You are on page 1of 17

Tỷ giá và chính sách tỷ giá ở Việt Nam hiện nay.

A.Mở Đầu :tính cấp thiết của đề tài. Lời mở đầu

Tỷ giá là một biến số kinh tế vĩ mô quan trọng có tác động tới nhiều
mặt hoạt động của nền kinh tế. Nó ra đời từ hoạt động ngoại thương và quay
trở lại tác động lên hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thương mại cán cân
thanh toán của mỗi quốc gia. Xây dựng thành công một chính sách điều
hành tỷ giá thích hợp là một vấn đề vô cùng khó khăn phức tạp. Nghiên cứu
vấn đề này là một đề tài mang tính cấp thiết trong thời gian gần đây.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà quá trình toàn
cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế phát triển chủ
yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Những tiến bộ nhanh chóng về
khoa học kỹ thuật cùng với vai trò ngày càng tăng của các công ty đa quốc
gia đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá cao độ. Trong bối cảnh
đó, việc quản lý nền kinh tế của một nước không thể quyết định một cách
biệt lập, và Việt Nam không phải một ngoại lệ.
Thực trạng điều hành tỷ giá ở Việt Nam thời gian qua là một nội dung
quan trọng. Khái quát sự đổi mới hệ thống tài chính trên lĩnh vực tỷ giá
nhằm làm sáng tỏ những ưu nhược điểm để từ đó có những điều chỉnh thích
hợp.
Góp phần vào những nghiên cứu, phân tích, trong bài tiểu luận này
chúng em cũng xin được trình bày về một vấn đề đa dạng, phức tạp và cũng
vô cùng quan trọng này thông qua đề tài: “Tỷ giá và chính sách tỷ giá ở
Việt Nam hiện nay “. Với kiến thức còn nhiều thiếu sót, cơ sở số liệu thống
kê không đầy đủ và tính phức tạp của đề tài nên trong bài viết không tránh
khỏi khiếm khuyết rất mong được sự góp ý của thầy giáo và các bạn.
B.Nội dung:
I. Một số vấn đề chung về tỷ giá:
1.Tổng quan về tỷ giá:
a.Khái niệm tỷ giá: Tỷ giá là giá cả một đơn vị tiền tệ của một nước tính
bằng tiền tệ của nước khác, hay là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai
đồng tiền.

b.Biểu diễn và niêm yết tỷ giá: Trong tỷ giá có hai đồng tiền, một đồng tiền
đóng vai trò đồng tiền yết giá, còn đồng kia đóng vai trò là đồng định giá.
Đồng tiền yết giá là đồng tiền có số đơn vị cố đinh và bằng 1 đơn vị.
Đồng tiền định giá là đồng tiền có số đơn vị thay đổi, phụ thuộc vào quan hệ
cung cầu trên thị trường ngoại hối. Ví dụ 1USD =19000 VND thì USD là
đồng tiền yết giá và VND là đồng tiền định giá.
Theo tập quán kinh doanh ngoại tệ, tỷ giá thường được yết giá theo hai
phương pháp:
+ phương pháp yết tỷ giá trực tiếp: Là khi nhìn vào tỷ giá biết ngay được
giá trị 1 đơn vị đồng nội tệ bằng bao nhiêu số lượng ngoại tệ. Ví dụ tại Anh:
1GBP = 1,5000 USD
+ phương pháp yết giá gián tiếp: khi nhìn vào tỷ giá chưa biết được ngay 1
đơn vị nội tệ so với ngoại tệ là bao nhiêu, ngoại tệ làm đơn vị so sánh với số
lượng nội tệ. Vi dụ Tại ngân hàng sacombank: 1USD= 19000 VND.
c. Phân loại tỷ giá: Các nhà kinh tế thường đề cập đến hai loại tỷ giá là tỷ
giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế.
Tỷ giá danh nghĩa :là mức giá thị trường của môt đồng tiền tính bằng đồng
tiền khác vào một thời điểm nhất định. Tỷ giá này thường được công bố
hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng, do ngân hàng nhà nước
công bố. Tỷ giá danh nghĩa không phản ánh tương quan thực sự giữa các
đồng tiền do sự tác động của giá cả, lạm phát và các nhân tố khác.
Tỷ giá thực tế: là tỷ giá phản ánh tương quan sức mua giữa hai đồng tiền,
là tỷ giá danh nghĩa có tính đến yếu tố lạm phát.
2. Các nhân tố ảnh hưởng và tác động của tỷ giá:
a. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá:
* Nhân tố tác động động ngắn hạn: 1. Mức chênh lệch về lãi suất giữa các
nước
Lãi xuất là giá của tiền tệ; lãi xuất tăng, đồng tiền lên giá (tỷ giá có thể
giảm), lãi xuất giảm,đồng tiền xuống giá (tỷ giá có thể tăng). Nước nào có
lãi suất tiền gửi ngắn hạn cao hơn lãi suất tiền gửi của các nước khác thì vốn
ngắn hạn sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do đó sẽ
làm cho cung ngoại tệ tăng lên, làm cho tỷ giá sẽ giảm xuống.
Khi lựa chọn nắm giữ đồng tiền nội tệ và đồng ngoại tệ (cụ thể là USD),
người ta sẽ xem xét mức lãi suất thực tế của 2 đồng tiền này
Khi lãi suất của VND cao hơn lãi suất của USD (lãi suất thực), người ta sẽ
có xu hướng chuyển từ nắm giữ USD sang nắm giữ VND. Điều này làm cho
nhu cầu VND tăng lên, cầu về USD giảm đi, từ đó giá USD sẽ giảm đi so
với VND, hay tỷ giá giảm tới một mức tỷ giá mới mà cung cầu USD-VND
trở nên cân bằng. Khi đó, lãi suất thực tế của VND và USD tương đương
nhau.

