You are on page 1of 10

(Tài liệu chỉ có tính chất tham khảo/ Không phải đáp án)

Câu 1: Mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật:


Mối quan hệ đó là: Nhà nước ban hành ra luật pháp, luật pháp là công cụ hữu hiệu để bảo vệ chế độ
nhà nước, giai cấp của mình - hay còn gọi: Nhà nước nào thì pháp luật ấy. Nhà nước sử dụng pháp
luật để Phục vụ ý chí của giai cấp thống trị, bản chất của pháp luật của một nhà nước phụ thuộc vào
đường lối chính trị của nhà nước đó
Có thể nhận thấy rằng pháp luật hình thành từ hai con đường:
- Nhà nước thừa nhận những quy tắc vốn tồn tại trong xã hội và cải tạo những quy tắc đó cho phù
hợp với lợi ích của nhà nước (Tập quán pháp, án lệ)
- Thông qua con đường hoạt động xã hội, nhà nước ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh
các quan hệ xã hội mới nảy sinh trong thực tế mà trước đó không có.

Như vậy pháp luật là hệ thống các quy tắc hành vi, quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điểu chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với
lợi ích của giai cấp mình.
Liên hệ Việt Nam (nếu có):
Pháp chế xã hội chủ nghĩa được hiểu là chế độ tuân thủ nghiêm chỉnh, chính xác hiến pháp và luật
của mọi chủ thể của các quan hệ pháp luật. “Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992” quy định tại điều 12 “Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Nguyên tắc này cũng được coi là một trong những nguyên tắc cơ
bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở Việt Nam. Trong hoạt động lập pháp, hành
pháp và tư pháp, cần triệt để tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
NTPCXHCN đòi hỏi phải bảo đảm tính thống nhất của pháp chế, bảo đảm tính tối cao của hiến
pháp và luật, bảo đảm và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của công dân đã được pháp luật quy
định, ngăn chặn kịp thời và xử lí nhanh chóng, công minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm
sự thống nhất giữa pháp chế và tính hợp lí, công bằng.
Để Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phải xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam nhằm làm cho hoạt động của Nhà nước ta đem lại hiệu quả thật sự.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà mọi người được tôn trọng, dân chủ được mở rộng, người
dân sống và làm việc theo luật định. Nhà nước pháp quyền là nhà nước phải thể hiện được việc điều
hành và quản lí xã hội bằng luật.
- Pháp quyền là phương tiện, còn hiệu quả quản lí xã hội làm cho đất nước ngày càng tăng trưởng,
ổn định chính trị, kinh tế, đời sống nhân dân ngày càng cao mới là mục đích của Người. Hồ Chí
Minh nói rằng, có độc lập mà dân vẫn không có cơm ăn, áo mặc thì độc lâp, tự do cũng không có ý
nghĩa gì. Nhà nước pháp quyền mà các chỉ số phát triển về kinh tế, dân sinh không phát triển thì
pháp quyền chỉ là hình thức.
a- Một nhà nước có hiệu lực pháp lí mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến.
- Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết và tuyên đọc tại vườn hoa Ba Đình Hà Nội ngày 2-9-
1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam mới, đồng thời đảm bảo địa vị hợp pháp của chính phủ lâm
thời.
- Cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước đã thực hiện 4 tháng sau ngày độc lập ngày 2-3-1946 Quốc hội
họp phiên đầu tiên và bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là
Chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong
việc giải quyết mọi vấn đề của Nhà nước Việt Nam mới.
b- Một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là Nhà nước quản lí đất nước bằng pháp luật và
phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế.
Nhà nước dân chủ thì dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo
đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Không có dân chủ ngoài pháp luật. Mọi quyền dân chủ của
1
người dân phải được thể chế hoá bằng pháp luật. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm
bảo được việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm suốt đời của Hồ Chí Minh. Thể
hiện :
- Trong Bản Yêu sách 8 điểm, Nguyễn Ái Quốc đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lí ở Đông
Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật.
- Ở cương vị chủ tịch, Hồ Chí Minh đã hai lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến
pháp 1959 và đã kí nhiều văn bản pháp luật khác.
- Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật
được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan Nhà nước và trong nhân
dân, trong đó, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí bồi dưỡng ý thức làm chủ, khuyến
khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước.

Câu 2: Căn cứ bài học + Thực tiễn

Câu 3:

Ngay sau khi khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Pháp quyền là quyền
lực của pháp luật, thượng tôn pháp luật: nhấn mạnh quyền lực, sức mạnh của pháp luật. Quan niệm
hiện nay tại VN về nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước được làm điều mà pháp luật cho phép,
dân được làm điều mà pháp luật không cấm. Nhưng một nhà nước pháp quyền không đơn thuần chỉ
có luật, ở đó pháp trị phải kết hợp với đức trị. Có đức trị thì mới củng cố được pháp luật. Trong lịch
sử, thời nhà Lê thịnh trị vì kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp trị và đức trị

3.1. Tại sao phải qlý XH bằng PL? Hoàn thiện PL theo định hướng nào? Tại sao?

Pháp luật đc đặt ra để bảo vệ quyền lợi của mỗi con người: Quyền được sống , hòa bình và bình
đẳng. pháp luật có vai trò là công cụ duy trì và phát triển của một xã hội, một đất nước. Vai trò đó
dựa vào ba điểm mạnh sau đây của bản thân pháp luật:

- Tính bắt buộc chung. Bất kì ai khi đặt vào tình huống, hoàn cảnh pháp luật qui định không thể xử
sự khác được.

