You are on page 1of 5

Những số liệu thống kê về các nguồn tài trợ từ bên ngoài công ty tại các nước phát triển

cho thấy việc phát hành


chứng khoán trên thực tế không phải là cách thức chủ yếu để huy động vốn từ bên ngoài nhằm tài trợ cho hoạt
động kinh doanh của các công ty, bất chấp việc các phương tiện truyền thông tại các nước này tập trung đưa tin
về tình hình các thị trường tài chính, tạo ra một ấn tượng về tầm quan trọng của các nguồn vốn huy động từ các
thị trường này
Ngay tại Mỹ, một trong những quốc gia có thị trường tài chính phát triển nhất trên thế giới, cổ phiếu và trái phiếu
cũng chỉ cung cấp được không quá 50% tổng số vốn hoạt động của các công ty. Tình trạng tương tự cũng xảy ra
ở các nước Anh, Pháp, Đức, Nhật. Những phân tích số liệu chi tiết hơn còn cho thấy vai trò của kênh tài chính
trực tiếp trong việc lưu chuyển vốn nhàn rỗi tới những nơi có khả năng đầu tư sinh lời trên thực tế còn thấp hơn
nhiều. Lấy ví dụ tại Mỹ, từ năm 1970, chỉ có gần 5% các trái phiếu công ty, thương phiếu và khoảng 50% cổ
phiếu được bán trực tiếp cho người dân Mỹ. Điều này chứng tỏ kênh tài chính còn lại, kênh tài chính gián tiếp có
vai trò quan trọng như thế nào trong hoạt động lưu chuyển vốn của nền kinh tế. Để hiểu được tại sao kênh tài
chính gián tiếp lại có vai trò quan trọng như vậy, ta sẽ tìm hiểu về hoạt động của các trung gian tài chính cua My.

Các loại hình trung gian tài chính


.1. Các tổ chức nhận tiền gửi
Các tổ chức nhận tiền gửi là các trung gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua các dịch vụ nhận tiền gửi
rồi cung cấp cho những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình thức các khoản vay trực tiếp. Không chỉ có vai trò
quan trọng trong kênh tài chính gián tiếp các tổ chức này còn tham gia vào quá trình cung ứng tiền cho nền kinh
tế.
Các tổ chức nhận tiền gửi bao gồm:
-- các ngân hàng thương mại (commercial banks)
các tổ chức tiết kiệm (thrift institutions) như các hiệp hội tiết kiệm và cho vay (savings and loan associations), các
ngân hàng tiết kiệm (savings banks), các quỹ tín dụng.
2.1.1. Ngân hàng thương mại (Commercial bank)
Các ngân hàng thương mại huy động vốn chủ yếu dưới dạng: Tiền gửi thanh toán (checkable deposits), tiền gửi
tiết kiệm (saving deposits), tiền gửi có kỳ hạn (time deposits).
Vốn huy động được dùng để cho vay: cho vay thương mại (commercial loans), cho vay tiêu dùng (consumer
loans), cho vay bất động sản (mortgage loans ) và để mua chứng khoán chính phủ, trái phiếu của chính quyền
địa phương.
Ngân hàng thương mại kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực tín dụng ngắn hạn, tuy nhiên gần đây nhờ nguồn vốn
huy động dồi dào nó bắt đầu vươn sang lĩnh vực tín dụng trung và dài hạn. Ngoài ra ngân hàng thương mại còn
cung cấp các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng và buôn bán ngoại tệ.
Ngân hàng thương mại dù ở quốc gia nào cũng đều là nhóm trung gian tài chính lớn nhất. Đây cũng là các trung
gian tài chính mà các chủ thể kinh tế giao dịch thường xuyên nhất.
2.1.2. Các hiệp hội tiết kiệm và cho vay (Savings and Loan Associations - S&Ls)
Các hiệp hội này xuất hiện khá phổ biến ở Mỹ từ những năm 50.
Nguồn vốn chủ yếu của các hiệp hội này là các khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn.