Khi có ảnh hưởng của lạm phát, mặc dù lãi suất danh nghĩa tăng, nhưng
lãi suất thực tế giảm, lúc này ngược lai- VND sẽ giảm giá so với USD, dẫn
tới tỷ giá tăng.

Ngược lại, khi đồng USD tăng giá, để tạo cân bằng trên thị trường ngoại
hối, NHTW sẽ chủ động tăng lãi suất đồng nội tệ(VND) thông qua đẩy
mạnh lượng cung ngoại tệ ra nền kinh tế đồng thời hút bớt đồng nội tệ về.
Điều này làm cho cung cầu ngoại hối trở nên cân bằng.

2. Các nhà kinh doanh cần dự đoán chính xác về các biến kinh tế nhằm
có những bước đi đúng đắn. Vậy việc dự đoán như vậy có ảnh hưởng gì tới
tỷ giá không?

Nếu một nhân tố nào đó làm cho tỷ giá tương lai dự tính của nội tệ(VND)
sụt xuống thì làm cho mức tăng giá dự tính của VND giảm xuống và như
vậy làm cho mức tămg giá dự tính của đôla tăng lên. Kết quả là một khoản
lợi tức dự tính cao hơn về tiền gửi đôla, và dẫn tới việc giảm xuống của tỷ
giá. Ngựơc lại, một sự tăng lên của tỷ giá tương lai dự tính sẽ làm cho đồng
nội tệ tăng giá.

Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lạm phát tăng trong khi lãi suất thực tế
không đổi thì mức tăng giá dự tính của VND giảm xuống (mức tăng giá của
USD cao hơn). Kết quả là, với một tỷ giá đã cho bất kỳ lợi tức dự tính về
tiền gửi nước ngoài tăng nhiều hơn lợi tức dự tính trong nước, như vậy tỷ giá
sẽ giảm.

Nếu lãi suất danh nghĩa dự tính tăng do lãi suất thực tế tăng trong khi lạm
phát dự tính không đổi thì đồng nội tệ sẽ tăng.

3. Ảnh hưởng của những cú sốc về kinh tế, chính trị


Kinh tế và chính trị có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau.
Nếu như trong nước xảy ra khủng hoảng chính trị thì sẽ làm đồng nội tệ sụt
gía do người dân mất niềm tin vào chính phủ. Nếu nền kinh tế bị suy thoái
thì cung ngoại tệ giảm dẫn tới sự thiếu hụt đồng ngoại tệ và điều tất yếu là
đồng ngoại tệ lên giá( hay đồng nội tệ mất giá). Trong trường hợp nền kinh
tế tăng trưởng cũng tác động tương tự tới tỷ giá, khi đó chi tiêu của thi
trường trong nước tăng lên, cung ngoại tệ tăng lên và điều này làm đồng nội
tệ tụt giá.

Khi xảy ra thiên tai, hạn hán bão lũ, mất mùa, chiến tranh…thì nhu cầu
về ngoại ngoại hối bất thường tăng lên làm cung làm đòng ngoại tệ tăng giá.

4. Thị trường ngoại hối cũng giống như nhiều thị trường khác, ngân hàng
Trung Ương có thể và đã can thiệp vào thường xuyên vào thị trường. Các
NHTW cố gắng ảnh hưởng đến tỷ giá của nước mình bằng cách mua và bán
các đồng tiền.

Nếu NHTW làm thay đổi cơ số tiền: bán đồng tiền trong nước mua tài
sản nước ngoài làm cung tiền tệ tăng dẫn đến mức giả cả trong nước cao hơn
và tỷ giá tương lai dự tính thấp hơn. Ngược lại, nếu NHTW bán tài sản nước
ngoài mua nội tệ thì đồng tiền trong nước tăng.

Phương pháp lãi suất chiết khấu: Đây là phương pháp thường được sử
dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị rường. Với phương pháp này, khi
tỷ giá hối đoái đạt đến mức "báo động" cần phải can thiệp thì ngân hàng
trungương nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng, lãi suất
cho vay trên thị trường cũng tăng lên. kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị
trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về
nhu cầu ngoại tệ sẽ bớt đi, tỷ giá hối đoái không có cơ hội để tăng nữa.