- Tính minh bạch. Pháp luật được xác định chặt chẽ, ổn định, có thể tiên liệu, dự đoán trước.

- Tính được đảm bảo thực hiện bởi nhà nước. Nhờ có cơ quan công quyền tiến hành tổ chức đưa
pháp luật vào cuộc sống và xử lí vi phạm, nên pháp luật đã xứng đáng xếp vào vị trí là công cụ hiệu
năng nhất để nhà nước quản lí xã hội.

Để hoàn thiện hệ thống pháp luật cần bám sát theo một số định hướng sau :

- Tính ổn định của pháp luật. Đây là yêu cầu cần thiết, bởi không thể thường xuyên đảo lộn các
quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp luật. Ngạn ngữ Anh có câu: “Pháp luật thay đổi thường
xuyên thì tệ hơn là không có pháp luật”

- Tính chuẩn mực, tức là tính quy phạm của pháp luật. Bản thân pháp luật là hệ thống các quy
phạm, tức là các chuẩn mực. Giá trị của pháp luật chính là tạo ra các chuẩn mực cho các chủ thể
khác nhau trong đời sống xã hội. Nếu pháp luật không chứa đựng các chuẩn mực thì ý nghĩa của nó
trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội không lớn.
2
- Tính nhất quán, tính hệ thống của pháp luật. Pháp luật phải có tính nhất quán, thể hiện ở chỗ các
văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực, có khi trong nhiều lĩnh vực khác nhau đều phải bảo đảm
thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể. Ví dụ, quyền sở hữu của công dân được Hiến pháp
quy định phải được bảo đảm bởi các luật và văn bản dưới luật. Các văn bản pháp luật phải quy định
trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện được
quyền sở hữu những gì mà pháp luật không cấm. Do vậy, ví dụ, việc hạn chế công dân sở hữu xe
máy, xe ô tô đương nhiên không bảo đảm tính nhất quán của hệ thống pháp luật.

- Tính hệ thống. Tính hệ thống cũng có những khía cạnh tương đồng với tính nhất quán. Tuy nhiên,
tính nhất quán của pháp luật hàm chứa khía cạnh nội dung và chính sách trong lúc đó tính hệ thống
được thể hiện nhiều qua cấu trúc, cách sắp xếp, phân loại thứ bậc, hiệu lực của quy phạm pháp luật.

- Không hồi tố. Bảo đảm không hồi tố là một trong những đòi hỏi của pháp luật trong nhà nước
pháp quyền. Giá trị nhân đạo của yêu cầu không hồi tố thể hiện ở chỗ không thể bắt một cá nhân
phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi mà khi thực hiện người đó không thể biết rằng trong tương
lai đó sẽ là hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, về cơ bản, nguyên tắc pháp luật trong nhà nước pháp
quyền không có giá trị hồi tố. Một số quy phạm pháp luật nhất định có thể có giá trị hồi tố, nhưng
chỉ trong trường hợp việc hồi tố đó có lợi cho những chủ thể có liên quan.

- Tính minh bạch. Tính minh bạch của pháp luật là một đòi hỏi rất quan trọng. Cũng có quan điểm
cho rằng tính minh bạch của pháp luật thể hiện ở việc pháp luật được công bố, được phổ biến rộng
rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Quan niệm này không sai, song chưa toàn diện, chưa
đầy đủ. Tính minh bạch của pháp luật còn thể hiện ở sự minh xác, sự minh định, tính hệ thống và
nhất quán. Một hệ thống pháp luật cồng kềnh, khó tiếp cận, khó hiểu, khó vận dụng và chứa đựng
những mâu thuẫn nội tại không thể được coi là minh bạch và không thể trở thành nền tảng cho nhà
nước pháp quyền.

3.2. Tại sao phải tăng cường pháp chế XHCN?

Pháp chế là một phạm trù thể hiện những yêu cầu, đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật phải tôn
trọng và thực hiện đúng pháp luật. Như vậy pháp luật là tiền đề của pháp chế, pháp chế là cơ sở
vững chắc để pháp luật có hiệu lực thực sự. Việc tăng cường pháp chế XHCN có ý nghĩa sau:
- Đối với nhân dân : Tăng cường pháp chế XHCN là điều kiện để thực hiện dân chủ XHCN
- Đối với nhà nước : Tăng cường pháp chế XHCN để bảo đảm hiệu lực quản lý của nhà nước.
- Đối với Đảng : Tăng cường pháp chế XHCN là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước và xã hội.

Việc tăng cường pháp chế XHCN không chỉ là một nhiệm vụ mà còn là một quan điểm cơ bản có
tính nguyên tắc chỉ đạo việc tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ
máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam nhằm đảm bảo thắng lợi cho quá trình đổi mới và phát
triển đất nước.

