
và "phát triển" vì đây là những vấn đề rất quan trọng trong quan hệ dân tộc hiện
nay);
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Ðảng Cộng sản lãnh đạo;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới (so với
Đại hội X có thay đổi cho phù hợp với xu thế trong thực tiễn quan hệ đối ngoại của
nước ta với các nước trên thế giới, không bó hẹp trong quan hệ đối ngoại chỉ với
nhân dân các nước).
Đại hội khẳng định, để xây dựng được xã hội với các đặc trưng trên phải tiến
hành một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và
cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau.
III. PHƯƠNG HƯỚNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là không qua giai đoạn
phát triển chủ nghĩa tư bản. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập
địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
Nhận thức của Đảng về các quá trình này ngày càng hoàn chỉnh hơn.
1. Đại hội VII về phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội
Đại hội VII nêu 7 phương hướng cơ bản:
Một là, “Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ

21
quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi
hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”1.
Hai là, “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”1.
Ba là, “Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở
hữu. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu”1.
Bốn là, "Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ
vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân
chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ
ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội"1.
Năm là, “Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu
nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất
cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết
với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới"2.
Sáu là, “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất

1. Sđd, tr.9
1
Sđd, tr.9.
1. Sđd, tr.9-10.
1,2. Sđd, tr.10.
22
nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”1.
Bảy là, “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”2.
2. Sự bổ sung, phát triển của Đại hội X
Trên cơ sở bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội nêu trong Cương lĩnh 1991, Đại hội X đã sắp xếp lại, điều chỉnh, bổ sung thành
8 quá trình tất yếu phải thực hiện ở nước ta.
Một là, "Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"3.
Hai là, “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa"1.
Ba là, "Xây dựng nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng
tinh thần của xã hội"2.
Bốn là, “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc"3.
Năm là, "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân"4.
Sáu là, "Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh"1.
Bảy là, "Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia"2.
Tám là, "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"3.
3. Phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh (
bổ sung, phát triển năm 2011)
Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011). So với Cương lĩnh năm 1991 và Đại hội X, Cương lĩnh bổ
sung, phát triển năm 2011 đã hoàn chỉnh và sắp xếp lại thứ tự các phương hướng
cơ bản như sau:

1. Sđd, tr.10.
2. Sđd, tr.11.
1,2,3,4. Sđd, tr.69.
1,2,3. Sđd, tr.69.
4. Sđd, tr.72-73.
23
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Từ một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, tất
yếu phải tiến hành công nghiệp hoá. Trong thời đại cách mạng khoa học- công
nghệ, công nghiệp hoá phải kết hợp ngay từ đầu với hiện đại hoá, gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là bước phát triển mới về lý luận của Đảng ta trong quá trình đổi mới.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế
tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mô hình đó đòi hỏi phải:
- Phát triển các thành phần kinh tế; các thành phần kinh tế hoạt động theo
pháp luật, đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước
pháp luật, cùng phát triển lâu dài, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục…,
giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức
đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều
tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Văn hoá là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Để xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh phải lấy văn hoá làm nền tảng tinh thần. Cần tiếp tục phát
triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm
cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự và an
toàn xã hội.
24
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm
vụ chiến lược có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong điều kiện mới, tình hình
mới, cần nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Bảo đảm an ninh quốc gia ngày nay bao gồm: an ninh chính trị, an
ninh kinh tế, an ninh văn hoá, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội. Bảo vệ Tổ quốc
ngày nay không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà
còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ
kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới...
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu khách quan đang lôi cuốn nhiều nước
tham gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chúng ta phải chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế. Chủ động về đường lối, chính sách, bước đi trong hội
nhập. Tích cực chuẩn bị vươn lên tham gia mạnh mẽ hơn, đầy đủ hơn vào quá trình
toàn cầu hoá kinh tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Đại hội XI bổ sung cam kết nước
ta là "thành viên có trách nhiệm" của các tổ chức quốc tế mà chúng ta tham gia.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là
mục tiêu và bản chất của chế độ ta. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển. Phát huy dân chủ gắn liền với phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc. Đại hội X, Đại hội XI đều xác định đại đoàn kết toàn dân tộc vừa là nguồn
lực chủ yếu để xây dựng xã hội mới, vừa là nhân tố quyết định đảm bảo thắng lợi
bền vững của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Nhà nước pháp quyền là sự tiến bộ của nhân loại, trong đó có đặc điểm nổi
bật là đảm bảo quyền tối cao của pháp luật. Nhà nước pháp quyền ở nước ta là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ
của mình chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Văn
kiện Đại hội XI xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện
nay là xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước; xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm
25
tra, giám sát các cơ quan công quyền; tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp, hành
pháp và tư pháp; tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Trong điều kiện hiện nay, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
là “nhiệm vụ then chốt", có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn phải được coi là
quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.

CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Những căn cứ lý luận và thực tiễn nào để chúng ta khẳng định: độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một sự lựa chọn hợp quy luật, hợp lòng
dân ?
2. Phân tích những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng theo Văn kiện Đại hội XI của Đảng?
3. Phân tích những phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội trong Văn kiện
Đại hội XI của Đảng?

26
Bài 3
PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ SỨC MẠNH
ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

I. VỀ DÂN CHỦ VÀ PHÁT HUY DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


1. Khái niệm dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là từ xuất hiện từ lâu ở Hy Lạp, theo chữ Hy Lạp “demos” và
“kratos”, có nghĩa là “nhân dân” và “chính quyền” tạo thành. Đến thế kỷ thứ
XVIII, người Anh đã dựa vào ngôn ngữ Hy Lạp cổ để đưa ra thuật ngữ
“democracy”, có nghĩa là “chính thể dân chủ”, một trong những hình thức chính
quyền với đặc trưng là chính quyền nhà nước thừa nhận quyền tự do và bình đẳng
của công dân.
Khi xã hội phát triển đến trình độ nhất định thì xuất hiện "nhà nước" và song
song với điều đó là sự xuất hiện của phạm trù "nhân dân".
Nhà nước là người cai quản nhân dân, quyết định nhân dân được làm gì và
không được làm gì. Nếu nhà nước quyết định mọi vấn đề thì đó là nhà nước không
có dân chủ. Nếu nhân dân có quyền quyết định hoặc tham gia với nhà nước quyết
định những vấn đề nhất định thì đó là xã hội có dân chủ.
Như vậy, dân chủ là quyền của nhân dân tự mình quyết định hoặc tham gia
với nhà nước quyết định những vấn đề nhất định.
Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Không có chủ nghĩa xã hội phi
dân chủ. Do đó, dân chủ là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân làm chủ, do đó, "mọi quyền lực đều nằm ở
nơi dân", thuộc về nhân dân.
Dân chủ vừa liên quan đến việc tận dụng tiềm năng và trí tuệ của số đông,
vừa liên quan đến sự tự do, giải phóng sức sáng tạo của quần chúng, do đó, dân
chủ còn là động lực của sự phát triển của xã hội.
Kế thừa và phát triển quan điểm phát huy dân chủ của các đại hội trước, Đại
hội XI tiếp tục khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động
lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn
bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Dân chủ là mục tiêu bời vì sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, đảm bảo để con người thực sự làm chủ xã hội. Dân chủ
là động lực cho sự nghiệp đổi mới vì dân chủ hóa đời sống xã hội sẽ phát huy tính

27
tích cực, chủ động, tự giác của mỗi con người, làm cho mọi tiềm năng sáng tạo
được tự do phát triển; mọi người dân được tham gia vào các quá trình chính trị, xã
hội trên tất cả các khâu, từ hoạch định đường lối đến triển khai, tổ chức thực hiện,
giám sát, kiểm tra và tổng kết... Nhờ đó, những vấn đề nảy sinh được phát hiện kịp
thời, các khó khăn sớm được tháo gỡ, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Phát huy dân chủ nhằm thực hiện mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng
thời, tạo ra động lực cho quá trình đi lên đó.
Có hai hình thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đó là dân chủ trực
tiếp và dân chủ gián tiếp, tức là dân chủ đại diện. Người đại diện lớn nhất cho
quyền làm chủ của nhân dân. Đó chính là Nhà nước. Đại hội X khẳng định: "Nhà
nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện
đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân".
2. Quan điểm của Đảng ta về dân chủ và phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa
a. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng ta về dân chủ
Qua 25 năm đổi mới, Đảng ta đó có bước phát triển quan trọng trong nhận
thức về dân chủ, đó là:
+ Quan niệm về dân chủ được mở rộng. Dân chủ được xem xét theo nhiều
khía cạnh: dân chủ vừa là chế độ chính trị, vừa là giá trị, là phương thức và nguyên
tắc tổ chức xã hội; dân chủ chung trong cả xã hội và dân chủ đối với mỗi cá nhân;
coi trọng cả dân chủ chính trị, dân chủ kinh tế và dân chủ trong các lĩnh vực văn
hoá, xã hội.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tiếp thu và phát triển các giá trị của nhân
loại về dân chủ, trong đó có dân chủ tư sản. Sự khác biệt về bản chất giữa dân chủ
xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản là rõ ràng, nhưng điều đó không ngăn cản việc
tham khảo các thành quả của các nước tiên tiến về quản lý nhà nước, thiết kế bộ
máy quản lý nhà nước, hành chính công, trách nhiệm xã hội của mỗi cá nhân…
+ Nhận thức về tính tiệm tiến lâu dài trong quá trình phát triển dân chủ: dân
chủ là kết quả của cả một quá trình lâu dài về giáo dục ý thức cũng như nâng cao
năng lực thực hành dân chủ, không thể nóng vội, thoát ly thực tiễn, trong đó dân
chủ được thực hiện.

28
+ Phải dân chủ trong tất cả các cấp độ, từ các cơ quan lãnh đạo cao nhất của
đất nước (Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ) đến cấp cơ sở, trong đó đặc
biệt quan trọng là dân chủ ở cơ sở.
+ Phải tìm tòi, tổng kết thực tiễn để tìm ra và hoàn thiện các hình thức thực
hiện dân chủ thực chất, đúng hướng, có hiệu quả. Hoàn thiện cả dân chủ trực tiếp
và dân chủ thông qua đại diện.
+ Trong quá trình xây dựng và thực hiện dân chủ cần chống các biểu hiện
lệch lạc: dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để làm tổn hại lợi
ích nhà nước và lợi ích của công dân, để gây rối; kiên quyết bác bỏ luận điệu giả
trá về dân chủ, nhân quyền của các thế lực phản động, thù địch.
b. Nội dung phát huy dân chủ trong giai đoạn hiện nay
Đại hội X nêu ba nội dung:
- Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức
phải thực sự là công bộc của nhân dân.
- Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền
dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
- Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân. Bộ
máy nhà nước, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ đề xuất ý
kiến với Đảng trong quá trình xây dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng.
Đại hội XI bổ sung 5 nội dung thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa:
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức
phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy
phục vụ nhân dân.
- Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham
gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực
tế quyền làm chủ trực tiếp.
- Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật,
kỷ cương xã hội;

29
- Phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức.
- Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện
của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực
hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta do một Đảng lãnh đạo. Trong điều kiện
đó, dân chủ trong Đảng gắn liền với dân chủ trong xã hội có vai trò rất quan trọng.
Chỉ có thực hiện tốt dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến xây dựng và phát triển
tốt dân chủ trong xã hội.
II. PHÁT HUY SỨC MẠNH TOÀN DÂN TỘC VÌ MỤC TIÊU DÂN
GIÀU, NƯỚC MẠNH, DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, VĂN MINH
1. Khái niệm về đại đoàn kết toàn dân tộc
Đoàn kết trong một cộng đồng là các thành viên trong cộng đồng đó bảo vệ,
giúp đỡ, tương trợ, tôn trọng lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển; các
thành viên hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích chung hoặc chấp nhận, tôn trong lợi ích
riêng của các thành viên khác không để ảnh hưởng đến lợi ích chung.
Đoàn kết toàn dân tộc là sự bảo vệ, giúp đỡ, tương trợ, tôn trọng lẫn nhau,
tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển... của mọi giai tầng trong cộng đồng dân
tộc, trong đó, các giai tầng hy sinh lợi ích riêng hay chấp nhận lợi ích của các giai
tầng khác để bảo vệ lợi ích chung, lâu dài.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), chỉ rõ về sự đại đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam khi kết thúc thời kỳ quá độ là: "Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển" 1.
Đại hội X khẳng định và Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, nhận
định về vai trò to lớn của đại đoàn kết toàn dân tộc: Là nguồn sức mạnh, động lực
chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc2.
Cơ sở, điều kiện của đại đoàn kết toàn dân tộc là:

1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. (Cương lĩnh).
2 Đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quan trọng của một trong 5 bài học lớn của Đảng ta.
30
- Sự thống nhất về lợi ích và chấp nhận sự khác biệt không trái với lợi ích
chung, lâu dài. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa
quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội.
- Công bằng là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo sự đoàn kết. Chỉ có thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội mới đảm bảo có đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng; Đảng gắn bó chặt chẽ với nhân dân;
Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng
nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân;
tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế,
pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ
của mình1.
- Có sự quản lý, điều hành, sự quan tâm của Nhà nước; pháp luật của nhà
nước luôn hướng sự thống nhất lợi ích toàn dân tộc...
- Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách hài hòa đối với các giai tầng
trong xã hội, đảm bảo mọi tầng lớp dân cư đều có điều kiện phát triển và được
hưởng lợi ích từ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước mang lại; thực
hiện đường lối liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí thức.
2. Quan điểm của Đảng về phát huy sức mạnh toàn dân tộc
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn xác định
phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc lập
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội VI của Đảng xác định: “Trong toàn
bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”2. Đại hội VIII khẳng định:
“Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi
mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi
mới đạt được những thành tựu hôm nay" 3. Đại hội IX của Đảng một lần nữa nhấn
mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của

1 Đây là điểm mới của Đại hội XI so với Đại hội X.


Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật,
2

Hà Nội, 1987, tr.29.