Các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như là một trong
những công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nguồn vốn để hình thành quỹ
thường là:

+ Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia.

+ Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái. Theo phương
pháp này, khi cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt, quỹ sẽ đưa vàng ra bán
thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh toán.
Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc làm hạ thấp sức mua của đồng
tiền đối với các ngoại tệ. Kết quả của phá giá đồng tiền sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến tỷ giá hối đoái. Trên thế giới, việc phá giá đồng tiền thường được sử
dụng ở những nước có tiềm lực kinh tế dồi dào, nhưng phải đối đầu với suy
thoái kinh tế đi đôi với lạm phát trầm trọng.

*Nhân tố tác động trong dài hạn:


Những nhân tố tác động đến cán cân vãng lai qua đó tác động đến xu hướng
biến động của tỷ giá trong dài hạn chính là cán cân bộ phận thuộc
CA(current account).Các nhân tố chính ảnh hưởng đến từng cán cân bộ
phận, qua tác động đến tỷ giá trong dài hạn bao gồm:
+) Cán cân thương mại và dịch vụ: Với các nhân tố khác không đổi, cán
cân thương mại và cán cân dịch vụ chịu ảnh hưởng bởi: tương quan lạm phát
giữa hai đồng tiền , thu nhập của người cư trú và người không cư trú, thuế
quan và hạn ngạch, tâm lý của người dân.
Tương quan lạm phát giữa hai đồng tiền :Nếu như mức độ lạm phát
giữa hai nước khác nhau, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, dẫn đến
giá cả của hai nước sẽ có những biến động khác nhau, làm cho ngang giá sức
mua của hai đồng tiền bị phá vỡ, khi đó sẽ làm thay đổi tỷ giá. Vì tỷ lệ lạm
phát thường ít thay đổi trong ngắn hạn, chỉ thay đổi từ từ trong dài hạn, vì
vậy tương quan lạm phát giữa hai đồng tiền quyết định xu hướng vận động
của tỷ giá trong dài hạn.
Thu nhập của người cư trú và người không cư trú: nếu thu nhập
của người cư trú tăng tương đối so với người không cư trú, kích thích tăng
nhập khẩu dòng, làm tăng cầu nội tệ khiến tỷ giá tăng, tức nội tệ giảm giá.
Nếu thu nhập của người không cư trú tăng tương đối so với người cư trú,
kích thích tăng xuất khẩu dòng,làm tăng cung ngoại tệ, khiến tỷ giá giảm.
Thuế quan và hạn ngạch:
Nếu là trong nước : một quốc gia tăng thuế quan hoặc áp dụng
hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu, làm giảm cầu ngoại tệ , tác dụng làm tỷ
giá giảm. Nếu quốc gia đó giảm mức thếu quan hoặc dỡ bỏ hạn ngạch đối
với hàng nhập khẩu , tăng cầu ngoại tệ tỷ giá tăng.
Nếu là ở nước ngoài : Phía nước ngoài tăng mức thuế quan
hoặc áp dụng hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu, làm giả cung ngoại tệ, làm
cho tỷ giá tăng. Nếu phía nước ngoài giảm mức thuế quan và dỡ vỏ hạn
ngạch đối với hàng nhập khẩu làm tăng cung ngoại tệ làm ho tỷ giá giảm.
Tâm lý ưa thích hàng ngoại: Chừng nào người dân một nước còn ưa
thích hàng ngoại hơn hàng nôi thì vẫn sẽ kích thích nhập khẩu làm tăng cầu
ngoại tệ khiến tỷ giá tăng.
+) Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều : Các nhân tố ảnh hưởng đến
như mối quan hệ, lòng từ thiện…Các khoản thu chuyển giao vãng lai một
chiều từ người không cư trú được ghi (+) và các khoản chi cho người không
cư trú đực ghi (-). Nếu cán cân chuyển giao dòng dương(thu>chi) làm tăng
cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, làm cho tỷ giá giảm, Ngược lại cán
cân mà âm làm tăng cầu ngoại tệ và tỷ giá tăng.
+) Cán cân thu nhập: Nhân tố quyết định đến thu nhập từ người lao động ở
nước ngoài đó là số lượng mức lương và tỷ lệ tiết kiệm của họ. Nhân tố
quyết định đến thu ngập từ đầu tư nước ngoài là giá trị đầu tư ở nước ngoài
trước đó và tỷ lệ sinh lời của đầu tư. Nếu cán cân thu nhập dòng dương, làm
tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối,làm tỷ giá giảm.ngược lại cán
cân thu nhập dòng âm làm tăng cầu về ngoại tệ làm tỷ giá tăng.
b.Tác động của tỷ giá:

