You are on page 1of 51

Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

A. LÝ THUYẾT

1. Chuyển giao nội bộ (Các nghiệp vụ mua bán nội bộ)

Các nghiệp vụ mua bán nội bộ của MNC là những hoạt động mua bán qua lại giữa
công ty mẹ và công ty con hoặc giữa các công ty con của MNC với nhau. Các công ty
con của MNC hoạt động trên phạm vi của nhiều quốc gia khác nhau do đó các giao
dịch nội bộ của các MNC diễn ra rất đa dạng và phức tạp với số lượng ngày càng nhiều
và giá trị ngày càng lớn. Các hoạt động này được thực hiện thông qua các giao dịch
như: giao dịch chuyển giao nội bộ tài sản cố định hữu hình hay tài sản cố định vô
hình; chuyển giao nguyên vật liệu, thành phẩm, thông qua sự dịch chuyển nguồn vốn
như cho vay và đi vay nội bộ; qua việc tài trợ và nhận tài trợ về các nguồn lực như tài
lực và nhân lực, qua sự cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn quản lý; qua các
chi phí cho việc quảng cáo và chi phí nghiên cứu phát triển.

Trong thực tế, các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ thường được các nhà quản lý của
MNC định giá sao cho tối thiểu hóa tổng số thuế phải nộp trên bình diện toàn tập đoàn,
đây chính là hành vi chuyển giá. Hành vi này không chỉ tác động lên kết quả hoạt động
của MNC mà còn tác động lên ngân sách quốc gia. Để hạn chế hành vi chuyển giá, các
quốc gia cần áp dụng nguyên tắc dựa trên nguyên lý giá thị trường ALP (The Arm’s –
Length Principle) trong việc định giá các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ nhằm đảm bảo
tính công bằng trong thương mại. Nguyên tắc ALP chính là cơ sở cho các nghiệp vụ mua
bán, trao đổi hàng hóa và cung cấp dịch vụ giữa các quốc gia. Nguyên tắc này đòi hỏi các
nghiệp vụ mua bán nội bộ trong các MNC phải được thực hiện như các nghiệp vụ mua
bán diễn ra giữa các bên độc lập với nhau nhằm thể hiện được tính khách quan của quan
hệ thị trường.

2. Các phương pháp định giá chuyển giao

Trước khi đi vào các phương pháp định giá chuyển giao, chúng ta cần biết định giá
chuyển giao là gì?

1
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Định giá chuyển giao là việc sử dụng các phương pháp để xác định giá cả của các
nghiệp vụ chuyển giao trong nội bộ một MNC phù hợp với thông lệ quốc tế và được chấp
nhận bởi các quốc gia nơi mà các công ty con của MNC đang hoạt động.

Việc định giá chuyển giao là cần thiết cho công tác quản trị của các thành viên trong
các MNC, nhưng khi giá chuyển giao nội bộ cao hơn hay thấp hơn giá thị trường thì xảy
ra hoạt động chuyển giá, đồng thời đây cũng là phương pháp giúp chính phủ xác định
xem các MNC có thực hiện chuyển giá hay không.

2.1. Phương pháp giá tự do có thể so sánh được (Comparable Uncontrolled Price
Method - CUP)

Nội dung: so sánh giá cả phải trả cho các hàng hoá hoặc dịch vụ được chuyển giao
trong một nghiệp vụ chuyển giao có kiểm soát với giá cả phải trả cho các hàng hoá và
dịch vụ chuyển giao trong một nghiệp vụ chuyển giao tự do có thể so sánh được.

Cơ sở: thực hiện nguyên tắc giá thị trường (tức là dựa trên quan hệ không quen biết).

Nếu có sự khác biệt không lớn lắm giữa các nghiệp vụ chuyển giao của bên có liên
kết với bên không liên kết, có thể làm ảnh hưởng đến giá cả giao dịch như: chất lượng
hàng hoá, nhãn hiệu hàng hoá, điều kiện giao hàng, thời hạn chuyển giao, quan hệ thanh
toán, có thể thực hiện phương pháp “CUP được điều chỉnh”. Phương pháp CUP có điều
chỉnh sẽ không thực hiện được khi có những sự khác biệt trong các nghiệp vụ chuyển
giao giữa các bên có liên kết và không liên kết mà việc điều chỉnh rất khó thực hiện, hoặc
không thực hiện được. Những sự khác biệt đó bao gồm: khác biệt về chất lượng sản
phẩm; khác biệt thị trường về mặt địa lý; khác biệt về cấp độ thị trường; khác biệt về số
lượng và loại tài sản vô hình liên quan đến việc bán hàng.

2.2. Phương pháp cộng thêm chi phí (Cost plus method - CPM)

Phương pháp giá vốn cộng thêm chi phí dựa vào giá vốn (hoặc giá thành) của sản
phẩm do doanh nghiệp mua vào từ bên độc lập để xác định giá bán ra của sản phẩm đó
cho bên liên kết.

2
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Giá bán ra của sản phẩm cho bên liên kết được xác định trên cơ sở lấy giá vốn (hoặc
giá thành) của sản phẩm cộng (+) lợi nhuận gộp.

Lợi nhuận gộp được tính theo tỷ suất lợi nhuận gộp trên giá vốn (hoặc giá thành) sản
phẩm bán ra, phản ánh mức lợi nhuận hợp lý tương ứng với chức năng hoạt động của
doanh nghiệp và điều kiện thị trường. Mức lợi nhuận này phải được tính toán sao cho giá
cả chuyển giao trong nghiệp vụ này có thể so sánh căn bản với giá thị trường trong các
nghiệp vụ mua bán chuyển giao giữa một công ty là thành viên của MNC và một công ty
độc lập hoặc là giao dịch giữa hai công ty hoàn toàn độc lập với nhau.

Điều quan trọng là tính phần lợi nhuận tăng thêm bao nhiêu là hợp lý. Phần lợi nhuận
tăng thêm này bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:

• Nếu công ty này chỉ sản xuất và thực hiện mua bán theo hợp đồng cho chỉ mỗi
công ty mẹ và không gia công cho bất cứ công ty nào khác thì phần lợi nhuận tăng thêm
này sẽ được tính theo một tỷ lệ trên giá vốn sao cho hợp lý.

• Nếu công ty sản xuất ra sản phẩm vừa bán cho công ty mẹ và công ty độc lập khác
thì phần lợi nhuận tăng thêm sẽ được phân bổ theo tỷ lệ tổng vốn tham gia vào quá trình
sản xuất sản phẩm. Bên cạnh đó, còn phải so sánh giá cả hàng hóa dịch vụ trong nghiệp
vụ mua bán nội bộ và nghiệp vụ mua bán với công ty độc lập.

• Thêm vào đó, một số yếu tố như chức năng hoạt động của cơ sở kinh doanh sẽ kéo
theo một số các chi phí kèm theo sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ lãi gộp .

• Các nghĩa vụ thực hiện hợp đồng như các ràng buộc giao hàng về thời gian, số
lượng và chất lượng sản phẩm, lưu kho, lưu bãi…

Phương pháp này thường được áp dụng trong một số trường hợp sau:

• Đối với công ty sản xuất, chế biến, lắp ráp, chế tạo và bán cho các bên liên kết, gia
công chế biến và phân phối.

3
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

• Giao dịch giữa các bên liên kết thực hiện hợp đồng liên doanh, hợp đồng hợp tác
kinh doanh để sản xuất, lắp ráp, chế tạo, chế biến sản phẩm hoặc thực hiện các thỏa thuận
về cung cấp các yếu tố đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra.

• Giao dịch cung cấp dịch vụ các bên liên kết.

2.3. Phương pháp giá bán lại (Resale Price Method –RPM)

Phương pháp xác định giá bán lại dựa vào giá bán lại (hay giá bán ra) của sản phẩm
do doanh nghiệp bán cho bên độc lập để xác định giá mua vào của sản phẩm đó từ bên
liên kết.

Giá mua vào của sản phẩm từ bên liên kết được xác định trên cơ sở giá bán ra của sản
phẩm trong các giao dịch độc lập trừ (-) lợi nhuận gộp trừ (-) các chi phí khác được tính
trong giá sản phẩm mua vào (nếu có) (ví dụ: thuế nhập khẩu, phí hải quan, chi phí bảo
hiểm, vận chuyển quốc tế).

Tỷ suất lợi nhuận gộp trên giá bán ra (doanh thu thuần) được xác định bằng giá trị
chênh lệch giữa giá bán ra (doanh thu thuần) và giá vốn sản phẩm mua vào chia cho (:)
giá bán ra (doanh thu thuần). Trường hợp doanh nghiệp có chức năng là đại lý phân phối
không có quyền sở hữu sản phẩm và được hưởng hoa hồng đại lý theo tỷ lệ phần trăm
(%) trên giá bán của sản phẩm thì tỷ lệ đó được coi là tỷ suất lợi nhuận gộp trên giá bán
ra (doanh thu thuần).

Các yếu tố ảnh hưởng trọng yếu đến tỷ suất lợi nhuận gộp trên giá bán ra (doanh thu
thuần) như:

• Các chi phí phản ánh chức năng của doanh nghiệp (ví dụ: đại lý phân phối độc
quyền, thực hiện các chương trình quảng cáo, khuyến mại, bảo hành...);

• Chủng loại, quy mô, khối lượng, thời gian quay vòng của sản phẩm mua vào để
bán lại và tính chất hoạt động của giao dịch trên thị trường (ví dụ: bán buôn, bán lẻ, ...);

4
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

• Phương pháp hạch toán kế toán (tức là phải đảm bảo các yếu tố cấu thành lợi
nhuận gộp và doanh thu của giao dịch liên kết và giao dịch độc lập là tương đương nhau
hoặc cùng được áp dụng chung các chuẩn mực kế toán).

2.4. Phương pháp chiết tách lợi nhuận (Profit Split Method - PSM)

Phương pháp PSM được sử dụng trong những trường hợp, các MNC có mối liên kết
mua bán qua lại quá chặt chẽ, các giao dịch với khối lượng lớn và phức tạp (với những
trường hợp này, các phương pháp như CUP, RPM tỏ ra không hiệu quả).

Phương pháp này dựa vào lợi nhuận thu được từ một giao dịch liên kết, tổng hợp của
nhiều thành viên trong MNC thực hiện, sau đó thực hiện tính toán lợi nhuận cho từng
thành viên tham gia liên kết giống như cách các bên giao dịch độc lập phân chia lợi
nhuận trong những điều kiện tương đương.

Các giao dịch tổng hợp thường là các giao dịch đặc thù, duy nhất bao gồm nhiều giao
dịch liên kết có liên quan chặt chẽ về các đặc tính sản phẩm.

Ví dụ: Một công ty X là công ty độc lập ở Việt Nam, có liên kết với công ty Y là
thành viên của tập đoàn sản xuất xe ô tô. Công ty Y sẽ chuyển đầu vào cho công ty X lắp
ráp và hoàn thiện sản phẩm. Sau khi hoàn thành sản phẩm, sẽ được bán trong nước ( Việt
Nam) bởi công ty X và bán lại cho một công ty Z ( là thành viên của MNC tại một quốc
gia khác).

Dựa vào mối liên hệ giữa các bên tham gia thì có hai cách tính cho phương pháp chiết
tách lợi nhuận như sau:

Cách 1: trước hết ta tính tỷ lệ góp vốn (chi phí), sau đó ta tổng hợp lợi nhuận từ giao
dịch tổng hợp rồi phân chia cho mội bên liên kết theo tỷ lệ góp vốn.

Cách 2: phân chia lợi nhuận theo hai bước sau:

• Bước 1: Trước hết phân chia lợi nhuận cơ bản cho mỗi bên tham gia giao dịch liên
kết tương ứng với chức năng hoạt đông của mình. Sở dĩ gọi là lợi nhuận cơ bản vì nó

5
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

chưa tính đến các yếu tố đặc thù và duy nhất (ví dụ: độc quyền sở hữu hoặc sử dụng tài
sản vô hình hoặc quyền sở hữu trí tuệ).

Phần lợi nhuận cơ bản này được tính theo tỷ suất lợi nhuận gộp hoặc tỷ suất sinh lợi
tương ứng với giá trị phù hợp nhất thuộc biên độ giá thị trường chuẩn theo tỷ suất lợi
nhuận gộp.

• Bước 2: Phân chia lợi nhuận phụ trội cho mỗi bên tham gia giao dịch liên kết
tương ứng với tỷ lệ đóng góp liên quan đến tổng lợi nhuận phụ trội (bằng với tổng lợi
nhuận thu được trừ đi tổng lợi nhuận cơ bản đã phân chia ở bước 1). Phần lợi nhuận phụ
trội này phản ánh lợi nhuận của giao dịch liên kết tổng hợp mà cơ sở kinh doanh thu được
ngoài phần lợi nhuận cơ bản nhờ các yếu tố đặc thù, duy nhất.

Phần lợi nhuận phụ trội của mỗi bên bằng tổng lợi nhuận phụ trội nhân với tỷ lệ đóng
góp các chi phí hoặc tài sản dưới đây của mỗi bên:

 Chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm

 Giá trị (sau khi đã trừ đi khấu hao) của tài sản vô hình hoặc quyền sở hữu trí
tuệ được sử dụng để sản xuất, kinh doanh sản phẩm.

Trong thực tế phương pháp chiết tách lợi nhuận thường được áp dụng cho các trường
hợp các bên liên kết cùng tham gia nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới hoặc phát triển
sản phẩm là tài sản vô hình độc quyền hoặc các giao dịch trong quy trình sản xuất, kinh
doanh chuyển tiếp giữa các bên liên kết từ khâu nguyên vật liệu đến thành phẩm cuối
cùng để lưu thông sản phẩm gắn liền với việc sỡ hữu hoặc quyền sỡ hữu trí tuệ duy nhất.

2.5. Phương pháp so sánh lợi nhuận (Comparable profit method - CPM)

Phương pháp so sánh lợi nhuận là phương pháp mở rộng của phương pháp giá bán lại
và phương pháp giá vốn cộng lãi. Phương pháp này dựa vào tỷ suất sinh lời của sản phẩm
trong các giao dịch độc lập được chọn để so sánh làm cơ sở xác định tỷ suất sinh lời của
sản phẩm trong giao dịch liên kết khi các giao dịch này có điều kiện giao dịch tương
đương nhau. Phương pháp này không cho ra kết quả về giá mà tính ra được thu nhập

6
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

thuần trước thuế là cơ sở tính thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và được áp dụng với
một trong các điều kiện sau:

• Không có sự khác biệt về điều kiện giao dịch khi so sánh giữa giao dịch độc lập và
giao dịch liên kết gây ảnh hưởng trọng yếu đến tỷ suất sinh lời;

• Trường hợp có các khác biệt ảnh hưởng trọng yếu đến tỷ suất sinh lời nhưng các
khác biệt này đã được loại trừ bằng cách xác định giá trị bằng tiền của các khác biệt trọng
yếu đó để điều chỉnh, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể có thể tăng hoặc giảm giá trị nhằm
loại trừ các khác biệt trọng yếu đó.

Các yếu tố ảnh hưởng trọng yếu đến tỷ suất sinh lời như:

• Các yếu tố về tài sản, vốn và chi phí sử dụng cho việc thực hiện chức năng chính
của doanh nghiệp (ví dụ: sản xuất, chế biến trên cơ sở sử dụng máy móc do doanh nghiệp
đầu tư có khả năng thu lợi nhuận cao hơn so với việc sản xuất, chế biến trên cơ sở sử
dụng máy móc do cơ sở khác cho thuê để gia công);

• Tính chất ngành nghề hoạt động, nhóm sản phẩm và công đoạn sản xuất hoặc tiêu
thụ (ví dụ: thành phẩm được làm từ nguyên vật liệu thô hoặc từ bán thành phẩm);

• Phương pháp hạch toán kế toán và cơ cấu chi phí của sản phẩm (ví dụ: sản phẩm
đang trong giai đoạn khấu hao nhanh so với khấu hao thông thường).