3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.73.
31
các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”1. Đại hội X đã nhấn rất mạnh nhiệm vụ
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một
trong bốn thành tố của chủ đề của Đại hội; coi đó là nguồn sức mạnh, là động lực
chủ yếu và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Tiếp tục
đường lối được xác định trong các đại hội trước, Đại hội XI khẳng định "Đại đoàn
kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các
thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải
thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó
khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm
tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện
vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình"2.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân...”.
Quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc của Đảng ta được thể hiện qua
các nội dung sau:
Một là, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị
mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp,
hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Bà là, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc bắt đầu từ sự đặt đúng vị trí của yếu
tố lợi ích, theo quan điểm được xác định từ Nghị quyết Trung ương 8B khóa VI là:

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.23.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. (Báo cáo chính trị).
32
“Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân
dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân”.
Bốn là, thực hiện dân chủ và phát huy chủ nghĩa yêu nước là những yếu tố
quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ nghĩa yêu
nước luôn luôn là động lực lớn nhất của dân tộc ta trong quá trình lịch sử. Dân chủ
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
3. Nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân trong giai đoạn
hiện nay
Tinh thần và nội dung Nghị quyết Đại hội X và Đại XI của Đảng, các chính
sách của Nhà nước hiện hành đã xác định nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh
toàn dân tộc hiện nay là:
- Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng
bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài.
- Xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần
giai cấp.
- Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc.
- Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở,
tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
- Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị bao gồm Đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, trong đó vai trò hạt nhân lãnh
đạo là tổ chức đảng. Để Đảng ta thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Xây dựng những cơ chế cụ thể
để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân động viên nhân dân tham gia xây dựng
Đảng; Đảng phải chăm lo lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Nhà nước có vai trò to lớn trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc
bằng việc thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật;
tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật một cách có hiệu quả, thông qua bộ
máy công quyền trong sạch, công tâm, hết lòng phục vụ nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò đại diện
cho lợi ích chung và lợi ích từng giai cấp, từng giới quần chúng, đồng thời là cầu
nối giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải thông qua
Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và bằng các hình thức đa dạng khác.
33
- Đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở, trong từng cộng đồng dân cư ở
cơ sở, như thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị... thực hiện tốt các cuộc
vận động trong từng lĩnh vực cụ thể và cuộc vận động chung: “Toàn dân đoàn kết
phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
- Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn trước mắt cần:
+ Thực hiện đồng bộ các chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm phát
huy dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng
dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội.
+ Tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước,
làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế với văn hóa - xã hội; mỗi người, mỗi hộ đều
phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước.
+ Chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng
xã hội.
+ Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu
biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo…
Câu hỏi thảo luận
1. Trình bày nội dung phát huy dân chủ trong giai đoạn hiện nay?
2. Trình bày và phân tích một số nội dung chính của quan điểm phát huy sức
mạnh toàn dân tộc và nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh toàn dân trong giai
đoạn hiện nay ?
3. Phân tích mối quan hệ giữa phát huy dân chủ và phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc?

34
Bài 4
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN

I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN


1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền có từ rất sớm ở Hy Lạp. Đến thế kỷ
XVIII, các nhà dân chủ tư sản tiếp tục hoàn thiện, nâng lên thành một học thuyết
về Nhà nước pháp quyền. Đây là học thuyết tiến bộ, nhân đạo đã trở thành giá trị
của nền văn minh nhân loại.
Trong lịch sử đã tồn tại và trải qua nhiều hình thức Nhà nước pháp quyền,
dựa trên nguyên tắc chung, nhưng không hoàn toàn giống nhau, xuất pháp từ
những điều kiện kinh tế, chính trị xã hội nhất định. Vì vậy, có thể khẳng định
không có một kiểu mẫu Nhà nước pháp quyền nào là kiểu mẫu tối ưu hoặc duy
nhất trờn thế giới, bất cứ dân tộc khác phải đi theo. Tuy nhiên, dựa trên các hình
thái Nhà nước pháp quyền tồn tại trong lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới, có
thể nêu hai đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền:
(1) Nhà nước pháp quyền là Nhà nước dựa trên chế độ pháp trị, tức là sự
thượng tôn pháp luật; pháp luật được đề cao; mọi tổ chức, cá nhân, mọi công dân
đều phải tuân thủ pháp luật, hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật.
(2) Nhà nước pháp quyền là Nhà nước dựa trên chế độ tam quyền phân lập;
có sự độc lập tương đối trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khác Nhà nước pháp quyền tư sản ở
hai điểm cơ bản:
- Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; Nhà nước ra đời và hoạt động để
phục vụ nhân dân, do nhân dân lập ra, vì lợi ích của nhân dân, trong đó, Nhân dân
được hiểu theo nghĩa là tất cả mọi người sống trong Nhà nước và không bị tước
quyền công dân.
Nhà nước pháp quyền tư sản cũng tuyên bố là Nhà nước của dân, do dân và
vì dân, nhưng thực chất quyền lực Nhà nước nằm trong tay giai cấp tư sản.
- Tam quyền phân lập là lập pháp, hành pháp và tư pháp trong thực hiện
không đối lập nhau mà là sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau.
35
2. Quan điểm của Đảng về nhà nước pháp quyền
Trước đổi mới, Đảng ta chưa dùng khái niệm nhà nước pháp quyền, mặc dù
trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980 đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây
dựng pháp luật và tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước theo tinh thần Nhà nước
pháp quyền ở mức độ nhất định. Bắt đầu từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1-
1994), Đảng ta đã dùng khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Văn
kiện Đại hội IX khẳng định "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có
nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật"1. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) thông qua tại
Đại hội XI khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của
nhân dân”.
Từ thực tiễn nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta như sau:
Một là, đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Ba là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh
các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bốn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ,
đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 131-132.
36
II. BẢN CHẤT VÀ CÁC NHIỆM VỤ XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Về bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Điều 2 Hiến pháp năm 1992 xác định "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" 1.
Bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân được thể hiện bằng những đặc
trưng sau:
Một là, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành đấu tranh cách mạng,
trải qua bao hy sinh gian khổ, giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm
1945, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do nhân dân mà
nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là
người lãnh đạo để thực hiện quyền lực của nhân dân. Đó chính là tính chất giai cấp
của Nhà nước ta.
Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thực hiện
quyền lực nhà nước với nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất là nhân
dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình. Điều 6 Hiến
pháp năm 1992 quy định: "Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân" 2. Đồng thời,
nhân dân có quyền giám sát, yêu cầu các đại biểu và cơ quan do nhân dân lập ra trả
lời những vấn đề của nhân dân đặt ra trong việc thực thi chức năng, nhiệm vụ, đảm
bảo quyền lợi của nhân dân.
Hai là, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của tất
cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.

1. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Hiến pháp 1992), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 178.
2 Sđd, tr. 124.

37
Tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam vừa là bản chất, vừa là truyền thống,
vừa là nguồn gốc sức mạnh của Nhà nước ta. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại được
tăng cường và nâng cao nhờ khả năng kết hợp giữa tính giai cấp, tính nhân dân,
tính dân tộc và tính thời đại. Điều 5 Hiến pháp năm 1992 khẳng định:
"Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của
các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và
phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình..." 1.
Các dân tộc có quyền lựa chọn những đại biểu ưu tú của dân tộc mình tham
gia vào cơ quan Nhà nước các cấp.
Ba là, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công
dân.
Khi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thì quan hệ giữa Nhà nước và
công dân đã thay đổi, công dân có quyền tự do, dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, đồng thời phải làm tròn nghĩa vụ trước Nhà nước. Pháp luật bảo
đảm thực hiện trách nhiệm hai chiều giữa Nhà nước và công dân: quyền của công
dân là nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước, nghĩa vụ của công dân là quyền của
Nhà nước.
Bốn là, tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Dân chủ hoá đời sống xã hội và hoạt động của Nhà nước là đòi hỏi có tính
nguyên tắc, nảy sinh từ bản chất dân chủ của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thu hút những người lao động
tham gia một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi vào quản lý công việc của Nhà
nước và của xã hội. Vì vậy, quá trình xây dựng Nhà nước phải là quá trình dân chủ
hoá tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời, phải cụ thể hoá tư
tưởng dân chủ thành các quyền của công dân, quyền dân sự, chính trị cũng như
quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. Phát huy được quyền dân chủ của nhân dân ngày
càng rộng rãi là nguồn sức mạnh vô hạn của Nhà nước.

1. Sđd, tr. 124.


38
Những đặc điểm mang tính bản chất nêu trên của Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện cụ thể trong các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước và được pháp luật chế định một cách chặt chẽ.
2. Tiếp tục Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn hiện nay
Đại hội X chỉ rõ: Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân
dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) thông qua tại Đại hội XI yêu cầu: “Không ngừng hoàn thiện tổ chức
nhà nước”.
Để thực hiện yêu cầu trên, trong những năm tới cần làm tốt các nhiệm vụ
sau:
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy
định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát
tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công
quyền.
Hai là, đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội:
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế
bầu cử để nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu
Quốc hội chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trò của đại biểu và đoàn đại biểu Quốc
hội.
- Tổ chức lại một số ủy ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động
của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội.
- Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban hành pháp
lệnh.
- Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
và chức năng giám sát tối cao của Quốc hội.
Ba là, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ:
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính
phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện
đại.

39
- Luật hóa cơ cấu tổ chức của Chính phủ; tổ chức Bộ quản lý đa ngành, đa
lĩnh vực, bảo đảm hiệu lực, tinh gọn và hợp lý.
Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm mạnh các đầu mối phù hợp
với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống
hành chính nhà nước các cấp theo hướng giảm mạnh cấp phó, bỏ cấp trung gian;
chuyển các bộ phận phục vụ sang hình thức hợp đồng dịch vụ; phân cấp mạnh cho
cấp dưới gắn với thực hiện có hiệu quả thanh tra, kiểm tra của cấp trên. Tăng
cường quyền chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động, về tổ chức, nhân
sự và tài chính của các đơn vị dịch vụ công cộng. Nghiên cứu để áp dụng cơ chế
Thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên bổ nhiệm chức danh người đứng đầu cơ
quan chính quyền cấp dưới. Tách hoạt động hành chính với các hoạt động sự
nghiệp, các hoạt động công quyền với các hoạt động dịch vụ. Thực hiện đầy đủ
nguyên tắc công khai dân chủ và phục vụ dân đối với các cơ quan và công chức
nhà nước. Thực hiện nghiêm ngặt chế độ công vụ trong các cơ quan nhà nước.
- Nghiên cứu việc thành lập cơ quan tài phán hành chính để giải quyết các
khiếu kiện hành chính.
- Thực hiện phân cấp mạnh, hợp lý cho chính quyền địa phương, giao quyền
chủ động hơn nữa cho địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài
chính, đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương.
Bốn là, xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các cơ quan
tư pháp:
- Xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người.
- Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách
tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực
hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra.
- Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động
lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Năm là, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và
ủy ban nhân dân các cấp:
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương
trong phạm vi được phân cấp.
- Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân.
40
- Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối
với chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo.
Sáu là, đổi mới tổ chức, bộ máy hành chính và hoạt động của cơ quan
hành chính, cán bộ, công chức:
- Thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động
của cơ quan, cán bộ, công chức.
Ban hành và thực hiện Luật về công chức, công vụ; xác định rõ cơ quan,
công chức nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Xây dựng tiêu
chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn
đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức.
- Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu
nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm chất đạo đức.
- Có cơ chế đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những người không xứng đáng,
kém phẩm chất và năng lực. Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động của bộ
máy nhà nước, hành vi của các công chức. Trừng trị nghiêm khắc theo pháp luật
những hành vi phạm pháp, phạm tội, bất cứ ở cương vị, chức vụ nào.
- Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo
hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có
thẩm quyền xem xét, quyết định.
- Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng lãng phí. Đây là đòi
hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng bộ máy
lãnh đạo, quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn
đe doạ sự sống còn của chế độ ta./.

CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Trình bày những quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền?
2. Làm rõ bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
3. Trình bày các nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay?

41
Bài 5
ĐƯỜNG LỐI VÀ CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

I. VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ -XÃ HỘI 10 NĂM 2001-


2010
Đại hội IX của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2001- 2010. Sau 10 năm thực hiện, toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta đã tranh
thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động
tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt
được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, hoàn thành nhiều mục tiêu chủ yếu
của Chiến lược.
Ðại hội Ðảng lần thứ XI đã tổng kết thực hiện Chiến lược 10 năm 2001-
2010 và quyết định xây dựng Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng
nước ta trở thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Kết quả thực hiện Chiến lược
Đánh giá 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010,
Đại hội XI đã khẳng định những kết quả đạt được và những yếu kém.
a. Những kết quả đạt được
- Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,2%/năm. Năm 2010
tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt gần 1.168 USD. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa tiếp tục được hoàn thiện.
- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt. Ðời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội
tiếp tục được mở rộng.
- Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác
đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo môi
trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước.
- Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững
mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra
những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân.
42
- Nguyên nhân của những thành tựu nêu trên trước hết là nhờ phát huy được
sức mạnh toàn dân tộc, sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc, năng động sáng tạo của toàn
dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo đúng đắn của Ðảng, sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước.
b) Những yếu kém khuyết điểm:
- Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng.
- Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật
vững chắc. Huy động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn hạn chế. Tăng trưởng
kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang
phát triển theo chiều sâu. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực,
kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển.
- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều bất cập, một số mặt còn bức xúc.
Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng.
- Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định
chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
- Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên đây có phần do nguyên
nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Đó là, tư duy phát triển
kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Ðảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng
kịp yêu cầu phát triển đất nước. Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước trên một
số lĩnh vực còn bất cập. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều hạn
chế. Tổ chức thực hiện Chiến lược còn nhiều yếu kém, chưa tạo được chuyển biến
mạnh trong việc giải quyết có hiệu quả những khâu đột phá, then chốt và những
vấn đề xã hội bức xúc. Quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ.
Kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa
được đẩy lùi.
2. Những bài học chủ yếu qua thực hiện Chiến lược
Một là, phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực cho phát triển đất nước.
Hai là, đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát
triển, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và
chất lượng tăng trưởng.
43
Ba là, bảo đảm độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho
phát triển đất nước.
Bốn là, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, hiệu quả giữa tăng cường sự lãnh đạo của
Ðảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ quyền làm chủ
của nhân dân.
II. VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 10 NĂM 2011-
2020
1. Về mục tiêu của Chiến lược
a. Mục tiêu tổng quát
Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn
sau.
b. Mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường
- Về kinh tế:
+ Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh. Chuyển đổi
mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất
lượng, hiệu quả.
+ Ðẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế,
trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ gắn với các vùng kinh tế; thúc
đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh hàm
lượng nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của
cả nền kinh tế.
+ Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình
quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm
2010. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 - 3.200 USD.