Đối với từng quốc gia hay nhóm quốc gia (nếu có sự liên kết
và có đồng tiền chung) thì tỷ giá hối đoái mà họ quan tâm
hàng đầu chính là tỷ giá giữa đồng tiền của chính quốc gia
đó ,hay nhóm các quốc gia đó (đòng nội tệ) với các đồng tiền
của các quốc gia khác ( các đồng ngoại tệ) Tỷ giá giữ vai trò
quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Sự vận động của nó có
tác động sâu sắc mạnh mẽ tới mục tiêu,chính sách kinh tế vĩ
mô của mỗi quốc gia thể hiện trên hai điểm cơ bản sau:
Thứ nhất - TGHĐ và ngoại thương: Tỷ giá giữa đồng nội tệ
và ngoại tệ là quan trọng đối với mỗi quốc gia vì trước tiên
nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu của
chính quốc gia đó. Khi đồng tiền của một quốc
gia tăng giá (Tăng trị giá so với đồng tiền khác)thì hàng hoá
nước đó ở nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nước
ngoài tại nước đó trở nên rẻ hơn.Ngược lại khi đồng tiền một
nước sụt giá,hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở nên rẻ
hởn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở nên đắt
hơn(các yếu tố khác không đổi). Tỷ giá tác động đến hoạt
động xuất nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân thanh
toán quốc tế,gây ra thâm hụt hoặc thặng dư cán cân.
Thứ hai - TGHĐ và sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát:
Tỷ giá hối đoái không chỉ quan trọng là vì tác động đến ngoại
thương, mà thông qua đó tỷ giá sẽ có tác động đến các khía
cạnh khác của nền kinh tế như mặt bằng giá cả trong nước,
lạm phát khả năng sản xuất, công ăn việc làm hay thất
nghiệp…
Với mức tỷ giá hối đoái 1USD =10500VND của năm 1994
thấp hơn mức 1USD = 13500VND của năm 1998, tức tiền Việ
Nam sụt giá và nếu giả định mặt bằng giá thế giới không
đổi ,thì không chỉ có xe con khi nhập khẩu tính thành tiền
Việt Nam tăng giá mà còn làm tất cả các sản phẩm nhập
khẩu đều rơi vào tình trạng tương tự và trong đó có cả
nguyên vật liệu ,máy móc cho sản xuất. Nếu các yếu tố khác
trong nền kinh tế là không đổi,thì điều này tất yếu sẽ làm
mặt bằng giá cả trong nước tăng lên. Nếu tỷ giá hối đoái tiếp
tục có sự gia tăng liên tục qua các năm (đồng nội tệ Việt
Nam liên tục mất giá) có nghĩa lạm phát đã tăng. Nhưng bên
cạnh đó, đối với lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn
lực trong nước, thì sự tăng giá của hàng nhập khẩu sẽ giúp
tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh vực này, giúp phát
triển sản xuất và từ đó có thể tạo thêm công ăn việc làm,
giảm thất nghiệp, sản lượng quốc gia có thể tăng lên. Ngược
lại, nếu các yếu tố khác không đổi thì lạm phát sẽ giảm, khả
năng cạnh tranh của các lĩnh vực trong nước cũng có xu
hướng giảm, sản lượng quốc gia có thể giảm, thất nghiệp
của nền kinh tế có thể tăng lên… nếu tỷ gá hối đoái giảm
xuống (USD giảm giá hay VND tăng giá)
Khi tỷ giá giảm, tức giá trị đồng nội tệ giảm nên giá cả hàng
hoá xuất khẩu tính bằng tiền nước ngoài giảm , sức cạnh
tranh của hàng hoá đó trên thị trường thế giới sẽ tăng lên có
tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Đồng thời với việc
tỷ giá giảm làm cho giá hàng hoá nhập khẩu tăng lên dẫn
đến hạn chế nhập khẩu. Ngược lại khi tỷ giá tăng, nghĩa là
giá trị đồng nội tệ tăng thì có tác động giảm xuất khẩu và
tăng nhập khẩu hàng hoá.
Tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển tư
bản (vốn) từ
quốc gia này sang quốc gia khác. Việc di chuyển tư bản trên
thế giới nhằm mục đích kiếm lời nhuận và tránh rủi ro. Do
đó, nếu tỷ giá giảm trong
trường hợp người ta dự đoán tỷ giá không tiếp tục giảm nữa
thì tư bản nhập
khẩu sẽ gia tăng và tư bản xuất khẩu sẽ giảm .
Ngoài các nhân tố khác, vật giá trong một quốc gia còn chịu
sự tác động
của tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá giảm ,giá tư liệu sản xuất và tư
liệu tiêu dùng nhập khẩu tăng lên kéo theo giá cả các mặt
hàng trong nước có liên quan cũng tăng theo. Đồng thời do
tác động giảm nhập khẩu nên cầu về các hàng hoá nhập
khẩu cũng sẽ gia tăng, tất điều đó làm cho giá cả chung
trong nền kinh tế cũng gia tăng. Ngược lại, khi tỷ giá tăng sẽ
có tác động làm cho mức giá chung giảm.
II. Thực trạng tỷ giá ở Việt Nam trong thời gian qua:

