You are on page 1of 9

NGHỆ THUẬT TẠO THỜI CƠ VÀ CHỚP THỜI CƠ

TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM CỦA ĐẢNG

Cách mạng tháng tám là một sự kiện lịch sử vĩ đại trong toàn bộ lịch sử đấu
tranh cách mạng để tự giải phóng của dân tộc Việt Nam. Nó đã kết thúc vẻ vang một
quá trình vận động cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và đội tiền
phong của nó là Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng thời mở ra một quá trình vận
động cách mạng mới. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là thắng lợi về chiến lược
và sách lược cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin vận dụng sáng tạo vào thực tiễn
cách mạng vm. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã dẫn tới nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ra đời, nhà nước công nông đầu tiên được thành lập ở Đông Nam Á,
đây là đỉnh cảo cách mạng trong khu vực Đông Nam Á, và trong phong trào giải
phóng dân chủ thế giới.
Cuộc cách mạng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc năm 1945 là một cuộc cách
mạng vô cùng nhân đạo, thể hiện một chủ nghĩa dân tộc sáng suốt. Đó là một cuộc
cách mạng tập hợp được tuyệt đại bộ phận nhân dân cả nước, diễn ra nhanh chóng và
ít đổ máu.
Cách mạng tháng Tám thắngl ợi là do sự tác động, chuyển hoá, tổng hợp của
nhiều yếu tố, trong đó nghệ thuật tạo thời cơ và chớp thời cơ của Đảng là một nhân
tố vô cùng quan trọng.
Cách mạng tháng Tám đã chọn đúng thời cơ, nắm bắt thời cơ và tận dụng
những thuận lợi của thời cơ. Chỉ trong vòng 20 ngày (15-8 đến 5-9) cách mạng Việt
Nam đã có một bước ngoặt quyết định, cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra rất nhanh, rất
mạnh và rất gọn. Nếu sớm hơn thời gian đó, khi phát xít Nhật chưa đầu hàng, hoặc
muộn hơn thời gian đó. Khi quân Anh, Tưởng đã vào Đông Dương thì tình hìh sẽ
diễn biến phức tạp khôn lường.
Chọn đúng thời cơ khởi nghĩa là vấn đề vô cùng quan trọng vì khởi nghĩa vũ
trang; một hình thức đặc biệt của đấu tranh vũ trang, chí thành công khi trước hết đã
có thể “dựa vào một bước ngoặt quyết định trong lịch sử của cuộc cách mạng đang
lên. Khi mà tính tích cực của các bộ phận tiên tiến trong nhân dân được biểu lộ cao
hơn hết, khi mà những dao động trong hàng ngũ địch và trong hàng vũ những người
bạn mềm yếu do dự và không kiên quyết của cách mạng biểu hiện ra mạnh hơn hết”
(Lê-nin - Chủ nghĩa Mác và khởi nghĩa vũ trang). Chọn đúng thời cơ khởi nghĩa còn
hết sức quan trọng vì thời cơ đó có thể qua đi rất mau. Lênin trong buổi chiều ngày
24-10-1917 đã viết rõ “Rõ ràng hơn ban ngày là hiện nay nếu khởi nghĩa chậm thì
thật lá xuống hố… lịch sử sẽ không tha thứ cho các nhà cách mạng, nếu chậm trễ, họ
có thể thắng ngày hôm nay (và nhất định sẽ thắng ngày hôm nay) nếu chậm đến ngày
mai thì sẽ mất nhiều và có thể mất hết…”.
Nắm vững lý luận cuả Chủ nghĩa Mác-Lênin về khởi nghĩa vũ trang và nhận
thức được sâu sắc quá trình phát triển của tình thế. Đảng đã sớm vạch được lúc nào
xuất hiện thời cơ khởi nghĩa ở Việt Nam và đã biết trước thời cơ đó sẽ đi qua rất
mau. Để có thể chọn đúng thời cơ, nắm bắt đúng thời cơ và tận dụng những thời cơ
thì trước hết phải tạo được thời cơ, tạo thời cơ đó chính là quá trình xây dựng, chuẩn
bị về đường lố, phương pháp và lực lượng cách mạng… Đó là yếu tố vật chất tạo nên
thực lực của cách mạng, tạo nên sức mạnh vô địch giành thắng lợi trong giờ phút
quyết định, thời cơ tháng Tám không phải là một cơ may.