Phần còn lại (khoảng 20 - 30%) thì vay từ các nguồn khác và vay của chính quyền địa phương hay trung ương
Tiền vốn thu được chủ yếu để cho vay bất động sản (chủ yếu là nhà ở) với thời hạn dài. Thời kỳ đầu, các hiệp
hội này bị giới hạn trong các khoản cho vay bất động sản và không được cung cấp các tài khoản thanh toán.
Nhưng từ những năm 80 trở đi các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đã được phép cung cấp các tài khoản thanh
toán, cho vay tiêu dùng và thực hiện hàng loạt các hoạt động khác mà trước đây chỉ giới hạn ở các ngân hàng
thương mại. Ngày nay, sự khác biệt về phạm vi hoạt động giữa các hiệp hội tiết kiệm và cho vay với các ngân
hàng thương mại hầu như không đáng kể. Chúng đã trở thành những đối thủ cạnh tranh đáng gờm của các ngân
hàng thương mại trong nhiều lĩnh vực.
2.1.3. Ngân hàng tiết kiệm (Savings bank)
Ngân hàng tiết kiệm được thành lập với mục đích huy động các khoản tiền tiết kiệm của các cá nhân trong xã
hội. Chủ nhân của các ngân hàng tiết kiệm cũng chính là những người gửi tiền tiết kiệm.
Phương thức hoạt động của ngân hàng tiết kiệm mang tính tương trợ là chủ yếu, chứ không như ngân hàng
thương mại là nhằm mục đích kinh doanh là chính
Vốn hoạt động chủ yếu của ngân hàng tiết kiệm là từ tiền gửi tiết kiệm của dân chúng hoặc là vốn đóng góp của
các nhà hảo tâm với tính chất hỗ trợ người nghèo là chính hơn là đóng góp để kiếm lời. Loại ngân hàng này
không phát hành các công cụ nợ để vay vốn của công chúng và cũng hầu như không vay của các tổ chức nước
ngoài hay NHTW, trừ trường hợp đặc biệt thiếu tiền mặt.
Do tính chất đặc biệt của vốn huy động, các ngân hàng tiết kiệm cho vay rất thận trọng. Tiêu chuẩn hàng đầu
trong vấn đề cho vay là sự an toàn. Đối tượng cho vay chủ yếu là các khoản vay cầm cố, thế chấp bằng nhà cửa,
tài sản hoặc chứng khoán. Tiếp đó là đầu tư vào chứng khoán hoặc cho các ngân hàng thương mại khác vay.
Nhìn chung những người được vay tiền tại các ngân hàng này cũng chính là những người đã gửi tiền tiết kiệm
vào ngân hàng. Lãi suất cho vay thường rất thấp vì nó mang tính chất tương trợ nhiều hơn là kinh doanh.
Ở Mỹ ngân hàng tiết kiệm tồn tại dưới hình thức các ngân hàng tiết kiệm tương trợ (Mutual savings banks). Các
ngân hàng tiết kiệm tương trợ này thu hút tiền vốn bằng cách nhận tiền gửi và dùng chúng trước hết để cho vay
thế chấp. Những người gửi tiền đồng thời là người chủ sở hữu các ngân hàng này. Trước năm 1980, các ngân
hàng này bị hạn chế ở các khoản cho vay bất động sản, nhưng ngày nay họ đã được phép phát hành các tài
khoản tiền gửi có thể phát séc dưới dạng các tài khoản NOW hay Super NOW và thực hiện các khoản cho vay
khác ngoài cho vay bất động sản như vay tiêu dùng, vay cho sản xuất nông nghiệp, cũng như cung cấp các dịch
vụ như tín thác, phát hành thẻ tín dụng.
