Professional Documents
Culture Documents
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I. KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2
I. Chứng khoán và thị trường chứng khoán 2
II. Chức năng của thị trường chứng khoán 5
III. Vị trí và cấu trúc của thị trường chứng khoán 6
IV. Vai trò của thị trường chứng khoán 8
V. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 10
VI. Các thành phần tham gia thị trường chứng khoán 11
VII. Các vấn đề liên quan đến thị trường chứng khoán 12
VIII. Nguyên tắc CAN SLIM trong đầu tư chứng khoán. 20
PHẦN I
KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán trên Thế giới
Thị trường chứng khoán là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại. Đến nay,
hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều có thị trường chứng khoán. Thị trường
chứng khoán đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế
của những nước theo cơ chế thị trường.
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 15 ở tại thành phố trung tâm buôn bán của phương Tây, các
thương gia thường tụ tập tại một số khu như quán cafe để trao đổi mua bán các loại hàng hóa
như nông sản, khoáng sản, tiền tệ và các chứng từ có giá. Điểm đặc biệt ở đây là các thương
gia chỉ giao dịch với nhau bằng lời nói, không có hàng hóa thật. Những cuộc thương lượng
này nhằm thống nhất với nhau các hợp đồng trao đổi mua bán ngay hoặc cho tương lai.
Những cuộc trao đổi này ban đầu chỉ là một nhóm người và sau đó đông dần cho đến khi nó
thực sự thành một khu chợ riêng. Thời gian họp chợ lúc đầu là hàng tháng, sau đó là hàng
tuần rồi rút ngắn còn hàng ngày. Trong các phiên họp chợ tại đây các thương gia thống nhất
với nhau các quy ước cho việc thương lượng và sau này trở thành những quy tắc có giá trị bắt
buộc với những ai muốn tham gia thị trường và thị trường chứng khoán hình thành từ đó.
Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1943 tại một lữ quán của gia đình Vanber tại thành phố
Bruges (Vương quốc Bỉ). Trước lữ quán có 1 bảng hiệu vẽ hình ba túi da và chữ. Ba túi da
tượng trưng cho họ ba nội dung của thị trường chứng khoán: thị trường hàng hoá, thị trường
ngoại tệ, và thị trường chứng khoán động sản, còn chữ “Bourse” có nghĩa là mậu dịch thị
trường hay còn gọi là “nơi buôn bán chứng khoán”.
Đến năm 1547, thị trường ở thành phố Bruges sụp đổ do cửa biển Envin - nơi dẫn các
tàu thuyền vào buôn bán tại thành phố bị cát biển lấp mất. Tuy nhiên vào năm 1531, thị
trường này đã được dời đến thành phố cảng Anvers (Bỉ). Từ đó, thị trường này phát triển
nhanh chóng. Một thị trường như vậy cũng được thành lập tại London (Vương quốc Anh ) thế
kỷ 18 và sau đó là một loạt thị trường ra đời tại Pháp, Đức, Ý và một số nước Bắc Âu và Mỹ
cũng được thành lập. Sau một thời gian hoạt động, thị trường đã chứng tỏ khả năng không
đáp ứng được yêu cầu cả ba loại giao dịch khác nhau. Vì thế, thị trường hàng hoá được tách
thành các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và phát triển thành thị trường hối
đoái. Thị trường chứng khoán động sản trở thành thị trường chứng khoán
Như vậy, thị trường chứng khoán xuất hiện từ thế kỷ thứ 15. Sự hình thành thị trường
chứng khoán cũng đồng thời với thị trường hối đoái và một số thị trường khác.
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán thế giới đã trải qua những
giai đoạn thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875 đến 1913, thị trường
chứng khoán trong thời kỳ này phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Nhưng đến “ngày thứ sáu đen tối” vào ngày 29-10-1929 là mở đầu cuộc khủng hoảng của thị
trường chứng khoán New York, từ đó cuộc khủng hoảng kéo sang các thị trường chứng
khoán Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ. Sau thế chiến thứ hai, thị
trường chứng khoán phục hồi và phát triển mạnh. Nhưng rồi cuộc khủng hoảng tài chính
SVTH: Lưu Lê Mai – 08NH1 2
Thị trường chứng khoán Việt Nam
19/10/1987 (ngày thứ hai đen tối) một lần nữa đã làm cho thị trường chứng khoán thế giới
suy sụp nặng nề. Cuộc khủng hoảng này để lại hậu quả nghiêm trọng hơn cuộc khủng hoảng
năm 1929. Theo quy luật tự nhiên, sau hơn hai năm mất lòng tin, thị trường chứng khoán thế
giới tiếp tục đi vào hoạt động ổn định, phát triển. Cứ mỗi lần khủng hoảng như vậy, giá
chứng khoán của tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới sụt kinh khủng. Tuy ở mỗi
khu vực và mỗi nước ở mức độ khác nhau gây ra sự ngừng trệ cho thị trường chứng khoán
toàn cầu và cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế mỗi nước.
Tháng 7/1997, thị trường chứng khoán ở các nước Châu Á sụt giá, mất lòng tin bắt đầu
từ Thái Lan, Inđonexia – hoạt động trì trệ một thời gian do thiếu hàng hóa và do không được
quan tâm đúng mức. Thị trường Philippine kém hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống
nhất hoạt động của 2 sở giao dịch chứng khoán Makita và Manila ...