44
+ Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch
vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng
45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40%
trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo
hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tỷ lệ
lao động nông nghiệp khoảng 30% lao động xã hội.
+ Đưa yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt ít nhất 35%;
giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong
sử dụng mọi nguồn lực.
+ Có kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỷ
lệ đô thị hóa đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.
- Về văn hóa, xã hội:
+ Xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, đồng thuận.
+ Ðến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao
của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức 1,1%; tuổi thọ bình quân đạt 75
tuổi; đạt 9 bác sĩ và 26 giường bệnh trên một vạn dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn
dân; lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã
hội; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2 - 3%/năm; phúc lợi, an sinh xã hội và chăm
sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng
3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân
cư. Xóa nhà ở đơn sơ, tỷ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây
dựng/người.
+ Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ðến năm 2020, có một số lĩnh vực
khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên
đạt 450 trên một vạn dân.
+ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình tiến bộ,
hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực
sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật.
- Về môi trường :
+ Cải thiện chất lượng môi trường.
+ Ðến năm 2020, đưa tỷ lệ che phủ rừng lên 45%.

45
+ Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ
sinh. 100% cơ sở sản xuất, kinh doanh mới áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị
các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh
hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường.
+ Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ
thống xử lý nước thải tập trung. 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải
nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn.
+ Cải thiện và phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế
tác hại của thiên tai. Chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt
là nước biển dâng.
3. Quan điểm phát triển
Chiến lược đã đề ra 5 quan điểm phát triển như sau:
Một là, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền
vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.
Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch,
kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Để phát triển bền vững về kinh
tế, cần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất,
hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu,
phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân
dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi
trường.
Đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Hai là, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây
dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Ðổi mới trong lĩnh vực chính trị
phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh
đạo của Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ
trong Ðảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi
46
mới toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Coi việc thực hiện
mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi
mới và phát triển.
Ba là, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là
chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi
người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả
năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất
nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Bốn là, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công
nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phải tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; huy động
và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Phát triển nhanh, hài hòa các
thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Phải tăng cường tiềm lực và
nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là
lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế,
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế cùng phát triển.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn
chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý
và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội.
Năm là, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh
thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền
vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm
lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập

47
quốc tế sâu rộng và có hiệu quả. Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích
ứng với những thay đổi của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
3. Các đột phá chiến lược
Chiến lược xác định ba khâu đột phá như sau:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới toàn diện nền giáo dục quốc dân.
Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
4. Định hướng phát triển
Định hướng phát triển trong Chiến lược là “Đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế”, thể hiện trong các điểm sau:
1- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo
đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan
trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn
định kinh tế vĩ mô.
2- Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao
chất lượng, sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho một nước công nghiệp.
3- Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững.
4- Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị cao, tiềm
năng lớn và có sức cạnh tranh. Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng
cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP.
5- Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông. Hình thành
cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại là một đột
phá chiến lược, là yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
6- Phát triển hài hòa, bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới.
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch và có cơ chế, chính sách phù hợp để
các vùng trong cả nước cùng phát triển, phát huy lợi thế của từng vùng, tạo sự liên
kết giữa các vùng.
48
7- Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển
kinh tế. Tạo bước phát triển mạnh mẽ về văn hóa, xã hội; thực hiện tốt tiến bộ,
công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều
kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.
8- Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác chăm sóc
sức khỏe nhân dân. Tập trung phát triển mạnh hệ thống chăm sóc sức khỏe và nâng
cao chất lượng dịch vụ y tế. Chuẩn hóa chất lượng dịch vụ y tế. Xây dựng và thực
hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam.
9- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển
nhanh giáo dục và đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất
là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, Phát triển giáo dục
phải thực sự là quốc sách hàng đầu.
10- Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá
trình phát triển nhanh và bền vững. Hướng trọng tâm hoạt động khoa học, công
nghệ vào phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển theo chiều sâu, góp
phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế.
11- Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó có hiệu
quả với biến đổi khí hậu. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, gắn nhiệm vụ, mục
tiêu bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội. Chú trọng phát triển kinh tế
xanh, thân thiện với môi trường.
12- Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội
nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tăng cường tiềm lực quốc
phòng, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo trong mọi tình huống. Giữ vững hòa
bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
HỘI GIAI ĐOẠN 2011-2015
Thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, trong 5 năm
tới, 2011-2015 có vai trò rất quan trọng, tạo nền tảng cho quá trình đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhận định các xu hướng phát triển của tình
hình trong nước và thế giới những năm tới, tạo ra cả những thời cơ và thách thức

49
đan xen đối với sự phát triển, Đại hội XI xác định phương hướng phát triển kinh
tế xã hội những năm tới như sau:
1. Tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ
nghĩa
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất lượng và hiệu
quả cao hơn; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế
tri thức; phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hoà các vấn đề xã hội,
môi trường; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng
tinh thần của xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng mặt trận dân
tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011 - 2015)
a. Mục tiêu tổng quát
Trong 5 năm tới, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát
triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân;
giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
b. Nhiệm vụ chủ yếu
- Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế,
nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững; huy động và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn
nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung giải quyết
vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã
50
hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức
khoẻ cho nhân dân. Tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, đồng
thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Bảo vệ môi trường, chủ động phòng
tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với tình trạng biến đổi khí hậu.
- Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị
- xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự an toàn xã hội;
ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù
địch; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội
nhập quốc tế.
- Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn
thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính
phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp;
thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân.
- Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
thường xuyên “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thật sự trong sạch,
vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.
c. Các chỉ tiêu chủ yếu
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011 - 2015: 7,0 - 7,5%/năm.
Năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD; cơ cấu GDP: nông nghiệp
17 - 18%, công nghiệp và xây dựng 41 - 42%, dịch vụ 41 - 42%; sản phẩm công nghệ
cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng GDP; tỉ lệ lao động qua đào
tạo đạt 55%.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12%/năm, giảm nhập siêu, phấn đấu
đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu.
- Vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP. Tỉ lệ huy động
vào ngân sách nhà nước đạt 23 - 24% GDP; giảm mức bội chi ngân sách xuống
4,5% GDP vào năm 2015.

51
- Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tốc độ tăng dân số đến năm
2015 khoảng 1%. Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỉ lệ hộ nghèo theo
chuẩn mới giảm bình quân 2%/năm. Tỉ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42 - 43%...
3. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nhanh, bền vững
Theo định hướng trên, Đại hội xác định những giải pháp cơ bản sau:
Một là, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều
rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô
vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.
Hai là, phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, tiếp tục
tạo nền tảng cho một nước công nghiệp và nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của
nền kinh tế.
Cơ cấu lại, xây dựng nền công nghiệp theo hướng phát triển mạnh những
ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự
phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh
tế, từng bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các dây chuyền sản xuất
và mạng lưới phân phối toàn cầu.
Ba là, phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn.
Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững,
phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới. Xây dựng nông thôn mới. Phấn
đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm đạt 2,6 - 3%/năm. Tỉ trọng lao
động nông - lâm - thuỷ sản năm 2015 chiếm 40 - 41% lao động xã hội. Thu nhập
của người dân nông thôn tăng 1,8 - 2 lần so với năm 2010.
Bốn là, phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng,
thương mại, du lịch và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao.
Ưu tiên phát triển và hiện đại hoá các dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn
thông, thương mại, du lịch, vận tải, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, đào tạo,
khoa học, công nghệ. Phấn đấu khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao hơn
tốc độ tăng GDP và gấp ít nhất 1,3 lần tốc độ tăng trưởng của các ngành sản xuất
sản phẩm vật chất; tốc độ tăng trưởng dịch vụ bình quân 5 năm đạt 8 - 8,5%/năm.
Năm là, tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

52
Hoàn thiện quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng cả nước. Phát triển có trọng
tâm, trọng điểm và đầu tư tập trung, dứt điểm, kiên quyết hoàn thành những công
trình kết cấu hạ tầng kinh tế then chốt theo hướng hiện đại và tương đối đồng bộ
ở các vùng động lực phát triển, các khu công nghệ cao, các khu công nghiệp, khu
kinh tế. Phát triển nhanh nguồn điện bảo đảm đủ điện cho công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân.
Sáu là, phát triển kinh tế - xã hội hài hoà giữa các vùng, đô thị và nông
thôn.
Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng với tầm nhìn dài hạn, tăng
cường liên kết giữa các địa phương trong vùng theo quy hoạch, khắc phục tình
trạng đầu tư trùng lặp, thiếu liên kết giữa các địa phương trong vùng; đồng thời
tăng cường sự liên kết, phối hợp giữa các vùng để các vùng đều phát triển, từng
bước giảm bớt chênh lệch về trình độ phát triển và mức sống dân cư giữa các
vùng.
4. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nghị quyết xác định, để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Hai là, phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp.
Tiếp tục thể chế hoá quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình
thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các
loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở
hữu đối với các loại tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài
nguyên nước..., quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã
hội.
Ba là, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
Sớm hoàn thành việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về
kinh doanh phù hợp với điều kiện Việt Nam, bảo vệ thị trường nội địa, đồng thời

53
tuân thủ những quy định của các tổ chức quốc tế và khu vực mà Việt Nam tham
gia. Phát triển đa dạng, đồng bộ, ngày càng văn minh, hiện đại các loại thị trường
hàng hoá, dịch vụ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về tiền tệ, tín dụng và ngoại hối.
Khẩn trương nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đất đai; tạo điều
kiện thuận lợi để sử dụng đất đai có hiệu quả; khắc phục tình trạng sử dụng lãng phí
và tham nhũng đất đai. Phát triển mạnh thị trường khoa học và công nghệ gắn với
việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đẩy mạnh phát triển thị trường lao động.
Bốn là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các
tổ chức đảng trong việc xây dựng, lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới, nâng cao vai
trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
trong giai đoạn mới trên cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy
luật và cơ chế vận hành của kinh tế thị trường. Nâng cao vai trò của các cơ quan
dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và của nhân
dân; tạo điều kiện để nhân dân và các tổ chức này tham gia có hiệu quả vào quá
trình hoạch định, thực thi và giám sát việc thực hiện luật pháp, chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội, ngăn ngừa, khắc phục những tác động tiêu cực
của cơ chế thị trường.

CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Nêu và phân tích những bài học kinh nghiệm trong thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, 2001-2010.
2. Phân tích quan điểm phát triển nhanh và benè vững nêu trong Chiến lược
phát triển kinh té xã hội 2011-2020.
3. Nêu những định hướng chủ yếu trong thực hiện Chiến lược.

54
Bài 6
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO,
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ
TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC

I. PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


1. Vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển ngày càng
nhanh. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục và đào tạo đã trở thành nhân tố quyết
định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Các nước trên thế giới, kể cả các nước
phát triển cũng như các nước đang phát triển đều coi giáo dục là nhân tố quyết định
sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia.
Đảng và Nhà nước ta đặt giáo dục và đào tạo ở vị trí cao. Nghị quyết Trung
ương 2 khoá VIII xác định phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững. Tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, xây dựng xã hội thành một xã hội học tập, học tập suốt
đời, vừa học vừa làm, vừa làm vừa học.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011) đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao
dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát
triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục
và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu
tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển”1
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 được thông qua tại
Đại hội XI đã xác định “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới toàn diện nền giáo dục quốc dân”. Mục

1
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, tr.77.
55
tiêu cần đạt được là: “Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.”
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X tại Đại hội XI về
kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội X trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo đã
khẳng định: “Đổi mới giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà
nước cho giáo dục, đào tạo đạt 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các nguồn
lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa,
vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo dục
tiếp tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn
giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng
số lao động đang làm việc”1.
Báo cáo cũng chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo là: “Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất
là đào tạo nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo
theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy
mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung,
phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa
các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quản lý nhà nước
về giáo dục còn bất cập. Xu hướng thương mại hóa và sa sút về đạo đức trong giáo
dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nối bức xúc của xã hội”2.
2. Tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã nhận thức rõ vị trí,
tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII đã đề ra sáu định hướng chiến lược phát
triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Những định hướng này tiếp tục chỉ đạo nội dung, phương hướng phát triển giáo
dục và đào tạo trong những năm tới.
Một là, giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa của giáo dục, đào tạo, tạo ra
những lớp người vừa hồng, vừa chuyên để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

1
S.đ.d.trang 153, 154
2
S.đ.d.trang 168.
56
Hai là, phải thực sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Giáo dục
và đào tạo là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước; đầu tư cho giáo dục là
đầu tư phát triển; giáo dục được coi là quan trọng hàng đầu trong kế hoạch phát
triển của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.
Ba là, giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân
(xã hội hoá giáo dục là một bộ phận của quan điểm này). Trong điều kiện hiện nay
cần nhấn mạnh quan điểm toàn dân học tập, toàn dân chăm lo cho giáo dục, toàn
dân làm giáo dục, xây dựng xã hội học tập.
Bốn là, phát triển giáo dục và đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội. Giáo dục và đào tạo phải gắn cả về quy mô, cơ cấu ngành nghề, trình độ, cơ
cấu vùng miền trong quá trình phát triển.
Năm là, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo, tạo điều kiện
để ai cũng được học hành.
Sáu là, đa dạng hoá các loại hình giáo dục, trong đó, các trường công lập giữ
vai trò nòng cốt, phát triển các trường dân lập, tư thục; mở rộng các hình thức đào
tạo đi đôi với quản lý chặt chẽ để đảm bảo chất lượng.
3. Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo
trong những năm tới
Từ Đại hội X, Đảng ta đã khẳng định chủ trương: “Đổi mới toàn diện giáo
dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”1. Mục tiêu của chủ
trương trên là nhằm “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ
chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hoá", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Đại hội X, Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI xác định nhiệm vụ trong 5 năm
2011-2015 là “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo” với các giải pháp
cơ bản sau:
Một là, thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo.
- Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp
thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt
coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối

1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2006, tr. 95.
57
sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách
nhiệm xã hội.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất
lượng.
- Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội phối hợp chặt chẽ với nhà
trường trong giáo dục thế hệ trẻ.
- Tiếp tục phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở giáo
dục, đào tạo. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo
đạt trình độ quốc tế.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hoá đầu đàn; đội
ngũ doanh nhân và lao động lành nghề.
- Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã hội; có cơ chế và
chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với cơ sở đào tạo.
- Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các
ngành, lĩnh vực mũi nhọn, đồng thời chú trọng đào tạo nghề cho nông dân, đặc biệt
đối với người bị thu hồi đất; nâng cao tỉ lệ lao động qua đào tạo.
- Quan tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn. Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu
đãi, hỗ trợ đối với người và gia đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh
giỏi, học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa,
vùng có nhiều khó khăn.
Ba là, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng
cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo.
- Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với
đổi mới cơ chế tài chính.
- Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý mục
tiêu, chất lượng giáo dục, đào tạo. Phát triển hệ thống kiểm định và công bố công
khai kết quả kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo; tổ chức xếp hạng cơ sở giáo
dục, đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra; kiên quyết khắc phục các hiện tượng
tiêu cực trong giáo dục, đào tạo.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hoá giáo dục, đào tạo trên cả ba
phương diện: động viên các nguồn lực trong xã hội; phát huy vai trò giám sát của
58
cộng đồng; khuyến khích các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội
học tập, tạo điều kiện để người dân được học tập suốt đời.
- Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo.1
II. PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1. Vị trí, vai trò của khoa học và công nghệ
Do nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh và bản thân mình, đặc biệt phục vụ
cho sự phát triển của sản xuất đã làm cho khoa học, kỹ thuật, công nghệ của nhân
loại không ngừng phát triển. Ngay trong thời đại mình, C. Mác đã nhận định rằng,
khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Ngày nay, cùng với sự
bùng nổ của cách mạng khoa học và công nghệ, vai trò của khoa học và công nghệ
ngày càng tăng lên trong đời sống xã hội. Trên thế giới đã và đang hình thành nền
kinh tế tri thức, trong đó, khoa học và công nghệ chiếm địa vị quyết định trong sự
gia tăng giá trị của sản phẩm.
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa
ở Miền Bắc, Đảng ta đã xác định cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới Đảng ta luôn luôn khẳng định vai trò
quan trọng của khoa học, công nghệ.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2, khóa VIII xác định nhiệm vụ phát triển
khoa học, công nghệ trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011) xác định “Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong
việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến
của thế giới”2.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 thông qua tại Đại
hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực
then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững”3.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI; Nhà xuất bản Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2011, tr. 216.


2 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2011, tr. 78


3
S.đ.d.trang. 132.
59
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI
của Đảng đã chỉ rõ những thành tựu chủ yếu của khoa học, công nghệ là: “Hoạt
động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy mạnh, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Quản lý khoa học, công nghệ có đổi mới, thực
hiện cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ. Thị trường khoa
học, công nghệ bước đầu hình thành. Ðầu tư cho khoa học, công nghệ được nâng
lên”1.
Báo cáo cũng nêu những hạn chế, khuyết điểm chủ yếu trong lĩnh vực này
là: “Khoa học, công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy, chưa gắn kết
chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường khoa học,
công nghệ còn sơ khai, chưa tạo sự gắn kết có hiệu quả giữa nghiên cứu với đào
tạo và sản xuất kinh doanh. Ðầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, sử dụng
chưa hiệu quả. Trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu, đổi mới chậm” 2.
2. Quan điểm phát triển khoa học và công nghệ
Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII đã nêu ra năm quan điểm chỉ đạo sự
nghiệp phát triển khoa học và công nghệ. Các quan điểm này còn nguyên giá trị,
định hướng, chỉ đạo phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay.
Một là, cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững
độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Hai là, khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động
của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
củng cố quốc phòng - an ninh.
Ba là, phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn
dân. Phải dấy lên phong trào quần chúng tiến công mạnh mẽ vào khoa học, ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật.
Bốn là, phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, kết hợp với
tiếp thu những thành tựu về khoa học, công nghệ hiện đại trên thế giới.
Năm là, phát triển khoa học và công nghệ gắn liền với bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ trong những
năm tới
1
S.đ.d.trang: 154.
2 S.đ.d.trang: 168.
60
Thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 trong 5
năm tới Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI
xác định mục tiêu, nhiệm vụ: “Phát triển và nâng cao hiệu quả của khoa học, công
nghệ; phát triển kinh tế tri thức” với các nội dung chính sau:
Một là, Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng
nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển
nhanh, bền vững của đất nước; nâng tỉ lệ đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp
vào tăng trưởng.
Hai là, Thực hiện đồng bộ ba nhiệm vụ chủ yếu: nâng cao năng lực khoa
học, công nghệ; đổi mới cơ chế quản lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng.
- Phát triển năng lực khoa học, công nghệ có trọng tâm, trọng điểm, tập
trung cho những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn, đảm bảo đồng bộ về cơ sở
vật chất, nguồn nhân lực. Nhà nước tăng mức đầu tư và ưu tiên đầu tư cho các
nhiệm vụ, các sản phẩm khoa học, công nghệ trọng điểm quốc gia, đồng thời đẩy
mạnh xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là của các doanh nghiệp cho
đầu tư phát triển khoa học, công nghệ.
- Đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học, công nghệ,
xem đó là khâu đột phá để thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả của khoa học,
công nghệ, theo hướng:
+ Chuyển các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ, thị trường khoa học,
công nghệ.
+ Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước; xây dựng hệ thống
tiêu chí đánh giá kết quả các chương trình, đề tài khoa học và công nghệ theo
hướng phục vụ thiết thực mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, lấy hiệu
quả ứng dụng làm thước đo chủ yếu đánh giá chất lượng công trình.
+ Thực hiện đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng
đáng nhân tài khoa học, công nghệ.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng; phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ.
+ Khoa học xã hội làm tốt nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
dự báo xu hướng phát triển, cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính
sách phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
61
+ Hướng mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, đặc biệt là trong những ngành,
những lĩnh vực then chốt, mũi nhọn. Ưu tiên phát triển công nghệ cao, đồng thời
sử dụng hợp lý công nghệ sử dụng nhiều lao động. Nhanh chóng hình thành một số
cơ sở nghiên cứu - ứng dụng mạnh, gắn với các doanh nghiệp chủ lực, đủ sức tiếp
thu, cải tiến và sáng tạo công nghệ mới.
+ Xây dựng và thực hiện chương trình đổi mới công nghệ quốc gia; có chính
sách khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đổi
mới công nghệ. Kết hợp chặt chẽ nghiên cứu và phát triển trong nước với tiếp nhận
công nghệ nước ngoài.
Ba là, Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa
học, công nghệ.
- Xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, công nghệ, trước hết là công
nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ tự động, nâng cao năng lực nghiên cứu -
ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ
công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức.
- Phát huy và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người Việt
Nam và khai thác nhiều nhất tri thức của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình
phát triển kinh tế tri thức đến năm 2020.
III. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN
TỘC
1. Vị trí, vai trò của văn hóa
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo
ra để phục vụ cho nhu cầu của họ. Cùng với nhu cầu vật chất như ăn, mặc, ở, đi lại,
chữa bệnh…, con người có những nhu cầu về văn hóa, tinh thần như học tập,
nghiên cứu khoa học, sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật, vui chơi giải trí, giao
tiếp, tâm linh…, tạo nên đời sống văn hóa, tinh thần của họ. Giá trị văn hóa là giá
trị của những giá trị vật chất và tinh thần đó. Nhu cầu vật chất có vai trò quan
trọng, cần thiết cho sự tồn tại, nhưng thỏa mãn nhu cầu vật chất của con người đã
mang tính văn hóa, xã hội. C. Mác đã từng nói: Cái đói nào cũng là cái đói, nhưng
cái đói ăn ngấu nghiến thịt sống bằng nanh và vuốt khác rất xa cái đói ăn thịt chín
bằng dĩa và thìa. Mặt khác, nhu cầu vật chất của mỗi người, dù sao cũng có hạn,

62
còn nhu cầu tinh thần của họ có thể nói là vô hạn và sự thoả mãn chúng cũng quan
trọng không kém gì thoả mãn các nhu cầu về vật chất.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn luôn coi văn hoá là một bộ phận quan
trọng của sự nghiệp cách mạng. Từ năm 1943, Đảng đã ban hành “Đề cương văn
hóa”, xác định tính chất “khoa học, dân tộc, đại chúng” của văn hóa Việt Nam.
Quan điểm này được đề cập trong Cương lĩnh, đường lối, chiến lược của Đảng.
Trong các văn kiện Đại hội III, IV, V, Đảng ta xác định cách mạng tư tưởng - văn
hoá là một trong 3 cuộc cách mạng phải tiến hành đồng thời (cách mạng quan hệ
sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng - văn hoá).
Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ được thông qua
tại Đại hội VII xác định nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
là một trong 6 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng.
Trong lần bổ sung năm 2011 tại Đại hội XI, một lần nữa Đảng ta khẳng định “có
nền văn hóa tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc”1 là một trong 8 đặc trưng của xã hội
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Hội nghị Trung ương 5 (khoá VIII) xác định “Văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội”.
Quan niệm văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội của Đảng ta được hiểu
là:
Kinh tế và văn hoá luôn giữ vị trí quan trọng và quyết định đối với sự vận
động và phát triển của xã hội. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội
thì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hoá có chức năng định hình các
giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối các hành vi của mỗi người và
toàn xã hội. Các giá trị, chuẩn mực đó được truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và phát
triển trong tiến trình lịch sử của dân tộc, trở thành hệ thống các giá trị đặc trưng
cho một dân tộc, bao gồm chính trị, đạo đức, luật pháp, khoa học, văn học, nghệ
thuật, các thể chế, thiết chế văn hoá, tập quán, lối sống..., tạo nên bản sắc văn hóa
của mỗi dân tộc.
Với vai trò nền tảng tinh thần của xã hội, văn hoá luôn là mục tiêu và động
lực của sự phát triển kinh tế - xã hội; là mục tiêu vì phát triển kinh tế là để phát
triển con người; là động lực bởi vì văn hóa thể hiện trước hết thông qua chức năng
xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực con người về trí tuệ và tâm hồn, năng

1
S.đ.d.trang 70.
63
lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống của cá nhân và cộng
đồng.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con người được hạnh phúc và
phát triển toàn diện. Vì vậy, văn hoá đóng vai trò là mục tiêu cả trước mắt và lâu
dài của sự phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh
sẽ không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Tiến hành đồng bộ và gắn kết ba lĩnh vực: phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng văn hóa,
nền tảng tinh thần của xã hội là nhằm tạo nên sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững của đất nước trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong quá trình thực hiện các nghị quyết của Đảng, đặc biệt từ Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa văn nghệ đến nay, chúng ta đã đạt được những
kết quả quan trọng, đồng thời vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém cần
quan tâm khắc phục. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X
trình Đại hội XI nêu rõ: “Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể dục thể thao
ngày càng mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao
của nhân dân. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" từng
bước đi vào chiều sâu”1; đồng thời, “Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng
trưởng kinh tế. Quản lý văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ.
Môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong,
mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ
độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại”2.
2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng văn hóa
Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã thông qua Nghị quyết “Về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó xác định
5 tư tưởng chỉ đạo cơ bản quá trình xây dựng và phát triển văn hóa. Những tư tưởng
chỉ đạo đó vẫn còn nguyên giá trị định hướng nhiệm vụ xây dựng văn hóa hiện nay.
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.

1
S.đ.d.trang 155.
2
S.đ.d.trang 168.
64
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Năm là, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
3. Phương hướng và giải pháp phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011-2020 thông qua tại Đại hội
XI của Đảng đã xác định mục tiêu “Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã
hội hài hòa với phát triển kinh tế”1. Trên cơ sở mục tiêu chiến lược, Báo cáo chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI xác định nhiệm vụ
chăm lo phát triển văn hóa trong 5 năm tới với các nội dung sau:
Một là, củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong
phú, đa dạng.
- Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đi vào
chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hoá trong các gia đình, khu
dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hoá thấm sâu vào mọi
mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hằng ngày của
cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lối sống có văn hóa;
xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các
hủ tục, bạo lực, gây rối trật tự công cộng, mại dâm, ma tuý, cờ bạc...
- Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ
gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hoá, con người Việt Nam, nuôi
dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ.
- Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
- Tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hoá ở các cấp,
đồng thời có kế hoạch cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một số công trình
văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại ở các trung tâm kinh tế - chính trị -
văn hoá của đất nước.

1 S.đ.d.trang 124.

65
- Xã hội hoá các hoạt động văn hoá, chú trọng nâng cao đời sống văn hoá ở
nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách hưởng thụ văn hoá giữa các
vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị và nông thôn.
Hai là, phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các
di sản văn hoá truyền thống, cách mạng.
- Tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật,
sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định
cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác.
- Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức thể hiện và phong
cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh, đa dạng và bồi dưỡng
lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ.
- Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt. Khắc phục yếu kém, nâng cao tính
khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, góp
phần hướng dẫn sự phát triển của sáng tạo văn học, nghệ thuật, từng bước xây
dựng hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam.
- Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu
trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân
tộc.
- Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hoá, văn nghệ, bảo tồn, phát huy
giá trị các di sản văn hoá với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại
nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hoá trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ
và người nước ngoài.
- Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá,
ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế
độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội
ngũ những người hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm
có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Ba là, phát triển hệ thống thông tin đại chúng.
- Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin,
giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì
lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại hoá, xa rời tôn
chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản.