2.1.4. Quỹ tín dụng
Quỹ tín dụng được thành lập theo hình thức góp vốn cổ phần và hoạt động theo nguyên tắc tập thể, tự nguyện,
hợp tác và bình đẳng. Các thành viên của quỹ góp tiền vào quỹ dưới hình thức mua các thẻ thành viên (tương tự
như cổ phiếu) có mệnh giá bằng nhau. Sau đó, họ cùng nhau bầu ra người quản lý. Các thành viên của quỹ sẽ
được hưởng quyền vay tiền của quỹ khi cần. Khi cần thêm vốn, quỹ lại phát hành thêm thẻ thành viên và tiếp
nhận thêm những thành viên mới. Thông thường quỹ không cho người ngoài vay tiền. Ngoài cho các thành viên
vay, quỹ cũng có thể đầu tư vào chứng khoán.
Ở Mỹ, các liên hiệp tín dụng (Credit Unions) cũng có mô hình tương tự như quỹ tín dụng. Đây là các tổ chức cho
vay có quy mô nhỏ, có tính chất hợp tác xã, được tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt (ví dụ các nhân
viên của một công ty). Mục đích của các liên hiệp này là cho các thành viên vay với mức lãi suất thấp nhất có thể.
Họ thu nhận vốn bằng cách bán cổ phần cho các thành viên và các thành viên ngoài việc được quyền vay ưu đãi
còn được hưởng cả lãi từ cổ phần mà họ mua. Các khoản vay từ quỹ chủ yếu phục vụ nhu cầu mua hàng hoá
tiêu dùng hơn là mua nhà. Từ sau năm 1980, các liên hiệp tín dụng này cũng được phép phát hành các tài khoản
tiền gửi thanh toán và có thể thực hiện các khoản cho vay bất động sản ngoài các khoản cho vay tiêu dùng.
2.2. Các công ty tài chính (Finance companies)
Các trung gian tài chính này huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, hay thương phiếu. Các công
ty tài chính cung ứng chủ yếu các loại tín dụng trung hạn và dài hạn, ví dụ cho người tiêu dùng vay tiền để mua
sắm đồ đạc, xe hơi, tu bổ nhà hoặc cho các doanh nghiệp nhỏ vay. Ngoài ra, các công ty tài chính còn thực hiện
các dịch vụ cầm, giữ hộ và quản lý các chứng khoán, các kim loại quí .v.v...
Nếu như hoạt động của các ngân hàng thương mại chủ yếu là tập hợp các khoản tiền gửi nhỏ để cho vay các
khoản tiền lớn, thì các công ty tài chính lại huy động những khoản tiền lớn rồi chia ra để cho vay những khoản
nhỏ.
Một điểm khác biệt nữa là công ty tài chính không được huy động các dạng tiền gửi của dân chúng, của các tổ
chức kinh tế - xã hội với kỳ hạn ngắn và dưới hình thức mở tài khoản, cũng như không được thực hiện các dịch
vụ thanh toán và tiền mặt, không sử dụng vốn vay của dân làm phương tiện thanh toán.
Các công ty tài chính gần như không bị điều hành chặt bởi Chính phủ. Chính phủ có thể điều hành số tiền cực
đại mà các công ty tài chính có thể cho người tiêu dùng vay và kỳ hạn vay nhưng không có hạn chế về việc mở
chi nhánh, về sự thu nhận vốn và những tài sản mà công ty tài chính nắm giữ. Điều này đã giúp cho các công ty
tài chính có thể phục vụ tốt các nhu cầu của khách hàng hơn là các ngân hàng.