Đến nay thị trường chứng khoán các nước phát triển mạnh mẽ về số lượng thị trường
chứng khoán lên đến 160 sở giao dịch phân tán khắp các châu lục, chất lượng hoạt động thị
trường ngày càng đáp ứng cho số đông những nhà đầu tư trong và ngoài nước, tiến tới thị
trường chứng khoán hội nhập khu vực và quốc tế.
Hiện nay thị trường chứng khoán đã phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước công nghiệp
hàng đầu Mỹ, Nhật, Anh, Đức, Pháp…Bên cạnh đó hơn 40 nước phát triển đã thiết lập thị
trường chứng khoán cũng đã hình thành ở các nước láng giềng Việt Nam như Singapore,
Malaysia, Thái Lan, Philipin và Indonexia và Việt Nam cũng đã có trung tâm giao dịch thị
trường chứng khoán thành phố Hồ chí Minh (7/2000) và Hà Nội.
Có thể nói, Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính không thể thiếu được
trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang
phát triển, đang cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân
Thị trường chứng khoán là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn
Thị
Thị trường tiền tệ trường chứngvốn
Thị trường
khoán
Như vậy, trên thị trường chứng khoán giao dịch 2 loại công cụ tài chính: công cụ tài
chính trên thị trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ.
Thị trường chứng khoán là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính nơi diễn ra quá
trình phát hành, mua bán công cụ Nợ và công cụ Vốn (các công cụ sở hữu).
TT Nợ TT Vốn cổ phần
VI. CÁC THÀNH PHẦN THAM GIA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm
sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức liên quan đến chứng khoán.
1. Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng
khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán – hàng hóa
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu chính phủ và
trái phiếu địa phương
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như trái phiếu, chứng chỉ
thụ hưởng …phục vụ cho hoạt động của họ.
2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại:
+ Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên
thị trường chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời.
+ Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán
với số lượng lớn trên thị trường.
Các định chế này có thể tồn tại các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ
lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán.
3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhiệm một hoặc
nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư
vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh
- Công ty chứng khoán
- Quỹ đầu tư chứng khoán
- Các trung gian tài chính
4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý
nhà nước đối với TTCK ở Việt nam
- Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành
những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các
quy định của luật pháp và ủy ban chứng khoán.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là cầu nối giữa các nhà kinh doanh chứng
VII. CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Giao dịch chứng khoán
Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán có thể diễn ra trên thị trường
tập trung (Trung tâmgiao dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán) và thị trường phi tập
trung.
a) Mua chứng khoán của tổ chức phát hành
Đối với loại chứng khoán này, ta có thể thực hiện theo 2 hình thức:
- Mua trực tiếp tại tổ chức phát hành (công ty): nhà đầu tư phải đăng ký mua và nộp tiền trực
tiếp tại tổ chức phát hành chứng khoán. Hình thức này rất bất cập, nhất là về mặt địa lý.
- Mua thông qua trung gian: tức là mua thông qua các nhà đại lý hoặc bảo lãnh phát hành
thông thường là các công ty chứng khoán và các Ngân hàng Thương mại.
Nếu bạn mua chứng khoán của tổ chức phát hành chưa niêm yết trên Trung tâm giao dịch
chứng khoán thì việc chuyển nhượng hoặc bán lại chứng khoán đó cho người khác hiện nay
gặp nhiều khó khăn vì không dễ tìm được người mua và bạn cũng phải trực tiếp dến tổ chức
phát hành (hoặc quyền) để thực hiện chuyển nhượng cho người mua.
b)Mua bán chứng khoán niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán
Chứng khoán niêm yết là chứng khoán có đủ điều kiện và tiêu chuẩn được đăng ký để mua
bán tại Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Khi mua chứng khoán niêm yết, phải tuân thủ theo một số nguyên tắc sau:
- Mọi giao dịch mua bán chứng khoán đều phải qua hệ thống tại Sở Giao dịch, Trung tâm
Giao dịch chứng khoán theo phương thức khớp lệnh hoặc phương thức thỏa thuận.
- Giao dịch chứng khoán thực hiện theo phương thức khớp lệnh trên nguyên tắc ưu tiên về
giá và ưu tiên về thời gian.
- Giao dịch chứng khoán niêm yết lô lẻ được thực hiện trực tiếp giữa người đầu tư với công
ty chứng khoán thành viên là thành viên của Trung tâm giao dịch chứng khoán trên nguyên
tắc thỏa thuận về giá.
Quy trình giao dịch chứng khoán niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán:
(Toàn bội quy trình này được tiến hành theo 5 bước:
- Bước 1: Nhà đầu tư đến mở tài khoản và đặt lệnh mua bán chứng khoán tại một công ty
chứng khoán.
- Bước 2: Công ty chứng khoán chuyển lệnh đó cho đại diện của công ty tại Trung tâm giao
dịch chứng khoán để nhập vào hệ thống giao dịch của Trung tâm.
SVTH: Lưu Lê Mai – 08NH1 12
Thị trường chứng khoán Việt Nam
- Bước 3: Trung tâm giao dịch chứng khoán thực hiện ghép lệnh và thông báo kết quả giao
dịch cho công ty chứng khoán.
- Bước 4: Công ty chứng khoán thông báo kết quả giao dịch cho nhà đầu tư.