2.6. Phương pháp chuyển giao lợi nhuận ròng (Transactional Net Margin Method -
TNMM)

Theo phương pháp này thì lợi nhuận thu được từ các bên liên kết sau khi đã trừ đi các
định phí và biến phí liên quan, được xem xét theo tỷ lệ phần trăm của một khoản mục cơ
sở nào đó, ví dụ là doanh số bán hàng, tổng giá vốn hàng bán ra hay tổng giá trị tài sản…
thích hợp nhất là khi lợi nhuận này được so sánh với lợi nhuận của các hoạt động giao
dịch độc lập khác có thể so sánh được của cùng công ty mà chúng ta đang đề cập đến.

Trong trường hợp nếu không tồn tại các giao dịch độc lập có thể so sánh đối với công
ty con của MNC thì ta có thể lấy lợi nhuận thu được trong các chuyển giao có thể so sánh

7
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

được của hai công ty không liên kết khác làm cơ sở. Trong một số trường hợp cần phải áp
dụng các điều chỉnh mang tính định lượng cho các khác biệt về mặt vật chất giữa các
chuyển giao liên kết và các chuyển giao độc lập. Do phương pháp này tập trung vào phân
tích lợi nhuận phát sinh từng nghiệp vụ chuyển giao một cách riêng lẻ, nên phương pháp
này sẽ bị gặp khó khăn khi các nghiệp vụ phát sinh có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ
với nhau. Các chuyển giao mang tính chất đa dạng và phức tạp sẽ khó tìm được các giao
dịch tương ứng để có thể so sánh được

3. Chuyển giá

3.1. Định nghĩa

Chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài
sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị
trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia (Multi Nations Company)
trên toàn cầu.

3.2. Các hình thức chuyển giá

Tùy vào hoàn cảnh kinh doanh khác nhau mà các MNC sử dụng các biện pháp khác
nhau để thực hiện chuyển giá nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu.

a. Chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn

Đầu tư dưới dạng liên doanh: việc nâng giá trị tài sản đóng góp sẽ làm cho phần vốn
góp của bên phía có ý nâng giá trị góp vốn tăng, nhờ đó, sự chi phối trong các quyết định
liên quan đến hoạt dộng của dự án liên doanh sẽ gia tăng và mức lời được chia sẽ tăng.
Ngoài ra, khi dự án kết thúc hoạt động thì tỷ lệ trị giá tài sản được chia cao hơn.

Đối với các công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài thì việc nâng tài sản góp vốn sẽ
giúp họ tăng mức khấu hao trích hàng năm, làm tăng chi phí đầu vào. Việc tăng mức
khấu hao tài sản cố định sẽ giúp chủ đầu tư:

• Nhanh hoàn vốn đầu tư cố định, nhờ đó giảm thiểu rủi ro đầu tư.

• Giảm mức thuế TNDN phải đóng cho nước tiếp nhận đầu tư

8
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

b. Chuyển giá bằng cách nâng khống trị giá công nghệ, thương hiệu…(tài sản vô

hình)

Việc định giá chính xác được tài sản vô hình của các nhà đầu tư hết sức khó, lợi dụng
việc này mà các MNC chủ ý thổi phồng phần góp vốn bằng thương hiệu, công thức pha
chế, chuyển giao công nghệ… nhằm tăng phần góp vốn của mình lên. Một số trường hợp
phía góp vốn bằn tài sản vô hình có xuất trình gấy chứng nhận của công ty kiểm toán
nhưng độ tin cậy, trung thực của các giấy chứng nhận này rất khó kiểm định.

c. Nhập khẩu nguyên vật liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài, hoặc từ công ty đối
tác trong liên doanh với giá cao

Đây là hình thức chuyển một phần lợi nhuận ra nước ngoài thông qua việc thanh toán
tiền hàng nhập khẩu. Ngoài ra, việc mua hàng nhập khẩu với giá đắt làm chi phí sản xuất
tăng, dẫn tới lợi nhuận chịu thuế TNDN giảm.

d. Chuyển giá thông qua hình thức nâng chi phí các đơn vị hành chính và quản

Các công ty mẹ thường sử dụng các hợp đồng tư vấn hay thuê trung gian. Một số đối
tác liên doanh còn bị ép nhận chuyên gia với chi phí rất cao nhưng hiệu quả lại thấp. Chi
phí này phía liên doanh nước chủ nhà gánh chịu.

Một số công ty thuê người quản lý doanh nghiệp FDI với lương cao, ngoài ra còn phải
trả một khoản tiền lớn cho công ty nước ngoài cung cấp nhà quản lý. Ở một số trường
hợp cũng có hiện tượng chuyển giá ở khâu này khi công ty cung cấp nguồn nhân lực cũng
là công ty con của cùng một tập đoàn.

Một số trường hợp còn thực hiện chuyển giá thông qua hình thức đào tạo ở nước
ngoài: cử chuyên viên, công nhân sang học tập, thực tập tại công ty mẹ với chi phí cao.

Một hình thức chuyển giá của công ty có vón FDI là trả lương, chi phí cho chuyên gia
tư vấn được gởi đến từ công ty mẹ. Loại hình tư ván này rất khó xác định số lượng và
chất lượng để xác định chi phí cao hay thấp. Lợi dụng điều này, nhiều công ty FDI thực

9
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

hiện hành vi chuyển giá mà thực chất là chuyển lợi nhuận về nước dưới danh nghĩa là phí
dịch vụ tư vấn.

e. Thực hiện chuyển giá thông qua việc điều tiết giá mua bán hàng hóa

Khi thuế nhập khẩu cao thì công ty mẹ bán nguyên liệu, hàng hóa với giá thấp nhằm
tránh nộp thuế nhập khẩu nhiều. Trong trường hợp này, công ty mẹ sẽ tăng cường hoạt
động tư vấn, huấn luyện, hỗ trợ tiếp thị với giá cao để bù đắp lại hoặc mua lại sản phẩm
với giá thấp. Đối với hàng hóa nhập khẩu mà thuế suất thấp, thì công ty ký hợp đồng
nhập khẩu với giá cao nhằm nâng chi phí để tránh thuế.

f. Chuyển giá thông qua hình thức tài trợ bằng nghiệp vụ vay từ công ty mẹ

Bằng hình thức này, các công ty con tạo ra cơ cấu vốn và nguồn vốn bất hợp lý như
dùng nguồn vốn vay từ công ty mẹ để tài trợ cho tài sản cố định và tài sản đầu tư dài hạn
mà không tăng vốn góp và vốn chủ sở hữu nhằm đẩy chi phí hoạt động tài chính lên cao
như chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí lãi vay… và chuyển một phần lợi nhuận về nước
dưới dạng lãi vay, chi phí bảo lãnh vay vốn để tránh thuế, tránh lỗ do chênh lệch tỷ giá về
sau.

g. Chuyển giá thông các trung tâm tái tạo hóa đơn

Trung tâm tái tạo hóa đơn đóng vai trò người trung gian giữa công ty mẹ và
các công ty con. Hàng hóa trên chứng từ hóa đơn thì được bán từ công ty nơi sản
xuất hàng hóa qua trung tâm tái tạo hóa đơn và sau đó thì trung tâm này lại bán lại cho
công ty phân phối bằng cách xuất hóa đơn và chứng từ kèm theo. Thông qua việc này sẽ
định vị lại loại ngoại tệ của cả đơn vị sản xuất và trung tâm tái tạo hóa đơn. Nhưng trên
thực tế, hàng hóa được chuyển giao trực tiếp từ công ty sản xuất qua thẳng công ty
phân phối mà không qua trung tâm tái tạo hóa đơn. Hình thức này thường xảy ra trong
ngành dược phẩm.

3.3. Các yếu tố thúc đẩy các MNC chuyển giá

a. Các yếu tố bên trong

10
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Trong một số trường hợp khi MNC phạm phải các sai lầm trong kế hoạch kinh doanh,
sai lầm trong việc nghiên cứu và đưa sản phẩm mới vào thị trường, các chi phí quảng
cáo, quảng bá sản phẩm quá cao và hậu quả là tình trạng thua lỗ của MNC tại chính quốc
hay của các công ty thành viên trên các quốc gia khác. Vì thế, để có một hình ảnh đẹp về
tình hình tài chính trước các cổ đông và các bên hữu quan khác, thì chuyển giá là một giải
pháp để có thể thực hiện được ý đồ trên. Chuyển giá giúp các MNC chia sẽ việc thua lỗ
với các thành viên, nhờ vậy các khoản thuế phải nộp giảm xuống và tình hình kinh doanh
trở nên sáng sủa hơn một cách giả tạo vi phạm pháp luật các quốc gia.

Chiếm lĩnh được thị trường là một trong những tham vọng của các MNC. Nhưng để
làm được điều đó, MNC phải đánh bật được các đối thủ của mình, đồng thời chiếm toàn
bộ quyền kiểm soát và quyền sở hữu công ty. MNC thực hiện việc này bằng cách tăng
cường các hoạt động quảng cáo, quảng bá sản phẩm trong giai đoạn mới thâm nhập thị
trường, làm cho MNC bị lỗ nặng và kéo dài. Bằng nguồn lực tài chính dồi dào của mình,
các MNC thực hiện hành vi chuyển giá bất hợp pháp để kéo dài tình trạng thua lỗ nhằm
chiếm lấy quyền kiểm soát và quyền quản lý công ty. Tồi tệ hơn là đẩy các đối tác ra khỏi
hoạt động kinh doanh và chiếm toàn bộ quyền kiểm soát cũng như sở hữu công ty. Sau
khi chiếm lĩnh được thị trường, các MNC thực hiện nâng giá sản phẩm để bù đắp cho
phần lỗ lúc trước.Tình trạng này thường thấy ở các nước đang phát triển như Việt Nam,
khi mà trình độ quản lý còn nhiều yếu kém.

Lợi dụng các đặc quyền, ưu đãi mà các quốc gia đưa ra trong chính sách kêu gọi đầu
tư của nước mình, MNC xem công ty con đặt tại các quốc gia này như một nơi tập trung
toàn bộ lợi nhuận của MNC, thực hiện hành vi chuyển giá để lại hậu quả xấu cho nước
tiếp nhận đầu tư.

Ngoài ra, các MNC còn thực hiện việc chuyển giá nhằm giảm thiểu rủi ro khi giao
dịch các sản phẩm và dịch vụ có tính đặc thù cao, độc quyền và tính bảo mật cao như
trong các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, y dược …

b. Các yếu tố bên ngoài

11
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Thuế: Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình, các MNC luôn tìm kiếm một lợi
thế từ thuế suất thuế TNDN của các quốc gia có mức thuế suất khác nhau bằng các hành
vi chuyển giá. Các thủ thuật thường sử dụng là nâng giá mua đầu vào các nguyên vật liệu,
hàng hóa và định giá bán ra hay giá xuất khẩu thấp tại các công ty con đóng tại các quốc
gia có thuế suất thuế TNDN cao. Nhờ vậy, các MNC đã chuyển một phần lợi nhuận từ
quốc gia có thuế suất thuế TNDN cao sang quốc gia có thuế suất thuế TNDN thấp, như
thế các MNC đã thực hiện được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình. Nói tóm lại, sự
khác biệt về thuế suất thuế TNDN là động cơ lớn thúc đẩy chuyển giá.

Tỷ giá:

• Với mục tiêu bảo toàn vốn ban đầu theo nguyên tệ, MNC rút vốn đầu tư ở quốc
gia mà họ kỳ vọng vào việc đồng tiền nước đó sẽ yếu đi trong tương lai. Như vậy lúc này
ngoài lợi nhuận thu được, MNC còn thu được một khoản lợi nhuận chênh lệch do sự biến
động có lợi về tỷ giá.

• Với mục tiêu giảm rủi ro về tỷ giá, MNC sẽ thanh toán những khoản công nợ sớm
nếu họ dự báo rằng đồng tiền mà quốc gia họ đầu tư sẽ mất giá trong tương lai.

Hoạt động liên doanh liên kết: Nhằm tăng cường tỷ lệ vốn góp trong hoạt động liên
doanh liên kết, MNC định giá thật cao các yếu tố đầu vào từ công ty mẹ đẻ nắm quyền
quản lý.

Lạm phát: MNC sẽ tiến hành chuyển giá ở các nước có tỷ lệ lạm phát cao để bảo toàn
số vốn đầu tư và lợi nhuận trong điều kiện đồng tiền nước đang đầu tư bị mất giá.

Tình hình kinh tế - chính trị: MNC sẽ thực hiện chuyển giá để chống lại các tác động
bất lợi của các chính sách kinh tế ở nước đang đầu tư, mặt khác hoạt động chuyển giá làm
giảm các khoản lãi dẫn đến giảm áp lực đòi tăng lương của lực lượng lao động.

4. Các tác động của chuyển giá

4.1. Dưới góc độ các MNC

a. Tác động tích cực

12
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Được hưởng lợi từ chính sách ưu đãi đầu tư (như thuế suất, lĩnh vực đầu tư…) tạo
điều kiện cho các MNC dễ dàng trong việc thực hiện giảm thiểu trách nhiệm ở quốc gia
MNC đang đầu tư.

Thực hiện chuyển giá, các MNC sẽ bảo toàn được nguồn vốn đầu tư, nhanh chóng có
được dòng ngân lưu cho các cơ hội đầu tư khác.

Thực hiện chuyển giá sẽ giúp các MNC nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường ở các
nước đang đầu tư.

Tránh khỏi các rủi ro trong nghiên cứu sản phẩm, giảm chi phí về rủi ro thị trường
tiêu thụ và các yếu tố đầu vào.

b. Tác động tiêu cực

Nếu bị các quốc gia phát hiện và thực hiện chế tài thì các MNC phải chịu một khoản
phạt rất lớn, bị rút giấy phép kinh doanh tại quốc gia đó hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng
trên thương trường quốc tế dẫn tới sự chú ý nhiều và chặt chẽ hơn của các cơ quan thuế ở
những nước MNC đi đầu tư sau đó.

4.2. Dưới góc độ các quốc gia liên quan

a. Dưới góc độ các quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư

Tác động tích cực: Khi có hoạt động chuyển giá ngược, do nước thu hút đầu tư có
mức thuế thu nhập thấp làm tăng thu nhập cho nước tiếp nhận vốn.

Tác động tiêu cực:

• Cơ cấu vốn của nền kinh tế ở quốc gia tiếp nhận vốn sẽ bị đột ngột thay đổi do
việc thực hiện hành vi chuyển giá của các MNC làm các luồng vốn chảy vào nhanh
mạnh, sau đó lại có xu hướng chảy ra trong thời gian ngắn. Hậu quả là tạo ra một bức
tranh kinh tế bị sai lệch ở các quốc gia này trong các thời kì khác nhau.

• Đối với các quốc gia được coi là thiên đường về thuế, họ là người được hưởng lợi
từ hoạt động chuyển giá trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn, họ phải đương đầu với các

13
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

khó khăn tài chính khi các MNC thoái vốn do các thu nhập không bền vững trước đây
trong ngắn hạn không phản ánh chính xác sức mạnh của nền kinh tế.

• Với việc thực hiện hành vi chuyển giá và thao túng thị trường, chính phủ các nước
tiếp nhận đầu tư sẽ khó khăn hơn trong việc hoạch định chính sách điều tiết nền kinh tế vĩ
mô và khó khăn trong việc thúc đẩy các ngành sản xuất trong nước phát triển.