có ba loại hình công ty tài chính chủ yếu
+ Công ty tài chính bán hàng (Sale finance company): Các công ty tài chính này gián tiếp cấp tín dụng cho người
tiêu dùng để mua các món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc từ một nhà sản xuất nào đó. Tín dụng được cấp dưới
hình thức: các doanh nghiệp bán hàng trả góp cho khách hàng theo hợp đồng mẫu do công ty tài chính loại này
cung cấp, sau đó hợp đồng được bán lại cho công ty tài chính. Như vậy khoản nợ của khách hàng với nhà sản
xuất hoặc nhà bán lẻ đã chuyển thành khoản nợ của khách hàng đối với công ty tài chính. Các công ty tài chính
loại này thường do các công ty sản xuất hay các nhà phân phối bán lẻ (retailling or manufacturing company)
thành lập nên nhằm hỗ trợ cho hoạt động tiêu thụ hàng hoá của mình. Ví dụ tại Mỹ, General Motors Acceptance
Corporation chuyên tài trợ cho khách hàng mua ô tô của hãng GM
+ Công ty tài chính tiêu dùng (Consumer finance company): Công ty tài chính loại này cung ứng phần lớn nguồn
vốn của mình cho các gia đình và cá nhân vay vào mục đích mua sắm hàng hoá tiêu dùng như các đồ đạc nội
thất (giường, tủ…) và các đồ gia dụng (tủ lạnh, máy giặt…) hoặc sửa chữa nhà cửa. Hầu hết các khoản cho vay
đều được trả góp định kỳ. Một cách cho vay khác là cấp thẻ tín dụng cho khách hàng để họ mua sắm ở hệ thống
cửa hàng bán lẻ. Do các khoản vay của loại công ty tài chính này khá rủi ro nên công ty thường chỉ cho vay
những khoản tiền nhỏ và với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường. Khách hàng của các công ty tài chính tiêu dùng
vì vậy cũng thường là những người không thể tìm được khoản tín dụng từ những nguồn khác và do vậy họ
thường phải chịu lãi suất cao hơn thông thường. Các công ty tài chính loại này có thể do các ngân hàng thành
lập nên hoặc hoạt động độc lập dưới hình thức công ty cổ phần.
+ Công ty tài chính kinh doanh (Business finance company): Công ty tài chính loại này cấp tín dụng cho các
doanh nghiệp dưới các hình thức như: Bao thanh toán (Nghiệp vụ Factoring và Forfating) - Công ty cấp tín dụng
dưới hình thức mua lại (chiết khấu) các khoản phải thu của doanh nghiệp; Cho thuê tài chính (Nghiệp vụ
Leasing) - Công ty cấp tín dụng dưới hình thức mua các máy móc thiết bị mà khách hàng yêu cầu rồi cho khách
hàng thuê; v.v...
Các khoản phải thu thường là tiền bán trả chậm hàng hoá hay dịch vụ. Do cần tiền ngay, các doanh nghiệp ký
kết trước với công ty tài chính một hợp đồng trong đó công ty tài chính sẽ mua lại với giá chiết khấu tất cả các
khoản thu chưa đến hạn thanh toán của mình phát sinh trong một khoảng thời gian nhất định. Cho thuê tài chính
là hoạt động tín dụng trung, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là công ty tài chính
thuê mua với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo
các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê, các bên không được đơn phương huỷ
bỏ hợp đồng . Trong nghiệp vụ cho thuê tài chính, bên cho thuê sẽ mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê. Bên
thuê có nghĩa vụ bảo dưỡng, sửa chữa tài sản thuê trong thời hạn thuê và không được dùng tài sản thuê để cầm
cố, thế chấp hoặc để bảo đảm cho bất kỳ một nghĩa vụ tài chính nào
trên thực tế còn xuất hiện các công ty tài chính chuyên hoạt động trong lĩnh vực bao thanh toán (các công ty
factor) hay cho thuê tài chính (công ty cho thuê tài chính – leasing company – cung cấp cả dịch vụ thuê mua và
thuê vận hành).
2.3. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng (Contractual Savings Instutions)
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng là những trung gian tài chính thu nhận vốn theo định kỳ trên cơ sở các hợp
đồng đã ký kết với khách hàng.
Do số tiền và thời gian phải thanh toán có thể dự đoán được khá chính xác nên các trung gian tài chính này có
xu hướng đầu tư số vốn thu nhận được vào các tài sản có tính lỏng thấp, đặc biệt là các chứng khoán dài hạn
như cổ phiếu, trái phiếu hoặc các khoản vay trả góp mua bất động sản.
Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng bao gồm các công ty bảo hiểm (bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tài sản và tai
nạn) và các quỹ trợ cấp hưu trí.