I THỰC TRẠNG

Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USD/VND
tăng mạnh, nhập siêu cao, lạm phát đứng trước áp lực tăng trở lại
vào năm 2010, khan hiếm cục bộ USD, giá vàng sốt nóng, lãi suất
ngân hàng lên kịch trần…

Tỷ giá chính thức giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần
điều chỉnh, một lần vào tháng 3 (+2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3%
lên 5% và lần gần nhất là vào tháng 11 (+3,4%). Mặc dù sau mỗi lần
điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên thị
trường không chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài
biên độ cho phép của Ngân hàng Nhà nước.Trên thực tế, điều này đã xảy
ra từ đầu năm tới nay, cho thấy thị trường ngoại hối luôn căng
thẳng(theo dõi biểu đồ dưới).
Diễn biến tỷ giá USD/VNĐ 2008-2009

Biểu đồ cho thấy càng về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh,
thị trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng, đồng thời USD tín dụng
thì thừa, USD thương mại thì thiếu. Các ngân hàng không có ngoại tệ để bán
cho doanh nghiệp và nếu có bán thì mức tỷ giá cũng cao hơn mức tỷ giá trần
do NHNN quy định. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối
đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn
nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng
nhập khẩu tăng mạnh.

Để thấy rõ sự biến động của chúng thi so sánh ở ba góc độ của thị trường là
thị trường liên ngân hàng, thị trường tự do, tỷ giá bình quân liên ngân hàng
trong 4 giai đoạn

tháng 1 - tháng 3;

tháng 4 - tháng 9;
tháng 10 - ngày 24/11

và từ 25/11 đến hết năm 2009

Đầu tiên, xét trên thị trường liên ngân hàng

Ở giai đoạn 1, tỷ giá dao động trong khoảng 17.450 đồng - 17.700 đồng,
cách giá trần khoảng từ 0 - 200 điểm (một điểm tương đương một đồng), lúc
đó tính thanh khoản thị trường kém, nguồn cung khan hiếm, ngoại trừ thời
điểm thị trường được bổ sung từ doanh thu xuất khẩu vàng.
Giai đoạn 2, tỷ giá liên ngân hàng sát giá trần của Ngân hàng nhà nước
(Ngân hàng Nhà nước) trong khoảng 10 ngày sau khi Ngân hàng Nhà nước
tăng biên độ tỷ giá (từ +/- 3% lên +/- 5% vào ngày 23/3/2009). Tuy nhiên
đến 9/4, tỷ giá liên ngân hàng tăng mạnh và duy trì biên độ 200 - 600 điểm
so với giá trần.
Giai đoạn 3, từ cuối tháng 10/2009, tỷ giá tăng mạnh và đến ngày 10/11, cao
hơn giá trần 1.000 điểm. Biến động tỷ giá rất dữ dội, có ngày tăng 200 - 300
điểm và đạt đỉnh ở mức 19.750 vào 24/11. Chỉ đến khi Ngân hàng Nhà nước
cho phép nhập vàng trở lại, tỷ giá ở thị trường này giảm trong 2 ngày nhưng
vẫn cao hơn 1.200 - 1.500 điểm so với giá trần.
Giai đoạn 4, tỷ giá giao dịch liên ngân hàng giảm từ mức cao 19.800 đồng
xuống 18.500 đồng, sát với giá trần.

Ở thị trường tự do, tỷ giá biến động dữ dội hơn rất nhiều.

Giai đoạn 1, chúng dao động trong khoảng 17.450 đồng - 17.800 đồng, cao
hơn tỷ giá trên liên ngân hàng trên 100 điểm.
Giai đoạn 2, từ 18.180 đồng - 18.250 đồng nhưng từ nửa cuối tháng 6/2009,
tăng lên mức 18.450 đồng - 18.500 đồng.
Sang giai đoạn 3, tỷ giá thị trường tự do tăng rất nhanh, đạt đỉnh 20.000
đồng rồi giảm nhanh về 18.700 đồng trước khi tăng trở lại và duy trì ở mức
19.000 đồng - 19.300 đồng
Đến giai đoạn 4, tỷ giá thị trường này giảm mạnh.
Nếu như tỷ giá hai thị trường trên biến động mạnh thì biến động của tỷ
giá bình quân liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ
sở cho tỷ giá thị trường biến động rất ít. ở giai đoạn 1, chúng biến động
nhỏ và xoay quanh mức 16.980 đồng. Giai đoạn 2, sau khi nới biên độ, tỷ
giá giảm từ 16.980 đồng xuống 16.935 đồng (- 0,26%) và duy trì đến hết
tháng 5/2009. Từ tháng 6/2009, mặc dù Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh
tăng dần nhưng mức tăng thấp. Giai đoạn 3, nhịp độ tăng của tỷ giá bình
quân liên ngân hàng vẫn không nhiều và tính đến 19/11/2009, mức tăng của
chúng so với cuối 2008 chỉ 0,3%. Ở giai đoạn 4, kể từ 26/11, Ngân hàng
Nhà nước điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 5,44% và so với
cuối năm 2008, mức tăng của chúng chỉ 5,81%.