66
- Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất
bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu
của thời kỳ mới.
- Rà soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới báo chí, xuất bản trong cả nước theo
hướng tăng cường hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức,
cơ sở vật chất - kỹ thuật theo hướng hiện đại.
- Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có biện pháp quản
lý, hạn chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet để
truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không lành mạnh.
Bốn là, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá.
- Đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hoá, văn học, nghệ
thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới.
- Mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực văn hoá, báo chí, xuất bản.
- Xây dựng một số trung tâm văn hoá Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm
dịch thuật, quảng bá văn hoá Việt Nam ra nước ngoài.
- Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hoá của các nước, giới thiệu
các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng Việt Nam.
- Thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền
tác giả các sản phẩm văn hoá. Xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu
hoá sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động; bồi dưỡng và
nâng cao sức đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ.

CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Phân tích tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Giải pháp phát triển khoa học và công nghệ trong thời gian tới là gì ?
3. Phân tích mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
làm nền tảng tinh thần của xã hội ?

67
Bài 7
TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, TRIỂN KHAI CÁC HOẠT
ĐỘNG ĐỐI NGOẠI; CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ

I. TÌNH HÌNH QUỐC TẾ, TRONG NƯỚC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI
LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG, AN NINH, ĐỐI NGOẠI
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược xuyên suốt của cách
mạng Việt Nam. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, lĩnh vực quốc
phòng, an ninh có mối quan hệ chặt chẽ với lĩnh vực đối ngoại. Bài này đề cập đến
quan điểm, đường lối, chủ trương giải pháp của Đảng ta trong lĩnh vực quốc
phòng, an ninh và đối ngoại.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI
đã dự báo tình hình quốc tế và trong nước với những khó khăn, thuận lợi đan xen,
như sau:
1. Tình hình quốc tế
- Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những mâu
thuẫn, xung đột với diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường:
+ Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ,
bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt.
+ Các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong
các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp
tục gia tăng.
- Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan
hệ quốc tế tiếp tục phát triển, nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc
tế.
- Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc
đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức.
- Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn
còn nhiều khó khăn, bất ổn:
+ Chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể chế, các
ngành, lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức mạnh kinh
tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước
ta, có nhiều thay đổi.

68
+ Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên,
năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao...
giữa các nước ngày càng gay gắt.
- Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an
ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ
tiếp tục diễn biến phức tạp.
- Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh
giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp.
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á,
vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất
ổn định:
+ Tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt.
+ Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới.
+ ASEAN tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò
quan trọng trong khu vực.
2. Tình hình trong nước
- Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã
tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước:
+ Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng
trưởng sau thời kỳ suy giảm.
+ Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI trên các lĩnh vực, đặc biệt là công
tác xây dựng Đảng, đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện các hiệp định thương
mại tự do song phương và đa phương, sẽ giúp khắc phục những hạn chế, yếu kém
trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, và xây dựng Đảng.
- Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau,
tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức
nào, cụ thể là:
+ Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới vẫn tồn tại.

69
+ Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là
nghiêm trọng.
+ Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”,
gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm
thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
+ Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp.
Nhìn chung, những tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thời
cơ và thách thức đan xen đối với sự phát triển của đất nước trong 5 năm tới.
II. TĂNG CƯỜNG QUỐC PHÒNG, AN NINH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC
TỔ QUỐC
1. Những thành tựu và hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh những năm qua
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI đã
nhận định “Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường”, thể hiện cụ thể như
sau:
a. Những thành tựu
- Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa,
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.
- Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố;
tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược,
xung yếu, phức tạp.
- Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai
rộng rãi. Sự phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng hơn.
- Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được củng cố, xây dựng
theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, thực sự là lực
lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm tốt vai trò tham mưu, góp
phần chủ động phòng ngừa, làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, hoạt động
gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch;
- Đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động cơ hội chính trị,
các loại tội phạm hình sự, nhất là tội phạm nguy hiểm, có tổ chức, tội phạm ma

70
tuý, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm lợi dụng công nghệ cao, sử dụng vũ
khí nóng, chống người thi hành công vụ;
- Quân đội và Công an tham gia tích cực, có hiệu quả vào các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống và khắc phục
thiên tai1.
b. Những hạn chế, khuyết điểm
- Một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đại hội X về nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh chưa được triển khai thực hiện kịp thời.
- Nhận thức về quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân của một số cán
bộ, đảng viên trong các ngành, các cấp chưa đầy đủ, sâu sắc, thiếu cảnh giác
trước âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” trong nội bộ.
- Công tác bảo vệ an ninh trong một số lĩnh vực còn có những thiếu sót; xử
lý tình hình phức tạp nảy sinh ở cơ sở có lúc, có nơi còn bị động, tội phạm hình
sự, tệ nạn xã hội, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một số địa bàn còn
diễn biến phức tạp.
- Việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường sức mạnh
quốc phòng, an ninh, đặc biệt là tại các vùng chiến lược, biển, đảo còn chưa chặt
chẽ.
- Công nghiệp quốc phòng, an ninh chưa đáp ứng yêu cầu trang bị cho các
lực lượng vũ trang2.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh những năm tới
a. Mục tiêu, nhiệm vụ:
Mục tiêu, nhiệm vụ của lĩnh vực quốc phòng, an ninh là: “…bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển
đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng
ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để
bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”3.

1
S.đ.d.trang 155, 156
2
S.đ.d.trang 170
3
S.đ.d. trang 233
71
b. Giải pháp chủ yếu:
Một là, Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ
thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
- Chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
- Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh.
Hai là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân
tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc
phòng, an ninh.
Làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí công
nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, “diễn biến hoà bình”, bạo
loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia...
Ba là, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận.
- Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh;
- Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ
Tổ quốc.
- Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh
với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;
chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
Bốn là, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
- Duy trì Quân đội và Công an có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và
sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu,
dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
- Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tăng cường cơ sở vật
chất - kỹ thuật, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang từng bước được trang bị hiện đại,
trước hết là cho lực lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an ninh, tình
báo, cảnh sát cơ động.

72
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghệ thuật quân sự, an ninh, đánh
thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao của các lực lượng thù địch.
Năm là, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối
với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về quốc phòng, an ninh.
- Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính
sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới;
- Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, các quy chế phối
hợp quân đội, công an và các tổ chức chính trị - xã hội.
III. TRIỂN KHAI CÁC HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI; CHỦ ĐỘNG VÀ
TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Những thành tựu và hạn chế trong thực hiện đường lối đối ngoại
những năm qua
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI
đã khẳng định trong những năm qua “Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày
càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước” 1, cụ thể như
sau:
- Phát triển quan hệ với các nước láng giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ
với nhiều đối tác quan trọng:
+ Hoàn thành phân giới cắm mốc trên đất liền với Trung Quốc; tăng dày hệ
thống mốc biên giới với Lào; hoàn thành một bước phân giới cắm mốc trên đất
liền với Campuchia.
+ Bước đầu đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với
Trung Quốc và thúc đẩy phân định biển phía Tây Nam với các nước liên quan.
- Tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc tế:
+ Đảm nhiệm tốt vai trò Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc.
+ Đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng ASEAN và Hiến
chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch
AIPA.

1
S.đ.d. trang 156
73
- Quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, đảng cánh tả, đảng cầm
quyền và một số đảng khác; hoạt động đối ngoại nhân dân tiếp tục được mở rộng.
Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt kết quả tích cực.
- Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; đối thoại cởi mở, thẳng thắn về tự
do, dân chủ, nhân quyền.
- Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp định
thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; mở
rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác; góp phần quan trọng vào việc
tạo dựng và mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài, tranh thủ ODA và các nguồn tài trợ quốc tế khác.
- Tuy nhiên, trong hoạt động đối ngoại những năm qua, còn có những hạn
chế, đó là: “Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt còn hạn
chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao
nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hoá đối ngoại chưa thật đồng
bộ”1.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp triển khai hoạt động đối ngoại; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế
a. Mục tiêu, nhiệm vụ
- Đại hội XI xác định chủ trương định hướng chung là: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá,
đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”.
- Nhiệm vụ được xác định là: “ Giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”2.
c. Các giải pháp chủ yếu
Một là, nâng cao hiệu quả của hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan
hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực,
giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu
cực của quá trình hội nhập quốc tế:

1
S.đ.d. trang 179.
2
S.đ.d. trang 236.
74
- Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả
các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ
quản lý tiên tiến.
- Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì
lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,
Hiến chương Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc
biệt là Liên hợp quốc.
- Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc
đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và nhất là tình trạng biến đổi
khí hậu.
- Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan
về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm
mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam.
Hai là, thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ:
- Việc xác định ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên
cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của
khu vực;
- Làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình,
hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển.
- Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước
láng giềng có chung biên giới.
Ba là, chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng
đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ vai trò
quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Bốn là, phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả,
các đảng cầm quyền; mở rộng ngoại giao nhân dân:
- Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các
đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ
vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
- Mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương ở khu vực và thế giới.
- Coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân.

75
Năm là, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về
đối ngoại; chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại;
thường xuyên bồi dưỡng kiến thức đối ngoại cho cán bộ chủ chốt các cấp.
Sáu là, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của
Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.
Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và
ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại
giao văn hoá; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.

CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Nêu những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với lĩnh vực quốc
phòng, an ninh, đối ngoại của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Trình bày mục tiêu và những giải pháp chủ yếu tăng cường quốc phòng,
an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
3. Nêu các giải pháp triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại trong
những năm tới.

76
Bài 8
TỔ CHỨC CƠ SỞ CỦA ĐẢNG VÀ
CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở CƠ SỞ

I. TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
Tổ chức cơ sở đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm các chi bộ, đảng
bộ cơ sở, là tổ chức đảng nhỏ nhất và có số lượng đông nhất. Đảng xác định đó là
nền tảng của Đảng và là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Nghị quyết Đại hội X khẳng
định “Với vị trí là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, vai trò của tổ
chức cơ sở đảng rất quan trọng. Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong
sạch, vững mạnh...”1. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X
trình Đại hội XI xác định nhiêm vụ “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng
hoạt động của các loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các đơn vị sự
nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế”2.
1. Quy định của Điều lệ Đảng về thành lập các tổ chức cơ sở đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và cả của dân tộc Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Để thực hiện mục đích đó, Đảng phải được tổ chức theo
một hệ thống chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng
bao gồm chi bộ cơ sở và đảng bộ cơ sở là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị
ở cơ sở.
Đảng phải gắn bó, liên hệ chặt chẽ với quần chúng; ở đâu có quần chúng, ở
đó cần có sự lãnh đạo của Đảng. Mọi tầng lớp nhân dân, ai cũng đều sinh sống, lao
động sản xuất, công tác, học tập ở một đơn vị cơ sở nhất định trong hệ thống tổ
chức xã hội. Vì vậy, tổ chức đảng phải được thành lập, được tổ chức tại các đơn vị
cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "ở mỗi xưởng máy, hầm mỏ, xí nghiệp, cơ
quan, trường học, đường phố, nông thôn, đại đội - có 3 đảng viên trở lên thì lập

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb.CTQG, Hà
Nội, 2006. tr 298.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb.CTQG, Hà

Nội, 2011. tr 259, 260


77
một chi bộ"1. Theo tinh thần đó, tổ chức cơ sở đảng được thành lập tương ứng với
cấp hành chính nhà nước ở cơ sở (xã, phường, thị trấn); cơ quan, đơn vị sự nghiệp
hoặc đơn vị cơ sở trong công an nhân dân và quân đội nhân dân; tổ chức kinh tế
(các loại hình hợp tác xã, các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài). Ở các cơ sở trên, nếu có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ
chức cơ sở đảng; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp
giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội XI của
Đảng quy định:
- Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ
đảng trực thuộc.
- Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có
các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
Như vậy, tổ chức cơ sở đảng gồm chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở. Việc lựa
chọn mô hình tổ chức nào (chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở) phụ thuộc vào số
lượng đảng viên chính thức và phải được cấp uỷ cấp trên (quận, huyện uỷ hoặc
tương đương) trực tiếp quyết định.
- Về tổ chức cơ sở Đảng, Điều lệ quy định những trường hợp sau đây, cấp
uỷ cấp dưới phải báo cáo và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực
hiện:
+ Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
+ Lập chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
+ Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở.
Những năm gần đây, thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, ở nước ta có nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Do
vậy, ngoài các loại hình tổ chức cơ sở đảng được tổ chức tại đơn vị cơ sở hành
chính (xã, phường, thị trấn), các đơn vị sự nghiệp, cơ quan, doanh nghiệp nhà
nước, đơn vị cơ sở trong công an, quân đội... còn xuất hiện tổ chức cơ sở đảng
trong các đơn vị doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Tất cả các tổ chức cơ sở đảng trong các thành phần kinh tế đều phải thực
hiện đúng nguyên tắc đã được quy định trong Điều lệ Đảng.
2. Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 7, tr. 242.
78
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở,
đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
a. Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng
- Xét trong hệ thống tổ chức của Đảng, thì tổ chức cơ sở đảng là tổ chức
đảng nhỏ nhất, số lượng nhiều nhất và gắn liền với các tổ chức hành chính, kinh tế
ở cơ sở. Vì vậy, tổ chức cơ sở đảng là "nền tảng", là "gốc rễ" của Đảng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chi bộ là gốc rễ của Đảng"1 và "... chi bộ là nền tảng của
Đảng, của cách mạng ở xã..."2. "Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh"3 và "Các chi
bộ mạnh tức là Đảng mạnh"4.
- Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống xã hội.
Tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đồng thời cũng là nơi góp phần phát
triển và hoàn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân dân. Trong
mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của tổ chức cơ sở đảng là những "sợi
dây chuyền" trực tiếp nối liền Đảng với dân. Nói về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết: "Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì nó là sợi dây chuyền
để liên hệ Đảng với quần chúng"5.
b. Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị ở cở sở
- Đảng là một thành viên của hệ thống chính trị, nhưng là thành viên giữ vị
trí, vai trò lãnh đạo hệ thống đó, bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng
định hướng chính trị của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân vững
chắc, lãnh đạo đồng bào thi đua yêu nước, cần kiệm xây dựng nước nhà" 1. Rằng
"Mỗi chi bộ ta phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở..."2.
- Tổ chức cơ sở đảng còn là nơi giáo dục, tổ chức, động viên nhân dân thực
hiện có hiệu quả Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.

1, 2, 4, 5. Sđd, t.7, tr. 242, 467, 243.


3. Sđd, t. 10, tr. 270.

1 . Sđd, t. 10, tr. 205.