- Bước 5: Nhà đầu tư nhận được chứng khoán (nếu là người mua) hoặc tiền (nếu là người
bán) trên tài khoản của mình tại công ty chứng khoán sau 3 ngày làm việc kể từ ngày mua
bán.
2. Điều kiện và cách thức để một công ty có thể lên sàn giao dịch chứng khoán
Để được phép niêm yết và giao dịch cổ phần của mình trên sàn giao dịch các công ty cần
thiết đáp ứng được yêu cầu của sàn giao dịch cũng như thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý
quy định của pháp luật.
Điều kiện và thủ tục để tiến hành niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch, Trung tâm giao dịch
chứng khoán được quy định chi tiết tại Nghị định số 14/2007/NĐ – CP do Thủ tướng Chính
Phủ ký ngày 19/1/2007 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán. Cụ thể
như sau:
2.1. Điều kiện niêm yết cổ phiếu:
2.1.1. Điều kiện niêm yết cổ phiếu tại Sở Giao dịch chứng khoán
a) Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng
Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán.
b) Hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi và không có lỗ
lũy kế tính đến năm đăng ký niêm yết.
c) Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của pháp luật , công
khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng, cổ đông
lớn và những người liên quan.
d) Tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông nắm giữ,
e) Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị , Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc,
Phó giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc và kế toán trưởng của công ty phải cam kết nắm giữ
100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ
phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc quyền sở hữu Nhà
nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ.
e) Có hồ sơ dăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ theo quy định.
2.1.1. Điều kiện niêm yết cổ phiếu tại Trung tâm giao dịch chứng khoán.
a) Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 10 tỷ đồng
Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán.
b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi, không có các
khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm và hoàn thành các nghĩa vụ tài chính với nhà nước.
c) Cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông nắm giữ;
d) Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc,
Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc và Kế toán trưởng của công ty phải cam kết nắm giữ
100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ
phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do
các cá nhân trên đại diện nắm giữ;
đ) Có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ theo quy định;
PHẦN II
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I. SỰ RA ĐỜI CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
15 năm thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: tăng trưởng kinh tế cao ổn định (tốc
độ tăng trưởng kinh tế luôn >7% năm). Công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng rất cao (trên 14%)
đặc biệt các ngành công nghệ mới, ngành công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng và đang
được ứng dụng rộng rãi, thành tựu trong nông nghiêp đã đưa nước ta không những thoát khỏi
sự thiếu lương thực mà còn đưa nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới
(>4 triệu tấn /năm). Hàng hoá trên thị trường ngày càng phong phú đa dạng, các doanh nghiệp
mới được thành lập ngày càng nhiều, đời sống của người dân ngày càng cao. Những thành
tựu đó đã khẳng định đường lối kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Nhưng nó cũng đặt
ra nhiều vấn đề lớn như: làm thế nào để duy trì tốc độ tăng trưởng đó đồng thời tiến tới phát
triển bền vững, đồng thời với các doanh nghiệp ra đời ngày càng nhiều là thiếu vốn, khả năng
cạnh tranh kém, nhà nước cần ngân sách để xây dựng cơ sở hạ tầng, đường xá…và vấn đề
không thiếu tầm quan trọng là làm sao xây dựng nền kinh tế nước ta trở thành kinh tế thị
trường theo đúng nghĩa. Một giải pháp đó là xây dựng thị trường chứng khoán.
Và Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số
48/CP ban hành về chứng khoán và Thị trường chứng khoán chính thức khai sinh cho Thị
trường chứng khoán Việt Nam ra đời.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã do Uỷ Ban Chứng khoán
Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996.
* Chỉ số VN - Index
VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN - Index xây dựng căn cứ
vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với hệ thống chỉ số này, nhà đầu
tư có thể đánh gia và phân tích thị trường một cách tổng quát.
Chỉ số VN -Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào
ngày gốc 28/07/2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động.
II. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
Tính đến năm 2009 thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi qua 5 chặng đường chính
1.Giai đoạn 2000-2005: Giai đoạn chập chững biết đi của thị trường chứng khoán.
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận
hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên
giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm
SVTH: Lưu Lê Mai – 08NH1 23
Thị trường chứng khoán Việt Nam
yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ
được niêm yết giao dịch.
Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái “gà gật”, ngoại trừ cơn sốt vào
năm 2001(chỉ số VN index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ trong
vòng chưa đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá
trị, chỉ số VN Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm
vào tháng 10/2001 .
Trong 4 tháng “hoảng loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi thị trường ,
một số nhà đầu tư khác vẫn bình tĩnh bám trụ, âm thầm mua bán và tiếp tục kiếm được lợi
nhuận, thì trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống
đến130 điểm.
Lý do chính là ít hàng hoá, các doanh nghiệp niêm yết cũng nhỏ, không nổi tiếng, không
hấp dẫn nhà đầu tư trong nước.
Ngày 8/3/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN) chính thức đi
vào hoạt động. Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu
tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm
của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã
hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của
mỗi người dân.
Ta có thể nhận định rõ được điều đó thông qua bảng số liệu sau
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Số CT NY/ĐKGD 5 5 20 22 26 32
Mức vốn hoá TTCP(% GDP) 0.28 0.34 0.48 0.39 0.64 1.21
Số lượng CTCK 3 8 9 11 13 14
Số tài khoản khách hàng 2908 8774 13520 15735 21616 31316
Theo thống kê của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến hết năm 2005, tổng giá trị
thị trường chứng khoán việt Nam đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69% tổng thu nhập quốc
nội (GDP).
Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán gấp đôi so với năm
2004, huy động được 44,600 tỷ đồng, hiện giờ giá trị cổ phiếu so với GDP của cả nước đạt
gần 1%.
2. Giai đoạn 2006: Sự phát triển đột phá của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo
cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch
sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp.Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị
trường OTC. Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng
khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau Dim-ba-
buê. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các nhà đầu tư
trong và ngoài nước. Năm 2006 , Thị trường chứng khoán Việt Nam có sự phát triển vượt
bậc, chỉ số Vn-Index tại sàn giao dịch TP. Hồ Chí Minh (HASTC) tăng 144% năm 2006, tại
sàn giao dịch Hà Nội (HOSE) tăng 152,4%. Thị trường chứng khoán Việt Nam 2006: VN-
Index cuối năm tăng 2,5 lần so đầu năm. Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD cuối năm 2006
(chiếm 22,7% GDP) giá trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4
tỉ USD, chiếm 16,4% mức vốn hóa thị trường.
SVTH: Lưu Lê Mai – 08NH1 24
Thị trường chứng khoán Việt Nam
Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài
khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Trong vòng
một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối
2006.
Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta
mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán theo
phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát
triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh
bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
VN - Index đạt đỉnh 1.170,67 điểm
HASTC - Index chạm mốc 459,36 điểm.
Nhìn chung diễn biến của thị trường và giá cả chứng khoán trong các phiên giao dịch có
nhiều biến động,VN - Index của cả 2 sàn giao dịch đều có biên độ giao động mạnh. Kết thúc
phiên giao dịch cuối năm, VN - Index đạt 927,02 điểm, Hastc-Index dừng ở mức 323,55
điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VN - Index đạt được mức tăng trưởng là 23,3%; Hastc -
Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập vào cuối năm 2006.
Tính đến ngày 28/12/2007, Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM đã thực hiện được 248
phiên egiao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với
tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá
trị giao dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu chứng khoán được
chuyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng.
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với
tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng
giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần
về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch
bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên rất
hạn chế.
4. Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, TTCK Việt Nam
khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh.
Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm
mạnh, VN – Index đóng cửa tại mức 315,62 điểm, mất 605,45 điểm, tương đương 65,33% so
với phiên giao dịch đầu năm. Tại sàn Hà Nội, Hastc – Index chốt năm tại mức 105,15 điểm,
giảm 217,22 điểm, tương đương 67,39% sau 248 phiên giao dịch.
Có lẽ, năm 2008 sẽ đi vào lịch sử giao dịch của Thị trường chứng khoán Việt Nam với
số lần thay đổi biên độ nhiều nhất. Tổng cộng Ủy ban chứng khoán Nhà nước đã 4 lần điều
chỉnh biên độ chứng khoán.
HOSE HASTC
Giai đoạn này được tính từ ngày 03/09/2008 cho tới thời điểm kết thúc năm 2008. Đây
là thời kỳ VN - Index rơi trở lại xu hướng giảm, thậm chí đã phá vỡ đáy thiết lập được trong
giai đoạn đầu của năm 2008. Tổng kết cả giai đoạn này, VN - Index m ất 223,48 điểm, tương
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2009 hình thành 2 giai đoạn rõ rêt:
Giai đoạn từ 01/01/2009 đến 24/02/2009 và giai đoạn 2 từ 24/2/2009 đến 30/6/2009.
* Giai đoạn một: 01/01/2009 đến 24/02/2009
Thị trường chứng khoán Việt Nam là thị trường tăng trưởng chậm nhất châu Á tính từ
đầu năm 2009 đến nay. Lợi nhuận các công ty năm 2008 giảm tới 30%. Tuy nhiên một số
công ty vẫn có kết quả kinh doanh tốt và giá cổ phiếu của những công ty này hiện vẫn ở trong
mức rất hấp dẫn.
Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn tiếp tục đi xuống trong năm 2009. Chỉ số Vn-
Index từ đầu năm đến nay hạ 22%, mức hạ tệ nhất so với các thị trường châu Á khác. Giá trị
giao dịch cổ phiếu trung bình trong ngày tháng 2/2009 tại Sàn giao dịch chứng khoán
TPHCM và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội chỉ là 13 triệu USD. Tổng giá trị vốn hoá thị
trường rơi xuống mức khoảng 10 tỷ USD, không một cổ phiếu niêm yết nào có giá trị vốn hoá
thị trường lớn hơn 1 tỷ USD và chỉ có 4 cổ phiếu có giá trị vốn hoá hơn 500 triệu USD.
Nhà đầu tư nước ngoài đã giảm bán, sau khi bán ra số cổ phiếu với tổng giá trị 127 triệu USD
trong khoảng thời gian từ tháng 9/2008 đến hết tháng 12/2008, nhà đầu tư nước ngoài chỉ bán
ra lượng cổ phiếu có giá trị khoảng 2 triệu USD từ đầu năm đến nay.
Mức đáy của VN – Index được thiết lập trong giai đoạn này khi chạm mốc 235,5 điểm.
So với mức điểm cuối năm 2008, VN – Index đã giảm 80,12 điểm, tương đương 25,38 điểm.