Những giải pháp để tăng cường pháp chế:

Để tăng cường pháp chế, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, không chỉ xây dựng và hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật, mà quan trọng hơn là tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được
thực hành thường xuyên và nghiêm chỉnh, đấu tranh kiên quyết với những hành vi vi phạm pháp
luật. Pháp luật không được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất thì pháp luật sẽ không có hiệu lực
và trên thực tế cũng sẽ không có pháp chế.
3
Việc tăng cường pháp chế phải đi liền với việc đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp
sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân. Cho nên, xây dựng pháp luật và
đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp
luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây
dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ
chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích
tính tích cực pháp lý phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải cách hành
chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế còn đặt ra nhiệm vụ phải bằng
mọi cách nâng cao sự hiểu biết pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên
quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.

Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn cần đến sự kiểm tra, giám
sát đầy đủ và hữu hiệu. Các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và
hoàn thiện ở mức cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân
dân và đất nước, pháp luật luôn luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững. Đối với
các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức
trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả.
Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công,
phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn.

Câu 4. Các nguyên tắc của hoạt động xây dựng Pháp luật:

Nguyên tắc của pháp luật là những tư tưởng cơ bản, mang tính xuất phát điểm, cấu thành một bộ
phận quan trọng nhất thấm nhuần toàn bộ nội dung cũng như hình thức của hệ thống pháp luật, là
cơ sở chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng pháp luật cũng như thực hiện pháp luật. Hoạt động xây
dựng pháp luật là giai đoạn đầu tiên của cơ chế điều chỉnh pháp luật hoặc đóng vai trò là phương
tiện pháp lý đặc thù để đưa pháp luật vào cuộc sống, do đó xây dựng pháp luật cần phải dựa trên
những nguyên tắc khoa học.

Ngoài những nguyên tắc chung của pháp luật như nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì
luật không cấm, các cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; nguyên tắc công bằng;
nguyên tắc Đảng lãnh đạo. Trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản có những nguyên tắc
riêng như sau:

1. Nguyên tắc dân chủ

Thứ nhất, để bảo đảm nguyên tắc dân chủ, cần phải phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp trong
hoạt động lập pháp như trưng cầu dân ý hay phúc quyết hiến pháp như Hiến pháp 1946 đã làm.
Trong tương lai với sự phát triển của công nghệ thông tin thì khoảng cách không gian không phải là
trở ngại lớn để tiến hành các hình thức dân chủ trực tiếp.

Thứ hai, cần phải tăng cường lấy ý kiến nhân dân đối với các dự thảo văn bản pháp luật.

Thứ ba, các hoạt động lập pháp cần phải được công khai. Các đại biểu Quốc hội ở Việt Nam là đại
biểu cho toàn quốc. Nhưng cần phải báo cáo về hoạt động lập pháp của mình. Ý kiến của các đại
biểu thiểu số cần phải được ghi lại và công bố cho cử tri. Qua đó cử tri biết được đại biểu mà họ bầu
có hoàn thành nhiệm vụ đại diện và bảo vệ quyền lợi cho họ không.

2. Nguyên tắc phản ánh và điều hoà mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích trong xã hội
4
Các thành viên trong xã hội đều tìm hiểu và vận dụng pháp luật để thực hiện và bảo vệ lợi ích của
mình mà không làm tổn hại lợi ích của người khác. Muốn pháp luật là công cụ của toàn xã hội thì
các lợi ích khác nhau đều được phản ánh và ghi nhận ở các mức độ khác nhau chứ không thuần tuý
chỉ ghi nhận lợi ích của giai cấp thống trị Pháp luật không phải phản ánh y nguyên tất cả các lợi ích,
các khuynh hướng trong xã hội. Vì nếu làm như vậy thì trước mỗi tình huống đặt ra thì pháp luật
phải ghi nhận một trăm kiểu xử sự khác nhau phù hợp theo yêu cầu riêng của mỗi người và như vậy
thì pháp luật không còn là pháp luật nữa. Pháp luật như là mẫu số của các hành vi trong xã hội, chỉ
ghi nhận những quy tắc chung. Quá trình ghi nhận nguyên tắc chung chính là quá trình cân nhắc lợi
ích của các nhóm.

Hệ thống chính trị của Việt Nam là thống nhất nhưng lợi ích trong xã hội là không thống nhất.
Pháp luật của Nhà nước Việt Nam bảo vệ lợi ích của đa số nhân dân lao động. Nhưng nhân dân lao
động bao gồm công nhân, nông dân, trí thức... họ thuộc các nghành nghề, lĩnh vực khác nhau.
Cùng với việc thừa nhận quyền tự do kinh doanh sẽ hình thành giai cấp tư sản trong xã hội - giai
cấp nắm tài sản trong tay, trực tiếp làm chủ những người công nhân. Giai cấp tư sản cũng có nhu
cầu được nhà nước bảo vệ và họ cũng có tiếng nói trong quá trình lập pháp. Nếu chúng ta phủ
nhận những mâu thuẫn trong xã hội là chúng ta siêu hình. Nếu xã hội không có mâu thuẫn thì xã
hội sẽ không có động lực phát triển. Mâu thuẫn và cạnh tranh là động lực phát triển của xã hội và
thế giới tự nhiên.