2 . Sđd, t. 11, tr. 23.
79
- Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở là trung tâm đoàn kết quy tụ, tập hợp được
mọi lực lượng ở cơ sở thành một khối thống nhất ý chí và hành động, tạo ra sức
mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ sở.
3. Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Điều 23 Điều lệ Đảng đã quy định năm nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng như
sau:
- Một là, chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực
hiện có hiệu quả.
- Hai là, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất
lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng
cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản
lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình
độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
- Ba là, lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Bốn là, liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng
và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Năm là, kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ chức đảng
và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng uỷ cơ sở, nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì được quyết
định kết nạp đảng và khai trừ đảng viên.
Năm nhiệm vụ trên đây là năm nội dung cơ bản, chung nhất để thực hiện
chức năng lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng. Mỗi nhiệm vụ có vị trí và yêu cầu
riêng, không thể coi nhẹ nhiệm vụ nào. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ nói trên
trong tình hình hiện nay cần kiểm tra để phát hiện, bổ sung, hoàn thiện các quy
định, quy chế hoạt động cụ thể cho phù hợp các loại hình tổ chức cơ sở đảng, đúng
Điều lệ Đảng, đúng pháp luật Nhà nước.
Các chi bộ phải bảo đảm sinh hoạt thường lệ hàng tháng, nâng cao chất

80
lượng sinh hoạt, thực hiện tốt việc phân công và kiểm tra công tác của đảng viên.
Đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp phải thường
xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở nơi cư trú theo quy định. Điều đó
quy định rõ hơn trách nhiệm của cấp uỷ Đảng cơ sở đối với đảng viên ở nơi cư trú,
phải gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân. Ngoài ra, còn có quy định tổ chức
cơ sở đảng phải tổ chức tất cả đảng viên phải được học tập nâng cao trình độ chính
trị và nghiệp vụ theo chương trình hàng năm.
4. Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở
- Chi bộ là tổ chức cơ sở đảng nhỏ nhất của Đảng. Mọi đảng viên thực hiện
các nhiệm vụ của mình cũng chủ yếu thể hiện ở chi bộ và được đánh giá từ chi bộ.
Do vậy, chất lượng, hiệu quả hoạt động của chi bộ quyết định vai trò và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
- Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi
cư trú của đảng viên. Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có rất nhiều các loại hình
khác nhau tùy theo tính chất, điều kiện làm việc và nơi sinh sống của đảng viên.
Mỗi chi bộ ít nhất có ba đảng viên chính thức. Chi bộ có đông đảng viên được chia
thành nhiều tổ đảng. Tổ đảng hoạt động dưới sự chỉ đạo của chi ủy. Mỗi loại hình
chi bộ phải được thực hiện chức năng lãnh đạo của tổ chức đảng tuỳ thuộc vào
nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
- Theo quy định tại Điều 24, Điều lệ Đảng, tổ chức và hoạt động của chi bộ
trực thuộc đảng uỷ cơ sở như sau:
+ Chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở được tổ chức theo nơi làm việc hoặc nơi ở
của đảng viên; mỗi chi bộ ít nhất có 3 đảng viên chính thức. Chi bộ đông đảng viên
có thể chia thành nhiều tổ đảng; tổ đảng bầu tổ trưởng, nếu cần thì bầu tổ phó; tổ
đảng hoạt động dưới sự chỉ đạo của chi uỷ.
+ Chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; giáo dục, quản lý
và phân công công tác cho đảng viên; làm công tác vận động quần chúng và công
tác phát triển đảng viên; kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật đảng viên; thu, nộp
đảng phí. Chi bộ, chi uỷ họp thường lệ mỗi tháng một lần.
+ Đại hội chi bộ do chi uỷ triệu tập năm năm hai lần; nơi chưa có chi uỷ thì
do bí thư chi bộ triệu tập. Khi được đảng uỷ cơ sở đồng ý có thể triệu tập sớm hoặc
muộn hơn, nhưng không quá sáu tháng.

81
+ Chi bộ có dưới chín đảng viên chính thức, bầu bí thư chi bộ; nếu cần, bầu
phó bí thư. Chi bộ có chín đảng viên chính thức trở lên, bầu chi uỷ, bầu bí thư và
phó bí thư chi bộ trong số chi uỷ viên.
Việc đánh giá một chi bộ có hoàn thành các nhiệm vụ, có đạt chất lượng
trong sạch, vững mạnh hay không được căn cứ vào kết quả toàn diện trong thực
tiễn lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, không chỉ
căn cứ vào một mặt riêng biệt nào.
II. CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở CƠ SỞ VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA
ĐẢNG VIÊN
1. Nội dung công tác xây dựng Đảng ở cơ sở
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Trung ương Đảng khóa X
trình Đại hội XI đã xác định 8 nhiệm vụ chủ yếu của công tác xây dựng Đảng
trong giai đoạn mới. Đó là:
- Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác tư tưởng, lý luận.
- Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính
trị.
- Kiện toàn tổ chưc cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.
- Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng1.
Vận dụng vào công tác xây dựng Đảng ở cơ sở, nhiệm vụ xây dựng, củng cố
tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên có những nội dung chính sau:
a. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
- Từ chỗ khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở đảng, cần
phải thường xuyên chăm lo củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Những năm qua, toàn Đảng đã tập trung chỉ
đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đã chú ý hơn tới việc xây dựng, kiện toàn tổ
chức cơ sở đảng ở vùng sâu, vùng xa, bước đầu đã quan tâm xây dựng tổ chức

1 Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb.CTQG,
Hà Nội, 2011. tr 255-265.
82
đảng ở các công ty tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đã có
những bước tiến quan trọng trong việc xác định vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của các loại hình tổ chức cơ sở đảng ngày càng phù hợp hơn trong điều kịên mới.
Hệ thống tổ chức cơ sở đảng không ngừng được củng cố, phát triển, phát huy tốt
vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị tại cơ sở, trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi
các chủ trương, đường lối của Đảng.
Tuy nhiên, việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh còn
những hạn chế, yếu kém. Đại hội lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: "Năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý đảng
viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự
phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, vai trò của tổ chức đảng ở
đây mờ nhạt. Động cơ phấn đấu vào Đảng của một số người có biểu hiện lệch lạc,
cơ hội”1.
Trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng
cần thực hiện các yêu cầu sau đây:
+ Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch, vững mạnh; làm tốt
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, giám sát đảng viên về năng lực hoàn
thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức, lối sống; đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu
cực trong Đảng.
+ Tất cả các đảng bộ, chi bộ cơ sở đều phải nâng cao nhận thức và thực hiện
đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với các tổ chức trong hệ thống
chính trị, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân
ở cơ sở. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp để đánh giá đúng chất lượng tổ
chức cơ sở đảng và đảng viên.
+ Thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào dân để xây dựng Đảng từ cơ sở. Có cơ
chế để nhân dân tham gia ý kiến vào việc xây dựng các nghị quyết, quyết định của
tổ chức đảng, chính quyền cơ sở trực tiếp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của
nhân dân; bố trí cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cơ sở, để nhân dân tham gia
giám sát tổ chức đảng, chính quyền và cán bộ, đảng viên.

1
S.đ.d.trang 174
83
+ Đổi mới phương thức lãnh đạo, từ việc ra nghị quyết, xây dựng và thực
hiện quy chế làm việc, xây dựng đội ngũ cán bộ... đến việc lãnh đạo các cuộc bầu
cử, đảm bảo phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc, tiêu chuẩn.
+ Nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông lỏng
vai trò lãnh đạo. Thực hiện đồng bộ các biện pháp củng cố tổ chức cơ sở đảng, chú
trọng địa bàn xung yếu, vùng sâu, vùng xa, các đảng bộ, chi bộ yếu kém; nâng cao
tính chiến đấu, tính giáo dục, đề cao tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng;
kiện toàn đội ngũ cấp uỷ, bí thư chi bộ; bồi dưỡng, tạo nguồn, thực hiện tiêu chuẩn
hoá cán bộ, công chức cơ sở; đề cao trách nhiệm quản lý, kiểm tra giám sát đảng
viên của chi bộ. Đảng viên có cương vị càng cao, càng phải gương mẫu chấp hành
sự quản lý của chi bộ.
- Để xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng cần thực hiện tốt các chủ
trương và biện pháp sau:
+ Đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, sinh hoạt chi bộ.
+ Phân công, hướng dẫn, kiểm tra đảng viên chấp hành nhiệm vụ, phát huy
vai trò tiên phong gương mẫu; giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng nơi công
tác, với chi bộ và nhân dân nơi cư trú.
+ Chú trọng và tăng cường công tác phát triển Đảng, sớm khắc phục tình
trạng một số cơ sở, địa bàn chưa có đảng viên, tổ chức đảng. Việc kết nạp đảng
viên phải coi trọng chất lượng, tiêu chuẩn, đặc biệt tiêu chuẩn giác ngộ lý tưởng
của Đảng, đạo đức, lối sống, năng lực hoàn thành nhiệm vụ; trọng tâm hướng vào
thế hệ trẻ, công nhân, nông dân, trí thức, quân nhân, cán bộ, con em các gia đình
có công với cách mạng. Coi trọng giáo dục, rèn luyện đảng viên dự bị, đảng viên
trẻ.
+ Đổi mới việc phân tích, đánh giá chất lượng các tổ chức cơ sở đảng và
đảng viên. Có những tiêu chí cụ thể để đánh giá đúng thực chất; khắc phục tình
trạng nể nang, dễ dãi, chạy theo thành tích. Thường xuyên sàng lọc đảng viên, kiên
quyết đưa những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng bằng các hình thức thích
hợp. Khai trừ những đảng viên thoái hoá về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cố tình vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của
Nhà nước. Vận động ra Đảng hoặc xoá tên khỏi danh sách đảng viên đối với những
đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, không làm tròn nhiệm vụ
đảng viên, đã được tổ chức đảng giúp đỡ mà không tiến bộ.
b. Nâng cao chất lượng đảng viên

84
Cần nắm vững các yêu cầu sau đây để các tổ chức cơ sở đảng có những biện
pháp chấn chỉnh, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng.
- Về tư tưởng chính trị: tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc, tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, hoàn thành tốt
nhiệm vụ chính trị được giao. Có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động
trước những khó khăn, thách thức. Có ý thức giữ vững và nêu cao vai trò lãnh đạo
của Đảng.
- Về trình độ năng lực: có hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Có năng lực vận động và lãnh đạo quần chúng tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Về phẩm chất, đạo đức, lối sống: có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu,
đi đầu trong công tác; xử lý hài hoà các lợi ích, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc
lên trên hết. Liên hệ mật thiết với nhân dân. Có lối sống trong sạch, lành mạnh, có
kỷ cương, kỷ luật. Không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác.
2. Trách nhiệm của đảng viên đối với tổ chức cơ sở đảng và chi bộ
Mỗi đảng viên phải hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng nhất định. Chất
lượng của từng đảng viên góp phần tạo nên chất lượng của chi bộ, đảng bộ. Nâng
cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, của chi bộ không thể tách rời việc nâng
cao chất lượng đảng viên. Ngược lại, đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh tạo
điều kiện để mỗi đảng viên thực hiện tốt vai trò và nhiệm vụ của mình, giữ vững tư
cách người đảng viên. Vì vậy, đảng viên cần nêu cao trách nhiệm xây dựng đảng
bộ, chi bộ.
a) Đảng viên phải đóng góp tích cực với đảng bộ, chi bộ trong việc lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ sở, đơn vị.
Để thực hiện yêu cầu này, đảng viên cần:
- Thường xuyên học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để
nâng cao trình độ lý luận chính trị, phương pháp công tác khoa học. Thường xuyên
học tập những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những tinh hoa văn hóa của nhân
loại, những kiến thức mới của thời đại để không ngừng làm giàu trí tuệ của mình,
từ đó góp phần cùng tổ chức Đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.

85
- Nắm vững và thực hiện nghiêm đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, những chủ trương, nhiệm vụ của cấp uỷ và chính quyền địa phương
(tỉnh, thành; huyện, quận...).
- Hiểu rõ tình hình thực tế ở cơ sở, đơn vị, những vấn đề đang đặt ra cần giải
quyết.
- Thường xuyên suy nghĩ, góp phần đề ra chủ trương và các giải pháp đúng
đắn, sát hợp, có tính khả thi của đảng bộ, chi bộ để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị
của đơn vị.
- Gương mẫu thực hiện nghị quyết và chấp hành sự phân công của đảng bộ,
chi bộ; tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân và gia đình thực hiện có hiệu quả
các chủ trương, nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra.
b) Đảng viên phải góp phần tích cực vào việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng
có sự thống nhất cao về chính trị và tư tưởng, bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo
đức, lối sống.
Để thực hiện yêu cầu trên, đảng viên cần:
- Thực hiện chế độ học tập bắt buộc theo quy định của Đảng. Mọi cán bộ,
đảng viên phải thực hiện nghiêm túc "chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng".
Trên cơ sở nâng cao nhận thức, kiên định những quan điểm có tính nguyên tắc của
Đảng.
- Gương mẫu, tự giác rèn luyện, phấn đấu nâng cao bản lĩnh chính trị; phẩm
chất, đạo đức cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư"; khắc phục chủ
nghĩa cá nhân. Không làm những việc trái với quy định của Đảng, xa lạ với bản
chất người đảng viên cộng sản. Không tham nhũng, làm ăn phi pháp; kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực trong Đảng và
trong nhân dân.
- Kiên quyết đấu tranh với những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, những biểu
hiện thiếu kiên định về tư tưởng chính trị, giúp đồng chí nhận rõ và khắc phục
những nhận thức, tư tưởng không đúng. Phê phán và bác bỏ những quan điểm sai
trái, thù địch.
- Phát huy tự do tư tưởng, tham gia thảo luận, tranh luận tìm ra chân lý, lẽ
phải. Thực hiện đúng quyền được phát biểu ý kiến trong tổ chức, được bảo lưu ý
kiến và chấp hành nghị quyết của Đảng. Không được truyền bá những quan điểm
trái với quan điểm, đường lối của Đảng.