Tính thanh khoản giảm sút nghiêm trọng, khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch đều ở mức
thấp. Trung bình, mỗi phiên chỉ có 7.860.421 CP&CCQ được chuyển nhượng, tương đương
170,02 tỷ đồng.
Tương tự diễn biến trên sàn HOSE, sàn HASTC cũng trải qua một giai đoạn đầy khó
khăn khi Hastc – Index lùi về ngưỡng 100 điểm và giao dịch dưới mốc điểm này trong một
thời gian dài. Mức đáy của Hastc – Index là 78,06 điểm.
Nguyên nhân chính cho điều này là phần lớn tiền đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, nếu
không tính đến những quỹ đóng, đã rút hết khỏi thị trường Việt Nam (Quỹ đầu tư chứng
khoán PXP Vietnam Emerging Equity Fund mới đây cho phép nhà đầu tư rút cổ phiếu ra và
sau đó họ có thể bán số cổ phiếu này).Chưa hết thông tin về lợi nhuận các công ty không mấy
tích cực.
Tăng trưởng doanh số khoảng 40% so với cùng kỳ năm trước nhưng lợi nhuận hoạt
động chỉ tăng 8%. Thua lỗ ở các khoản đầu tư địa ốc và chứng khoán đẩy lợi nhuận ròng
giảm 25%. Trong số 329 công ty niêm yết, 23 công ty thua lỗ, trong đó có cả một số công ty
trước đây từng được nhà đầu tư nước ngoài hết sức ưa chuộng như Công ty cổ phần cơ điện
lạnh (REE), Công ty cổ phần Gemadept (GMD) và Công ty cổ phần cáp và vật liệu viễn
thông (SAM).
Tuy nhiên cũng có một số công ty công bố lợi nhuận ấn tượng, đây là những công ty có
hoạt động kinh doanh đi theo hướng thế mạnh và không đầu tư vào thị trường bất động sản và
SVTH: Lưu Lê Mai – 08NH1 31
Thị trường chứng khoán Việt Nam
ngân hàng. Một số nhà đầu tư mạo hiểm có thể tiếp tục tham gia vào thị trường với mục tiêu
dài hạn, họ có thể mua một số cổ phiếu của các công ty tốt. Tuy nhiên theo đánh giá của
HSBC thị trường chứng khoán Việt Nam năm nay sẽ vẫn khó khăn.
Suốt 2 tháng đầu năm 2009, thị trường chứng khoán luôn trong tình trạng ảm đạm. Cảnh
vắng lặng tại sàn giao dịch cho thấy thị trường chứng khoán đã không còn sức hấp dẫn đối
với nhà đầu tư trong thời điểm này. Bởi trong suốt năm 2008, thị trường vẫn tiếp tục chuỗi
ngày suy giảm với mức độ ngày càng trầm trọng hơn. Nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường,
các ngân hàng bán cổ phiếu giải chấp… tất cả những yếu tố này đã làm thị trường giảm sâu.
Tính chung cho cả tháng 2/2009 VN - Index đã mất 57,47 điểm (18,95%) so với phiên cuối
tháng 1.
* Giai đoạn hai: 24/2/2009 đến 30/6/2009
Hưởng ứng sự hồi phục trở lại của Thị trường chứng khoán thế giới, thị trường chứng
khoán Việt Nam cũng khởi động mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, nền kinh tế trong nước phát
đi những tín hiệu phục hồi, dần thoát ra khỏi khủng hoảng, chính sách vĩ mô trong nước có
tác dụng hỗ trợ tích cực, hoạt động kinh doanh của một số doanh nghiệp niêm yết lớn đạt kết
quả khả quan khiến VnIndex và HnxIndex có được những phiên tăng điểm liên tiếp.
Trái với dự đoán đầy bi quan của các chuyên gia kinh tế, tình hình kinh doanh của các
doanh nghiệp niêm yết trong 6 thánh đầu năm rất lạc quan, một số công ty niêm yết đã hoàn
thành hơn nửa chặng đường so với kế hoạch đặt ra, như HPG, COM, FPT, REE, PPC…Bên
cạnh đó, các thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của nhiều ngành nghề cũng có tác
dụng hỗ trợ đáng kể đến giá cổ phiếu như: trượt giá nguyên liệu đầu vào của ngành nhựa,
tăng sản lượng tiêu thụ đầu ra của ngành thép, xi măng; hoàn nhập dự phòng tài chính của
doanh nghiệp hoạt động liên quan tới lĩnh vực tài chính hoặc có đầu tư tài chính…Nhờ vậy,
giá cổ phiếu của các nhóm ngành tài chính, chứng khoán, cao su, thép, vật liệu xây dựng, bất
động sản, vận tái biến và bảo hiểm đã hồi phục mạnh mẽ. Sự tăng điểm của các nhóm cổ
phiếu trên thực sự là đòn bảy duy trì mạch tăng điểm của các chỉ số chứng khoán trong suốt
gần bốn tháng cuối kỳ, VnIndex và HnxIndex đã có được sự hồi phục nhanh chóng và có
phần vượt bậc so với sự hồi phục của các chỉ số cứng khoán thế giới. Điều này tạo ra một tâm
lý phấn chấn đối với các nhà đầu tư, một lượng tiền lớn đổ vào thị trường trong một thời gian
dài, cầu ớn khiến giá cổ phiếu tăng trưởng nhanh chóng, VnIndex đóng cửa phiên giao dịch
ngày 30/6/2009 tại mức điểm 448,29 điểm, tức tăng 42,3% so với mức điểm cuối năm 2008
và tăng được 90,36% so với mức đáy 235,5 điểm. Tính thanh khoản trên thị trường được cải
thiện từng ngày, bình quân mỗi phiên giao dịch có tới 38.983.548 CP được chuyển nhượng,
tương đương 1.142 tỷ đồng. Sau nhiều nỗ lực, HnxIndex cũng vượt qua ngưỡng điểm tâm lý
100 và bật trở lại ngưỡng 149,09 điểm vào ngày 30/6/2009.