• Hoạt động chuyển giá sẽ phá vỡ cán cân thanh toán quốc tế và các kế hoạch kinh
tế của các quốc gia tiếp nhận đầu tư, chính vì thế nếu không kiểm soát tốt sẽ dễ dẫn tới lệ
thuộc vào nền kinh tế của chính quốc, về lâu dài có thể dẫn tới lệ thuộc về chính trị.

b. Dưới góc độ các quốc gia xuất khẩu đầu tư

Tác động tích cực: Nước xuất khẩu vốn thu được ngoại tệ nhiều hơn nhờ đó góp phần
cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế. Sự hoạt động của các công ty
mẹ tốt hơn về hình thức thì cũng tác động tốt hơn đến hiệu quả kinh tế xã hội: đóng góp
nhiều thuế hơn cho nhà nước, tác động tốt tới tăng trưởng GNP của nước xuất khẩu vốn
đầu tư.

Tác động tiêu cực:

• Nếu thuế suất ở các quốc gia tiếp nhận đầu tư thấp hơn thuế suất ở chính quốc, sẽ
làm cho các nước xuất khẩu đầu tư bị mất cân đối trong kế hoạch thuế của nước này do
việc thất thu một khoản thu nhập từ thuế.

• Mục tiêu quản lý nền kinh tế vĩ mô ở các quốc gia này sẽ gặp một số khó khăn
nhất định do việc các dòng vốn đầu tư dịch chuyển không theo ý muốn quản lý của chính
phủ.

14
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

B. THẾ GIỚI

1. Bức tranh về chuyển giá toàn cầu

1.1. Chênh lệch thuế - điểm tựa cho chuyển giá

Như chúng ta đã biết, các công ty đa quốc gia thường tận dụng chính sách thuế khác
nhau giữa các quốc gia để thực hiện hành vi chuyển gia nhằm tối thiểu hóa số tiền thuế
doanh nghiệp phải nộp. Sự chênh lệch thuế này là nguyên nhân chính dẫn đến hành vi
chuyển giá, do đó muốn xem xét thực trạng chuyển giá thế giới thì ta phải thông qua thực
trạng thuế của các nước trên thế giới.

Hiện nay chính sách thuế giữa các quốc gia có sự chênh lệch rất lớn, chính vì điều đó
đã tạo môi trường thuận lợi để MNC thực hiện hành vi chuyển giá. Có rất nhiều quốc gia
ban hành một chính sách thuế vô cùng ưu đãi nhằm thu hút dòng vốn quốc tế chảy vào
nước mình, đặc biệt ở một số quốc gia thì mức thuế áp dụng là vô cùng thấp mà chúng ta
thường gọi là “thiên đường thuế”. Cụ thể như sau:

• Belize: không có thuế TNDN

• Bermuda: không đánh thuế trên thu nhập của nước ngoài chuyển về

• Hongkong: áp dụng mức thuế TNDN là 16.5% (2009)

• Quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ: cung cấp miễn 90% thuế thu nhập từ Mỹ

Trong khi đó thì các quốc gia còn lại đánh mức thuế suất tương đối cao, cụ thể như:

• Mỹ: 40%

• Anh: 28%

• Việt Nam: 25%

• Brazil: 34%

• Ấn Độ : 33.99%

• Trung Quốc: 25%

15
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

• Đức : 29.44%

(Nguồn: KPMG’s Corporate and Indirect Tax Rate Survey 2009)

Chính vì những chênh lệch to lớn đó đã thúc đẩy các MNC tiến hành mở các chi
nhánh, thậm chí là thành lập trụ sở chính tại các quốc gia này để hưởng lợi về thuế (bao
gồm cả thực hiện hành vi chuyển giá). Ta xét tình hình đầu tư của các MNC tại một số
“thiên đường thuế” để thấy rõ vấn đề này:

• Bang Delaware: New York Bank, CityBank, Chase Manhattan Bank… có những
cao ốc lớn kinh khủng tại New York. Người ta sẽ nghĩ đó là thánh địa của các đại gia
ngân hàng này. Nhưng thật ra họ đều đăng ký tại Delaware. Theo tờ nguyệt san Fortune,
trong 500 đại công ty thì gần như đến 300 nhận Delaware làm quê hương thánh tổ. Còn
New York Stock Exchange thì có hơn 45% công ty có hộ khẩu tại đây. Ta thấy mặc dù
đây chỉ là một bang của nước Mỹ với cư dân khoảng trên dưới 1 triệu người mà có đến
gần 170.000 công ty đến khai nghiệp.

• British Virgin Islands (BVI) là một quần đảo trên vùng biển Caribê với diện tích
vài trăm km2 và dân số khoảng 22.000 người. Mặc dù với diện tích và số dân rất nhỏ bé
nhưng có tới hơn 800.000 doanh nghiệp nước ngoài đã được thành lập tại BVI. Một nửa
trong số này vẫn đang hoạt động. Nguồn thu từ việc cấp phép thành lập và chi phí duy trì
công ty chiếm hơn một nửa GDP của BVI, tạo cho thu nhập bình quân đầu người tại BVI
lên đến gần 40.000 USD/năm.

• Liechtenstein là một quốc gia nhỏ ở Tây Âu với diện tích 160km2, nằm giữa Thụy
Sĩ và Áo, dân số khoảng 35.000 người. Liechtenstein trở thành nơi thu hút nhiều nguồn
tiền của thế giới bởi vì các công ty rất được ưu đãi về thuế (mức thuế tối đa là 18%, so
với mức trung bình của châu Âu có thể lên tới 30%). Bên cạnh đó, nhiều quy định dễ dãi
khác đã khuyến khích gần 74.000 công ty đa quốc gia trên thế giới đăng ký hoạt động ở
Liechtenstein - thường chỉ tồn tại dưới hình thức một địa chỉ bưu điện.

Chính việc mở chi nhánh hay thậm chí là đặt trụ sở chính tại các “thiên đường thuế”
này đã tạo một bức bình phong hợp pháp cho các MNC tiến hành chuyển lợi nhuận của

16
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

các hoạt động đầu tư tại các quốc gia có mức thuế doanh nghiệp cao về đây để tiết kiệm
được một khoản thuế lớn phải nộp.

1.2. Tầm ảnh hưởng của các MNC

Tầm ảnh hưởng của các MNC đối với nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ, nhất
là trong bối cảnh toàn cầu hóa:

• Theo một thống kê đầu thiên niên kỷ này, trong 100 thực thể kinh tế lớn nhất thế
giới thì có tới 51 công ty là công ty xuyên quốc gia, chiếm 2/3 tổng giá trị thương mại thế
giới về hàng hóa và dịch vụ. Ngoài ra hệ thống phân phối, công nghệ và R&D của các
MNC cũng rất phát triển, 3/4 chi phí R&D của thế giới tới từ các công ty này. Ngoài ra
MNC còn có khả năng vận động hành lang chính phủ để họ đưa ra các chính sách có lợi
cho mình về thuế và môi trường.

• 100 tập đoàn lớn nhất kiểm soát 3.400 tỷ USD tài sản thế giới, trong đó 40% tài
sản này là nằm ngoài quốc gia của họ, 200 tập đoàn hàng đầu thế giới chiếm 28% hoạt
động kinh tế thế giới, 500 tập đoàn hàng đầu kiểm soát 70% thương mại thế giới, 80%
các khoản đầu tư nước ngoài, 30% GDP toàn cầu. Một ví dụ đơn giản, doanh thu của
ConocoPhilips - công ty lớn thứ 10 trong bảng xếp hạng Global Fortune 500, doanh thu
năm 2006 đã lớn gấp 2,7 lần GDP của Việt Nam trong cùng năm (xấp xỉ 61 tỉ USD).

1.3. Thực trạng chuyển giá

Chính do sự chênh lệch lớn về thuế giữa các quốc gia cùng với tầm ảnh hưởng vô
cùng to lớn của các MNC đã khiến chuyển giá trở thành vấn nạn của các quốc gia trên thế
giới. Điều này được thể hiện rõ qua các số liệu sau:

• Các quốc gia làm nơi trú ẩn thuế chiếm 1,2% dân số thế giới nhưng tập trung tới
26% tài sản và 31% lợi nhuận ròng của các tập đoàn đa quốc gia của Mỹ (Hines và Rice,
1994). Mỗi năm có khoảng 200.000 công ty mới được thành lập tại đây và con số tích lũy
lên đến hơn 3 triệu công ty (Baker, 2005).

17
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

• Khoảng 3.600 công ty lớn của Mỹ đặt nơi trú ẩn tại quần đảo Virgin và Barbados
(Rugman, 2000, pp. 22-23).

• Thống kê liên bang ước tính rằng, giữa năm 1990 và năm 1995, lên đến 400 tỷ vốn
có thể đã được đưa ra khỏi Nga vào Mỹ, Anh, Cyprus, Thụy Sĩ, Hà Lan và Đan Mạch
(Tikhomirov, 1997).

• Người ta ước tính rằng 11.500 tỷ USD tài sản ra nước ngoài cư trú tại nơi trú ẩn
thuế (The Observer, ngày 27 Tháng Ba năm 2005).

• Nghiên cứu của Christain Aid tháng 5/2008 cho thấy rằng 60 tỷ USD tiền thuế đã
biến mất từ việc chuyển giao tiền và hàng hóa .

1.4. Phản ứng của các quốc gia với chuyển giá

Từ những số liệu trên đã cho ta thấy, chính hoạt động chuyển giá làm cho nền kinh tế
thế giới hàng năm bị thiệt hại nặng. Do đó, việc ban hành các biện pháp nhằm ngăn chặn
hành vi chuyển giá đã trở thành ưu tiên hàng đầu trong chính sách của nhiều quốc gia.

• Gần đây, Việt Nam và Sri Lanka đã giới thiệu những qui định chuyển giá; Úc,
Thái Lan, Hàn Quốc, và Nhật Bản tất cả đều thấy có sự gia tăng trong hoạt động kiểm
toán; và cơ quan thuế Singapore đã báo hiệu rằng họ dự định gia tăng sự tuân thủ về
chuyển giá và những nỗ lực kiểm toán. Kết quả của điều này là cơ quan thuế khu vực
châu Á - Thái Bình Dương được xem như là cơ quan khó khăn nhất trên thế giới, với một
báo cáo gần đây đã đặt các quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong tốp 5 cho
các cơ quan thuế khó khăn nhất.

• Cục thuế của Nhật (NAT) đã xem xét tình hình chuyển giá theo một hướng khác
bằng cách thực hiện rất nhiều các đánh giá kiểm tra về thuế, chủ yếu đều tập trung vào
các công ty mẹ ở Nhật. Cụ thể trong năm 2005, một số các hoạt động của NAT nhằm vào
và phát hiện tình trạng chuyển giá của các tập đoàn lớn ở Nhật như Sony, Takeda, Mazda,
Mitsui, Mitsubishi… Cách tiếp cận này được NAT triển khai thực hiện trong bối cảnh
lịch sử lâu dài trong công cuộc chống chuyển giá. Cơ quan thuế Nhật Bản đã thực hiện
công việc kiểm soát lớn gấp đôi từ năm 2001. Có những cải tổ trong các chỉ thị của Cục

18
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

quản lý thuế dựa trên các hoạt động chuyển giá và dựa trên các tình huống nghiên cứu về
việc áp dụng thuế suất về định giá chuyển giao đưa ra vào ngày 22/10/2008 bao gồm các
điều khoản nhắm vào các đối tượng là chi phí quản lý, tài sản vô hình và dịch vụ…

Và thực tế đã chứng minh rằng, chỉ với vài biện pháp ban hành nhằm ngăn chặn
chuyển giá đã giúp nguồn thu thuế hằng năm tăng lên đáng kể:

• Trong giai đoạn 2003-2007, việc điều chỉnh giá chuyển giao đã mang lại kết quả là
tăng thuế doanh thu lên được 1.134 triệu bảng Anh, con số này ước tính là 2.114 triệu
bảng Anh trong giai đoạn 2007-2009 (Hansard, UK House of Commons Debates,
11/1/2010).

• Việc tăng cường kiểm toán giá chuyển giao đã giúp cơ quan thuế Australia tăng
thuế doanh thu hơn 2,5 tỷ AUD trong 5 năm 2001-2005 (Sydney Morning Herald,
31/8/2006).

2. Kinh nghiệm chuyển giá của Mỹ và Trung Quốc

2.1. Mỹ

a. Thực trạng

Theo một cáo buộc mới đây của Mỹ, hầu hết các công ty nước ngoài hoạt động kinh
doanh tại Mỹ đều không nộp thuế thu nhập liên bang. Từ năm 1998 tới 2005, khoảng 2/3
các công ty Mỹ và khoảng 68% các công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh tại Mỹ
cũng trốn thuế TNDN. Cơ quan thuế nội địa Mỹ (IRS) đã cáo buộc rằng tổng doanh thu
của các công ty này lên tới hàng nghìn tỷ đô la, nhưng các công ty nước ngoài đã lấy một
lượng lớn doanh thu từ các công ty con tại Mỹ và đã tránh được một khoản tiền thuế lên
đến 8 tỷ USD mỗi năm.

Trong những bằng chứng trình cho Ủy Ban Tài Chính Hoa Kỳ, Ủy viên IRS cho rằng:
những người nộp thuế đã chuyển những khoản lợi nhuận quan trọng ra nước ngoài bằng
các thao tác về giá chuyển nhượng giữa các bên liên quan. Do đó, thu nhập của một nhóm
ngành kinh tế thường được sinh ra ở những nơi có mức thuế suất thấp hay những nơi
pháp luật không quy định về thuế chặt chẽ hơn là ở Mỹ, làm giảm trách nhiệm pháp lý về

19
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

thuế thu nhập của các doanh nghiệp nước ngoài… Trong đó các ngành kỹ thuật công
nghệ cao và dược phẩm đang chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thông qua nhiều điều khoản
liên quan đến việc định giá chuyển giao các tài sản vô hình cho các bên liên quan. Thỏa
thuận phân chia chi phí (Cost-sharing agreement) là phương pháp được dùng cho hoạt
động này. Nói cách khác đó là sự chuyển dịch không đúng thu nhập ra nước ngoài. Vấn
đề chuyển giao vô hình và chuyển giá đã dẫn đến những thử thách quan trọng trong việc
tuân thủ luật thuế của các tập đoàn đa quốc gia. Mức độ vi phạm vấn đề này ngày càng
tăng. (Eversen 2006)

Hoạt động chống chuyển giá tác động trực tiếp tới tất cả các quốc gia, và gần như
luôn tồn tại ngầm trong môi trường hoạt động kinh tế quốc tế. Hoạt động này chỉ được
biết đến khi các cơ quan thuế của các quốc gia phát hiện và thực hiện những hình phạt
nghiêm khắc đối với các MNC thì mới được công bố rộng rãi ra công chúng.

Cục thuế Hoa Kỳ đã xem xét chính sách giá chuyển nhượng của công ty dược phẩm
toàn cầu, GlaxoSmithKline, đã cho thấy rằng tỷ lệ công ty chi trả cho dịch vụ marketing
mà chi nhánh của nó tại Mỹ đã cung cấp từ năm 1989 đến 1996 thì quá thấp, và vì vậy đã
làm giảm bớt thu nhập của Glaxo và tránh được một khoản thuế khoảng 5,2 tỷ USD
(Daily Telegraph, 8 January 2004). Sau 17 năm kiện tụng và đàm phán, Glaxo giải quyết
tranh chấp bằng cách chi trả 3,4 tỷ USD (Cơ quan thuế nội địa của Mỹ công bố,
11/9/2006; tờ The Time, 12/9/2006). Tuy nhiên, công ty này còn liên quan đến một vụ
tranh chấp 1,9 tỷ USD khác (theo tờ báo Wall Street, 23/5/2009). Cơ quan thuế Hoa Kỳ
cũng được đề nghị xem xét hành vi chuyển giá của một số tập đoàn lớn khác như Home
Depot, Limited Brands Inc., Kmart Corp., Gap Inc., Sherwin-Williams Inc., Tyson Foods
Inc., Circuit City Stores Inc., Stanley Works, Staples Inc., and Burger King Corp (Wall
Street Journal, 9/8/2002). Họ cũng kiện những công ty như Shell, Mobil Oil, Oxy USA,
Chevron, Conoco, BP Amoco, Texaco, Pennzoil, UPRC, Sun Oil, Kerr-McGee, và
Exxon vì được cho là giá bán năng lượng dưới mức giá cơ bản của thị trường và phải
hoàn trả 400 triệu USD.