86
c) Đảng viên phải đóng góp tích cực xây dựng đảng bộ, chi bộ vững mạnh
về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Để thực hiện yêu cầu này, đảng viên cần:
- Phát huy dân chủ, tích cực thảo luận và tham gia quyết định các chủ
trương, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ, đồng thời thực hiện đúng nguyên tắc thiểu
số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng quyết định của tập thể.
- Thường xuyên rèn luyện, tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ,
đảng bộ; tham gia đầy đủ các kỳ sinh hoạt chi bộ, tuân thủ kỷ luật của Đảng.
- Thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình. Khắc phục tình trạng tự
phê bình một cách hình thức, chiếu lệ, không dũng cảm nêu ra và sửa chữa khuyết
điểm. Không nể nang, xuê xoa trong phê bình, nhưng cũng không được lợi dụng
phê bình để vu cáo, đả kích cá nhân, gây rối nội bộ.
- Ra sức chăm lo, giữ gìn đoàn kết nội bộ trên cơ sở đường lối, chính sách,
nghị quyết của Đảng và các quy định của Điều lệ Đảng; kiên quyết đấu tranh với
mọi biểu hiện chia rẽ, bè cánh, cục bộ do kèn cựa, tranh giành chức quyền, lợi lộc.
- Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng; kiên quyết chống lại mọi
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, làm suy yếu, hạ thấp đi đến xóa bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng. Tham gia đấu tranh với những phần tử bất mãn, cơ hội
chống đảng và những biểu hiện lệch lạc, trái quan điểm, đường lối của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.

CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Phân tích vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng.
2. Nêu những nội dung công tác xây dựng đảng ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
3. Phân tích nhiệm vụ của đảng viên trong công tác xây dựng đảng ở cơ sở.

87
Bài 9
KHÔNG NGỪNG PHẤN ĐẤU VÀ RÈN LUYỆN
ĐỂ XỨNG ĐÁNG VỚI DANH HIỆU NGƯỜI ĐẢNG VIÊN
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI ĐẢNG VIÊN ĐẢNG


CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Vị trí, vai trò của người đảng viên
a. Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội XI của Đảng
khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”.
Trước hết, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, nên từng đảng viên của Đảng phải là chiến sĩ cách mạng tiên
phong của giai cấp công nhân, phấn đấu vì lợi ích của giai cấp. Toàn bộ sức mạnh,
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đều được tạo thành từ từng người
đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải
mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”1.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, đảng viên là người tiên tiến nhất trong
nhân dân lao động và của dân tộc. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời
kỳ đều bắt nguồn từ việc Đảng giải quyết đúng đắn mối quan hệ mật thiết giữa giai
cấp và dân tộc, mỗi người đảng viên của Đảng luôn luôn phấn đấu vì lợi ích của
giai cấp và dân tộc.
Thứ ba, Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và cả dân tộc, nhờ đó mà Đảng được cả dân tộc gọi là Đảng ta. Mỗi
đảng viên đều đặt lợi ích của giai cấp và dân tộc lên trên hết, trước hết.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, được toàn dân
thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo nhân dân, nên mỗi đảng viên là người tiên
phong, gương mẫu trước quần chúng nhân dân.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr. 92.
88
b. Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức
thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách đó.
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam bằng việc định ra
đường lối, chủ trương, chính sách lớn; công tác cán bộ và vai trò gương mẫu của
đội ngũ đảng viên.
- Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng. Đường lối của Đảng là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng. Mỗi đảng viên của
Đảng đều có trách nhiệm trong việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng qua tham gia xây dựng các nghị quyết của Đảng từ cơ sở trở lên.
- Sau khi có đường lối đúng đắn, việc bảo đảm cho đường lối được thực hiện
thắng lợi trong thực tế có vai trò quan trọng. Đảng viên phải nêu cao vai trò tiên
phong gương mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, làm tấm gương tốt cho quần chúng noi theo. Nhân dân ta
có câu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Điều đó vừa nói lên lòng tin yêu
của quần chúng đối với đảng viên, vừa nói lên yêu cầu gương mẫu trước quần
chúng của đảng viên.
c. Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
phục vụ quần chúng.
- Đảng viên là người lãnh đạo, bởi vì đảng viên có giác ngộ lý tưởng của
Đảng, đem tư tưởng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước tuyên truyền cho quần chúng trong cơ quan, đơn vị, trong cộng đồng,
cho gia đình mình và bằng hành động của mình tập hợp lôi cuốn họ thực hiện. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước
quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng
hiểu rõ và vui lòng thi hành”1.
- Đảng viên là người đầy tớ của nhân dân, bởi vì mục tiêu lý tưởng của Đảng
ta là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hết lòng, hết
sức phục vụ nhân dân, vì vậy đảng viên của Đảng suốt đời phấn đấu để phục vụ
cho lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng:

1 Sđd, t. 6, tr. 189.


89
mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân”. Người nhấn mạnh: “làm đày tớ cho
nhân dân chứ không phải là quan nhân dân”2.
- Là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân, đảng viên
không tự hạ thấp trình độ nhận thức, phẩm chất chính trị của mình, không theo
đuôi quần chúng, mà luôn luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của Đảng để
lãnh đạo, giáo dục quần chúng, nâng cao trình độ của quần chúng, tổ chức cho
quần chúng hành động cách mạng.
Là đảng viên mỗi người đều phải phấn đáu theo lời dạy của V.I. Lênin phải
bảo vệ tính vững chắc, tính kiên định, tính trong sạch của Đảng và phải cố gắng
làm cho danh hiệu và ý nghĩa của đảng viên ngày càng cao hơn lên mãi.
d. Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương
của Đảng.
- Trong cuộc đấu tranh chống các thế lực thù định, đặc biệt chống chiến
lược “diễn biến hoà bình” hiện nay, việc giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng là yếu tố có tính quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thắng
lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn
của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
- Đảng viên, người chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân có trách
nhiệm bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, đấu tranh có hiệu quả
với các biểu hiện của tư tưởng cơ hội, hữu khuynh, xét lại hoặc giáo điều, bảo thủ,
làm cho Đảng ta luôn luôn vững vàng, kiên định, có sức chiến đấu cao.
2. Nhiệm vụ của người đảng viên
Điều 2, Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội XI
xác định nhiệm vụ của người đảng viên gồm:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp
hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng
tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực
công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và

2 Sđd, t. 12, tr. 222.


90
các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương
về những điều đảng viên không được làm.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của
nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và
nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng;
phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê
bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt
đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
II. KHÔNG NGỪNG PHẤN ĐẤU VÀ RÈN LUYỆN ĐỂ XỨNG ĐÁNG
VỚI DANH HIỆU ĐẢNG VIÊN
1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng
- Tiêu chuẩn đảng viên là những chuẩn mực quy định chất lượng của người
đảng viên, là tiêu chí phân ra giữa đảng viên và quần chúng; là cơ sở để đánh giá
chất lượng đảng viên; là căn cứ để tiến hành mọi mặt công tác đảng viên. Mọi đảng
viên phải dựa vào tiêu chuẩn đảng viên để rèn luyện, phấn đấu.
- Điểm 1, điều 1, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI thông qua đã xác định tiêu chuẩn đảng viên như sau: “Đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục
đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao
động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn
bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết
thống nhất trong Đảng”.
Những tiêu chuẩn đảng viên trên đây thể hiện qua các điểm sau:
Một là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị.
+ Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định lập
trường cách mạng của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý
tưởng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vững vàng,

91
không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Có mục tiêu, lý tưởng là tiêu
chí phân biệt giữa đảng viên và quần chúng.
+ Mục tiêu, nhiệm vụ chính trị cụ thể của người đảng viên Việt Nam hiện
nay là phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, thực hiện thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, thái độ và sự tham gia tích cực thực hiện đường lối đổi mới là
thước đo phẩm chất, năng lực, vai trò tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên.
Hai là, về nhận thức, kiến thức, năng lực toàn diện thực hiện công cuộc đổi
mới đất nước.
- Lênin đã dặn đi dặn lại những người cộng sản Nga rằng: nếu chỉ có nhiệt
tình và lòng dũng cảm không thôi thì không thể chiến thắng được chủ nghĩa tư bản,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mặc dù nhiệt tình cách mạng và lòng dũng
cảm là yếu tố cực kỳ quan trọng. Để chiến thắng chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản còn phải có kiến thức, có trình độ
văn hoá cao, có trí thông minh và năng lực làm việc. Muốn thế, phải không ngừng
học tập, học tập một cách kiên trì và nghiêm túc; không bằng lòng với những kinh
nghiệm của mình; kiêu ngạo cộng sản là báo hiệu một sự tụt hậu…
- Đổi mới ở nước ta hiện nay là cuộc vận động cách mạng toàn diện và sâu
sắc, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay, cách mạng khoa
học và công nghệ phát triển như vũ bão, kinh tế tri thức phát triển, toàn cầu hoá
mạnh mẽ đang tạo ra thời cơ và thách thức với tất cả quốc gia, dân tộc. Rõ ràng,
trong tình hình đó, đảng viên phải không ngừng bồi dưỡng những kiến thức văn
hoá, khoa học - kỹ thuật, quản lý kinh tế - xã hội, pháp luật... để có đủ năng lực
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Ba là, về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, mà nội dung cốt lõi của đạo
đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư; có tinh thần quốc tế trong sáng, luôn xứng đáng với
người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân... Những lời dạy đó của
Người đến nay vẫn giữ nguyên vẹn giá trị và có ý nghĩa to lớn trong thời kỳ đổi
mới.

92
- Những chuẩn mực đạo đức mà người đảng viên cần có là lòng yêu nước
sâu sắc, tôn trọng và hết lòng phục nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có thái độ tích cực ủng hộ xu thế đổi mới, tham gia vào công
cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, thống nhất giữa lời nói và việc làm.
- Đạo đức, lối sống mới yêu cầu dũng cảm vạch trần, phê phán những biểu
hiện cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, những mưu toan dựa vào xu thế và hoàn cảnh đổi
mới để tìm kiếm lợi ích riêng cho bản thân mình.
- Tư tưởng và ý thức đạo đức phải đi liền với hành động, trong lao động,
trong công việc, trong quan hệ với con người, trong đấu tranh khắc phục mọi tệ
nạn và làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng
trên cơ sở thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung
dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình.
- Đoàn kết trong Đảng là yêu cầu tối quan trọng của Đảng Cộng sản. Trong
Đảng Cộng sản không thể tồn tại nhiều phái, nhiều phe cánh với lập trường và lợi
ích khác nhau. Đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của Đảng ta mà tất
cả các tổ chức đảng và đảng viên phải ra sức giữ gìn, vun đắp như giữ gìn con
ngươi của mắt mình. Nền tảng của sự đoàn kết trong Đảng là chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối và các nguyên tắc tổ
chức Đảng.
- Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất: thống nhất quan điểm, thống nhất
ý chí, thống nhất hành động. Tập trung dân chủ là nguyên tắc bảo đảm sự thống
nhất của Đảng. Vì vậy, mọi cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải tôn
trọng và chấp hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đảng viên có trách nhiệm tích cực tham gia thảo luận các vấn đề thuộc về
đường lối, chủ trương của Đảng, có quyền chất vấn, tranh luận một cách thẳng
thắn; đồng thời chú ý lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác. Khi đã thành
quyết định của tập thể thì phải nghiêm túc chấp hành, không được phát ngôn tuỳ
tiện hoặc lan truyền những ý kiến, quan điểm riêng của mình bên ngoài các hội
nghị Đảng.
Năm là, gắn bó mật thiết với quần chúng.
- Sức mạnh vô địch của Đảng là ở sự gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân
dân. Phát huy dân chủ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Vì
vậy, mỗi đảng viên, trước hết là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, có chức, có
93
quyền, phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của dân, chăm lo đời sống hàng
ngày của dân, tìm hiểu nguyện vọng và lắng nghe ý kiến dân, giúp đỡ dân khi gặp
khó khăn, kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, gia trưởng, độc
đoán, đặc quyền đặc lợi, trù dập, ức hiếp dân và mọi hành vi vi phạm quyền dân
chủ của dân. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, một yêu cầu rất cần thiết đối
với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền.
- Sự gắn bó với quần chúng, mối liên hệ mật thiết với quần chúng không chỉ
là một tiêu chuẩn của nhân cách đảng viên, mà còn là sự thử thách đặc biệt thể hiện
năng lực hoạt động chính trị - thực tiễn, phương pháp và phong cách làm việc của
mỗi đảng viên.
Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân.
- Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn kết
hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Những thắng lợi của
cách mạng Việt Nam cũng có nguyên nhân từ đường lối quốc tế đúng đắn của
Đảng. Nhiệm vụ của người đảng viên là phải thực hiện đúng đắn đường lối đó của
Đảng.
- Bước vào giai đoạn mới, vấn đề đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam
mang nội dung mới. Đó là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn
lực bên trong và bên ngoài, làm tốt nghĩa vụ quốc tế trong sáng trong hoàn cảnh
mới.
2. Không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu
người đảng viên cộng sản
Khái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: cá nhân một con người mang danh
hiệu đảng viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức đảng cụ thể và của
toàn Đảng nói chung). Người đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu cao quý của
mình khi làm tròn bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ sự phấn đấu của bản thân
và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức đảng.
- Về mặt cá nhân
Trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theo những đức tính của
con người Việt Nam, đó là:
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu,
94
đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
+ Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và
cải thiện môi trường sinh thái.
+ Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng
suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ
thẩm mỹ và thể lực.
- Về tư cách đảng viên thành viên của tổ chức đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức..., làm mực thước cho người ta bắt chước” 1. Đối
với Đảng, “Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”2.
- Yêu cầu của sự phấn đấu là giữ vững, tự khẳng định tư cách người cộng
sản của mình và không ngừng vượt lên chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy:
“tất cả các đảng viên, cán bộ và chi bộ cần phải thường xuyên ôn lại, tự liên hệ và
giữ đúng những tiêu chuẩn của người đảng viên...”3, coi đó là cách tốt nhất để
xứng đáng với danh hiệu người cộng sản.
- Trong nhiệm vụ kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng
viên, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Trung ương Đảng khóa X
trình Đại hội XI chỉ rõ: “Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các
loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các đơn vị sự nghiệp và doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị, bảo
đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng và xây
dựng đội ngũ cấp uỷ viên, trước hết là bí thư cấp uỷ. Thực hiện trẻ hoá, tiêu chuẩn
hoá, tăng cường bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ theo chức danh cán bộ cơ sở”1.