Hi vọng trong thời gian tới chứng khoán của nước ta sẽ ngày càng khởi sắc và phát triển
cung với nhiều sự thay đổi trong thời gian gần đây.
PHẦN III
HIỆN TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM
Chỉ số Vn-Index từ 235,5 điểm (tháng 2/2009) lên 570 điểm vào tháng 8, rồi bật lên trên
633,21 điểm vào phiên 23/10 và nhanh chóng đảo chiều xuống 537,59 điểm vào phiên ngày
11/11, và dưới ngưỡng 500 điểm vào phiên ngày 2/12. Số tài khoản lưu ký của nhà đầu tư là
730.000, trong đó tài khoản của nhà đầu tư trong nước là 670.000, còn lại là tài khoản của nhà
đầu tư nước ngoài; giá trị giao dịch bình quân thị trường đạt 2.146 tỷ đồng/ phiên, cá biệt có
phiên đạt 5000 tỷ đồng (3), giá trị vốn hóa thị trường là 669.000 tỷ đồng, tương đương với
55% GDP năm 2008, so với thời điểm đầu năm tăng gần 3 lần. Các dòng vốn vào – ra thị
trường có nhiều biến động. Do sự phục hồi kinh tế của các Quốc gia những tháng đầu năm
chậm, vì thế các nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK chủ yếu bán ròng tập trung vào trái phiếu
Chính phủ và các loại cổ phiếu có tính thanh khoản cao. Khi nền kinh tế Việt Nam có tín hiệu
khởi sắc, dòng vốn vào lại tăng lên (tháng 5: 54 triệu USD, tháng 7: 56 triệu USD). Xét về tốc
độ tăng trưởng, TTCK Việt Nam được coi là có tốc độ tăng trưởng rất cao, tới 60 – 70%,
nhưng xem xét một cách toàn diện thì TTCK rất bất ổn. Thị trường cổ phiếu lên xuống thất
thường, thị trường trái phiếu (TTTP) Chính phủ vẫn chưa phát triển, năm 2009 khối lượng
SVTH: Lưu Lê Mai – 08NH1 38
Thị trường chứng khoán Việt Nam
trái phiếu Chính phủ đã được phát hành là 20.000 tỷ đồng, đạt 14% kế hoạch của năm(4). Sự
biến động của TTCK cũng như thị trường vàng, thị trường ngoại tệ ở Việt Nam chẳng theo
một quy luật nào đã cho thấy những bất ổn của thị trường phát sinh từ chính những yếu tố nội
tại của thị trường như thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận của TTCK (thị trường sơ
cấp, sở giao dịch, thị trường UpCoM, TTTP chuyên biệt), giữa TTCK với thị trường ngoại
hối, thị trường tín dụng và thị trường vàng. Thị trường tài chính bị phân khúc, chưa có sự
minh bạch trong quản trị điều hành và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý, giám
sát ở tầm vĩ mô, cũng như các thông tin thị trường chưa được cập nhật một cách chuẩn xác
đến các nhà đầu tư, trong khi yếu tố tâm lý luôn bị chi phối nặng nề bởi các tin đồn; trên thị
trường vẫn có khoảng trống pháp lý cho những nhà kinh doanh, đầu cơ có điều kiện thôn tính,
lũng đoạn thị trường. Vì vậy vấn đề cấp thiết hiện nay là làm thế nào để TTCK Việt Nam phát
triển ổn định?
* Giải pháp cho sự phát triển bền vững TTCK Việt Nam
Thứ nhất, Tiếp tục tái cấu trúc TTCK một cách sâu, rộng theo hướng minh bạch, đồng bộ và
thống nhất phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Việc chuyển đổi từ Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM, Hà Nội thành Sở giao dịch
chứng khoán (SGDCK) hoạt động theo mô hình Công ty TNHH Nhà nước một thành viên;
tách bộ phận lưu ký thành Trung tâm lưu ký chứng khoán độc lập hoạt động theo mô hình
Công ty TNHH Nhà nước một thành viên, xây dựng TTTP chuyên biệt…đó cũng là kết quả
bước đầu của việc tái cấu trúc TTCK, tuy rất then chốt, nhưng chưa đủ cho một TTCK phát
triển minh bạch, ổn định.
Một trong những chính sách tác động mạnh đến TTCK đó là chính sách tài khóa (CSTK) và
chính sách tiền tệ (CSTT). Đối với CSTT, trong đó đặc biệt nhấn mạnh việc điều hành CSTT.