20
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của MNC rất đa dạng. Các nghiệp vụ
mua bán diễn ra với khối lượng lớn và độ phức tạp cao, vì vậy mà tiếp cận các nghiệp vụ
nào có chứa đựng hành vi chuyển giá là rất khó. Tương tự rất khó xác định lợi nhuận nào
được tạo ra trên đất Mỹ và lợi nhuận nào được tạo ra bên ngoài một cách chính xác. Do
đặc điểm thuế suất thuế TNDN của Mỹ năm 2009 là 40%, khá cao so với một số nước
nên MNC có xu hướng chuyển lợi nhuận ra nước ngoài vì họ cho rằng thuế suất tại Mỹ
cao và chính phủ không xem xét hết các chi phí của họ.

b. Mỹ chống chuyển giá như thế nào?

Hoạt động chuyển giá ngày càng trở nên tinh vi và phức tạp hơn, ngay cả các quốc gia
có nền kinh tế mạnh và bề dày lịch sử kinh nghiệm quản lý thì cũng phải đương đầu với
hoạt động chuyển giá diễn ra từng ngày trong nền kinh tế. Nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế
lớn nhất thế giới, có kinh nghiệm quản lý kinh tế cũng như pháp luật về kinh tế tiến bộ so
với các quốc gia phát triển khác nhưng Mỹ cũng không là quốc gia ngoại lệ trong trường
hợp này.

Tháng 5/1992 Ủy ban ngân sách quốc hội Mỹ đã báo cáo trước thượng nghị viện về
sự gia tăng mạnh mẽ hoạt động chuyển giá của MNC là một trong những nguyên nhân
gây ra sự giảm thuế TNDN.

Một trong những đạo luật chống chuyển giá cơ bản và đầy đủ là IRS Sec 482. Đạo
luật này quy định nguyên tắc căn bản giá thị trường là cơ sở cho thực hiện định giá
chuyển giao giữa các MNC với nhau nhưng đồng thời cổ vũ cho việc vận dụng phương
pháp định giá chuyển giao trên cơ sở chiết tách lợi nhuận. Pháp luật của Mỹ quy định là
phần thu nhập được tạo ra trên lãnh thổ của Mỹ thì phải nộp thuế thu nhập cho dù là công
ty đa quốc gia này có thuộc quyền sở hữu của Mỹ hay không. Các công ty này không
được né tránh nộp thuế thu nhập cho phần thu nhập phát sinh trên đất Mỹ bằng cách
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thông qua hành vi chuyển giá hay chuyển dịch hoạt động
đầu tư vào các quốc gia có thuế suất thấp.

21
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Trước tình hình chuyển giá do các MNC thực hiện trên đất Mỹ thì cơ quan thuế của
Mỹ đã có ban hành các quy định, các đạo luật chống chuyển giá.

Năm 1993, căn cứ theo Omnibus Budget Reconciliation Act, đạo luật chống chuyển
giá IRS Sec 6662 ra đời kèm theo một số thay đổi nhằm chặt chẽ hơn và tăng cường hiệu
quả chống chuyển giá. Trong đạo luật 6662 có hai nguyên tắc chế tài mới dành cho hành
vi chuyển giá:

• Phạt chuyển giá trong giao dịch (Transaction penalty): là loại hình chế tài khi có
chênh lệch đáng kể trong giá chuyển giao nếu so sánh với căn bản giá thị trường theo quy
định IRS Sec 482, mà hậu quả là số thu nhập chịu thuế không phản ánh đúng thực tế của
nghiệp vụ phát sinh:

 Với mức sai phạm trọng yếu đáng kể: mức phạt chuyển giá 20% dành cho
trường hợp có sai sót đáng kể do chuyển giá vượt quá 200% (hay dưới 50%) so với mức
mà IRS Sec 482 xác định được.

 Với tổng mức sai phạm trọng yếu: mức phạt chuyển giá 40% dành cho trường
hợp có sai sót đáng kể do chuyển giá vượt quá 400% (hay dưới 25%) so với mức mà IRS
xác định được.

• Phạt bổ sung (Net Adjustment Penalty): phạt bổ sung được áp dụng nếu phần thu
nhập chịu thuế sau khi tính lại theo IRS Sec 482 tăng vượt mức quy định có thể cho
trước.

 Khoản phạt bổ sung 20% trên số thuế truy thu sẽ áp dụng trong trường hợp
phần thu nhập tăng thêm vượt quá mức thấp nhất trong hai mức sau: 5 triệu USD hoặc
10% trên tổng số thuế phải nộp.

 Phạt bổ sung 40% trên số thuế truy thu sẽ áp dụng trong trường hợp phần thu
nhập tăng thêm vượt quá mức thấp nhất trong hai mức sau – 20 triệu USD hoặc 20% trên
tổng số thuế phải nộp.

22
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Mỹ không có một chương trình chính thức trong việc ưu tiên xem xét người nộp thuế
ở góc độ một ngành công nghiệp cụ thể mà tổ chức dưới góc độ 5 nhóm ngành chính.
Ngoài ra cơ quan thuế còn tuyển chọn thêm 1.200 nhân viên trong năm 2009 và dự định
thêm 800 nhân viên trong năm 2010 để thực hiện rà soát, giám sát giá chuyển nhượng
(Tạp chí CFO, 1/9/2009). Gần đây, hầu hết việc kiểm toán chuyển giá xuất hiện ở 2 trong
5 nhóm ngành này: thông tin liên lạc, công nghệ và truyền thông, và nhóm ngành bán lẻ,
thực phẩm, dược và nhóm ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe.

2.2. Trung Quốc

a. Thực trạng

Trung Quốc là quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh trong thời gian gần đây. Sự
bùng nổ của nền kinh tế Trung Quốc đã tạo ra các cơ hội kinh doanh có lợi nhuận. Điều
này đã thu hút dòng vốn đầu tư đổ ồ ạt vào Trung Quốc. Năm 1980, FDI của Trung Quốc
chỉ đạt được 57 triệu USD nhưng đến năm 1995 đã đạt được 35,8 tỷ USD (UNCTAD,
2003). Trong năm 2009, khi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính lan rộng làm vốn FDI
toàn thế giới giảm gần 40%, nền kinh tế Trung Quốc vẫn giữ được vị trí thứ 2 về thu hút
vốn FDI với tổng vốn là 90 tỷ USD. Đây thực sự là một thị trường đầy tiềm năng về
nguồn lực cũng như thị trường tiêu thụ rộng lớn.

Vào cuối những năm 1990, có khoảng 140.000 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được
hoạt động tại Trung Quốc. Và cũng vào thời điểm này có một số lượng lớn các các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc báo lỗ. Cụ thể là khoảng 54%, 63% và
70% (tương ứng với các năm 1993, 1994 và 1995) các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
báo cáo hoạt động thua lỗ 7,1 tỷ USD với cơ quan thuế (Ho and Lau, 2002). Các báo cáo
thiệt hại trên đã nhắc nhở các công ty đa quốc gia phải dự tính đến việc rút khỏi Trung
Quốc. Tuy nhiên, vào năm 2000 FDI đổ vào Trung Quốc lại đạt 40,7 tỷ USD, tăng lên
một kỷ lục 92,4 tỷ USD trong năm 2008.

Đến năm 2004, số lượng các doanh nghiệp có vốn đầu tư hoạt động tại Trung Quốc đã
tăng đến 490.000 doanh nghiệp. Tuy nhiên trong giai đoạn 1996-2000, khoảng từ 60%

23
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

đến 65% của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài phủ nhận lợi nhuận chịu thuế và
không trả đồng nào cho thuế (Baker, 2005, p. 145). Đến năm 2005, có khoảng 55% các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuyên bố thua lỗ (Global Times16, 31/7/2009).
Trang web chính thức của chính phủ Trung Quốc đã lên tiếng rằng: trốn thuế thông qua
tài khoản định giá chuyển giao chiếm khoảng 60% tổng số thuế bị trốn bởi các công ty đa
quốc gia. Một cuộc khảo sát năm 2007 của Cục Thống kê quốc gia đã cho thấy rằng: gần
hai phần ba doanh nghiệp nước ngoài thua lỗ rõ ràng là đã cố tình thực hiện báo cáo sai
sự thật và đã sử dụng chuyển giá để tránh nộp 30 tỷ Nhân Dân Tệ (khoảng 4,39 tỷ USD)
trong lĩnh vực thuế (Global Times, 31/7/2009 ). Như vậy thông qua hoạt động sản xuất
kinh doanh, các MNC đang thực hiện thủ thuật chuyển giá nhằm tránh nộp thuế thu nhập.
Các công ty này vẫn đang tiếp tục khai lỗ trong khi lại tăng cường mở rộng sản xuất tại
Trung Quốc. Điều này đã làm thất thoát một khoản thu lớn cho ngân sách nhà nước. Do
đó chính phủ Trung Quốc cũng đã tăng cường các quy định định giá chuyển giao (Mo,
2003; KPMG, 2009) và tích cực hơn trong điều tra chuyển giá. Cơ quan thuế thông báo
rằng trước năm 2005 họ điều tra khoảng 1.500 trường hợp thì có 1.200 trường hợp bị xử
phạt và mang lại doanh thu thuế bổ sung khoảng 460 triệu Nhân Dân Tệ. Các hành động
tích cực trong năm 2007 dẫn đến kết quả là 192 trường hợp, và mang lại doanh thu 987
triệu Nhân Dân Tệ (Daily 18 Thượng Hải, 4/2/2008). Một số nghiên cứu đã xác định việc
sử dụng sáng tạo giá chuyển nhượng, đặc biệt là điều chỉnh giá xuất - nhập khẩu đã tạo
điều kiện cho lợi nhuận chảy từ Trung Quốc sang các địa điểm mong muốn. Một nghiên
cứu ước tính rằng xuất khẩu của Trung Quốc bởi các tập đoàn đa quốc gia đang đã tính
dưới giá trung bình 17% trong khi đó hàng nhập khẩu đang đắt đỏ trung bình 9% (Sun,
1999). Cơ quan thuế Trung Quốc cho rằng trốn thuế của các công ty đa quốc gia đã gây
tổn thất hơn 30 tỷ Nhân Dân Tệ (3,6 tỷ USD) trong các khoản thu thuế bị mất hàng năm,
“họ sử dụng chuyển giá để tránh các khoản thanh toán thuế” (Trung Quốc Daily 19,
25/11/ 2004).

b. Chống chuyển giá ở Trung Quốc

24
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Trước năm 2008, Trung Quốc duy trì song song hai hệ thống thuế, một cho doanh
nghiệp trong nước và một cho các doanh nghiệp nước ngoài. Một cuộc khảo sát năm
2005 cho thấy hai hệ thống thuế tạo ra một sự chênh lệch về thuế suất có hiệu lực gần
10% giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước, điều này được các doanh nghiệp nước ngoài
ưa chuộng. Tuy nhiên, ngày 16 tháng 3 năm 2007, Quốc hội đã ban hành Luật TNDN
mới đã thống nhất một mức thế suất chung cho hai hệ thống này. Thuế TNDN có hiệu lực
từ ngày 01/01/2008, áp đặt một mức thuế suất thống nhất 25% cho tất cả các doanh
nghiệp, trong nước và nước ngoài nó cũng chú trọng đáng kể về định giá chuyển giao,
khuyến khích các giám sát chặt chẽ hơn các giao dịch của các bên liên kết. Trung Quốc
cũng gia tăng củng cố hệ thống thuế. Pháp luật điều chỉnh chuyển giá hiện nay Trung
Quốc đang áp dụng các quy định chủ yếu theo các luật sau: Luật Thuế TNDN (2007);
Thực hiện Quy phạm pháp luật thuế TNDN (2007); Thông tư Guoshuifa số 2 (2009).

Mục đích của thuế TNDN là để mang lại nhiều quy định về giá chuyển giao cho
Trung Quốc phù hợp với các quy tắc áp dụng trong các nền kinh tế phát triển khác trên
thế giới. Nó cung cấp cho SAT cơ sở để điều chỉnh thu nhập chịu thuế của người nộp
thuế khi họ thực hiện các giao dịch với các bên liên kết chưa đúng theo hướng dẫn của
“nguyên tắc ALP”. Luật thuế này cũng yêu cầu những người nộp thuế có liên quan đến
giao dịch với các bên liên kết phải gửi tài liệu trình bày rõ về giao dịch với bên liên kết
đó cùng với tờ khai thuế hàng năm của họ. Người nộp thuế cũng được yêu cầu nộp các tài
liệu liên quan về giao dịch với các bên liên kết như giá cả, tiêu chuẩn xác định chi phí,
phương pháp tính toán và giải thích khi được kiểm toán. Cụ thể Luật thuế TNDN qui
định như sau: các doanh nghiệp có các giao dịch tài sản hữu hình liên quan đến các bên
liên kết có giá trị hằng năm trên 200 triệu Nhân Dân Tệ hoặc có các giao dịch giữa các
bên liên kết trên 40 triệu Nhân Dân Tệ phải chuẩn bị tài liệu đương thời giải trình rõ.

Các qui định chống chuyển giá của Trung Quốc cũng xây dựng dựa trên cở sở hướng
dẫn của OECD, tuy nhiên luật chống chuyển giá của Trung Quốc có một số điểm khác cơ
bản so với luật chống chuyển giá của Mỹ như sau:

25
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

• Nghĩa vụ nộp thuế ở Trung Quốc không được hợp nhất, nếu một tập đoàn kinh tế
có các chi nhánh tại các tỉnh thành khác nhau của Trung Quốc sẽ chịu thanh tra về thuế
chống chuyển giá nhiều lần.

• Một điểm khác nữa là, khi cơ quan thuế của tỉnh này chấp nhận một vấn đề nào đó
về thuế thì chưa chắc cơ quan thuế ở địa phương khác chấp nhận. Điều này khác hoàn
toàn nếu các tập đoàn kinh tế có nhiều chi nhánh tại Mỹ, các vấn đề về thuế được cơ quan
thuế tiểu bang chấp nhận thì xem như là được chấp nhận tại các tiểu bang khác.

• Nếu bị xác định là có hành vi chuyển giá tại công ty, thì các điều chỉnh về định giá
chuyển giao do cơ quan thuế Trung Quốc đưa ra sẽ được áp đặt cho tất cả các loại thuế có
liên quan như: thuế TNDN, thuế GTGT, thuế xuất nhập khẩu… Trong khi tại Mỹ chỉ áp
đặt tính lại thuế TNDN mà thôi.

• Tại Mỹ, các chỉ số về mức nâng giá hợp lý do cơ quan thuế lập nên dựa trên các
nguồn thông tin đại chúng và mọi người đều biết. Nhưng tại Trung Quốc thì cơ quan thuế
Trung Quốc xây dựng các nguồn dữ liệu từ việc so sánh bí mật.

Nội dung của luật

Pháp luật mới về quy định giá chuyển nhượng có hiệu lực từ 1/1/2008, Trung Quốc sẽ
thực hiện áp dụng các quy định về giá chuyển giao khi các bên có quan hệ như sau:

• Một doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp nắm giữ 25% trở lên cổ phần của doanh
nghiệp khác.

• Một bên thứ ba trực tiếp hoặc gián tiếp nắm giữ 25% trở lên số cổ phần trong cả
hai doanh nghiệp.