Nếu thừa nhận mâu thuẫn thì phải để mâu thuẫn đó tự biểu hiện và điều hoà với nhau. Nếu mâu
thuẫn được bộc lộ và phát triển một cách đầy đủ thì nó sẽ sớm được giải quyết để đưa xã hội phát
triển đến một chất mới với tầm cao hơn. Việc giải quyết mâu thuẫn xã hội không thể bằng một
người hay một nhóm người. Một người không có quyền lợi liên quan lợi ích đang bị thiệt hại sẽ
không có trách nhiệm bằng chính người có lợi ích bị thiệt hại. Có đại diện của các nhóm lợi ích
khác nhau trong Quốc hội để trực tiếp điều hoà các mâu thuẫn là cách giải quyết tốt nhất. Nhưng số
đại biểu thì có hạn nên phải có nhiều cách khác nhau để giải quyết vấn đề trên.

Thứ nhất, tăng cường lấy ý kiến nhân dân cho các dự thảo. Thông qua việc trực tiếp tham gia thảo
luận, đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, nhân dân có cơ hội bày tỏ thái độ, quan điểm của mình
trước nhà nước, mở rộng hiểu biết, nâng cao ý thức pháp luật, hoà nhập với cộng đồng, tự mình
điều chỉnh lợi ích riêng phù hợp với các lợi ích khác. Người dân được tham gia điều chỉnh lợi ích
của mình thì họ sẽ tự nguyện thực hiện pháp luật, nâng cao hiệu quả pháp luật.

Thứ hai, tổ chức các diễn đàn thảo luận. Các diễn đàn thảo luận tuy không mang tính đại chúng
nhưng là nơi thể hiện sự cọ xát trực tiếp giữa các nhóm lợi ích đối lập. Cơ quan lập pháp quan sát
sự cọ xát lợi ích và điều hoà sự mâu thuẫn đó. Các diễn đàn được các phương tiện thông tin đại
chúng đăng tải. Hiện nay ở Việt Nam, đã tổ chức các diễn đàn thảo luận, các hội thảo về các dự
thảo. Nhưng được tổ chức một cách riêng rẽ. Mỗi cơ quan tự tổ chức hội thảo riêng. Ví dụ: Viện
Kiểm sát tổ chức rất nhiều hội thảo để giữ lại chức năng kiểm sát chung trong dự thảo sửa đổi Hiến
pháp 1992. Thậm chí, ban soạn thảo khi cần sự ủng hộ của các ý kiến mang tính chất bảo thủ sẽ đưa
ra thảo luận tại một tổ chức nhất định gồm những người bảo thủ và khi đưa ra các dự thảo mang
tính đột phá lại đưa ra thảo luận tại một tổ chức khác đại diện cho những nhóm lợi ích mới được
hình thành (Ví dụ các văn bản liên quan đến pháp luật kinh doanh sẽ được đưa ra hỏi ý kiến tại Hội
luật gia - gồm chủ yếu những người già đã về hưu tham gia thảo luận - nếu ban soạn thảo cần sự
ủng hộ của những ý kiến bảo thủ. Khi dự thảo mang nhiều tính đột phá thì sẽ được đưa ra thảo luận,
lấy ý kiến tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam). Cách làm gián tiếp như vậy sẽ thiếu
tính toàn diện, khách quan.
5
Thứ ba, cho phép thành lập rộng rãi các tổ chức tự nguyện, tự quản hoạt động trên cơ sở pháp luật
để bảo vệ các nhóm lợi ích đặc thù như người già, trẻ em... hay các nhóm lợi ích mới hình thành
như doanh nghiệp trẻ, những người xuất khẩu hải sản... Hiện nay chúng ta đang nhà nước hoá các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp. Chúng ta chưa ý thức được
mâu thuẫn giữa nhà nước và xã hội là mâu thuẫn tự nhiên và các tổ chức xã hội được thành lập ra
để bảo vệ các lợi ích mà thông qua nhà nước họ không được bảo vệ thoả đáng. Vì vậy nếu nhà
nước hoá các tổ chức xã hội thì làm mất đi ý nghĩa nguyên thuỷ của nó và nhà nước phải chi trả
cho hoạt động của các tổ chức xã hội vốn dĩ không thuộc chức năng của nhà nước. Thông qua các
tổ chức xã hội các lợi ích thiểu số sẽ liên kết lại để có tiếng nói ảnh hưởng đến qúa trình lập pháp.
Nếu không có các liên minh lợi ích này thì lợi ích của nhóm thiểu số sẽ bị phủ quyết bởi nguyên tắc
số đông còn nếu như được đề cập với sự thương hại của số đông không là một bảo đảm chắc chắn
cho họ.

3. Nguyên tắc khách quan

Chỉ có các điều kiện kinh tế xã hội ra lệnh cho pháp luật, mà pháp luật không thể ra lệnh cho các
điều kiện kinh tế xã hội (Mác). Vì vậy pháp luật phải bảo đảm nguyên tắc khách quan. Nếu vi phạm
nguyên tắc khách quan, pháp luật trở thành luật chết và chúng ta phải trả giá đắt. Ví dụ: khi trình độ
lực lượng ở Việt Nam còn thấp, chúng ta lại xây dựng mô hình hợp tác xã bậc cao.