Với việc điều hành CSTT theo hướng nới lỏng hoặc thắt chặt đều tác động không nhỏ đến
tính thanh khoản trên TTCK. Chỉ với một biện pháp của Ngân hàng Nhà nước nhằm chấn
chỉnh công tác tín dụng của hệ thống ngân hàng(5), ngay lập tức khối lượng cổ phiếu giao dịch
cả hai sàn và giá cả của chúng đều giảm mạnh. Tình trạng này nói lên điều gì? tiền dùng để
đầu tư, kinh doanh chứng khoán chủ yếu là nguồn nào? Tại sao TTCK lại quá nhạy cảm theo
sự mở rộng hay thu hẹp tín dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM)? Việc này có lý giải
được phần nào những băn khoăn của người dân khi Chính phủ cho phép các NHTM triển
khai gói kích thích kinh tế với mức hỗ trợ lãi suất 4%? TTCK tại sao luôn lên xuống theo tin
đồn? Nhìn vào những bất cập của thị trường sẽ thấy cần phải tiếp tục tái cấu trúc TTCK, để
TTCK phải đúng nghĩa là kênh huy động vốn trung và dài hạn thiết thực cho doanh nghiệp
phục vụ cho sản xuất, kinh doanh và là kênh hút vốn nhàn rỗi của các cá nhân và các tổ chức
trong và ngoài nước. Nguyên tắc tái cấu trúc phải đảm bảo sự ổn định của hệ thống, theo đó
xây dựng và vận hành có hiệu quả hệ thống thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, TTCK, thị
trường tín dụng, TTTP Chính phủ…), thực hiện các chuẩn mực tốt nhất trong quản trị công
ty, chuẩn mực kế toán và công bố thông tin. Thực hiện vấn đề này theo hướng:
- Phân định rõ từng thị trường để quản lý chúng: thị trường cổ phiếu: nơi niêm yết cổ phiếu
của các doanh nghiệp lớn; thị trường các doanh nghiệp vừa và nhỏ; thị trường UpCoM; thị
trường OTC; thị trường công cụ nợ và thị trường công cụ phái sinh. Hoàn thiện thị trường
SVTH: Lưu Lê Mai – 08NH1 39
Thị trường chứng khoán Việt Nam
giao dịch cổ phiếu công ty đại chúng chưa niêm yết (UpCoM) để khắc phục ngay những quan
ngại về tính thanh khoản của thị trường này.
- Thực hiện chuyển đổi sở hữu của SGDCK và Trung tâm lưu ký chứng khoán từ Công ty
TNHH Nhà nước một thành viên sang công ty cổ phần, trong đó Nhà nước vẫn nắm giữ cổ
phần chi phối (trên 51%). Cho phép đại diện Công ty chứng khoán (CTCK), Tổ chức niêm
yết, một số chuyên gia kinh tế tham gia vào Hội đồng quản trị của SGDCK. Khi đó SGDCK
là công ty cổ phần đại chúng, hoạt động sẽ năng động và minh bạch vì mục tiêu phát triển
lành mạnh của TTCK.
- Đối với các CTCK cũng cần thực hiện tái cấu trúc theo hướng nâng cao yêu cầu về vốn điều
lệ tối thiểu, yêu cầu về cơ sở vật chất, năng lực quản trị công ty và nguồn nhân lực, song song
với việc thực hiện sát nhập, mua lại… để giảm bớt về số lượng CTCK, hướng một số CTCK
lớn phát triển thành Tập đoàn, cũng như các nhà tạo lập thị trường. Hiện nay trên TTCK Việt
Nam có 105 CTCK, xét về thị phần môi giới cổ phiếu cho khối nhà đầu tư nước ngoài, thì 10
CTCK đứng đầu đã chiếm tới 95,18%, nếu xét thị phần môi giới cho khối nhà đầu tư trong
nước, thì 10 CTCK đứng đầu đã chiếm 48,18%(6). Như vậy rõ ràng thị phần cho 95 CTCK
còn lại là quá nhỏ, trong đó có một số công ty vốn điều lệ rất thấp, hiệu quả kinh doanh chủ
yếu là hoạt động tự doanh. Vì vậy, để thị trường hoạt động có hiệu quả cũng rất cần sắp xếp
các CTCK có qui mô quá nhỏ, năng lực tài chính yếu này.
- Phát triển một số tổ chức tạo lập thị trường. Ở một số nước, nhà tạo lập thị trường thường là
các NHTM, CTCK, công ty bảo hiểm, quĩ đầu tư, quĩ hưu trí, công ty tài chính… Đây là
những tổ chức có năng lực tài chính mạnh, kinh doanh chuyên nghiệp, có khả năng liên kết
cao. Nhưng ở Việt Nam hiện nay, không phải tất cả các tổ chức đều có thể trở thành nhà tạo
lập thị trường. Vì vậy, trước mắt lựa chọn một số NHTM, CTCK lớn đáp ứng các điều kiện
qui định thực hiện chức năng nhà tạo lập thị trường. Sự năng động và minh bạch của thị
trường phụ thuộc không nhỏ vào hoạt động của các nhà tạo lập thị trường.
Thứ hai, hoàn thiện các văn bản pháp lý, cơ chế chính sách cho sự phát triển của TTCK.
Xem xét sửa đổi, bổ sung Luật chứng khoán theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật
cho phù hợp với xu thế hội nhập của nền kinh tế; ban hành các văn bản hướng dẫn về một số
nghiệp vụ chứng khoán như giao dịch bán khống, vay và cho vay chứng khoán, giao dịch
phái sinh; giao dịch chuyển nhượng của cổ đông sáng lập…Trong bối cảnh nền kinh tế suy
thoái, cầu tiêu dùng trong dân cư giảm mạnh, đi đôi với gói giải pháp kích cầu trung và dài
hạn đến năm 2011, cần xem xét chính sách thuế để đảm bảo sự phát triển bền vững của
TTCK.