II.ĐÁNH GIÁ

1.thành công

Nhà nước thực hiện chính sách 2 tỷ giá nên Có sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá
trên thị trường LNH và thị trường tự do dẫn đến: những ngành nghề, doanh
nghiệp được ưu tiên khuyến khích phát triển sẽ mua được USD với giá thị
trường chính thức còn những ngành, doanh nghiệp không được khuyến
khích hay cần hạn chế thì phải mua USD với giá cao. Điều này tạo áp lực
cho DN phải tìm nguồn hàng thay thế trong nước, hay hạn chế nhập khẩu
đến mức thấp nhất. Áp lực lên nhập siêu sẽ được giảm bớt dưới cách nhìn
này.cụ thể dưới biể

u đồ
sau

(Tỷ giá USD/VND là tỷ giá trung bình tháng do các ngân hàng thương mại niêm yết –
cán cân thương mại là số liệu ước tính lấy từ bản tin hàng tháng của tổng cục Thống kê)

2.HAN CHE VA NGUYEN NHAN.

2.1 han che

Trong cơ chế hai tỷ giá này Nhà nước sẽ mất một khoản thu thuế do sự chênh lệch tiền
mua bán ngoài hóa đơn này. DN mua USD bị thiệt do chỉ được xuất hóa đơn với tỷ giá
thấp hơn thực tế phải trả. Cái thiệt lớn nhất là sự mất cân đối trong cung cấu ngọai tệ của
nền kinh tế, vô tình cổ vũ cho thị trường USD tự do mặt sức tung hòanh.. Sự khan hiếm
USD vô tình được thổi phồng quá mức, mà trước hết là do sự chênh lệch quá lớn giữa tỷ
giá USD giữa hai thị trường.

Theo các chuyên gia kinh tế, cách điều hành tỷ giá, chính sách tỷ giá của
Ngân hàng Nhà nước hơi bảo thủ, cứng nhắc; việc minh bạch thông tin cũng
không được thực hiện.

- Về cách điều hành bảo thủ, cứng nhắc:


Công cụ duy nhất để điều hòa thị trường ngoại tệ là tung ngoại hối ra và nới
lỏng biên độ hoặc sử dụng các biện pháp kỹ thuật về tiền tệ. Có thể nói,
NHNN chỉ sử dụng các công cụ trực tiếp để thực hiện chính sách tỷ giá.
Ngân hàng còn đề ra mức khống chế lượng bán ra trong ngày đối với từng
chi nhánh tùy theo quy mô của chi nhánh đó.

Ngày 23/12/2009, Thủ tướng chính phủ có văn bản số 2578/TTg-


KTTH yêu cầu 7 tập đoàn, tổng công ty Nhà nước bán ngay số ngoại tệ dưới
dạng tiền gửi và các nguồn thu vãng lai cho các tổ chức tín dụng được phép
hoạt động ngoại hối. 7 tập đoàn, tổng công ty này bao gồm: Tập đoàn Dầu
khí Quốc gia, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tổng
công ty Lương thực miền Nam, Tổng công ty Lương thực miền Bắc, Tổng
công ty Lắp máy Việt Nam, Tổng công ty Cảng hàng không miền Nam và
Tổng công ty Hóa chất Việt Nam.

Bên cạnh đó, chúng ta thiếu công cụ phòng ngừa rủi ro dẫn đến quản
lý thị trường ngoại hối cũng có những hạn chế nhất định trong việc chuyển
đổi tiền tệ, kiểm soát chênh lệch kỳ hạn.

- Về việc thiếu minh bạch thông tin:


Nguyên nhân đầu tiên khiến việc điều hành tỷ giá “méo mó” như thời
gian qua là do sự cam kết của NHNN. Ngân hàng càng cam kết thì thị
trường càng không tin, đầu tiên là hệ thống NHTM. NHNN cam kết nhưng
lại thiếu minh bạch thông tin (về dự trữ, cán cân thanh toán quốc tế…) người
dân, doanh nghiệp cần những thông tin này nhưng mỗi người nói một câu,
người thì đưa ra thông tin lượng kiều hối giảm, người thì đưa ra FDI giảm…
mà không có thông tin tổng thể.

Ngày 25/11/2009. Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu đã ra quyết


giảm biên độ dao động tỷ giá từ mức ±5% xuống còn ±3%, trong khi trước
đó cam kết biên độ dao động sẽ giữ nguyên ở mức ±5% cho đến hết năm
2009. Qua đó, có thể thấy rõ tình trạng không thống nhất trong điều hành
chính sách tỷ giá.