2.3.1. Các công ty bảo hiểm (Insurances Companies)
Công ty bảo hiểm có chức năng chủ yếu là cung cấp phương tiện để bảo vệ các hộ gia đình hoặc các hãng kinh
doanh trước những tổn thất về tài chính do những rủi ro nhất định gây ra thông qua việc cung cấp các hợp đồng
bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người mua một khoản tiền nhất định trong trường hợp xảy ra rủi ro.
Các rủi ro được bảo hiểm bao gồm các tai nạn, mất trộm, cháy (bảo hiểm tài sản và tai nạn), ốm đau, mất khả
năng làm việc (bảo hiểm sức khoẻ và thương tật), chết (bảo hiểm nhân thọ).
Các công ty bảo hiểm thu phí bảo hiểm (premiums) để thành lập nên quỹ bảo hiểm phục vụ cho mục đích bồi
thường. Do hầu hết các khoản phí bảo hiểm đều được thu hết trước khi bồi thường nên công ty bảo hiểm có một
khoảng thời gian từ dưới 1 năm cho tới hàng chục năm để sử dụng quỹ bảo hiểm. Tiền trong quỹ bảo hiểm khi
chưa dùng để bồi thường sẽ được đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản hoặc thực hiện các hoạt động
đầu tư tài chính khác như góp vốn liên doanh, thành lập công ty chứng khoán, cung cấp các khoản tín dụng trực
tiếp...
2.3.2. Các quỹ trợ cấp hưu trí (Pension and retirement funds)
Các quỹ trợ cấp hưu trí được thành lập với mục đích giúp cho người lao động khi về hưu có được những khoản
thu nhập ổn định thông qua cung cấp các chương trình lương hưu (pension plans).
Các chương trình lương hưu này quy định những khoản đóng góp định kỳ của những người tham gia vào
chương trình trong thời gian những người này còn đang làm việc để khi về hưu họ sẽ được nhận tiền trợ cấp
hưu trí (hay lương hưu) được trả một lần khi về hưu hoặc trả định kỳ đều đặn cho đến khi chết.
Các chương trình lương hưu không chỉ được đóng góp bởi những người lao động mà cả các chủ thuê lao động
và thậm chí cả chính phủ.
Các khoản tiền quỹ trợ cấp hưu trí thu được dùng để đầu tư nhằm đạt được mức sinh lời nhất định trong khi vẫn
đảm bảo an toàn cho khoản vốn. Do số tiền mà các quỹ phải chi trả hàng năm có thể dự đoán với độ chính xác
cao nên quỹ thường đầu tư số tiền nhàn rỗi của mình vào các công cụ đầu tư dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu,
các khoản vay mua trả góp bất động sản… Ngoài ra, các quỹ này còn đầu tư vào các tài sản tài chính có độ rủi ro
thấp như tiền gửi ngân hàng, các loại kỳ phiếu do ngân hàng phát hành. Như vậy hoạt động của các quỹ hưu trí
không chỉ đảm bảo khoản thu nhập thường xuyên ổn định cho những người về hưu mà còn góp phần lưu chuyển
vốn nhàn rỗi đến những nơi có nhu cầu về vốn.
Sự phát triển của các quỹ trợ cấp hưu trí nhận được sự hỗ trợ tích cực từ phía chính phủ thông qua các chính
sách ưu đãi về thuế. Ví dụ: các khoản đóng góp vào chương trình lương hưu của cả người lao động và chủ thuê
lao động đều được miễn trừ thuế thu nhập . Ở nhiều nước như Đức, Nhật, Mỹ, chính phủ còn cam kết tài trợ để
số tiền lương hưu tối thiểu lên tới một mức nhất định.
Các quỹ trợ cấp hưu trí hoạt động dưới hai hình thức
Các chương trình trợ cấp hưu trí tư nhân (Private Pension Plans):
Các chương trình này do các công ty thành lập nhằm mục đích hỗ trợ cho những người lao động trong công ty.