Phối hợp CSTT với CSTK trong việc thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt Nam. Mục tiêu
cuối cùng của CSTT là ổn định tiền tệ, còn mục tiêu của CSTK là đạt đến một chính sách
ngân sách minh bạch, tạo sự ổn định sản lượng, cải thiện phân bổ nguồn lực và kiểm soát ảnh
hưởng của phân phối. Hai chính sách này có mối quan hệ mật thiết, ràng buộc lẫn nhau và tác
động đến nền kinh tế và hệ thống thị trường tài chính. Nếu quản lý tài khoá yếu kém, sẽ tăng
kỳ vọng lạm phát, có thể làm tăng lãi suất và cung tiền, điều này ảnh hưởng lớn đến việc vay
nợ của Chính phủ trên TTCK. Ngược lại, lạm phát và lãi suất tăng cao, không những làm
SVTH: Lưu Lê Mai – 08NH1 40
Thị trường chứng khoán Việt Nam
giảm nguồn thu cho Chính phủ, mà còn làm cho giá chứng khoán biến động mạnh theo xu
hướng giảm, làm nản lòng nhà đầu tư trên thị trường do tính thanh khoản của thị trường bị
ảnh hưởng. Vì vậy rất cần một sự nhận thức đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa hai chính
sách, nhằm tăng cường sự kết nối và giảm sung đột giữa chúng để cùng đạt được mục tiêu đặt
ra.
Thứ ba, tạo hàng hoá có chất lượng tốt cho thị trường.
Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá để tạo hàng hoá có chất lượng cao cho TTCK. Tạo điều kiện
cho các nhà đầu tư chiến lược (trong và ngoài nước) mua cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt
Nam theo phương thức thoả thuận, hoặc đấu giá giữa các nhà đầu tư chiến lược với nhau, để
cải thiện nhanh hơn về năng lực tài chính, chất lượng quản trị doanh nghiệp. Thực tế tại một
số NHTM cổ phần đã có yếu tố nước ngoài cho thấy, khi có sự tham gia của nhà đầu tư nước
ngoài với tỷ lệ 20%, các NHTM Việt nam đã nhanh chóng xoá đi những yếu kém về năng lực
tài chính, trình độ công nghệ, cùng chia sẻ vì lợi ích của cả hai bên. Vì vậy, để cải thiện một
bước về năng lực tài chính của các NHTM cũng như các doanh nghiệp sau cổ phần hóa, để
tăng tính hấp dẫn về cổ phiếu của các loại hình doanh nghiệp này, trong đó có cổ phiếu của
các NHTM, Chính phủ có thể đưa mức sở hữu của các tổ chức nước ngoài đối với các NHTM
tối đa lên 30%.
Thứ tư, tăng cường công tác thanh tra giám sát hoạt động của của các tổ chức tham gia thị
trường, xử lý nghiêm các vi phạm về công bố thông tin, về tin đồn gây bất lợi cho hệ thống
thị trường tài chính, về rò rỉ thông tin.
Sự rò rỉ thông tin bất luận từ khâu nào đều được coi là tệ hại và nguyên nhân cơ bản để tin
đồn có “đất” lộng hành chính từ sự rò rỉ thông tin. Vậy, có khắc phục được tình trạng này
không? Đây là việc làm không đơn giản, nhưng không phải không hạn chế được vấn nạn này.
Một là: Rà soát lại thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin và áp dụng
thống nhất cho việc công bố thông tin trên thị trường; tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý
nghiêm khắc việc công bố thông tin chậm, công bố thông tin không chính xác, để rò rỉ thông
tin bất luận là tổ chức hay cá nhân. Hai là: xử lý nghiêm khắc các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp sử dụng phương tiện truyền thông (báo, chí, trang tin…) đưa thông tin sai lệch, hoặc
làm méo mó tin, hoặc thông tin bất lợi cho thị trường mà không rõ nguồn gốc. Ba là: tiếp tục
yêu cầu các công ty đại chúng đăng ký trên thị trường UpCoM bằng các quy định và chế tài
cụ thể (đối với các công ty chưa thực hiện đăng ký khi có đủ điều kiện). Bốn là: Về phía cơ
quan quản lý nhà nước cần có thông điệp rõ ràng, minh bạch về việc điều hành các chính sách
kinh tế – tài chính cũng như các thông tin vĩ mô để mọi người dân biết, hiểu đúng và chấp
hành nghiêm túc. Năm là: Thu hẹp hoạt động của thị trường tự do bằng cách yêu cầu các
công ty đại chúng giao dịch trên thị trường tự do phải tuân thủ các yêu cầu về kiểm toán, công
bố thông tin, quản trị công ty như các doanh nghiệp đã niêm yết. Điều này vừa giúp giảm
thiểu rủi ro trong thanh toán, vừa làm cho các giao dịch này được công khai, dễ kiểm soát,
từng bước thu hút vào thị trường có tổ chức. Mặt khác cũng cần cải tiến và nâng cao chất
lượng công tác tuyên truyền để người dân tiếp cận được thông tin kịp thời về cơ chế chính
sách của Nhà nước nói chung và TTCK nói riêng.