Để bảo đảm nguyên tắc khách quan, nội dung pháp luật phản ánh đúng các quy luật xã hội, quy luật
tự nhiên, phản ánh đúng tồn tại xã hội thì cần phải tiến hành các điều tra, nghiên cứu, tham khảo
kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm nước ngoài trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản pháp luật.
Và phải có điều kế hoạch điều tra, đánh giá sau ban hành để sửa đổi, huỷ bỏ những văn bản lạc hậu,
bất hợp lý.

Các lợi ích khách quan thường bị che lấp bởi cái chủ quan của những người tham gia lập pháp. Vì
vậy hiện nay do năng lực lập pháp của Quốc hội chưa đáp ứng được nên việc soạn thảo các dự án
luật, pháp lệnh thường giao cho các cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực đó soạn thảo. Ví
dụ: Pháp lệnh Hải quan giao cho Tổng cục Hải quan soạn thảo, Pháp lệnh về tổ chức luật sư giao
cho Bộ Tư pháp soạn thảo. Cách làm này bảo đảm cơ quan soạn thảo am hiểu về lĩnh vực mà dự
luật đang đề cập. Nhưng họ là chủ thể tham gia các quan hệ xã hội mà dự luật đang điều chỉnh vì
vậy họ sẽ đưa ra phương án có lợi cho họ mà có thể làm thiệt hại đến lợi ích chủ thể khác, làm hạn
chế các quyền tự do của đối tượng bị quản lý.

Khi tăng dần số đại biểu chuyên trách trong Quốc hội, năng lực lập pháp của Quốc hội được nâng
cao thì cần hạn chế tình trạng này. Để bảo đảm tính chuyên môn trong quá trình soạn thảo luật thì
các cơ quan quản lý các lĩnh vực liên quan có thể gửi các báo cáo giải trình và cử các chuyên gia
vào ban soạn thảo theo yêu cầu của các Uỷ ban của Quốc hội.

Để tăng cường tính khách quan thì không chỉ các cơ quan quản lý nhà nước mà cả đối tượng bị
quản lý đều được tham gia vào quá trình lập pháp.

Liên hệ thực tiễn:

Thời gian qua (từ Quốc hội khoá IX đến nay), Chính phủ, các Bộ, ngành đã thực hiện tương đối tốt các
qui định này. Các hoạt động xây dựng pháp luật (bằng các hình thức văn bản khác nhau)của Chính phủ,
các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đã thực sự trở thành "cánh tay nối dài" đưa luật,
pháp lệnh vào thực tiễn đời sống, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện các thể chế: kinh tế, hành
6
chính, hình sự, dân sự...; tạo ra trật tự mới trong quản lý xã hội; góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, công dân ; tạo điều kiện thuận lợi cho sự hội nhập quốc tế và khu vực. Hàng năm, tính
trung bình, chỉ riêng Chính phủ đã ban hành gần 200 nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban
hành trên dưới 300 quyết định, chỉ thị, trong đó có trên 40% các nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ
thị qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh.
Về chất lượng, các văn bản đã bám sát vào các yêu cầu của luật, pháp lệnh; triển khai cụ thể và hướng
dẫ thi hành tương đối tốt các qui phạm của luật, pháp lệnh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiều
Nghị định của Chính phủ, về thực chất được gọi là "văn bản luật của đời sống quản lý" bởi nó đã đáp
ứng yêu cầu trực tiếp của người dân (đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, tổ chức bộ máy...)
- Nội dung của các văn bản của Chính phủ không những đạt được ưu điểm như trên mà còn phản ánh
nội dung mang tính chủ động sáng tạo của hoạt động chấp hành và điều hành trong việc triển khai thực
hiện các luật, pháp lệnh. Tính chủ động, sáng tạo của hoạt động này được thể hiện:
+ Quán triệt sát xao các qui phạm của luật. pháp lệnh, nhưng cụ thể hoá ở mỗi ngành, lĩnh vực lại rất
linh hoạt (các lĩnh vực quản lý nhà nước);
+ Phân công, phân cấp mạnh cho bộ, ngành và địa phương (đây là nội dung tiến bộ, nhưng cũng có mặt
chưa thật sự phù hợp với cơ chế uỷ quyền hiện nay);
+ Ban hành các chế tài cụ thể nhằm thực hiện luật, pháp lệnh (các nghị định xử phạt vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực).
Nhìn chung, các văn bản của Chính phủ trên các lĩnh vực bảo đảm chất lượng tốt; các cơ quan soạn thảo
đã chủ động đưa ra kế hoạch soạn thảo các văn bản hướng dẫn để đệ trình cùng các dự án khi trình
Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội.
2.2 Một số hạn chế và nguyên nhân
2.2.1. Tiến độ xây dựng chậm, chưa bảo đảm 100% các luật, pháp lệnh sau khi có hiệu lực là có ngay
các văn bản của Chính phủ ban hành để hướng dẫn thi hành. Hiện nay còn khoảng gần 100 văn bản của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chưa triển khai hướng dẫn các luật, pháp lệnh (đó là chưa kể các văn
bản của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ). Nguyên nhân của hạn chế này là:
- Khi trình các dự án luật. pháp lệnh trước Chính phủ, các cơ quan soạn thảo chưa quan tâm đến việc
soạn thảo các văn bản hướng dẫn. Có tâm trạng: chờ luật, pháp lệnh có hiệu lực rồi mới làm hoặc chờ
sự phân công của Chính phủ (bởi lẽ trong luật, pháp lệnh thường có qui định: "Chính phủ qui định chi
tiết hoặc hướng dẫn...", như vậy là, Chính phủ phải giao cho cơ quan nào soạn thảo thì cơ quan đó mới
bắt tay vào soạn thảo.
- Các vấn đề được Chính phủ cụ thể hoá trong luật, pháp lệnh lại là những vấn đề quá khó, đòi hỏi phải
có thời gian hoặc là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau giữa các Bộ, ngành (kể cả xung đột về thẩm
quyền và lợi ích).
2.2.2. Chất lượng một số văn bản hướng dẫn chưa cao; nhiều văn bản nhắc lại hoặc viện dẫn các qui
định của luật, pháp lệnh. Nguyên nhân chính là do trình độ của cán bộ, công chức xây dựng các văn bản
(kể cả trình độ pháp lý và chuyên môn của cán bộ, công chức ở ngành, lĩnh vực được phân công soạn
thảo soạn thảo chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng pháp luật).
2.2.3. Nhiều văn bản hướng dẫn còn chung chung, chưa phù hợp với luật, pháp lệnh hoặc cần phải có
hướng dẫn tiếp theo của bộ, ngành thì mới thực hiện được; đặc biệt là những vấn đề về thẩm quyền
(thẩm quyền của Chính phủ thì lại qui định thẩm quyền của Thủ tướng hoặc của Bộ trưởng và ngược
lại). Đây là tình trạng tuỳ tiện trong sử dụng thẩm quyền. Có một số nguyên nhân của tồn tại này là:
- Luật, pháp lệnh qui định không rõ thẩm quyền và hình thức văn bản. Ví dụ"Chính phủ qui định..."
hoặc "theo qui định của Chính phủ..." thì các ban soạn thảo văn bản qui định chi tiết hoặc hướng dẫn thi