Các chương trình này sẽ do một ban quản lý quỹ chịu trách nhiệm điều hành bao gồm các hoạt động thu tiền
đóng góp, chi trả lương hưu và thực hiện việc đầu tư bằng nguồn vốn quỹ. Các chương trình này cũng có thể
được uỷ thác cho ngân hàng hoặc công ty bảo hiểm nhân thọ quản lý. các nước thường quy định việc báo cáo
định kỳ theo những tiêu chuẩn nhất định về hoạt động của các quỹ, đưa ra những quy định về số năm tối thiểu
phải tham gia chương trình, những giới hạn về phạm vi được đầu tư của quỹ, cũng như giao trách nhiệm giám
sát cho một cơ quan chức năng
ở Mỹ là Pension Benefit Guarantee Corporation hay còn gọi là “Penny Benny”) hoạt động như một công ty bảo
hiểm cho các quỹ trợ cấp hưu trí. Các tổ chức này thu phí bảo hiểm từ các chương trình trợ cấp hưu trí tư nhân
đổi lại cam kết thanh toán mức trợ cấp hưu trí tối thiểu cho một người lao động (ví dụ ở Mỹ là 30.000 USD mỗi
năm) trong trường hợp các quỹ trợ cấp nói trên phá sản hoặc không thể thực hiện chi trả đủ tiền vì những lý do
khác.
Các chương trình trợ cấp hưu trí công cộng (Public Pension Plans):
Các chương trình này còn có tên gọi khác là Bảo hiểm xã hội (Social Security ).
Hầu hết tất cả những người lao động và chủ thuê lao động bị bắt buộc phải tham gia chương trình này . Phần
đóng góp được xác định trên cơ sở mức lương của người lao động. Người lao động và chủ thuê lao động sẽ chia
nhau đóng góp .
2.4.2. Các công ty đầu tư mạo hiểm (Venture Capital Firms)
Nếu như các ngân hàng đầu tư hỗ trợ cho các công ty lớn huy động vốn thì các công ty đầu tư mạo hiểm (còn
được gọi là các quỹ đầu tư mạo hiểm) chuyên hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới thành lập (startup firms). Các
doanh nghiệp này không chỉ thiếu về vốn mà cả kinh nghiệm quản lý. Vì vậy các công ty đầu tư mạo hiểm không
chỉ giúp họ huy động vốn mà còn cung cấp các dịch vụ tư vấn. Các công ty đầu tư mạo hiểm sẽ rót vốn của mình
vào doanh nghiệp và giúp đỡ ban giám đốc điều hành công ty phát triển đến một mức độ nhất định, có thể phát
hành cổ phần trực tiếp ra thị trường. Khi đó công ty đầu tư mạo hiểm sẽ bán số cổ phần mà mình nắm giữ ra
công chúng rồi chuyển sang một dự án đầu tư mạo hiểm khác.
2.4.3. Các quỹ đầu tư tương hỗ (Mutual funds)
Các quỹ đầu tư tương hỗ là các trung gian tài chính thực hiện việc huy động vốn từ các nhà đầu tư cá nhân
thông qua phát hành các chứng chỉ góp vốn đầu tư để đầu tư vào chứng khoán nhằm tận dụng những lợi thế về
vốn lớn và kinh doanh chuyên nghiệp.
Nhờ vào ưu thế vốn đầu tư lớn, các quỹ đầu tư tương hỗ có thể giảm thiểu chi phí giao dịch bằng cách mua bán
chứng khoán với số lượng lớn và hạn chế rủi ro bằng cách đa dạng hoá danh mục các chứng khoán nắm giữ.
Không chỉ vậy, ưu thế vượt trội của các quỹ đầu tư so với các nhà đầu tư riêng lẻ còn thể hiện ở chỗ chúng được
đặt dưới sự quản lý của các chuyên gia về kinh doanh chứng khoán.
Các quỹ đầu tư tương hỗ được tổ chức theo hai hình thức: các quỹ đầu tư mở (open-end fund) và các quỹ đầu
tư đóng (closed-end fund).