Như chúng ta đã biết 9-1939 chiến tranh thế giới thứ hài bùng nổ ở Đông
Dương thực dân Pháp đàn áp rất khốc liệt phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo,
đồng thời ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp của tại chỗ để cung cấp
cho chiến tranh đế quốc của chúng. Chiến tranh đã đặt đát nước ta trong tình hình
mới. Chính sách vơ vét, cướp bóc và chính sách khủng bố phát xít của đế quốc trong
chiến tranh sẽ đẩy mau tốc độ cách mạng hoá nhân dân, đẩy mau tình thế tới một thời
điểm mà giai cấp thống trị không thể thống trị như cũ, và giai cấp bị trị cũng không
thể sống như cũ được nữa. Chiến tranh đã đặt nhiệm vụ đánh đổ chính quyền của đế
quốc và tay sai thành nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt của cách mạng. Đấu tranh hợp
pháp giành chính quyền dân chủ, dân sinh không còn khả năng mà cũng không phải
là mục tiêu trực tiếp của cách mạng lúc ấy nữa. Đảng ta đã kịp thời chỉ thị cho các cơ
quan và cán bộ hd hợp pháp và nửa hợp pháp phải mau lẹ rút vào bí mật, chuyển
trọng tâm công tác về nông thôn để tiến hành công tác phát triển mạnh mẽ lực lượng
cách mạng ở cả nông thôn và thành thị.
Tháng 6-1940 nước Pháp bị quân phát xít Hít le chiếm đóng phát xít Nhật
nhân cơ hội đó đã xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp đã đầu hàng phát xít Nhật,
chúng quỳ gối mở cửa đón phát xít Nhật vào cùng bóc lột, thống trị. Do sự xúi giục
của Nhật, Thái Lan gây chiến với đế quốc Pháp. Tuy vậy nhân dân Việt Nam bất
khuất đã đứng dậy chống cả Nhật lẫn Pháp. Tháng 9-1940 nổ ra cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn. Tháng 11-1940 nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, tháng 1-1941 nổ ra cuộc binh
biến Đô Lương. Các cuộc khởi nghĩa này báo hiệu một thời kỳ mới của đất nước.
Thời kỳ toàn dân nổi dậy cầm vũ khí đánh đổ bọn cướp nước và bán nước giành độc
lập, tự do, thời kỳ những cuộc khởi nghĩa từng phần có thể nổ ra để chuẩn bị cho
cuộc tổng khởi nghĩa trong cả nước. Mặc dù khách quan có nhiều thuận lợi nhưng
tình thế cách mạng lúc đó cũng mới chỉ là tình thế cách mạng nói chung. Điều kiện
chủ quan chưa cho phép tiến hành đấu tranh vũ trang ngay để giành lấy thắng lợi toàn
bộ cho cách mạng mà còn phải trải qua một thời kỳ tổ chức và chuẩn bị chu đáo hơn.
Tháng 11-1940 Hội nghị Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh). Hội
nghị vạch rõ nguy cơ của các dân tộc Đông Dương bị một cổ hai tròn. Đông Dương
bị hai bọn đế quốc phát xít Nhật - Pháp dày xéo, kẻ thù chính của nhân dân Đông
Dương lúc này là đế quốc phát xít Nhật - Pháp. Do đó nhiệm vụ trước mắt của Đảng
là lãnh đạo nhân dân Đông Dương chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang đánh đổ phát xít
Nhật - Pháp giành chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị quyết định duy trì lực
lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đơn vị tập trung đều tiên củ lực lượng
vũ trang cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, làm nòng cốt cho việc xây dựng cơ sở chính
trị và xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng 5-1941 Họi nghị Trug ương Đảng họp tại Pắc-Bó do Nguyễn Ái Quốc
triệu tập và chủ trì. Khi đó phát xít Đức sắp đánh Liên Xô, hội nghị nhận định nếu
Đức đánh Liên Xô thì chúng sẽ bị tiêu diệt, cách mạng nhiều nước sẽ thành công,
một loạt nước xã hội chủ nghĩa sẽ ra đời. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc tình
hình trong nước và tình hình trên thế giới, hội nghị xác định cuộc cách mạng trước
mắt là cách mạng giải phóng dân tộc, các lực lượng cách mạng của dân tộc cần tập
trung mũi nhọn vào bọn phát xít xâm lược Nhật - Pháp bởi vì: “Trong lúc này, nếu
không gq được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể
dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Hội ngị lập “Việt Nam đọc lập đồng minh” gọi tắt là Việt Minh bao gồm các
hội cứu quốc của các tầng lớp nhân dân, áp dụng một sách lược hết sức mềm dẻo để
phân hoá cao độ kẻ thù và tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ được nhằm cứu
nước, giải phóng dân tộc.