7
hành cho rằng "Chính phủ qui định" được hiểu là thẩm quyền ban hành văn bản của Chính phủ, còn
"theo qui định của Chính phủ" tức là Chính phủ có thể ban hành hoặc có thể giao cho Bộ trưởng ban
hành...Cách hiểu không đúng này làm giảm hiệu lực của các văn bản hướng dẫn;
- Mặc dù có sự phân công rõ ràng tại luật, pháp lệnh, nhưng tại các văn bản hướng dẫn vẫn còn sự uỷ
quyền tuỳ tiện, chẳng hạn thẩm quyền của Chính phủ, nhưng Chính phủ lại uỷ quyền cho Thủ tướng
Chính phủ hoặc Bộ trưởng. Và như vậy, lại đòi hỏi phải có qui định tiếp theo của Thủ tướng Chính phủ
hoặc Bộ trưởng. Cách hiểu về uỷ quyền là chưa hợp lý và suy cho cùng, chúng ta vẫn phải ban hành
quá nhiều văn bản hướng dẫn mà lại không đúng thẩm quyền, chậm tiến độ thực hiện hiệu lực của luật,
pháp lệnh.
2.2.4. Qui trình xây dựng các văn bản của Chính phủ còn chưa khoa học, việc thành lập Ban soạn thảo,
Tổ biên tập còn rất hình thức (mang tính nội bộ của ngành, lĩnh vực) hoặc chỉ định (bằng miệng) dẫn
đến kỷ luật, kỷ cương trong việc xây dựng văn bản còn lỏng lẻo. Mặt khác, việc tiếp thu, lấy ý kiến của
các nhà quản lý, nhà khoa học, các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của văn bản sẽ ban hành còn
hạn chế; hoặc nếu có thì hình thức, đặc biệt là việc tiếp thu sau khi có ý kiến (nếu thực hiện) cũng
không được khoa học và khách quan.
2.2.5. Tính cục bộ, bản vị trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản cũng là hạn chế cần khắc phục.
Quan niệm nghị định hướng dẫn là việc của bộ, ngành mình, việc mời tham gia soạn thảo của các bộ,
ngành khác là "lắm thầy, nhiều ma"... dẫn đến các Ban soạn thảo "co cụm", ngại lấy ý kiến, thiếu thông
tin trong quá trình soạn thảo.
2.2.6. Việc thẩm định, thẩm tra của Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ còn bị hạn chế; giá trị thẩm
định, thẩm tra chưa cao, thể hiện ở các mặt: thời gian gửi thẩm định, thẩm tra chậm, qui trình thẩm định,
thẩm tra thiếu khoa học; các vấn đề thẩm định, thẩm tra không được lập luận, phản biện khoa học,
khách quan, tính tập thể trong quá trình thẩm định, thẩm tra còn bị hạn chế; hiện tượng một người thẩm
định, thẩm tra đại diện cho cơ quan thẩm định đang diễn ra phổ biến ở các cơ quan có trách nhiệm.
2.2.7. Thiếu cơ chế tham gia xây dựng phản biện mang tính xã hội của các nhà quản lý, các luật gia, các
nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống quản lý vào việc xây dựng các văn bản này.
2.2.8. Kỷ cương, kỷ luật trong công tác xây dựng văn bản còn lỏng lẻo. Sự "khất lần" thời gian trình
đang diễn ra một cách phổ biến (đến hạn nhưng không trình hoặc đưa ra các lý do không chính đáng);
mặt khác, có Bộ, ngành trình đúng tiến độ, nhưng không đủ thủ tục hoặc không bảo đảm chất lượng.
2.2.9. Cán bộ, công chức tham gia xây dựng văn bản chưa được trang bị đầy đủ kỹ năng, kỹ thuật soạn
thảo, hoạch định những tư tưởng chính của văn bản hướng dẫn. Mặt khác, kinh phí cho soạn thảo văn
bản chưa thật sự đáp ứng để bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng và thu hút các nhà khoa học, các nhà
quản lý vào quá trình phản biện khoa học, khách quan các văn bản của Chính phủ.
Một số kiến nghị nhằm đổi mới công tác xây dựng, ban hành văn bản qui định chi tiết và hướng
dẫn thi hành luật, pháp lệnh
3.1. Cần có tầm nhìn chiến lược về cách xây dựng và ban hành luật, pháp lệnh.
Một là, cần nhận thức về luật, pháp lệnh phải là những qui phạm cụ thể, ban hành ra là thực hiện được
ngay, hạn chế đến mức thấp nhất các văn bản qui định chi tiết và hướng dẫn, cụ thể là:
- Tổng kết thực tiễn các hoạt động của bộ, ngành và rà soát các văn bản của Chính phủ, bộ, ngành
đang còn hiệu lực và tính không phù hợp, không khả thi của chúng để pháp điển hoá ngay trong các
luật, pháp lệnh (việc làm này cần có sự phối hợp của các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan của
Chính phủ trong việc rà soát, phát hiện và pháp điển hoá).
- Hạn chế đến mức thấp nhất việc giao cho Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành(từ nay trở
đi, không nên quy định" Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành..." một cách chung chung
trong các luật, pháp lệnh. Theo chúng tôi, chỉ giao những vấn đề gì thật cụ thể thuộc thẩm quyền của
8
Chính phủ (và quy định ngay tại diều khoản cần hướng dẫn thi hành), còn những vấn đề thuộc về thẩm