• Các quỹ đầu tư mở (open-end fund) liên tục phát hành thêm chứng chỉ đầu tư mới khi có người muốn đầu tư
vào quỹ hoặc hoàn lại vốn cho các chứng chỉ cũ theo giá trị tài sản ròng của chúng (NAV – Net asset value). Giá
trị tài sản ròng của mỗi chứng chỉ đầu tư của quỹ đầu tư mở bằng tổng giá trị thị trường của các chứng khoán mà
quỹ đó nắm giữ chia cho tổng số chứng chỉ đã phát hành của quỹ. Hiện ở Việt Nam chưa có quỹ đầu tư mở.
• Các quỹ đầu tư đóng chỉ huy động vốn một lần từ các nhà đầu tư trong lần phát hành chứng chỉ đầu tư ra công
chúng lúc thành lập. Quỹ đầu tư đóng không phát hành thêm chứng chỉ đầu tư để huy động thêm vốn và cũng
không chấp nhận hoàn vốn cho các chứng chỉ này. Các chứng chỉ đầu tư của quỹ đầu tư đóng được mua bán
trên thị trường như các cổ phiếu thường. Khác với chứng chỉ đầu tư của quỹ đầu tư mở, giá của các chứng chỉ
của quỹ đầu tư đóng có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị tài sản ròng của chúng, tuỳ thuộc vào các yếu tố như
tính lỏng của các chứng chỉ này và trình độ quản lý quỹ
Trên thế giới, loại hình quỹ đầu tư mở phổ biến hơn so với quỹ đầu tư đóng do cổ phần của quỹ đầu tư mở có
tính lỏng cao hơn. Quỹ đầu tư tương hỗ thường đặt dưới sự quản lý của các công ty đầu tư chuyên nghiệp hoặc
các tổ chức tài chính khác. Các công ty này thu phí quản lý quỹ xấp xỉ 0,5% giá trị tài sản của quỹ mỗi năm.
2.4.4. Các quỹ đầu tư tương hỗ thị trường tiền tệ (Money market mutual funds)
Các quỹ đầu tư này hoạt động tương tự như các quỹ đầu tư tương hỗ trên thị trường vốn. Điểm khác biệt là đối
tượng đầu tư của các quỹ này là các công cụ tài chính có chất lượng cao trên thị trường tiền tệ như: Tín phiếu
kho bạc, thương phiếu và các chứng chỉ tiền gửi của ngân hàng. Do các chứng khoán mà quỹ đầu tư nắm giữ
thường có thời hạn ít hơn 6 tháng và những biến động về giá trị thị trường của các chứng khoán này khá nhỏ
nên các quỹ đầu tư này cho phép các chứng chỉ đầu tư được hoàn vốn với giá cố định. Lợi nhuận từ những thay
đổi về giá trị thị trường của các chứng khoán được trả cho người đầu tư dưới dạng lãi suất. Do các chứng chỉ
đầu tư được hoàn vốn với mức giá cố định nên các quỹ này cho phép các nhà đầu tư được ký phát séc với số
tiền phải cao hơn mức tối thiểu do quỹ quy định ở Mỹ mức tối thiểu đó thường là 500 USD để thanh toán từ tài
khoản của quỹ đầu tư mở tại một ngân hàng thương mại. Với đặc tính này, các chứng chỉ quỹ đầu tư tương hỗ
thị trường tiền tệ có chức năng như là tiền gửi thanh toán tại ngân hàng nhưng lại được hưởng mức lãi suất cao
hơn.
2.4.5. Các công ty quản lý tài sản (Asset Management Firms)
Các công ty này còn được gọi là các công ty quản lý đầu tư (investment management firms). Hoạt động chủ yếu
của các công ty này là quản lý các quỹ tiền tệ tập trung như các quỹ đầu tư, quỹ hưu trí hoặc tài sản của các cá
nhân, doanh nghiệp hay chính phủ

You might also like