• Một doanh nghiệp bảo lãnh hoặc cho một doanh nghiệp khác vay vốn với khoản
vốn vay vượt quá 50% vốn của doanh nghiệp, hoặc 10% trở lên tổng số các khoản nợ của
doanh nghiệp.

• Một doanh nghiệp chỉ định hơn một nửa số quản lý cấp cao của một doanh nghiệp
khác (bao gồm Hội đồng quản trị và tổng giám đốc), Hoặc hơn một nửa của cấp quản lý

26
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

doanh nghiệp (bao gồm Hội đồng quản trị và các tổng giám đốc) cũng phục vụ như là
quản lý cao cấp tại doanh nghiệp khác.

• Một doanh nghiệp có việc hoạt động mua và bán hàng, cung cấp và nhận dịch vụ
được kiểm soát bởi một doanh nghiệp khác.

Để xác định mục tiêu cho việc kiểm toán điều tra giá chuyển nhượng dễ dàng hơn,
điều 29 của Guoshuifa số 2 (2009) vạch ra 7 tiêu chuẩn được sử dụng. 3 tiêu chuẩn chính
trong 7 tiêu chuẩn đó là :

• Người đóng thuế có lợi nhuận thấp hoặc bị lỗ liên tiếp trong 1 thời kì dài hoặc có
các khoản thu nhập không phù hợp.

• Người nộp thuế có một khối lượng lớn các giao dịch với các công ty đặt tại thiên
đường thuế.

• Doanh nghiệp không tuân thủ báo cáo các giao dịch với bên liên hết với các cơ
quan Thuế.

Đặc biệt ngoài việc có lợi nhuận thấp hoặc lỗ, SAT còn tập trung vào các công ty chi
trả số lượng lớn tiền bản quyền cho các bên liên quan ở nước ngoài hoặc một tỷ lệ lớn các
hoạt động kinh doanh chính của họ là giao dịch với các bên liên quan.

Trung Quốc đồng thời cũng đưa ra các biện pháp xử phạt cụ thể đối với hành vi
chuyển giá. Điều 60-73 của Luật quản lý thuế quy định rằng hành vi vi phạm luật có thể
bị phạt tiền, và những vi phạm nghiêm trọng như trốn thuế, gian lận thuế có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Luật thuế TNDN Trung Quốc cũng nêu rõ, từ sau ngày 01 tháng
1 năm 2008 các khoản thuế bị trả thiếu liên quan đến giao dịch giữa các bên liên kết sẽ
phải chịu một khoản lãi phí. Khoản lãi suất này được tính bằng lãi suất cho vay cơ bản
Nhân dân tệ của Ngân hàng Nhân Dân Trung Quốc cùng kì cộng 5% phí. Tuy nhiên, nếu
doanh nghiệp cung cấp được các tài liệu và thông tin liên quan khác theo quy định này thì
5% phí tăng thêm này có thể được giảm bớt hoặc loại bỏ hoàn toàn.

27
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Trung Quốc cũng khuyến cáo những hậu quả bất lợi mà những người không tuân thủ
quy định giá chuyển nhượng có thể gặp. Đó là người nộp thuế có thể sẽ bị đưa vào một
trong những mục tiêu đầu tiên cho một cuộc thanh tra về vấn đề định giá chuyển giao.
Thông thường, người nộp thuế không được chấp nhận tham gia vào các thỏa thuận giá
trước.

Trung Quốc cũng đã nới lỏng các quy định để tham gia vào các thỏa thuận giá trước.
Do đó các doanh nghiệp sẽ được tham gia nhiều hơn. Để hội đủ điều kiện để trở thành
ứng viên cho APA các công ty phải có tổng giá trị các giao dịch hằng năm với các bên
liên quan lớn hơn 40 triệu Nhân Dân Tệ, đã chuẩn bị hoặc đã nộp hồ sơ hàng năm và nộp
hồ sơ tài liệu đương thời theo quy định của pháp luật. Đồng thời công ty sẽ không tốn lệ
phí khi nộp đơn cho APA.

Trong năm 2009, cơ quan Thuế Trung Quốc đã đặc biệt tập trung vào các chủ thể,
công ty có giao dịch với các khu vực có luật thuế thấp hoặc có giao dịch với các thiên
đường thuế. Ngoài ra, các phòng thuế tại các thành phố thuộc Bắc Kinh và Thượng Hải
và tại các tỉnh ven biển cũng đã rất tích cực trong việc thực hiện hoạt động kiểm toán giá
chuyển nhượng, các giao dịch liên quan đến tiền bản quyền và phí dịch vụ lao động cũng
được kiếm soát chặt chẽ (kết quả khảo sát chuyển giá toàn cầu, Ernst & Young, 2009).
Cũng theo nguồn này công bố, trong những năm qua, cơ quan thuế đã tập trung vào các
ngành may mặc, điện tử và viễn thông, thực phẩm và nước giải khát, bán lẻ, công nghiệp,
ô tô, dược phẩm, và các ngành công nghiệp dịch vụ, cũng như về các vấn đề tài chính liên
quan đến xây dựng cơ sở hạ tầng và các công ty có vốn đầu tư ra bên ngoài.

Hiện nay, các phòng thuế cũng tăng cường các công cụ như công nghệ thông tin và cơ
sở dữ liệu để hỗ trợ cho công tác chống tránh thuế. Phòng thuế cũng đang gia tăng huấn
luyện cho các chuyên gia chống trốn thuế bao gồm cả đào tạo ngắn hạn và dài hạn, cả đào
tạo trong nước và đào tạo nước ngoài. Ngoài ra, các sở thuế cũng đã tuyển dụng thêm
sinh viên tốt nghiệp đại học các ngành liên quan để bổ sung thêm vào lực lượng chống
trốn thuế.

3. Các trường hợp chuyển giá cụ thể trên thế giới

28
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

3.1. Google

Trong năm 2008, doanh thu từ quảng cáo tại Anh của Google đạt 1,6 tỷ bảng, tương
đương với 2,57 tỷ USD và bằng 14% doanh thu toàn cầu của hãng. Đáng lẽ ra Google
phải đóng khoản thuế TNDN 450 triệu bảng Anh, tương đương với 724 triệu USD. Tuy
nhiên, trên thực tế công ty này không phải đóng một xu. Theo hồ sơ tại cơ quan hải quan
Hoàng gia Anh, Google chỉ đóng một khoản khiêm tốn 141.519 bảng một số loại thuế má
khác.

Sở dĩ Google lách luật thành công vì họ chọn đặt trụ sở chính văn phòng châu Âu ở
Dublin, Ireland. Tất cả doanh thu thu được từ hoạt động quảng cáo tại Anh được rót về
Ireland. Nhờ đó, Google né được sự kiểm soát của Anh, nơi đánh thuế doanh nghiệp khá
cao từ 28 đến 30%. Tại Ireland, hóa đơn thuế gửi đến cho Google nhẹ nhàng hơn nhiều,
do mức thuế TNDN tại đây chỉ là 12,8 đến 15%.

Tuy nhiên, ngay cả khi chuyển sang Ireland để chịu thuế, Google vẫn tiếp tục tìm
cách tối giản số tiền phải đóng. Công ty này sử dụng một thủ thuật vốn được các tập đoàn
dược, quảng cáo đa quốc gia vẫn hay dùng là "chuyển giá quốc tế" (transfer pricing).
Theo đó, họ kê khai chi phí lên thật cao tại những nơi đánh thuế cao, và hưởng lợi tại
những nơi đánh thuế thấp. Những thủ thuật lách thuế này không trái luật. Nhờ đó, tại
Dublin, trong năm 2008, Google chỉ phải đóng 6,7 triệu bảng Anh tiền thuế, tương đương
với khoảng 10,8 triệu USD.

3.2. Enron

Enron là một công ty đa quốc gia hùng mạnh trong lĩnh vực năng lượng. Công ty có
hoạt động hơn 40 quốc gia trên thế giới. Enron có 7.500 nhân viên làm việc tại tòa nhà 50
tầng ở trung tâm Houston. Enron đã phát triển những chiến lược chuyển giá rất đa dạng
để chuyển thu nhập tới những nơi có thuế thấp hoặc không có thuế. Với những lời
khuyên từ Arthur Andersen, Deloitte & Touche, Chase Manhattan, Deutsche Bank,
Bankers Trust và một số công ty luật, tập đoàn năng lượng khổng lồ của Mỹ Enron đã tạo
ra 3.500 chi nhánh và công ty con trong và ngoài nước tại những nơi như Turks &

29
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Caicos, Bermuda và Mauritius. Trong đó có 441 công ty và chi nhánh được thành lập ở
Cayman Islands, nơi mà lợi nhuận doanh nghiệp không bị đánh bất kỳ loại thuế nào. Cụ
thể như: Lợi nhuận 1,785 tỷ USD của Enron từ năm 1996 đến năm 2000 thì không nộp
thuế. Nó cũng tránh thuế ở các nước đang phát triển như Ấn Độ và Hungary.

3.3. WorldCom

Tập đoàn viễn thông WorldCom từng là một trong những tập đoàn viễn thông lớn
nhất của Mỹ. WorldCom đã sáng tạo trong việc sử dụng chuyển giá cho một loạt các
nhãn hiệu, tên thương mại, bí mật thương mại, thương hiệu, nhãn hiệu dịch vụ và quyền
sở hữu trí tuệ.

Với mức phí là 9,2 triệu USD, công ty kiểm toán KPMG đã khuyên công ty nên tăng
thu nhập sau thuế bằng cách áp dụng một chương trình chuyển nhượng tài sản vô hình.
Theo đó, công ty sẽ tạo ra tài sản được gọi là “Management Foresight”, một tài sản vô
hình chưa từng được biết đến. Công ty mẹ đã thực hiện chương trình này để được hưởng
một quyền chịu thuế thấp và đã cho phép các công ty con của nó chuyển đổi các khoản
thanh toán phí bản quyền hàng năm, sự thỏa thuận này dự kiến sẽ tiết kiệm được 25 triệu
USD tiền thuế trong năm đầu tiên và 170 triệu USD trong khoảng hơn 5 năm.

Kết quả giám định phá sản của WorldCom cho thấy rằng trong một vài trường hợp
việc tính tiền bản quyền đã thực sự vượt quá thu nhập ròng hợp nhất của công ty trong
mỗi năm của giai đoạn 1998-2001 và trong những trường hợp khác chiếm tới 80-90% thu
nhập ròng của công ty con. Trong khoảng thời gian bốn năm từ 1998-2001, phí bản
quyền cho việc sử dụng tài sản vô hình của công ty và hầu hết các khoản phí từ việc
chương trình “Management Foresight” là hơn 20 tỷ USD. Các công ty con đã biến chi phí
bản quyền thành một chi phí hợp lý và đủ điều kiện được giảm thuế do đó số tiền thu
nhập của công ty bị đánh thuế ở tỷ lệ thấp. Một thỏa thuận chuyển giá như vậy có thể
giúp công ty tiết kiệm từ 100 triệu đến 350 triệu USD tiền thuế.

3.4. SmithKline

30
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

SmithKline là một công ty dược phẩm lớn đã bị sự giám sát của cơ quan thuế Canada.
Từ 1980-1989, chính quyền đã nghi ngờ công ty này thực hiện chuyển giá qua thuốc
cimetidine, một thành phần được sử dụng trong thuốc Tagamet. SmithKline sản xuất,
đóng gói và phân phối thuốc và thu được lợi nhuận đáng kể ở Canada. Tuy nhiên, theo
một thỏa thuận vào năm 1977, công ty này đã mua các thành phần chính của thuốc (đã
được bảo hộ bằng sáng chế) với mức giá 400 USD/kg từ các chi nhánh nước ngoài chịu
mức thuế thấp của nó như Bahamas và Ireland.

Trong đầu những năm 1980, dạng chính của thành phần này đã được bán trên thị
trường với mức giá từ 50 – 250 USD/kg và điều này làm giảm giá thị trường của thuốc.
trong khi đó, SmithKline tiếp tục mua các thành phần theo thỏa thuận từ trước ở mức giá
400 USD/kg, dẫn đến báo cáo lợi nhuận thấp hơn và thậm chí thua lỗ ở Canada.

Cơ quan thuế cho rằng lợi nhuận ở Canada đã bị làm giảm bớt do công ty đã sử dụng
giá chuyển giao nội bộ mà không quan tâm tới giá thị trường. Sau vụ kiện kéo dài, một
thẩm phám đã kết luận rằng: nếu công ty này trả theo giá thị trường quốc tế cho việc cung
cấp thuốc này, lợi nhuân hoạt động của nó đã có thể nhiều hơn gấp ba lần. Một suy đoán
đơn giản rằng công ty sẽ vẫn có lợi nhuận nếu quyết định không mua thuốc với giá đắt
hơn từ chi nhánh của mình.

Sau một tranh cãi quyết liệt trong tám năm, cơ quan thuế cuối cùng đã không cho
phép khấu trừ 515 triệu USD và công ty đã phải trả 3,2 tỷ USDchi phí pháp lý.

3.5. Yukos

Yukos là công ty năng lượng tư nhân lớn nhất của Nga. Khodorkovsky là người sáng
lập và cựu giám đốc điều hành của Yukos.

Năm 1988, Khodorkovsky thành lập ngân hàng Menatep rất phát triển dưới sự đỡ đầu
của các doanh nhân và chính trị gia Nga.

Để thực hiện việc gian lận của mình, ông sử dụng các công ty vỏ bọc (shell company)
ở nước ngoài. Những công ty giả tạo này được thành lập ở những “thiên đường thuế” để
cung cấp sự bảo mật cho doanh nghiệp và ngân hàng. Trong số khoảng 70 “thiên đường

31
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

thuế” trên thế giới, Khodorkovsky thường chọn Thụy Sĩ, Gibraltar, Panama, và Isle of
Man.

Trong năm 1994, Khodorkovsky và bạn bè đã mua 20% cổ phần của Apatit, một công
ty nhà nước của Nga, trị giá 1,4 tỷ USD vào lúc đó, với số tiền 225.000 USD và một lời
hứa đầu tư 283 triệu USD. Khi công ty được đưa ra bán đấu giá, Khodorkovsky bố trí cho
bốn công ty vỏ bọc của mình đủ điều kiện để mua nó. Nhưng sau khi trúng thầu, chủ đầu
tư không bơm tiền vào công ty và cũng phớt lờ lệnh trả lại cổ phần của tòa án. Thay vào
đó, họ đã bán cổ phần cho Menatep, và Menatep chuyển giao nó cho các công ty vỏ bọc
nước ngoài.

Những nhà quản trị công ty thiết lập một chương trình chuyển giá, bán sản phẩm của
Apatit với giá thấp cho các công ty vỏ bọc của họ, và bán chúng trên thị trường thế giới
với giá cao hơn. Do đó, các loại thuế và cổ tức được trả thấp hơn. Tại vụ xử của
Khodorkovsky, các công tố viên cho biết với việc chuyển giá, Khodorkovsky đã lừa hơn
200 triệu USD của các cổ đông và công ty cũng như hàng triệu đô la tiền thuế của đất
nước.

Năm 1995, Khodorkovsky đã tiếp tục làm một chương trình tương tự đối với Avisma,
một công ty khoáng sản. Một lần nữa, Ngân hàng Menatep lại chiến thắng. Sau đó
Menatep thiết lập một hệ thống chuyển giá, điều này có nghĩa là họ sử dụng một công ty
vỏ bọc nước ngoài để “mua” titan của Avisma với giá thấp hơn giá thị trường và sau đó
bán nó với giá cao hơn, chính vì vậy nó trả thuế thấp và đạt được lợi nhuận tiềm ẩn, mức
lợi nhuận này không được chia sẻ các cổ đông còn lại.