Hội ngị cũng chỉ rõ chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trug tâm của Đảng và dân
ta trong giai đoạn hiện tại. Căn cứ vào khởi nghĩa của Xô viết Nghệ tĩnh và khởi
nghĩa của các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Sơn, Nam Kỳ, Hội nghị nhận định khi thời cơ
đến “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong
từng địa phương, cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng
khởi nghĩa to lớn”.
Như vậy hội nghị tháng 5-1941 đã nắm vững mục tiêu giải phóng dân tộc là
trung tâm, vạch ra những phương hướng, biện pháp tập hợp lực lượng chống đế quố
trong một mặt tận dân tộc thống nhất rất thích hợp là Việt Minh, qua con đường khởi
nghĩa vũ trang từng phần tiến đến tổng khởi nghĩa. Đây là những sáng kiến lớn của
Đảng, Hồ Chí Minh trong cao trào cứu nước những năm 1940 - 1945.
Tháng 12-1941 Trung ương ra thông cáo về “Cuộc chiến tranh Thái Bình
Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng” vạch rõ khi quân đồng minh kéo vào đất ta
tới đâu thì nơi đó nổi cậy lập chính quyền cách mạng lâm thời của địa phương rồi
nhân danh chính quyền đó giao tiếp với họ.
Từ năm 1944 - 1945 những thắng lợi to lớn của Liên Xô ở mặt tận Stalin grat
và các mặt trận tiếp theo đã được cuộc chiến tranh thế giới thứ hai tới bước ngoặt căn
bản, số phận của bè lũ phát xít đang tới bước định đoạt. Thời cơ thuận lợi cho các
dân tộc bị áp bức vùng dậy đang tới gần.
Tháng 8-1945 theo chủ trương của Đảng, tổng bộ Việt minh kêu gọi và phát
động phong trào “Sắm vũ khí, đuổi thù chung” phong trào xây dựng lực lượng vũ
trang, xây dựng căn cứ địa và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang được đẩy mạnh ở vùng
rừng núi và trung du song song với phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở
đồng bằng nông thôn và thành thị. Trên cơ sở phong trào vũ trang và nửa vũ trang
cách mạng được xây dựng, một hệ thống căn cứ địa liên hoàn đã được mở ra từ cao
Bằng đến Hà Giang, Bắc Kạn và Lạng Sơn. Trên phạm vi cả nước không chỉ cách
mạng sục sôi khắp nơi, ở một số địa phương nhất là ở những vùng căn cứ địa quần
chúng nôn nóng muốn hành động nhưng Đảng chỉ rõ thời cơ khởi nghĩa cả nước chưa
đến.
Ngày 22-12-1944 Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập,
đã cùng với các đội cứu quốc quân đẩy mạnh đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ
tranh, đẩy tới phong trào đánh Pháp đuổi Nhật trên cả nước.
Từ cuối 1944 đầu năm 1945 trên chiến trường Châu Âu quân đội Xô Viết đã
giành được thắng lợi quyết định bằng hàng loạt đòn phản công chiến lược đưa chiến
tranh đến cửa ngõ của sào huyệt phát xít Đức. Giờ tận số của phát xít Đức đã điểm.
Số phận của phát xít Nhật ở Đông Dương đang lung lay, để trừ mối hậu hoạ bị quân
Pháp đánh vào sau lưng khi quân đồng minh tiến vào Đông Dương, Nhật buộc phải
làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương. Đêm 9-3-1945 cuộc xung
đột vũ trang giữa Nhật và Pháp đã nổ ra, chưa đầy một ngày thực dân Pháp đã đầu
hàng phát xít nhật trên toàn Đông Dương.