quyền của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải qui
định; tránh tình trạng "khó quá" lại để Chính phủ qui định? mặt khác, trong luật, pháp lệnh cần xác
định, nếu là thẩm quyền của Bộ trưởng thì giao ngay cho Bộ trưởng chứ không nên giao cho Chính phủ,
rồi lại phải một lần uỷ quyền nữa;
- Tăng cường sự giám sát từ phía Quốc hội đối với hoạt động xây dựng văn bản, bên cạnh việc nâng cao
năng lực cho các đại biểu Quốc hội, các cán bộ, công chức trong bộ máy của Quốc hội. Hình thức giám
sát phải cụ thể, phải có chế tài về giám sát...
Hai là, trong quá trình soạn thảo, thông qua luật, pháp lệnh, có những vấn đề gì còn có những quan
điểm khác nhau giữa các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ nên có thảo luận, phản biện thật sự khoa
học, khách quan, tránh quan niệm cho rằng, theo "thẩm quyền của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội" thì cứ ban hành hoặc uỷ quyền, mà không hỏi ý kiến các cơ quan chủ trì soạn thảo luật, pháp lệnh,
dẫn đến Chính phủ khó triển khai qui định cụ thể trong thực tiễn được
Ba là, gắn chương trình xây dựng luật, pháp lệnh với chương trình công tác của Chính phủ (hàng quí,
hàng tháng) để thuận tiện giám sát, theo dõi và trong chừng mực nào đó, có thể kết hợp nội dung,
chương trình công tác của Chính phủ với chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (2 loại chương trình
này phải có sự kết hợp ngay từ khi có sáng kiến từ phía Chính phủ). Mặt khác, cần "tận dụng" các qui
định của các nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị hiện hành (theo thẩm quyền ban hành của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ mà không phải là các văn bản hướng dẫn, qui định chi tiết) để nâng tầm
thành những qui phạm trong các luật, pháp lệnh .
3.2. Về phía Chính phủ, cần có dự kiến xây dựng văn bản hướng dẫn cùng với việc xây dựng chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh trước khi trình quốc hội. Các cơ quan của Chính phủ phải dự kiến những
thuận lợi và khó khăn của một dự án luật, pháp lệnh do mình được giao chủ trì và kiến nghị Chính phủ
về những tư tưởng, nội dung chính của cả dự án luật, pháp lệnh và văn bản hướng dẫn.Tránh tình trạng,
khi Chính phủ cho ý kiến hoặc các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý rồi mới vội vàng xây dựng dự thảo
văn bản hướng dẫn. Đây cũng là nghịch lý mà chúng ta phải giải quyết trong tương lai. Bởi lẽ, có quan
niệm cho rằng, phải Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành luật, pháp lệnh thì Chính phủ mới
xây dựng văn bản qui định chi tiết, nếu không, việc Chính phủ chuẩn bị văn bản là vô nghĩa (vì Chính
phủ chuẩn bị dự thảo văn bản qui định chi tiết A, Quốc hội không đồng ý hoặc đồng ý với dự thảo B?).
Theo chúng tôi, như trên đã nói, cần phải có sự thống nhất ngay từ đầu các ý tưởng, nội dung và khớp 2
chương trình (Quốc hội và Chính phủ); mặt khác, dự kiến những vấn đề cần hướng dẫn phải thống nhất
ngay với các uỷ ban của Quốc hội.
3.3. Đề cao vai trò của Ban soạn thảo, Tổ biên tập. Theo Nghị định số 161/NĐ-CP/2005 của Chính phủ
ngày 27/12/2005 thì tất cả các văn bản hướng dẫn, qui định chi tiết đều phải thành lập các Ban soạn
thảo. Ban soạn thảo phải có đại diện của Bộ, ngành và các chuyên gia, các nhà khoa học trong lĩnh vực
cần dự thảo; cần có phản biện khoa học về các vấn đề quan trọng trong nội dung dự thảo; tổ chức các
cuộc hội thảo về các nội dung liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và các đối tượng chịu sự điều
chỉnh trực tiếp của các qui phạm hướng dẫn, qui định chi tiết để thống nhất các nội dung trong dự thảo.
3.4. Cần xác định rõ về tiêu chí, nội dung thẩm quyền ban hành văn bản (loại nào của Chính phủ, loại
nào của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng) để khi xây dựng luật, pháp lệnh có thể giao ngay trong luật,
pháp lệnh. Về lâu dài, những qui phạm liên quan đến quyền và lợi ích của công dân, không nên để các
Bộ trưởng hướng dẫn hoặc qui định chi tiết, mà nên qui định ngay trong luật. Đồng thời, chấm dứt tình
trạng uỷ quyền tuỳ tiện trong một số văn bản hiện nay (chúng ta có sự phân công, phân cấp thực hiện
các nhiệm vụ quản lý nhà nước chứ không phân quyền mang tính cực đoan hoặc duy ý chí trong hệ
thống hành chính) chẳng hạn, thẩm quyền của Chính phủ thì Chính phủ phải ban hành hoặc nếu uỷ