Menatep đã mua công ty dầu Yukos trong một cuộc đấu giá gian lận của Menatep.
Khodorkovsky đã trả 309 triệu USD để kiểm soát 78% cổ phần của Yukos. Các “chủ sở
hữu mới” này là các công ty vỏ bọc nước ngoài của Khodorkovsky. Tháng sau đó, Yukos
giao dịch trên thị trường chứng khoán Nga với giá trị vốn hóa thị trường là 6 tỷ USD.

Các chương trình chuyển giá của Yukos và chi nhánh của nó đã làm giảm 210 tỷ RUR
doanh thu trong năm 2000 và chính phủ đã yêu cầu công ty trả 28 tỷ USD thuế hoàn trả

32
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

và tiền phạt. Chính phủ Nga đã tuyên bố rằng một chi nhánh sản xuất của Yukos đã bán
dầu thô dưới giá thị trường cho một công ty vỏ bọc có liên kết với Yukos và được thành
lập ở một khu vực có thuế thấp hoặc không có thuế. Các công ty vỏ bọc này sẽ bán dầu
lại cho người mua trong và ngoài nước theo giá thị trường. Yukos kiểm soát toàn bộ quá
trình hoạt động và tài chính của các công ty vỏ bọc bao thông qua vị trí giám đốc, quyền
hạn của luật sư và cũng như một hợp đồng với công ty vỏ bọc. Hầu hết các giao dịch của
công ty vỏ bọc được thực hiện với các chi nhánh Yukos khác. Yukos sẽ nhận hoa hồng
danh nghĩa cho các dịch vụ này (chỉ 0,01-0,5%); và các công ty vỏ bọc nhận được phần
lớn lợi nhuận trong toàn bộ quá trình sản xuất và bán dầu. Việc chuyển giá giúp Yukos
tránh các loại thuế cũng như các công ty vỏ bọc được hưởng các nhượng bộ về thuế do
các công ty này thường được thành lập ở những “thiên đường thuế”.

3.6. Toyota

Việc chuyển giá của tập đoàn Toyota bằng cách chuyển thu nhập tới những nơi có
thuế TNDN thấp. Doanh thu nội địa trong sổ sách kế toán của Toyota (UK) tính đến ngày
31 Tháng Ba 2003 thì công ty này đã bị lỗ trước thuế là 116 triệu bảng Anh trong khi
doanh thu bán hàng là 1,4 tỷ bảng Anh, trong khi đó Toyota (GB), là chi nhánh phân phối
và bán hàng lại có lợi nhuận là 3 triệu bảng Anh trên doanh thu bán hàng là 1,5 tỷ bảng
Anh. Các nhà máy sản xuất của Toyota ở châu Âu đều tập trung tại Anh và Pháp, và
Toyota cũng tuyên bố lợi nhuận hoạt động ở khu vực châu Âu của mình trong sổ sách kế
toán so với tập đoàn ở Nhật Bản trong cùng thời kỳ. Nhưng lợi nhuận lại không phát sinh
tại UK, bởi đây là một trong nơi có luật thuế TNDN cao nhất ở châu Âu.

3.7. Globalco

Đây là một ví dụ số liệu cụ thể về việc chuyển giá do chuyển lợi nhuận bằng cách bán
sản phẩm cho công ty liên kết với giá thấp và số tiền phạt do chuyển giá dựa trên nguyên
tắc căn bản giá thị trường.

Globalco là công ty chuyên sản xuất thiết bị chiếu sáng tại nhà máy ở Mỹ và phân
phối cho các công ty con trên toàn thế giới. Globalco báo cáo thu nhập dựa trên giá

33
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

chuyển nhượng 10 USD cho mỗi thiết bị, trong đó: Giá vốn hàng bán là 6 USD và lợi
nhuận cho mỗi thiết bị là 4 USD.

Trong năm 2006, Globalco đã có một năm kỷ lục và bán 10 triệu sản phẩm với thu
nhập ròng là 40 triệu USD. Theo kiểm toán, IRS xác định rằng giá chuyển nhượng mỗi
sản phẩm phải là 13 USD, tức là thu nhập ròng của Globalco là 43 triệu USD. Theo điều
khoản 482 của IRS 6662, dựa trên nguyên tắc căn bản giá thị trường, nếu như giá chuyển
nhượng của mỗi giao dịch cụ thể lớn hơn hoặc bằng 200% (hoặc nhỏ hơn hoặc bằng
50%) so với giá thị trường thì sẽ bị phạt 20% so với khoản thuế chưa nộp (tax
underpayment). Như vậy, theo trường hợp này Globalco sẽ không bị phạt.

Năm 2008 là một năm khủng khiếp cho Globalco. Công ty đã bán 250.000 thiết bị với
thu nhập ròng là 1 triệu USD. Theo kiểm toán, IRS xác định rằng giá mỗi sản phẩm cần
phải là 30 USD. Theo điều khoản 482 của IRS 6662 thì Globalco sẽ phải đối mặt với hình
phạt 20% vì giá chuyển nhượng là khoảng 33% thấp hơn 50% so với giá thị trường. Như
vậy, Globalco sẽ bị phạt một khoảng 2,1 triệu USD.

Thu nhập ròng = 250000 x (30-6) = 6.000.000 USD

Thu nhập chưa nộp thuế = 6.000.000 – 1.000.000 = 5.000.000 USD

Thuế phải nộp thêm = 5.000.000 x 35% = 1.750.000 USD

Thuế bị phạt = 1.750.000 x 20% = 350.000 USD

Vậy tổng số tiền phạt phải nộp là = 1.750.000 + 350.000 = 2.100.000 USD.

34
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

C. VIỆT NAM

1. Môi trường pháp lý

Pháp luật về kiểm soát chuyển giá tại Việt Nam vẫn đang trong lộ trình hoàn thiện.
Chính phủ đã ban hành những quy định khá sát với các thông lệ về chống chuyển giá của
tổ chức Hợp Tác Kinh Tế và Phát Triển (OECD) đang được nhiều nước trên thế giới áp
dụng. Những quy định này dựa trên nguyên tắc căn bản giá thị trường (ALP) và các
phương pháp định giá chuyển giao mà tổ chức OECD đưa ra. Mặc dù Việt Nam không
phải là thành viên của tổ chức này nhưng các hướng dẫn của OECD về chống chuyển giá
mang tính phổ biến và được xem là những chuẩn mực quốc tế, là công cụ hữu hiệu trong
việc giám sát hoạt động chuyển giá của các MNC.

Tuy đã có lộ trình mở cửa kinh tế từ sớm nhưng pháp luật của Việt Nam đến năm
2005 mới bắt đầu có những quy định về vấn đề chuyển giá. Ta có thể thấy rõ điều này vì
hầu hết các vụ chuyển giá trước đây đều diễn ra từ thập niên 90- những sự kiện sẽ nêu
dưới đây. Đến năm 2005, đánh dấu cho bước chuyển mình trong vấn đề này là sự ra đời
của Thông tư 117/2005/TT-BTC ngày 19/12/2005, có hiệu lực từ ngày 26/01/2006, nó
quy định một số vấn đề về hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong các
giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Tuy nhiên quá trình thực hiện quy
định trong Thông tư 117 trong thời gian qua cũng có những hạn chế nhất định, chủ yếu
liên quan đến việc xây dựng cơ sở dữ liệu chuyển giá và vận dụng quy trình kiểm tra vào
nghiệp vụ kinh doanh thực tế giữa các bên có quan hệ liên kết. Cùng với sự thay đổi của
các luật thuế và những thay đổi rõ ràng trong quy trình quản lý, kiểm tra, thanh tra thuế
trong vài năm gần đây, ngày 22/04/2010, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư
66/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc xác định giá trị thị trường trong giao dịch
kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Thông tư 66 thay thế, sau một thời gian gián
đoạn, cơ quan quản lý thuế Việt Nam sẽ có những quan tâm mạnh mẽ hơn, sẽ có những
động thái tích cực hơn đối với sự gia tăng các hoạt động thanh-kiểm tra đối với vấn đề
chuyển giá và những yêu cầu chính thức từ Tổng cục Thuế gửi cho các cục thuế địa

35
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

phương về việc tập trung vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường xuyên
có kết quả kinh doanh bị lỗ do nghi ngờ có gian lận về thuế thông qua chuyển giá.

Thông tư 66/2010/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong
giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Theo đó chuyển giá được hiểu là
việc thực hiện chính sách giá đối với sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được chuyển dịch giữa
các bên có quan hệ liên kết không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường, nhằm
tối thiểu hoá tổng số thuế phải nộp của doanh nghiệp. Thông tư này có hiệu lực sau 45
ngày kể từ ngày ký, với đối tượng áp dụng là các Tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ thực hiện giao dịch kinh doanh với các bên có quan hệ liên kết, có nghĩa vụ kê
khai, xác định nghĩa vụ thuế TNDN tại Việt Nam. Theo đó các đối tượng thoả mãn 3 điều
kiện: là doanh nghiệp; có thực hiện giao dịch kinh doanh với các bên có quan hệ liên kết
và nộp thuế TNDN tại Việt Nam theo kê khai.

Thông tư 66 nêu trên có phạm vi áp dụng đối với tất cả các giao dịch mua, bán, trao
đổi, thuê, cho thuê, chuyển giao hoặc chuyển nhượng hàng hoá dịch vụ trong quá trình
kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Để xác định được các bên có quan hệ liên
kết, trong thông tư cũng chỉ rõ gồm 3 nhóm đối tượng sau:

• Một là: Một bên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát,
góp vốn hoặc đầu tư dưới mọi hình thức vào bên kia;

• Hai là: Các bên trực tiếp hay gián tiếp cùng chịu sự điều hành, kiểm soát, góp vốn
hoặc đầu tư dưới mọi hình thức của một bên khác;

• Ba là: Các bên cùng tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm
soát, góp vốn hoặc đầu tư dưới mọi hình thức vào một bên khác.

Giá sản phẩm trong giao dịch liên kết quy định tại Thông tư này được xác định theo
giá thị trường trên cơ sở phân tích so sánh tính tương đương giữa giao dịch liên kết với
giao dịch độc lập để lựa chọn phương pháp xác định giá phù hợp nhất trong 5 phương
pháp sau: so sánh giá giao dịch độc lập; giá bán lại; giá vốn cộng lãi; so sánh lợi nhuận
hoặc chiết tách lợi nhuận.

36
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

2. Một số trường hợp tiêu biểu tại Việt Nam

2.1. Chuyển giá thông qua việc nâng giá trị vốn góp

Việc định giá cao thiết bị máy móc đầu tư ban đầu đã giúp cho các MNC chuyển một
lượng tiền đi ngược trở ra cho công ty mẹ ngay từ lúc đầu tư và thông qua chi phí khấu
hao hàng năm sẽ làm cho nhà nước thất thu thuế.

Điển hình như, một khách sạn liên doanh giữa Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn và Vina
Group đã xác định giá trị đưa vào góp vốn của Vina Group là 4,34 triệu USD. Nhưng
theo sự thẩm định giá của công ty giám định giá Quốc Tế thì giá trị tài sản góp vốn của
Vina Group chỉ có giá trị là 2,99 triệu USD. Như vậy trong nghiệp vụ định giá giá trị góp
vốn liên doanh này phía Việt Nam đã bị thiệt 1,35 triệu USD tương đương 45.2%. Theo
một báo cáo giám định của công ty kiểm định Quốc Tế về việc xác định giá trị vốn góp
của các bên liên doanh thực hiện vào năm 1993 cho ta kết quả trong bảng số liệu dưới
đây:

Bảng: Xác định giá trị vốn góp của các bên liên doanh

Nguồn: Báo cáo kết quả giám định của SGS năm 1993
Chênh lệch Tỷ lệ
Giá trị thiết bị Giá trị thiết bị
do khai khai
STT Tên dự án liên doanh khai báo thẩm định
khống khống

Liên doanh K/s Thăng Long


1 496.906 306.900 190.006 40.43 %
(TP.HCM)

Công ty ô Tô Hòa Bình (Hà Nội)


2 5.823.818 4.221.520 1.602.298 27.51 %
Công ty BGI Tiền Giang
3 28.461.914 20.667.436 7.794.478 27.38 %
Nhà máy sợ Joubo (TP.HCM)
4 3.497.848 3.003.930 493.918 14.12 %
Khách Sạn Hà Nội (Hà Nội)
5 2.002.612 1.738.752 263.860 13.17 %
TT Quốc tế DV – VP Hà Nội
6 1.288.170 1.028.170 260.000 21.16 %
Công ty Sài Gòn VeWong
7 4.972.073 4.612.640 359.433 7.22 %
(TPHCM)

37
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Tình trạng nâng giá tài sản góp vốn trên mang lại sự thiệt hại cho cả 3 đối tượng là
phía liên doanh góp vốn Việt Nam, chính phủ Việt Nam và cả người tiêu dùng Việt Nam.
Bên liên doanh Việt Nam bị thiệt trong phần vốn góp, làm cho tỷ lệ góp vốn nhỏ lại;
Chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế; còn người tiêu dùng Việt Nam phải tiêu dùng sản
phẩm với giá cả đắt hơn giá trị thực tế của sản phẩm.

Do nâng giá trị tài sản góp vốn nên tỷ lệ vốn cao hơn phía Việt Nam, vì vậy bên đối
tác nước ngoài thường sẽ nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Đối tác nước
ngoài sẽ điều hành công ty theo mục đích của họ để cho tình hình thua lỗ kéo dài và bên
liên doanh Việt Nam không đủ tiềm lực tài chính để tiếp tục hoạt động đành phải bán lại
phần vốn góp và hàng loạt các công ty liên doanh trở thành công ty 100% vốn nước
ngoài.

2.2. Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ

Ngoài việc nâng giá trị tài sản vốn góp khi tiến hành liên doanh thì các MNC còn thực
hiện việc chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ và thu phí tiền bản quyền,
đây là một loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn do khấu hao giá trị tài sản cố định vô hình. Một
ví dụ điển hình cho việc chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ đó là tại Công ty
Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam.

Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam là một công ty liên doanh hoạt động theo
Luật Đầu tư Nước ngoài của Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch
và Đầu tư) cấp phép số 287/GP ngày 9/12/1991. Hai đối tác liên doanh là Công ty Thực
phẩm II tại thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Heneiken International Behler (Hà Lan).
Đến năm 1994 thì giấy phép liên doanh này được chuyển nhượng sang giấy phép số
287/GPDCI ngày 27/10/1994 liên doanh với Asia Pacific Breweries PTE.LTD
(Singapore). Tổng số vốn đầu tư là 49,5 triệu USD và vốn pháp định là 17 triệu USD.
Bên liên doanh Việt Nam chiếm 40% và bên liên doanh Singapore chiếm 60% vốn,
ngành nghề sản xuất của liên doanh là sản xuất bia để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tình trạng kinh doanh của công ty bị thua lỗ
kéo dài qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là do phải trả cho chi phí bản quyền quá cao

38
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

và tăng dần qua các năm. Trong tình hình công ty liên doanh thường xuyên thua lỗ, phía
liên doanh Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề nhưng ngược lại phía liên doanh nước
ngoài vẫn không hề hấn gì vì họ vẫn nhận đủ tiền bản quyền từ nhãn hiệu và tiền bản
quyền lại có xu hướng ngày càng tăng ngày càng tăng.