Sau đả chính Nhật, lực lượng tự vệ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang đã phát triển
mạnh mẽ, rộng rãi, hầu khắp toàn quốc, những căn cứ địa vũ trang hoàn bị đã được
xây dựng, quảng đại quần chúng đã hướng về cách mạng, hình thái cách mạng trực
tiêp đã xuất hiện. Vấn đề cấp thiết đã đặt ra cho cách mạng là biết chọn đúng thời cơ
để khởi nghĩa toàn quốc. Do vậy ngay sau cuộc đảo chính Đảng ta đã nhận định là
cuộc đảo chính sẽ tạo ra một tình thế khủng hoảng chính trị sâu sắc làm cho những
điều kiện của cuộc tổng khởi nghĩa chín muồi nhanh chóng. Khẩu hiệu “Đánh đuổi
phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật - Pháp” Đảng đã phát động cao
trào chống Nhật, cứu nước mạnh mẽ, gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính
quyền, nơi nào có điều kiện thì phát triển chiến tranh du kích, giành chính quyền ở
địa phương. Các hình thức, phương pháp đấu tranh lúc này cao hơn, mạnh mẽ hơn.
Biện pháp then chốt để đưa phong trào lên cao lúc đó là phát động quần chúng “phá
kho thóc, giải quyết nạn đói” nhằm tập hợp đội quân chính trị quần chúng cho cuộc
khởi nghĩa.
Trong lúc nhân dân ta gấp rút chuẩn bị tổng khởi nghĩa thì ở Bắc Bộ và miền
Bắc Trung bộ đã xảy ra nạn đói rất khủng khiếp. Hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Đó là hậu quả thảm khốc nhất của chính sách bóc lột và gây chiến của bọn phát xít
Nhật - Pháp. Khẩu hiệu “phá kho thóc để giải quyết nạn đói’ của Đảng đã đáp ứng
đúng nguyện vọng cấp bách nhất của quần chúng, đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu
tranh trong nhân dân, đẩy tới cao trào chống Nhật cứu nước dâng khắp toàn quốc, lôi
kéo đông đảo các tầng lớp, giai cấp tham gia, không khí khởi nghĩa sục sôi trong cả
nước.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Sau khi đã tiêu
diệt phát xít Ý, Đức. Ngày 8 - 8 -1945 Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, chỉ
trong vài ngày quân đội Xô viết đã tiêu diệt hoàn toàn đội quân chủ lực tinh nhuệ
nhất của Nhật đóng ở vùng Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 15-8-1945 Nhật hoàng
tuyên bố đầu hàng Liên Xô và các nước đồng mình không điều kiện.
Quân đội Nhất ở Đông Dương mất tinh thần, hoang mang tan rã, chính phủ bù
nhìn Trần Trọng Kim hoàn toàn bị tê liệt từ trên xuống dưới.
Tin Nhật đầu hàng truyền đi khắp nước đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng trong
tất cả các tầng lớp nhân dân, đẩy phong trào cách mạng lên một đỉnh cao chưa từng
thấy, các tầng lớp trung gian đã ngả hẳn về cách mạng. Mặt trận Việt Minh đã thu hút
hàng chục triệu hội viên đủ các tầng lớp, các dân tộc. Cao trào cứu nước đã lôi cuốn
cả dân tộc vùng dậy. Triệu người như một cầm lấy tất cả những gì có thể làm vũ khí
đánh đổ bọn cướp nước và bán nước giành quyền làm chủ Đảng Cộng sản Đông
dương đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về chiến tranh, tư tưởng và tổ chức cho cuộc
khởi nghĩa. Những điều kiện khách quan và chủ quan cho cuộc tổng khởi nghĩa ở
nước ta đã hoàn toàn chín muồi. Thời cơ cách mạng “ngàn năm có một” đã đến.
“Chúng ta không thể chậm trễ”.
Trách nhiệm lịch sử của Đảng lúc ấy là lãnh đạo nhân dân nắm chắc thời cơ
chiến lược, nổi dậy chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn tay sai, trước khi quân
đội của đế quốc Anh và quân đội của bọn phản động Tưởng Giới Thạch vào Đông
Dương, trước khi thực dân Pháp kịp tập hợp lại tàn quân và đưa quân Viễn chinh vào
cướp lại nước ta lần nữa.
Từ giữa tháng 8 - 1945 quân đội Anh đang trên đường hành quân gấp vào
nước ta từ phía Nam, quân đội Tưởng cũng đang trên bước chạy mau vào nước ta từ
phía Bắc. Một cuộc chạy đua nước rút lịch sử để giải quyết vấn đề giành quyền làm
chủ đất nước giữa nhân dân ta với các tập đoàn đế quốc và bọn phản động, đòi hỏi
nhân dân ta phải mau chóng đoạt lấy thắng lợi trong cuộc chạy đua đó.