2.2 Nguyên nhân của tình trạng căng thẳng tỷ giá

1.Mặc dù ngân hàng quá dồi dào nguồn ngoại tệ cho vay tới hàng tỷ USD,
khiến lãi suất giảm thấp (dĩ nhiên, lãi suất USD giảm ở Việt Nam còn có
một nguyên nhân khác là đồng USD xuống giá so với nhiều đồng tiền chủ
chốt khác) nhưng nguồn để kinh doanh (bán ra) thì thiếu.

Khi thiếu, một mặt ngân hàng không có nguồn bán cho doanh nghiệp, khiến
doanh nghiệp tăng cường “vét” trên thị trường tự do, đẩy tỷ giá ở thị trường
này tăng chóng mặt; mặt khác, họ hối thúc Ngân hàng Nhà nước phải bán ra.

Thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã hành động theo hướng này và mỗi lần thực
hiện “bơm” ra, thị trường bình ổn trở lại nhưng khi hết đợt, tỷ giá lại tăng.
Có những thời điểm, Ngân hàng Nhà nước bán ra bao nhiêu, hết bấy nhiêu,
hệt như đổ vào “hố đen” không đáy.
2. ở một quốc gia bị “Đô la hóa” từ lâu như Việt Nam, khi Chính phủ có chủ
trương hỗ trợ lãi suất đã làm cho lãi suất cho vay của đồng Việt Nam giảm
xuống. Tuy nhiên, vì Chính phủ không song song hỗ trợ lãi suất đồng USD
nên đã làm cho khoảng cách của chênh lệch lãi suất giữa đồng USD và VND
bị thu hẹp lại. Khi khoảng cách này càng gần thì nghiễm nhiên, VND trở nên
mất giá và đồng USD bị tăng giá cục bộ ở Việt Nam một cách giả tạo.

Từ đó, một lượng lớn ngoại tệ bị rút khỏi lưu thông, nằm dưới dạng “tài sản
để dành”, “găm giữ” của doanh nghiệp và dân chúng trên tài khoản hoặc ở
két sắt, chờ tỷ giá tăng để săn tìm lợi nhuận.

Dĩ nhiên, tác động phụ này sẽ không xảy ra nếu Chính phủ đồng thời làm
hai việc vừa tài trợ lãi suất cho tín dụng nội tệ, vừa tài trợ lãi suất cho tín
dụng ngoại tệ, nhằm phản ánh đúng tỷ lệ lạm phát của Việt Nam so với tỷ lệ
lạm phát của Mỹ cũng Bên cạnh đó, chúng ta thiếu công cụ phòng ngừa rủi
ro dẫn đến quản lý thị trường ngoại hối cũng có những hạn chế nhất định
trong việc chuyển đổi tiền tệ, kiểm soát chênh lệch kỳ hạn.như uy tín của
VND so với USD.
3.Tac dong của chính sách tỷ giá

Chính sách tỷ giá trong thời gian qua đã dẫn đến một số hệ lụy quan trọng.

Việc định giá VND cao so với USD trong một thời gian dài đã góp phần làm
giảm năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đồng thời khuyến khích nhập
khẩu. Điều này được chứng minh bằng một thực tế là nhập siêu của Việt
Nam tăng nhanh liên tục trong mấy năm trở lại đây, từ 2,8 tỷ USD trong
năm 2006 lên 8,2 tỷ USD năm 2007 và 17,5 tỷ USD trong năm 2008,năm
2009 là 12 tỷ.

Nhập siêu tăng nhanh trở lại trong khi các nguồn thu ngoại tệ chính như xuất
khẩu, đầu tư nước ngoài, kiều hối và du lịch đều giảm sút mạnh so với năm
2008; và cùng với việc doanh nghiệp và người dân chuyển sang nắm USD
và vàng đã làm cho cán cân thanh toán của Việt Nam thâm hụt nặng. Khiến
dự trữ ngoại hối của Việt Nam giảm một cách tương ứng (từ khoảng 23 tỷ
USD vào cuối năm 2008 xuống còn hơn 17 tỷ USD vào quý 3/2009), mặt
khác khiến áp lực giảm giá VND tiếp tục được duy trì.

Thị trường ngoại hối luôn căng thẳng, hoạt động trở nên kém hiệu quả.tình
trạng khan hiếm khiến nhiều doanh nghiệp không thể mua được ngoại tệ đáp
ứng nhu cầu nhập khẩu.điều này làm cho thị trường ngầm càng sôi động.