Trong hơn 2.000 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép thì chỉ có 94 trường hợp
chuyển giao công nghệ với tổng giá trị hơn 200 triệu USD được trình lên Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường. Trong đó có 80 hợp đồng đã được phê duyệt, còn lại đang
được xem xét và yêu cầu bổ sung. Trong các dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt
Nam, một số công nghệ đã rất lỗi thời và bán tự động do không thông qua việc đăng ký
với Bộ Khoa Học và Môi Trường vẫn được xem là chuyển giao công nghệ trong các liên
doanh. Điều này đã dẫn đến tình trạng là chúng ta vẫn đang sử dụng công nghệ cũ, lỗi
thời trên thế giới. Hậu quả là một mặt gây ảnh hưởng môi trường, đồng thời chúng ta phải
trả phí bản quyền chuyển giao công nghệ. Một nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng này
là do chúng ta không chuẩn bị tốt trong khâu soạn thảo hợp đồng và đàm phán chi phí
bản quyền khi tham gia liên doanh vì vậy mà chi phí cao hơn mức chi phí chuyển giao
công nghệ cho phép là 5%. Phía Việt Nam thường ký vào hợp đồng đã được bên đối tác
soạn sẵn. Trong số hơn 80% hợp đồng đã được Bộ Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường
phê duyệt thì bên Việt Nam sau khi thực hiện đàm phán lại chi phí bản quyền đã giảm đi
so với giá trị hợp đồng trước khi đàm phán từ 20 đến 50%. Trong năm 1998, chỉ riêng 6
trong số các hợp đồng đã được phê duyệt đã thu lai được 35 triệu USD.

Một ví dụ cho việc này là ban đầu, liên doanh Mecedes- Benz (Đức) trước khi đàm
phán đòi chi phí bản quyền chuyển giao công nghệ là 42 triệu USD. Sau khi phía Việt
Nam đàm phán lại giảm xuống chỉ còn 9,6 triệu USD; giảm đi 77% so với chi phí ban
đầu phía Đức đưa ra. Trường hợp khác, cũng trong ngành sản xuất xe ô tô, đó là công ty
Mitsubishi Motor Corporation (Nhật Bản) trong liên doanh sản xuất ôtô Ngôi Sao đòi phí
bản quyền chuyển giao công nghệ là 61 triệu USD. Sau khi đàm phán lại thì giảm xuống
chỉ còn 4,4 triệu USD; tức giảm đi gần 15 lần. Một trường hợp nữa là công ty mía đường
Đài Loan đòi phí bản quyền là 54 triệu USD nhưng sau khi đàm phán thì phí bản quyền

39
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

chỉ còn là 6 triệu USD, giảm 9 lần.

2.3. Chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường

Các MNC khi đi vào đầu tư kinh doanh tại một quốc gia thì họ thường sẽ thích liên
doanh với một công ty nội địa hơn là vào đầu tư thẳng là công ty 100% vốn nước ngoài.
Nguyên nhân là các MNC này muốn sử dụng hệ thống phân phối và thị phần có sẵn của
các công ty nội địa. Sau một thời gian liên doanh thì các MNC này sẽ dùng các thủ thuật
khác nhau, trong đó có thủ thuật chuyển giá để đẩy công ty nội địa ra và chuyển công ty
liên doanh thành công ty 100% vốn nước ngoài. Dưới đây chúng ta sẽ theo dõi hai ví dụ
đã xảy ra tại công ty P&G Việt Nam và công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương.

a. Trường hợp P&G Việt Nam

P&G Việt Nam là một công ty liên doanh giữa Công ty Proter & Gamble Far Earst
với Công ty Phương Đông, được thành lập vào ngày 23 tháng 11 năm 1994. Tổng số vốn
đầu tư ban đầu của liên doanh này là 14,3 triệu USD và đến năm 1996 tăng lên là 367
triệu USD. Trong đó Việt Nam góp 30% và phía đối tác chiếm 70% (tương đương 28
triệu USD). Sau hai năm hoạt động (năm 1995 và 1996) liên doanh này đã lỗ đến một con
số khổng lồ là 311 tỷ VND. Số tiền lỗ này tương đương với ¾ giá trị vốn góp của cả liên
doanh. Trong con số thua lỗ 311 tỷ này thì năm 1995 lỗ 123,7 tỷ VND và năm 1996 lỗ
187,5 tỷ VND. Để giải thích cho số tiền thua lỗ này thì chúng ta sẽ phân tích các nguyên
nhân và chi phí sau: Do thời điểm năm 1995 và 1996 đây là gia đoạn mới vào Việt Nam
nên P&G muốn xây dựng thương hiệu tại Việt Nam và muốn các sản phẩm của mình đều
được người tiêu dùng biết đến và sử dụng. Với mục đích chiếm lĩnh thị trường, trong hai
năm 1995 và 1996, P&G đã chi cho quảng cáo một số tiền rất lớn lên đến 65,8 tỷ đồng.
Đây là một con số quá lớn đối với quảng cáo tại Việt Nam vào thời điểm đó. Trong thời
điểm này hầu như các kênh truyền hình. đài phát thanh và báo chí đều có sự xuất hiện
quảng cáo của các sản phẩm của công ty P&G như Safeguard, Lux, Pantene, Header &
Shouder, Rejoice… Vào thời điểm này, mọi người đều nghe các khẩu hiệu quảng cáo như
“Rejoice tạo mái tóc mượt và không có gàu”, “Pantene giúp tóc bạn khỏe hơn”, “Header
& Shoulder khám phá bí quyết trị gàu”,“bột giặt Tide thách thức mọi vết bẩn”… Tổng

40
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

các chi phí quảng cáo này chiếm đến 35% doanh thu thuần của công ty và đã vượt xa
mức cho phép của luật thuế là không quá 5% trên tổng chi phí và nó cũng đã gấp 7 lần so
với chi phí trong luận chứng kinh tế ban đầu.

Ngoài các khoản quảng cáo này thì các khoản chi phí khác cũng vượt xa so với luận
chứng kinh tế ban đầu. Quỹ lương năm đầu tiên xây dựng trong luận chứng kinh tế là 1
triệu USD nhưng thực tế đã chi đến 3,4 triệu USD, tức là gấp 3,4 lần. Nguyên nhân chủ
yếu là do P&G đã sử dụng đến 16 chuyên gia là người nước ngoài trong khi trong luận
chứng kinh tế chỉ đưa ra từ 5 đến 6 người.

Ngoài hai chi phí trên thì các chi phí khác cũng phát sinh lớn hơn nhiều so với luận
chứng kinh tế ban đầu như chi phí cho chuyên gia xây dựng cơ bản ban đầu là 7 tỷ VND,
chi phí tư vấn pháp lý hết 7,6 tỷ VND và chi phí thanh lý hết 20 tỷ VND… Ngoài ra một
nguyên nhân khác dẫn đến việc thua lỗ nặng nề trong năm đầu tiên là do doanh số thực tế
năm chỉ đạt 54% kế hoạch và phải gánh chịu chi phí tăng cao, dẫn đến kết quả là năm đầu
tiên hoạt động thua lỗ 123,7 tỷ VND.

Tình hình này lại tiếp tục lặp lại vào năm thứ hai và kết quả là năm thứ hai lại tiếp tục
thua lỗ thêm 187,5 tỷ VND với con số thua lỗ lũy kế hai năm đến 311,2 tỷ VND; chiếm
¾ tổng số vốn của liên doanh, và đến tháng 7 năm 1997 thì tổng giám đốc của P&G đã
đầu tư quá giấy phép là 6 triệu USD, công ty phải vay tiền mặt để trả tiền lương cho nhân
viên. Đứng trước tình thế thua lỗ nặng nề và để tiếp tục kinh doanh thì bên phía đối tác
nước ngoài đề nghị tăng vốn thêm 60 triệu USD. Như vậy phía Việt Nam cần phải tăng
theo tỷ lệ vốn góp 30% (18 triệu USD). Vì bên phía Việt Nam không có đủ tiềm lực tài
chính nên cuối cùng đã phải bán lại toàn bộ số cổ phần của mình cho đối tác nước ngoài.
Như vậy công ty P&G Việt Nam từ hình thức là công ty liên doanh đã trở thành công ty
100% vốn nước ngoài.

b. Trường hợp công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương

Công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương là một liên doanh giữa hai đối tác là
Công ty Nước giải khát Chương Dương trực thuộc Bộ Công Nghiệp Việt Nam và Công

41
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

ty Coca Cola Indochina PTE.. LTD. Liên doanh này được cấp phép hoạt động vào ngày
27 tháng 9 năm 1995 với tổng số vốn đầu tư là 48,7 triệu USD. Vốn pháp định của liên
doanh này là 20,7 triệu USD. Trong đó phía Việt Nam góp 8,3 triệu USD bằng quyền sử
dụng 6 ha đất trong thời gian là 30 năm và chiếm 40% trong tổng vốn đầu tư. Liên doanh
này được cấp phép ngành nghề sản xuất kinh doanh là nước giải khát mang nhãn hiệu
Coca Cola, Fanta, Sprite theo license của công ty Coca Cola Company, Atlanta, Georgia
Hoa Kỳ và một số loại nước giải khát khác. Sau khi đi vào hoạt động thì công ty đã tiến
hành các hoạt động chuyển giá thông qua các hành vi như sau: Khi tham gia góp vốn liên
doanh thì bên đối tác nước ngoài đã tiến hành nâng giá trị tài sản vốn góp bằng cách định
giá cao các máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất nước giải khát. Do tại thời điểm này
trình độ chuyên môn cũng như thẩm định giá trị tài sản của Việt Nam còn nhiều hạn chế
nên không kiểm soát được vấn đề này. Luật pháp trong giai đoạn này cũng chưa điều
chỉnh được các tình huống trên. Đến năm 1996, do nhận thấy được tình trạng trên nên
Luật đầu tư đã có những sửa đổi nhưng vẫn còn chung chung, chưa cụ thể hóa. Như vậy
bên liên doanh đã định giá cao các thiết bị máy móc và dây chuyền sản xuất và thực hiện
thành công việc chuyển giá thông qua việc nâng giá trị tài sản vốn góp.

Sau khi bắt đầu sản xuất kinh doanh thì công ty Coca Cola bắt đầu thực hiện các chiến
lược chiếm lĩnh thị phần của các công ty nội địa. Để thực hiện việc chiếm lĩnh thị trường
thì công ty Coca Cola đã thực hiện các chiến lược bán phá giá sản phẩm, chiến lược
quảng bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu thông qua quảng cáo và marketing sản
phẩm, thực hiện các chiến lược khuyến mãi, tài trợ để xây dựng thương hiệu và đánh
bóng tên tuổi tại thị trường Việt Nam. Mặc dù mới xâm nhập vào thị trường Việt Nam
với một thời gian không lâu nhưng sản phẩm mang nhãn hiệu Coca Cola đã tràn ngập thị
trường và đã dần dần chiếm lấy thị phần của các công ty nội địa. Cuộc đối đầu giữa hai
nhãn hiệu nước giải khát lớn là Coca Cola và Pepsi đã dần dần loại bỏ các nhà sản xuất
nước giải khát nội địa như Hòa Bình, Cavinco, Chương Dương… Các công ty nội địa
một số phải đóng cửa hoặc phải bỏ thị trường chính như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội
và các thành thị để chuyển đến các thị trường nông thôn. Một số ít các công ty phải

42
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

chuyển đổi sang kinh doanh sản phẩm khác như công ty Tribico. Tribico nhờ chuyển
hướng kinh doanh sang sản phẩm sữa đậu nành và đây là một sản phẩm mà hai đại gia
trong ngành nước giải khát chưa sản xuất nên mới có thể tiếp tục tồn tại.

Trong chiến lược xâm chiếm thị phần của mình thì công ty Coca Cola Chương Dương
đã thực hiện chính sách bán phá giá. Giá bán của sản phẩm giảm một cách rõ rệt qua từng
năm. Có những thời điểm giá bán phá giá từ 25% đến 30% doanh thu. Chính điều này
góp phần vào làm cho công ty Coca Cola Chương Dương lỗ nặng nề hơn. Theo số liệu
thống kê của Cục Thuế TP.HCM thì giá bán giữa tháng 3 năm 2007 và tháng 3 năm 2008
giảm đến 23%.

Bảng: Giá bán của một thùng Coca Cola từ năm 1996 đến 1999

Thời Điểm Giá Bán (VND/Thùng) Tỷ lệ thay đổi


23/06/96 32.400
03/06/97 29.700 9%
01/09/97 28.350 5%
19/09/07 27.700 2%
01/03/98 22.600 24%

§
(Nguồn: Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh)

Thông qua việc bán phá giá này thì công ty Coca Cola Chương Dương đã thao túng
thị trường nội địa Việt Nam. Giá bán của một thùng sản phẩm giảm nhưng doanh số của
Coca Cola vẫn tăng. Điều này chứng tỏ lượng hàng tiêu thụ tăng từ thị phần được mở
rộng của Coca Cola. Khi tiến hành so sánh giá của một lon coca được bán tại thị trường
Việt Nam và thị trường Mỹ thì chúng ta sẽ thấy sự chênh lệch giá một cách rõ rệt. Giá
một lon coca tại thị trường Mỹ tại thời điểm lúc bấy giờ được bán với giá là 75 cents với
tỷ giá lúc bấy giờ 1 USD = 14.000 VND, tức là 1 lon coca được bán với giá 10.500 VND.
Một lon coca cùng thời điểm trên được bán tại thị trường Việt Nam với giá từ 5.000 VND
đến 7.000 VND (tương đương từ 40 đến 50 cents). Như vậy giá một lon coca được bán

43
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

tại Việt Nam thấp hơn so với thị trường Mỹ là 25 cent (khoảng 50%). Thông qua phân
tích giá bán sản phẩm thì liệu chúng ta có thể xác định chính sách bán phá giá này có
được sự điều phối từ công ty mẹ ở chính quốc.

Trong thời điểm diễn ra cúp bóng đá thế giới vào năm 1998, để đánh bóng thêm cho
tên tuổi và thương hiệu Coca Cola tại thị trường Việt Nam thì công ty Coca Cola còn tiếp
tục thực hiện việc tài trợ 1,3 tỷ VND bất chấp sự không đồng ý của phía liên doanh Việt
Nam. Đi đôi với chiến dịch khuyến mãi này là việc tăng dung tích chai Coca Cola từ 200
ml lên thành 300 ml (tương đương 50%) nhưng giá bán không đổi. Chiến dịch khuyến
mãi này được quảng cáo rầm rộ trong suốt thời gian diễn ra cúp bóng đá thế giới trên các
phương tiện truyền thông như các kênh truyền hình, đài phát thanh, và báo chí… Kết quả
của chiến dịch khuyến mãi này đã làm cho công ty Coca Cola đã lỗ hết 20 tỷ đồng.

Bảng: Kết quả kinh doanh của công ty Coca Cola từ năm 1996 đến 1998

Diễn Giải 1996 1997 1998


Tỷ suất lợi nhuận -24.80% -24.50% -52.10%
Lợi nhuận/ tài sản ròng -11.30% -26.30%
Lợi nhuận/doanh thu -22.10% -22.13% -46.50%

(Nguồn: Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh)

Ngoài những hoạt động như khuyến mãi quảng cáo thì tại công ty Coca Cola có một
đặc điểm là có hơn 40% chi phí nguyên vật liệu cho sản xuất được nhập khẩu trực tiếp từ
công ty mẹ. Đối với ngành sản xuất nước giải khát thì chi phí nguyên vật liệu chiếm hơn
50% trong tổng chi phí, vì vậy giá trị nguyên vật liệu nhập từ công ty mẹ là rất lớn. Do đó
chắc chắn sẽ có hiện tượng nâng giá đầu vào tại khâu mua nguyên vật liệu từ công ty mẹ.

Theo báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty, xem xét tỷ trọng chi phí
nguyên vật liệu chiếm trong tổng chi phí thì chi phí nguyên vật liệu chiếm tới 60,14%
trong tổng chi phí. Khi so sánh với doanh thu thì chi phí nguyên vật liệu chiếm 66,82%.
Nếu đem tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu so với doanh thu và chi phí tại công ty Coca Cola

44
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

so sánh với các công ty trong cùng ngành sản xuất nước giải khát thì tỷ lệ này quá cao và
không phù hợp với đặc điểm và tỷ suất lợi nhuận của ngành này.