Ngay sau hội nghị toàn quốc của Đảng ngày 13-8-1945 và Đại hội quốc tân
Tân Trào, Đảng Cộng sản Đông Dương và chủ tịch hmc đã ra lời hệu triệu đồng bào
và chiến sĩ cả nước nổi dậy giành chính quyền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn hai
mươi triệu đồng bào ta, từ Bắc đến Nam dã đồng loạt vùng dậy tiến hành Tổng khởi
nghĩa oanh liệt, giải phóng toàn bộ đất nước. Thời cơ cách mạng là chỗ kết hợp
những điều kiện chủ quan và điều kiện khách quan đã chín muối bảo đảm thắng lợi
cho cách mạng.
Trong vận động cách mạng thời cơ xuất hiện như một tất yếu lịch sử, đưa quần
chúng đến ngay ngưỡng cửa của tổng khởi nghĩa giành chính quyền nhưng cũng ó thể
thời cơ trôi đi một cách nhanh chóng. Nếu ta không biết chớp ngay lấy nó mà hành
động. Thời cơ của cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám 1945 chỉ tồn tại trong
một khoảng thời gian rất ngắn. Nếu như cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra sớm hơn, trước
ngày 15-8-1945 khi mà Nhật Hoàng chưa tuyên bố đầu hàng thì sẽ gặp vô vàn khó
khăn. Phát xít Nhật tuy suy yếu nhưng chúng còn đủ lực lượng để chống lại cách
mạng một cách quyết liệt, và như vậy cuộc khởi nghĩa chắc chắn sẽ không thể dễ
dàng thành công trong cả nước một cách nhanh chóng. Mặt khác nếu cuộc tổng khởi
nghĩa nổ ra muộn hơn khi quân Anh, quân Tưởng đã vào đất nước ta, khi mà thực dân
Pháp đã phục hồi lại lực lượng, và viện binh của chúng từ Pháp sang xâm lược lại
nước ta một lần nữa, và chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim đã tiếp xúc được với bọn
đế quốc hì thời cơ thuận lợi nhất sẽ trôi qua. Chắc chắn ta sẽ phải hy sinh rất nhiều
của, nhiều người. Khởi nghĩa là một nghệ thuật mà chỗ tuyệt diệu của nghệ thuật đó
là chọn đúng thời cơ, tập trung toàn lực, giáng những đòn quyết định vào kẻ thù. Bí
quyết để chớp lấy thời cơ của Đảng ta là nắm vững những nguyên lý của Chủ nghĩa
Mác-Lênin về thời cơ cách mạng, phải bám sát tình hình, nhạy bén trước thời cuộc,
để dự kiến chính xác, biết phải làm gì và làm như thế nào, nhất là phải ra sức chuẩn
bị thự lực từ trước để một khi thời cơ đến có thể tung ra mà giành lấy thắng lợi. Tuân
theo những lời giáo huấn của Mác - Lênin đồng thời vận dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh cụ thể của đất nước lúc đó. Đảng ta đã dũng cảm vượt mọi khó khăn, kiên
quyết lãnh đạo khởi nghĩa, không sợ gian khổ, hành động kịp thời. Lãnh đạo nhân
dân nổi dậy tước vũ khí của quân Nhật trước khi quân đồng minh vào Đông dương,
giành lấy chính quyền từ tay Nhật, lật đổ cọn bù nhìn tay sai của Nhật, đứng ở địa vị
làm chủ nước mình mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật trên đất
Đông Dương.
Chớp đúng thời cơ để khởi nghĩa là một đặc điểm, một ưu điểm sáng tạo của
Dảng, của dân tộc ta. Điều này không phải ngẫu nhiên, ăn may mà là kết quả của sự
chuẩn bị lâu dài, của dự đoán chiến lược đúng và kịp thời hành động khi điều kiện
khởi nghĩa đã xuất hiện. quân đồng minh tiến vào Đông Dương, Nhật buộc phải làm
cuộc đảo chính hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương. Đêm 9-3-1945 cuộc xung đột
vũ trang giữa Nhật và Pháp đã nổ ra, chưa đầy một ngày thực dân Pháp đã đầu hàng
phát xít nhật trên toàn Đông Dương.