9
quyền, chỉ uỷ quyền trong trường hợp nào, với những điều kiện nào? cương quyết không chấp nhận việc
cứ thấy việc khó là uỷ quyền cho Bộ trưởng.
3.5. Tăng cường công tác thẩm định của Bộ Tư pháp hoặc các cơ quan có thẩm quyền về nội dung các
dự thảo. Thẩm định của Bộ Tư pháp phải được tổ chức tập thể thật sự khoa học (nếu cần phải thành lập
Hội đồng). Tương tự, thẩm tra của Văn phòng Chính phủ đối với các dự thảo cũng phải khách quan,
khoa học nhằm hạn chế tính cục bộ, bản vị của cơ quan chủ trì soạn thảo. Cần xác định việc ban hành
các văn bản của Chính phủ phải là những công trình khoa học thực sự hữu ích nhằm nâng cao giá trị xã
hội của các luật, pháp lệnh
3.6. Tăng cường kinh phí cho hoạt động xây dựng văn bản hướng dẫn, qui định chi tiết luật, pháp lệnh.
Hiện nay, kinh phí cho việc xây dựng loại văn bản này rất hạn chế. Cần có cơ chế tài chính hữu hiệu để
công tác xây dựng văn bản dưới luật có hiệu quả hơn. Hơn nữa, theo chúng tôi, nếu được thí điểm một
vài văn bản được xây dựng dưới hình thức "đấu thầu", phản biện, tư vấn mang tính xã hội theo lý thuyết
cung - cầu trong hoạt động kinh tế thì chắc chấn chất lượng sẽ khả quan hơn. Đây là việc làm hay, nên
có thí điểm và nhân rộng trong quá trình xây dựng văn bản hướng dẫn và qui định chi tiết các luật, pháp
lệnh.
3.7. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật các bộ, ngành bằng việc:
- Bồi dưỡng các kiến thức chuyên ngành;
- Kỹ năng xây dựng pháp luật và hoạch định chính sách;
- Mở các lớp ngắn hạn trong và ngoài nước để bồi dưỡng;
- Tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên môn (không phải là luật gia) vào công tác xây dựng văn bản nhằm
bảo đảm tính khả thi và hiệu lực thực tế của các văn bản qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
Câu 5:
Cơ quan nhà nước là các cơ quan được thành lập theo quy định của pháp luật để thực hiện các chức
năng của nhà nước. Như vậy cơ quan nhà nước phải có nhiều loại như cơ quan lập pháp/đại diện
(Quốc hội, HDND), cơ quan hành pháp, cơ quan xét xử.... Cơ quan hành chính nhà nước chính là
một trong các loại cơ quan nói trên, thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, thường gọi
là cơ quan hành pháp, bao gồm:
- Chính phủ
- Các bộ, cơ quan ngang bộ
- Uỷ ban nhân dân các cấp.
- Các cơ quan có chức năng quản lý chuyên ngành (như các sở, phòng, ban trực thuộc UBND)
Còn mấy cái mà bác gọi là "tổ chức khác của nhà nước" như trường học, bệnh viện ... không gọi là
cơ quan nhà nước, mà gọi là cơ quan sự nghiệp, mặc dù cũng là của nhà nước.
Phương hướng hòan thiện…: Hết giờ!

10

You might also like