Trong thời điểm mà Nhà nước chưa quản lý được giá mua nguyên vật liệu giữa công
ty Coca Cola Chương Dương và công ty Coca Cola mẹ ở chính quốc thì có thể xảy ra
tình trạng kê khai nâng giá mua vào trên hóa đơn so với giá thực tế (đây là hiện tượng
chuyển giá). Mục đích của việc làm này là gây lỗ cho công ty tại Việt Nam nhưng công
ty mẹ tại chính quốc sẽ thu lợi do giá nguyên vật liệu đuợc bán với giá cao. Đây cũng là
một hình thức chuyển lợi nhuận về chính quốc trong khi công ty con tại Việt Nam phải
chịu lỗ. So sánh tỷ lệ nguyên vật liệu trên giá vốn hàng bán (NVL/GVHB) của công ty
Coca Cola Chương Dương và hai công ty con của Coca Cola mẹ hoạt động tại Úc và
Canada. Cả ba công ty này cùng mua nguyên vật liệu và hương liệu từ công ty mẹ trong
bảng sau:

Bảng: So sánh tổng hợp giữa ba công ty Coca Cola con tại ba quốc gia:

(Nguồn Cục thuế TP. Hồ Chí Minh)

Năm Coca Cola Enterprises Cocacola Amati Coca Cola Chương Dương
NVL NVL GVHB NVL NVL GVHB NVL NVL GVHB

DTT GVHB DTT DTT GVHB DTT DTT GVHB DTT

1996 20.20% 32.67% 61.81% 15.49% 25.91% 59.80% 66.82%

1997 22.16% 35.23% 62.92% 17.87% 31.68% 56.41% 52.42% 81.00% 74.80%

1998 23.11% 36.94% 62.55% 20.00% 34.84% 57.38% 70.00% 86.87% 89.13%

Xem xét trong bảng phân tích chúng ta có thể thấy được là tỷ lệ nguyên vật liệu trên
giá vốn của hai công ty Coca Cola Enterpises and Coca Cola Amati chỉ chiếm từ 31%
đến 37%. Trong khi tỷ lệ nguyên vật liệu trên giá vốn hàng bán tại Coca Cola Chương
Dương luôn luôn lớn hơn 80% trong cả hai năm 1997 và 1998. Điều này đã đặt ra câu hỏi

45
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

tại sao lại có sự khác biệt quá lớn về tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu trong cùng một
ngành sản xuất nước giải khát như vậy? Và điều này cũng khẳng định thêm là có hành vi
chuyển giá trong các nghiệp vụ mua nguyên vật liệu từ công ty mẹ. Cụ thể hơn chúng ta
có thể xem xét bảng số liệu doanh thu và chi phí của công ty Coca Cola Chương Dương
năm 1996.

Bảng: Số liệu doanh thu và chi phí của công ty Coca Cola Chương Dương 1996

(Nguồn Cục Thuế TP.Hồ Chí Minh)

Chỉ Tiêu Giá trị (USD) Tỷ lệ phần trăm trên tổng chi phí

Doanh Thu 239.761.715

Tổng chi phí 266.375.982 100%

Chi Phí nguyên vật liệu 160.204.461 60%

Chi phí khấu hao 7.991.279 3%

Thuế doanh thu 18.646.318 7%

Chi phí tiếp thị. bán hàng 71.921.515 27%

Các khoản khấu trừ khác 7.612.409 3%

46
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

2.4. Chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất

Các trường hợp chuyển giá được xem xét ở trên là chuyển giá dựa vào sự chênh lệch
thuế suất thuế TNDN giữa các quốc gia. Trong trường hợp của công ty Foster’s Việt Nam
đã né tránh thuế tiêu thụ đặc biệt. Công ty Foster’s Việt Nam đã dựa vào luật pháp của
Việt Nam tại thời điểm đó chưa được chặt chẽ để né tránh và lách thuế nhằm giám đáng
kể số thuế phải nộp.

Vào thời điểm mà giá bán một két bia Foster’s được công ty bia Foster’s Việt Nam
bán cho các đại lý là 240.000 VND/két với thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cho bia chai là
75% thì mỗi két bia phải đóng thuế tiêu thu đặc biệt là:

Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt = Giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt/(1+thuế suất)

= 240.000/(1+75%) = 137.143 VND.

Như vậy với giá bán một két bia là 240.000 VND thì công ty bia Foster’s Việt Nam
phải có nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt cho nhà nước là 102.857 VND. Với một số
thuế nộp lớn như vậy thì chủ đầu tư của Foster’s Việt Nam đã tìm cách để lách thuế và
nộp số thuế nhỏ hơn. Chủ đầu tư Foster’s tại Việt Nam đã quyết định thành lập thêm một
công ty TNHH Poster’s Việt Nam. Công ty này có nhiệm vụ chuyên thực hiện nhiệm vụ
tiêu thụ sản phẩm do hai nhà máy bia Foster’s sản xuất ra. Giá bán một két bia Foster’s
của hai nhà máy bia cho công ty TNHH Foster’s Việt Nam chỉ là 137.500 VND. Với giá
bán như vậy thì thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp cho mỗi két bia sẽ là: [137.500/
(1+75%)]*75% = 58.929 VND, Công ty TNHH Foster’s Việt Nam bán bia ra thị trường
thì công ty này phải nộp thêm thuế giá trị gia tăng là 5%. Giả sử giá bán một két bia
không đổi vẫn là 240.000 VND/két thì số thuế giá trị gia tăng mà công ty TNHH bia
Foster’s phải nộp là Như vậy tổng cộng số thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng
mà chủ đầu tư phải nộp trong trường hợp chủ đầu tư thành lập thêm công ty TNHH
Foster’s Việt Nam cho mỗi két bia là 58.929 VND + 11.429 VND = 70.358 VND. Nếu
chúng ta đem so sánh tổng số tiền thuế phải nộp của chủ đầu tư trước và sau khi thành lập
công ty TNHH Foster’s Việt Nam thì chúng ta có thể thấy là chủ đầu tư đã tiết kiệm được

47
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

một khoản tiền thuế phải nộp là 32.499 VND (tương đương 31,6%). Với cách thực hiện
này thì thuế TNDN mà chủ đầu tư phải nộp có thể là không thay đổi hoặc thay đổi theo
hướng có lợi cho chủ đầu tư vì chủ đầu tư có thể đưa thêm các chi phí quản lý doanh
nghiệp, chi phí khấu hao hay chi phí quảng cáo nhằm giảm số thuế TNDN phải nộp. Với
trường hợp trên thì các chuyên gia tài chính nhận định mặc dù cơ quan nhà nước có thể
nhận diện ra đây là một hành vi chuyển giá nhưng do pháp luật Việt Nam tại thời điểm đó
còn nhiều điểm chưa chặt chẽ hoặc không có điều luật chế tài đối với hành vi trên vì vậy
mà cơ quan nhà nước không thể bắt bẻ về thủ thuật tách rời khâu sản xuất và khâu thương
mại của công ty bia Foster nhằm mục đích lách thuế là giảm số thuế phải nộp.

3. Một số biện pháp chống chuyển giá ở Việt Nam

3.1. Biện pháp hành chính

Áp dụng các biện pháp so sánh giá thị trường được xem là nghĩa vụ bắt buộc của đối
tượng nộp thuế TNDN khi thực hiện các giao dịch liên kết.

Đối tượng nộp thuế TNDN còn có nghĩa vụ kê khai các giao dịch liên kết đã thực hiện
và phương pháp so sánh giá đã áp dụng khi khai báo thuế. Cơ chế này được thực hiện sẽ
làm giảm khả năng không kiểm soát được các giao dịch liên kết gây khó khăn cho chủ thể
quản lý. Vì khi trao nghĩa vụ kê khai các giao dịch liên kết cho đối tượng nộp thuế vừa
giảm thiểu chi phí quản lý, vừa tăng quyền tự quyết định, tự chịu trách nhiệm với những
thông tin mà đối tượng nộp thuế cung cấp. Điều này được xem là phù hợp với xu thế
quản lý thuế hiện đại (tự kê khai, tự nộp). Đối tượng nộp thuế sẽ phải gánh chịu trách
nhiệm pháp lý nếu không đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ này, và có quyền được bảo vệ
bí mật về thông tin đã cung cấp trong quá trình xác định giá. Tuy vậy cơ chế bảo mật
thông tin trong trường hợp này chưa được nhà nước quan tâm điều chỉnh cụ thể, vì thế sẽ
không thể biết rằng một khi thông tin nội bộ của họ (như bí mật công nghệ, giải pháp kỹ
thuật...) bị rò rỉ gây thiệt hại cho đối tượng nộp thuế thì trách nhiệm của cơ quan quản lý
sẽ ra sao, mức bồi thường như thế nào? Câu hỏi này chưa có lời đáp rõ ràng.

48
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Như trước đây, định giá chuyển giao chỉ được áp dụng khi cán bộ chuyên quản thuế
kiểm tra phát hiện có hiện tượng chuyển giá. Nhưng để phát hiện có chuyển giá hay
không lại phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng và yếu tố chủ quan của chính người quản lý.
Ta có thể thấy được đào tạo đội ngũ cán bộ thuế đủ năng lực cũng là một vấn đề lớn.

3.2. Biện pháp cưỡng chế

Quy định về quyền của cơ quan thuế được ấn định mức giá sử dụng để kê khai tính
thuế hoặc ấn định thu nhập chịu thuế hay số thuế thu nhập phải nộp. Việc ấn định dựa
trên cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế phù hợp quy định về ấn định thuế hoặc theo giá trị
không thấp hơn giá trị trung bình của biên độ giá thị trường chuẩn được cơ quan thuế ấn
định. Cơ chế ấn định giá trong trường hợp này chưa được quy định rõ vì tiêu chuẩn lựa
chọn để định giá nào sẽ được xem là phù hợp một khi những thông tin mà đối tượng nộp
thuế cung cấp được xem là giả mạo, hoặc không có giao dịch độc lập tương tự để so sánh.
Từ đây có thể xảy ra việc cơ quan quản lý có thể tùy nghi vận dụng.

Chẳng hạn quy định tại Thông tư 66/2010/TT-BTC đề cập về sự “nghi ngờ” của cơ
quan thuế liên quan đến tính trung thực của đối tượng nộp thuế dẫn đến việc chủ thể này
phải có nghĩa vụ chứng minh. Nhưng cơ sở của sự nghi ngờ này là gì thì không rõ. Vì thế
đối tượng nộp thuế sẽ rất khó chứng minh nghĩa vụ của mình, nhưng lại rất dễ để cơ quan
quản lý làm khó đối tượng nộp thuế vì tự thân sự nghi ngờ hoàn toàn có thể xuất phát
cảm tính của chủ thể quản lý. Nhưng một ví dụ cụ thể trên thực tế là để chống chuyển
giá, cần phải nắm được thông tin giá giao dịch sòng phẳng. Thí dụ, giá nhập linh kiện
(chưa thuế) để lắp ráp một chiếc xe hơi tại Việt Nam là 30.000 USD, trong khi một chiếc
xe mới tương tự (đã tính công lắp ráp) tại Thái Lan là 10.000 USD. Tuy nhiên làm sao
biết được giá sòng phẳng của một cái khung xe hay một cái động cơ là bao nhiêu khi
phần lớn các linh kiện đó chỉ được mua bán qua lại giữa các công ty trong cùng tập đoàn
với nhau chứ không bán ra thị trường. Hơn nữa, có những tài sản rất khó định giá như
công nghệ, uy tín và chi phí nghiên cứu, vì không có những tài sản tương đương để đánh
giá.

49
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Vì vậy, một số giải pháp bổ sung Thông tư 66/2010/TT-BTC để chống chuyển giá
trong tương lai là:

• Thu thập thông tin càng nhiều càng tốt về giá giao dịch sòng phẳng cho các loại
hàng hoá bị nghi ngờ có hành vi chuyển giá.

• Khi có nghi ngờ về giá giao dịch, cơ quan thuế sẽ yêu cầu doanh nghiệp giải trình
về sự chênh lệch giá.

 Nếu doanh nghiệp có lý do chính đáng, cơ quan thuế sẽ công nhận không
có hành vi chuyển giá.

 Nếu doanh nghiệp không có lý do chính đáng, cơ quan thuế có thể định giá
lại theo phương pháp: so sánh giá giao dịch với giá của giao dịch tương đương ngoài thị
trường (comparative unit pricing).

 Nếu không có giá tương đương, cơ quan thuế có thể áp dụng phương
pháp ấn định giá mua (cost-plus method) hay ấn định giá bán trên tỷ lệ lợi nhuận trung
bình của các doanh nghiệp tương tự (profit mark-down method).

 Nếu xuất hiện trường hợp doanh nghiệp bị đánh thuế 2 lần, thì cho
phép thuế thu nhập ở nước này được khấu trừ vào thuế thu nhập phải trả ở nước kia. Và
để tránh trường hợp khoản bị khấu trừ quá lớn, cơ quan thuế của hai nước nên trao đổi
thông tin cho nhau, theo hướng sẽ báo trước 1 năm để nước kia chuẩn bị.

• Trường hợp xác định có hiện tượng chuyển giá, cơ quan thuế có thẩm quyền có
thể áp dụng các hình phạt thuế đối với doanh nghiệp vi phạm. Hiện nay ở Việt Nam vẫn
chưa ban hành các mức phạt cụ thể nhưng chúng ta có thể áp dụng một số hình phạt đã
được áp dụng thành công ở một số nước như:

 Ở Anh, khoản phạt có thể đến 100% số thuế bị truy thu trong trường hợp
đối tượng nộp thuế cố ý không tuân thủ các quy định pháp lý về chuyển giá.

 Ở Trung Quốc, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài bị phát hiện kê khai
giảm thu nhập thì sẽ bị phạt đến 3 lần số thuế trốn (5 lần trong trường hợp nghiêm trọng).

50
Tài chính công ty đa quốc gia Chuyển giá

Thời hiệu truy thu thuế thông thường là 3 năm trở về trước, và từ 5-10 năm đối với những
trường hợp trốn thuế lớn gây hậu quả nghiêm trọng. Lãi suất tính lãi đối với số thuế nợ:
0,05%/ngày (tương đương với 20%/năm).

Cuối cùng, tất cả chúng ta cần có một cái nhìn đầy đủ hơn về chuyển giá, về phạm vi
tác động của giá thị trường được định ra trong các phương pháp xác định giá để từ đó
chuyển các giao dịch liên kết về đúng với bản chất tự nhiên của nó là một giao dịch bình
đẳng. Ở đây là một sự bình đẳng theo đúng nghĩa thị trường không vì lợi ích cục bộ của
riêng một chủ thể nào. Làm được điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của Nhà nước mà tính
đến lợi ích của những chủ thể khác nhằm duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng trong xã hội có nhiều quan hệ đa chiều như hiện nay. Việt Nam đang kêu gọi
đầu tư nước ngoài, nhiều công ty nước ngoài đã và đang mở chi nhánh hoạt động tại nước
ta. Ngược lại, nhiều công ty Việt Nam đã và sẽ mở chi nhánh hoạt động tại nước ngoài.
Các doanh nghiệp này lựa chọn giá chuyển giao dựa trên cơ sở nào là vấn đề đáng quan
tâm, vì chúng không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp, mà còn ảnh hưởng đến
quyền lợi quốc gia.

Các biện pháp trên tại nước ta cũng mới chỉ ngăn ngừa được một phần rất nhỏ hành vi
chuyển giá. Vì hầu hết các biện pháp trên cũng chỉ mới phát hiện hiện tượng này chứ
chưa đưa ra quy chế phạt đúng mức. Do đó, nếu chính phủ Việt nam muốn ngăn chăn
hiện tượng này cần thực hiện chặt chẽ hơn nữa các biện pháp trên, đồng thời cũng có
những chế tài mới và phù hợp hơn.

51

You might also like