1.Sđd, t.5, tr. 552.


2 Sđd, t. 12, tr. 91.
3 Sđd, t. 10, tr. 101.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội, 2011, 259-260


95
Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất
lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu
cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của
đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiền phong
gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ
được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng
viên.
- Về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân
+ Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân ở nước ta đã xuất hiện từ lâu trong
quá trình tiến hành công cuộc đổi mới. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đại hội X đã
thảo luận, biểu quyết và thông qua chủ trương: “Đảng viên làm kinh tế tư nhân
phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh
chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương” 1. Như vậy,
Đại hội đã đồng ý để đảng viên làm kinh tế tư nhân với một số quy định nhất định.
+ Cơ sở để Đại hội thông qua chủ trương trên là do nước ta đang trong
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với trình độ phát triển
thấp kém của lực lượng sản xuất. Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là phát triển kinh
tế, giải phóng mạnh mẽ các tiềm năng phát triển trong xã hội, trong đó có trên 3
triệu đảng viên. Đó là thực hiện lời dạy của V.I. Lênin, phải qua “những bước
trung gian”, “ bắc những nhịp cầu nhỏ” từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các
thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng và đều là bộ phận cấu thành hữu cơ
của nền kinh tế; kinh tế tư nhân không đối lập với kinh tế nhà nước. Phát triển kinh
tế tư nhân cũng là để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
- Tuy nhiên, kinh tế tư nhân, do chịu tác động của các quy luật thị trường có
thể có những những tác động tiêu cực đến tiêu chuẩn của người đảng viên. Để hạn
chế những tác động tiêu cực đó, Nghị quyết Đại hội X yêu cầu đảng viên phải
khác với những công dân khác là ngoài việc chấp hành đầy đủ chính sách, pháp
luật của Nhà nước, còn phải chấp hành Điều lệ Đảng và những quy định trong
Đảng, để làm kinh tế tư nhân nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn và giữ đúng tư cách
đảng viên.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội, tr. 302.

96
Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thông
qua những quy định đối với đảng viên làm kinh tế tư nhân. Nhiệm vụ của mỗi đảng
viên khi làm kinh tế tư nhân là phải thực hiện tốt những quy định này.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X trình Đại
hội XI yêu cầu: “Tổng kết, đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm để tiếp tục thực
hiện Quy định số 15-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) về đảng
viên làm kinh tế tư nhân. Thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ
doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng”.
III. CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG VIÊN
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo, gắn bó chặt chẽ với nhân
dân và được nhân dân tin cậy. Sức mạnh của Đảng nằm trong sức mạnh dời non
lấp biển của nhân dân và toàn dân tộc. Để phát huy được sức mạnh, Đảng phải
luôn luôn quan tâm đến công tác vận động nhân dân, tăng cường quan hệ máu thịt
giữa Đảng với dân. Mỗi đảng viên đều phải quan tâm và làm tốt công tác vận động
nhân dân.
1. Quan điểm chỉ đạo công tác vận động nhân dân trong công cuộc đổi
mới
Nghị quyết Trung ương 8 (B) khoá VI "Về đổi mới công tác quần chúng của
Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân" xác định bốn quan điểm
chỉ đạo đổi mới công tác vận động nhân dân trong thời kỳ mới.
Một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì nhân dân.
- Tư tưởng “lấy dân làm gốc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, nâng lên
tầm cao mới, với những nội dung mới. Ngay từ năm 1949, Người đã chỉ rõ:
"NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

97
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"1.
Người đã nhiều lần khẳng định: "Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm
được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì cũng không nên".
“Nước lấy dân làm gốc”2. ”Gốc có vững cây mới bền”3.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu
năm bài học chủ yếu trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng, trong đó có bài học: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ
hoạt động của Ðảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân. Sức mạnh của Ðảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham
nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh
của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”.
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết
thực của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất lợi ích và nghĩa vụ công
dân.
- Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước,
Đảng đã vạch ra được đường lối, chủ trương đúng đắn, đáp ứng lợi ích, nguyện
vọng của mọi tầng lớp nhân dân, đó là đấu tranh cho quyền dân sinh, dân chủ và
lợi ích cao nhất là độc lập, tự do của đất nước. Nhờ đó đã tập hợp được các tầng
lớp nhân dân đi theo Đảng làm cách mạng.
- Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, việc giải quyết quan hệ lợi ích theo nguyên tắc: lợi ích cá nhân, lợi ích tập
thể và lợi ích toàn xã hội gắn chặt và thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân
là động lực trực tiếp. Kết hợp hài hoà lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích địa
phương và lợi ích cả nước. Coi trọng lợi ích cá nhân nhưng không tuyệt đối hoá,
không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt, làm
tổn hại đến lợi ích chung của cộng đồng. Nhờ đó, qua gần 25 năm đổi mới, chúng
ta đã đạt được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, t. 5, tr. 698.


2 Sđđ, t.5, tr. 409.
3 Sđđ, t.5, tr. 410.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr. 65.
98
Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: kết hợp hài hoà các lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội... là một động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Quán triệt
quan điểm này mới tạo ra được phong trào hành động cách mạng rộng rãi của các
tầng lớp nhân dân.
Ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
- Trong giai đoạn mới của cách mạng phải đa dạng hoá các hình thức tập
hợp nhân dân, vì cơ cấu xã hội - giai cấp, xã hội - dân cư, xã hội - nghề nghiệp... có
sự phát triển mới cùng với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, làm cho nhu cầu lợi ích của xã hội, của tổ chức và mỗi cá nhân hết sức đa
dạng, phong phú. Mặt khác, trình độ của các tầng lớp nhân dân không đồng nhất,
do đó phải có cấp độ khác nhau về hình thức tập hợp. Đa dạng hoá các hình thức
tập hợp nhân dân là hợp với quy luật phát triển của xã hội trong nền kinh tế thị
trường với nhiều thành phần kinh tế ở nước ta.
- Cùng với hình thức tập hợp nhân dân, Đảng cũng nhấn mạnh đến phương
thức và khẩu hiệu vận động nhân dân sao cho phù hợp với trình độ từng đối tượng
nhân dân, coi trọng việc vận động bằng các điển hình tiên tiến.
- Theo tinh thần Đại hội XI của Đảng, để phát huy dân chủ trong đời sống xã
hội đòi hỏi phải phát triển nhiều hình thức trong sinh hoạt xã hội. Vì vậy, bên cạnh
việc củng cố, đổi mới tổ chức và hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội
truyền thống, cần khuyến khích phát triển những tổ chức mang tính xã hội, nghề
nghiệp, nhân đạo, hữu nghị..., thu hút đông đảo nhân dân thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng.
Bốn là, công tác vận động nhân dân là trách nhiệm của Đảng, chính quyền
và các đoàn thể nhân dân.
- Đảng phải lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị làm công tác dân vận nhằm
thường xuyên củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, coi trọng công
tác kiểm tra việc thực hiện các chủ trương về dân vận, nhất là đối với hệ thống
chính quyền.
- Các cấp chính quyền phải chăm lo công tác quần chúng, vì Nhà nước của
ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cần khắc phục tình trạng nhiều cấp chính
quyền còn có những biểu hiện coi nhẹ công tác dân vận và coi nhẹ việc xây dựng
các tổ chức quần chúng.

99
- Các tổ chức đoàn thể, các hội nghề nghiệp... cần phải coi trọng công tác
vận động đoàn viên, hội viên, phải tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động cho phù hợp với tình hình mới.
- Mọi cán bộ, đảng viên, mọi công chức, viên chức nhà nước đều phải làm
tốt công tác dân vận theo chức trách của mình. Hơn nửa thế kỷ trước đây, trả lời
câu hỏi: "Ai phụ trách dân vận?, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Tất cả cán bộ
chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân
(Liên Việt, Việt Minh v.v.) đều phải phụ trách dân vận"1. Người còn ân cần nhắc
nhở, phê bình: "Khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một
ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì
tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự
cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại”2.
2. Nhiệm vụ chủ yếu công tác vận động nhân dân của người đảng viên
trong giai đoạn mới
Để làm tốt công tác dân vận, mỗi đảng viên căn cứ điều kiện cụ thể ở địa
phương, vị trí công tác làm tốt những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân.
- “Trọng dân” là điểm đầu tiên, điểm gốc, xuất phát từ quan điểm “cách
mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân” và Đảng “phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Trọng dân thể hiện ý thức phục vụ nhân dân của người đảng viên, là điểm
khác biệt cơ bản nhất giữa phong cách cách mạng với các phong cách quan liêu,
mệnh lệnh kiểu phong kiến, gia trưởng coi thường dân, tự cho mình đứng trên dân,
ban phát ơn huệ cho dân,
- “Gần dân”, đòi hỏi người cán bộ phải có cách tiếp cận tốt với nhân dân, từ
thái độ, tác phong, lối sống của mình. Chính nhờ gần dân mà nắm được tâm tư,
tình cảm của của dân, được dân ủng hộ mới hoàn thành nhiệm vụ. Là thủ trưởng ở
một cơ quan, đơn vị phải gần gũi, chan hoà với anh chị em nơi công tác. Còn ở nơi
cư trú phải có quan hệ tốt với nhân dân xung quanh, tham gia các hoạt động ở nơi
cư trú, khi đó sẽ được dân quý, dân yêu, dân ủng hộ.
- “Hiểu dân” tức là phải hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng, những yêu cầu và
những bức xúc của dân, cả những điều dân nói ra và còn để trong lòng. Đây là vấn

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 699.
2 Sđd, t. 5, tr. 699.
100
đề rất hệ trọng. Cán bộ không hiểu dân thì Đảng và Nhà nước như người bị tịt mắt,
bịt tai, rất nguy hiểm! Để hiểu dân phải đi sâu, đi sát quần chúng, chia sẻ với họ, tìm
hiểu hoàn cảnh của họ. Chỉ có vậy mới "nghe” được những lời nói chân thành từ họ.
- “Học dân” vì trí tuệ và vì sức mạnh của dân là vô tận. Bác Hồ thường dạy
cán bộ phải “học dân chúng” để “nâng cao dân chúng”. Muốn “học dân”, trước hết
phải khiêm tốn, biết lắng nghe, không được tự cho mình cái gì cũng giỏi, cái gì
cũng biết! V.I.Lênin đã từng lên án gay gắt bệnh “kiêu ngạo cộng sản”. Đối với
cán bộ chúng ta cần phải nâng cao khả năng tổng kết thực tiễn, rút ra những bài
học từ nhân dân.
- “Có trách nhiệm với dân” chính là quan điểm vì dân. Bác Hồ dạy cán bộ
không phải là “quan cách mạng” mà là “người đày tớ thật trung thành của nhân
dân”. “Có trách nhiệm với dân” là phải tận tâm, tận lực vì lợi ích của nhân dân,
chăm lo đến lợi ích thiết thân của nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên
trước, theo tinh thần đội viên chưa no, cán bộ không được kêu đói.
Hai là, tuyên truyền, vận động nhân dân, đưa mọi người tham gia vào các tổ
chức thích hợp để hoạt động.
- Để làm tốt công tác dân vận phải đặc biệt quan tâm đến việc vận động
quần chúng tham gia các tổ chức chính trị – xã hội. Ngay khi về nước, Bác Hồ đã
thành lập Mặt trận Việt Minh, tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp vào tổ chức Việt
Minh vận động "không trừ một ai", nhờ đó đã tạo ra cao trào Cách mạng Tháng
Tám, giành chính quyền trong về tay nhân dân.
- Trong công tác vận động nhân dân phải lấy thuyết phục làm chính, đó là
vấn đề có tính nguyên tắc. Phải kiên trì giáo dục, thuyết phục quần chúng, làm cho
quần chúng hiểu rõ chủ trương, chính sách để mọi người tự giác chấp hành. Việc tổ
chức động viên quần chúng cần gắn với việc thực hiện các chương trình kinh tế -
xã hội, an ninh, quốc phòng, chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân, đồng thời
nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng trong các tổ chức Mặt trận, đoàn thể,
các hội quần chúng, đưa quần chúng vào các hoạt động trong phong trào cách
mạng, phù hợp với trình độ từng đối tượng nhân dân.
Ba là, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình và sử dụng quần chúng tiên tiến.
- Phương châm công tác vận động quần chúng là lấy quần chúng vận động
quần chúng. Người cán bộ, đảng viên phải biết dựa vào những người tiên tiến, biết
nhân rộng, để động viên, thúc đẩy mọi người làm theo.

101
- Việc bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến cần phối hợp và thông qua
các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức hội quần chúng. Trong khi sử
dụng quần chúng tiên tiến thì tránh việc bỏ rơi quần chúng chậm tiến, cần kiên
nhẫn giáo dục, động viên, khích lệ họ tham gia phong trào chung, không nên lạm
dụng tổ chức để đả kích, chê trách, dẫn quần chúng dần đến chỗ bất mãn và có khi
trở thành những người chống đối, ngăn cản phong trào.
Bốn là, nêu gương cho quần chúng noi theo.
- Đảng lãnh đạo quần chúng không chỉ bằng đường lối, chính sách mà còn
thông qua vai trò gương mẫu tiên phong trong nhận thức, trong hành động và trong
đạo đức, lối sống, tác phong của từng đảng viên.
- Nhiệm vụ người đảng viên là phải gương mẫu ở nơi làm việc; tuyên truyền
vận động gia đình mình thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Mỗi đảng viên đều phải gương mẫu lôi cuốn mọi người
thực hiện nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú. Đảng viên tham gia các đoàn thể chính
trị - xã hội phải gương mẫu để các hội viên khác noi theo. Nói chung, đảng viên
phải thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Đảng viên đi trước, làng nước đi sau”. Có như
vậy, mới củng cố lòng tin của quần chúng đối với Đảng.

CÂU HỎI THẢO LUẬN


1. Phân tích vị trí, vai trò của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Nội dung phấn đấu rèn luyện của người đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
3. Quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ chủ yếu của người đảng viên trong công
tác vận động nhân dân ở cơ sở.

102

You might also like