Sau đả chính Nhật, lực lượng tự vệ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang đã phát triển
mạnh mẽ, rộng rãi, hầu khắp toàn quốc, những căn cứ địa vũ trang hoàn bị đã được
xây dựng, quảng đại quần chúng đã hướng về cách mạng, hình thái cách mạng trực
tiêp đã xuất hiện. Vấn đề cấp thiết đã đặt ra cho cách mạng là biết chọn đúng thời cơ
để khởi nghĩa toàn quốc. Do vậy ngay sau cuộc đảo chính Đảng ta đã nhận định là
cuộc đảo chính sẽ tạo ra một tình thế khủng hoảng chính trị sâu sắc làm cho những
điều kiện của cuộc tổng khởi nghĩa chín muồi nhanh chóng. Khẩu hiệu “Đánh đuổi
phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật - Pháp” Đảng đã phát động cao
trào chống Nhật, cứu nước mạnh mẽ, gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính
quyền, nơi nào có điều kiện thì phát triển chiến tranh du kích, giành chính quyền ở
địa phương. Các hình thức, phương pháp đấu tranh lúc này cao hơn, mạnh mẽ hơn.
Biện pháp then chốt để đưa phong trào lên cao lúc đó là phát động quần chúng “phá
kho thóc, giải quyết nạn đói” nhằm tập hợp đội quân chính trị quần chúng cho cuộc
khởi nghĩa.
Trong lúc nhân dân ta gấp rút chuẩn bị tổng khởi nghĩa thì ở Bắc Bộ và miền
Bắc Trung bộ đã xảy ra nạn đói rất khủng khiếp. Hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Đó là hậu quả thảm khốc nhất của chính sách bóc lột và gây chiến của bọn phát xít
Nhật - Pháp. Khẩu hiệu “phá kho thóc để giải quyết nạn đói’ của Đảng đã đáp ứng
đúng nguyện vọng cấp bách nhất của quần chúng, đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu
tranh trong nhân dân, đẩy tới cao trào chống Nhật cứu nước dâng khắp toàn quốc, lôi
kéo đông đảo các tầng lớp, giai cấp tham gia, không khí khởi nghĩa sục sôi trong cả
nước.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Sau khi đã tiêu
diệt phát xít Ý, Đức. Ngày 8 - 8 -1945 Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, chỉ
trong vài ngày quân đội Xô viết đã tiêu diệt hoàn toàn đội quân chủ lực tinh nhuệ
nhất của Nhật đóng ở vùng Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 15-8-1945 Nhật hoàng
tuyên bố đầu hàng Liên Xô và các nước đồng mình không điều kiện.
Quân đội Nhất ở Đông Dương mất tinh thần, hoang mang tan rã, chính phủ bù
nhìn Trần Trọng Kim hoàn toàn bị tê liệt từ trên xuống dưới.
Tin Nhật đầu hàng truyền đi khắp nước đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng trong
tất cả các tầng lớp nhân dân, đẩy phong trào cách mạng lên một đỉnh cao chưa từng
thấy, các tầng lớp trung gian đã ngả hẳn về cách mạng. Mặt trận Việt Minh đã thu hút
hàng chục triệu hội viên đủ các tầng lớp, các dân tộc. Cao trào cứu nước đã lôi cuốn
cả dân tộc vùng dậy. Triệu người như một cầm lấy tất cả những gì có thể làm vũ khí
đánh đổ bọn cướp nước và bán nước giành quyền làm chủ Đảng Cộng sản Đông
dương đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về chiến tranh, tư tưởng và tổ chức cho cuộc
khởi nghĩa. Những điều kiện khách quan và chủ quan cho cuộc tổng khởi nghĩa ở
nước ta đã hoàn toàn chín muồi. Thời cơ cách mạng “ngàn năm có một” đã đến.
“Chúng ta không thể chậm trễ”.
Trách nhiệm lịch sử của Đảng lúc ấy là lãnh đạo nhân dân nắm chắc thời cơ
chiến lược, nổi dậy chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn tay sai, trước khi quân
đội của đế quốc Anh và quân đội của bọn phản động Tưởng Giới Thạch vào Đông
Dương, trước khi thực dân Pháp kịp tập hợp lại tàn quân và đưa quân Viễn chinh vào
cướp lại nước ta lần nữa.