Tác động tới DN:Công ty Xi măng Tam Điệp (29,281 tỉ đồng), nhưng sau khi đánh
giá lại các khoản nợ có gốc ngoại tệ thì lợi nhuận của 2 công ty này lại bằng không.
Trong lúc đó, Công ty Xi măng Hoàng Thạch lãi 457,4 tỉ đồng, nhưng do chênh lệch tỷ
giá khiến thực tế công ty này chỉ còn lãi 330 tỉ đồng

III. GIẢI PHÁP


Để thực hiện chính sách tỷ giá thúc đẩy cho xuất khẩu, có một số ý kiến đề
nghị Chính phủ và NHNN Việt Nam phá giá đồng tiền Việt Nam; hoặc đề
nghị nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá, nên về bản chất chỉ khác là “phá giá
có giới hạn”. Cả hai giải pháp này nhìn bề ngoài thì có thể kỳ vọng tác động
phần nào đến xuất khẩu nhưng phân tích bản chất thì tăng trưởng xuất khẩu
bền vững không thể trông chờ vào yếu tố tỷ giá được. Hơn nữa, việc phá giá
đồng tiền Việt Nam sẽ có tác động nhiều chiều, có khi tác động ngược lại
còn lớn hơn là mặt tích cực.

Theo tính toán của cơ quan chức năng, nếu đồng Việt Nam mất giá 5% thôi
thì mỗi năm Ngân sách Nhà nước sẽ chi thêm 26.000 tỷ đồng để trả nợ nước
ngoài, các doanh nghiệp cũng phải trả nợ thêm 13.000 tỷ đồng. Một tính
toán khác đã được công bố cho hay, chỉ tính riêng Nhà máy Nhiệt điện Phả
Lại số nợ nước ngoài phải trả tính ra nội tệ đã tăng thêm tới 800 tỷ đồng.
Nói cách khác, phá giá đồng Việt Nam, hay để ngoại tệ tăng giá so với VND
thì sẽ làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp.
Và một tác động đặc biệt quan trọng khác là tạo tâm lý đầu cơ, găm giữ
ngoại tệ và chuyển đổi từ VND sang USD, làm gia tăng thêm tình trạng đô
la hoá nền kinh tế.
Qua việc tìm hiểu về chính sách tỷ giá trong thời gian qua, nhóm chúng tôi
đề xuất một số giải pháp như sau:
1. Chấm dứt hỗ trợ lãi suất 4% vì bên cạnh tác động thắt chặt tín
dụng, nó còn khuyến khích các doanh nghiệp có USD chuyển một phần dự
trữ USD sang VND để đáp ứng các nhu cầu vốn lưu động, nhờ đó giảm áp
lực cho thị trường ngoại hối.
2. Thực hiện chính sách đa ngoại tệ: Hiện nay trên thị trường ngoại tệ,
mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan
hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng
buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả USD
trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà
thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi.
Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ,
bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh
toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho
việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, yên Nhật vì hiện nay
EU, Nhật là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ
giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ
danh nghĩa.
3.Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá: Chính phủ
phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một
loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của
chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định
can thiệp hành chính của Chính phủ.
Đặc biệt xoá bỏ thói quen tiêu dùng bằng ngoại tệ cũng như tâm lý sung
bái ngoại tệ của người tiêu dùng Việt Nam.
+ không nhận tiền gửi bằng ngoại tệ
+ niêm yết giá cả hàng hoá bằng nội tệ

Kết luận

Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USD/VND tăng
mạnh, nhập siêu cao, lạm phát đứng trước áp lực tăng trở lại vào năm 2010,
khan hiếm cục bộ USD, giá vàng sốt nóng, lãi suất ngân hàng lên kịch
trần… trong khi trên thị trường thế giới giá USD giảm mạnh thì trên thị
trường Việt Nam tỷ giá ngày càng có xu hướng tăng mạnh. Điều này là
nghịch lí cho thấy thị trường ngoại tệ Việt Nam còn hoạt động có nhiều yếu
kém, tính thanh khoản thấp, không minh bạch.các công cụ phái sinh phòng
ngừa rủi ro còn chưa phát huy tác dụng.

Các chính sách thực hiện còn mang tính hánh chính cướng ép. Các chính
sách không thực hiện đồng nhất, kém hiệu quả, không dựa trên biến động
thực tế của thị trường mà còn mang tính cảm tính của các nhà thực hiện
chính sách. Nếu không thay đổi chính sách hợp lí thì có thể đánh giá xu
hướng của chính sách tỷ giá trong thời gian tới sẽ là tăng tỷ giá và tăng biên
độ dao động. điều này có thể có tác động tích cực tới xuất khẩu trong thời
gian ngắn nhưng về dài hạn thì có nhiều tiêu cực hơn vì hàng hoá xuất khẩu
của Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu nguyên liệu ví dụ như ngành giầy da,
may mặc…

Do đó Việt nam cần chú trọng tới diễn biễn tình hình kinh tế Quốc tế đặc
biệt sau thời kì khủng hoảng này để thực hiện các chính sách một cách hợp lí
để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Danh mục tài liệu:

Vn.economy.vn

Giáo trình Tài chính Quốc tế PGS.TS NGUYỄN VĂN TIẾN

Giáo trình kinh tế Quốc tế

You might also like