Từ giữa tháng 8 - 1945 quân đội Anh đang trên đường hành quân gấp vào
nước ta từ phía Nam, quân đội Tưởng cũng đang trên bước chạy mau vào nước ta từ
phía Bắc. Một cuộc chạy đua nước rút lịch sử để giải quyết vấn đề giành quyền làm
chủ đất nước giữa nhân dân ta với các tập đoàn đế quốc và bọn phản động, đòi hỏi
nhân dân ta phải mau chóng đoạt lấy thắng lợi trong cuộc chạy đua đó.
Ngay sau hội nghị toàn quốc của Đảng ngày 13-8-1945 và Đại hội quốc tân
Tân Trào, Đảng Cộng sản Đông Dương và chủ tịch hmc đã ra lời hệu triệu đồng bào
và chiến sĩ cả nước nổi dậy giành chính quyền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn hai
mươi triệu đồng bào ta, từ Bắc đến Nam dã đồng loạt vùng dậy tiến hành Tổng khởi
nghĩa oanh liệt, giải phóng toàn bộ đất nước. Thời cơ cách mạng là chỗ kết hợp
những điều kiện chủ quan và điều kiện khách quan đã chín muối bảo đảm thắng lợi
cho cách mạng.
Trong vận động cách mạng thời cơ xuất hiện như một tất yếu lịch sử, đưa quần
chúng đến ngay ngưỡng cửa của tổng khởi nghĩa giành chính quyền nhưng cũng ó thể
thời cơ trôi đi một cách nhanh chóng. Nếu ta không biết chớp ngay lấy nó mà hành
động. Thời cơ của cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám 1945 chỉ tồn tại trong
một khoảng thời gian rất ngắn. Nếu như cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra sớm hơn, trước
ngày 15-8-1945 khi mà Nhật Hoàng chưa tuyên bố đầu hàng thì sẽ gặp vô vàn khó
khăn. Phát xít Nhật tuy suy yếu nhưng chúng còn đủ lực lượng để chống lại cách
mạng một cách quyết liệt, và như vậy cuộc khởi nghĩa chắc chắn sẽ không thể dễ
dàng thành công trong cả nước một cách nhanh chóng. Mặt khác nếu cuộc tổng khởi
nghĩa nổ ra muộn hơn khi quân Anh, quân Tưởng đã vào đất nước ta, khi mà thực dân
Pháp đã phục hồi lại lực lượng, và viện binh của chúng từ Pháp sang xâm lược lại
nước ta một lần nữa, và chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim đã tiếp xúc được với bọn
đế quốc hì thời cơ thuận lợi nhất sẽ trôi qua. Chắc chắn ta sẽ phải hy sinh rất nhiều
của, nhiều người. Khởi nghĩa là một nghệ thuật mà chỗ tuyệt diệu của nghệ thuật đó
là chọn đúng thời cơ, tập trung toàn lực, giáng những đòn quyết định vào kẻ thù. Bí
quyết để chớp lấy thời cơ của Đảng ta là nắm vững những nguyên lý của Chủ nghĩa
Mác-Lênin về thời cơ cách mạng, phải bám sát tình hình, nhạy bén trước thời cuộc,
để dự kiến chính xác, biết phải làm gì và làm như thế nào, nhất là phải ra sức chuẩn
bị thự lực từ trước để một khi thời cơ đến có thể tung ra mà giành lấy thắng lợi. Tuân
theo những lời giáo huấn của Mác - Lênin đồng thời vận dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh cụ thể của đất nước lúc đó. Đảng ta đã dũng cảm vượt mọi khó khăn, kiên
quyết lãnh đạo khởi nghĩa, không sợ gian khổ, hành động kịp thời. Lãnh đạo nhân
dân nổi dậy tước vũ khí của quân Nhật trước khi quân đồng minh vào Đông dương,
giành lấy chính quyền từ tay Nhật, lật đổ cọn bù nhìn tay sai của Nhật, đứng ở địa vị
làm chủ nước mình mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật trên đất
Đông Dương.
Chớp đúng thời cơ để khởi nghĩa là một đặc điểm, một ưu điểm sáng tạo của
Dảng, của dân tộc ta. Điều này không phải ngẫu nhiên, ăn may mà là kết quả của sự
chuẩn bị lâu dài, của dự đoán chiến lược đúng và kịp thời hành động khi điều kiện
khởi nghĩa đã xuất hiện.

You might also like