You are on page 1of 40

HỆ THỐNG THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN (SRI)

Cuốn sách này được được biên soạn với nguồn thông tin được cung cấp từ:
Biksham Gujja thuộc Chương trình Nước sạch Toàn cầu, Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên
Quốc tế (WWF) tại Gland, Thụy Sỹ; V. Vinod Goud, T. M. Thiyagarajan và Manisha
Agarwal, WWF tại ICRISAT, Ấn Độ; Gina E. Castillo và Timothy Mahoney ( 2008-
2009 ), thuộc tổ chức Oxfam Mỹ tại Boston Hoa Kỳ; Brian Lund, thuộc tổ chức
Oxfam Mỹ, văn phòng khu vực Đông Nam Á, Phnôm Pênh, Cam-pu-chia; Lê
Nguyệt Minh, thuộc tổ chức Oxfam Mỹ, văn phòng khu vực Đông Nam Á, Hà Nội,
Việt Nam; Erika Styger, thuộc tổ chức Africare (2007-2010), Timbuktu, Mali;
Norman Uphoff, thuộc Đại học Cornell , Ithaca, Niu-óoc, Hoa Kỳ và Olivia Vent,
Điều phối xuất bản, Ithaca, Niu-óoc, Hoa Kỳ.

Tài liệu tham khảo


Africare, Oxfam Mỹ, WWF-ICRISAT. 2010. Nhiều lúa gạo hơn cho con người, nhiều
nước hơn cho Hành tinh . WWF-ICRISAT, Hyderabad, Ấn Độ.

© WWF-ICRISAT (2010). Cuốn sách này đã được đăng ký bản quyền. Việc sử dụng
cuốn sách dưới dạng bản cứng hay bản điện tử, một trích đoạn hay toàn bộ nội
dung cuốn sách cho mục đích phi thương mại đều được chấp nhận với điều kiện
phải trích dẫn nguồn từ WWF-ICRISAT. Nếu có bất cứ thắc mắc nào, xin vui lòng
liên hệ Ban Truyền thông theo địa chỉ info@sri-india.net. Tên và logo của WWF,
Oxfam, Africare đã được đăng ký thương hiệu và không được phép sử dụng tùy
tiện nếu không được phép. Bất cứ sự thay đổi thương hiệu, bản quyền hoặc
những thông tin liên quan sẽ không được chấp nhận. Tranh ảnh không được phép
sử dụng hoặc sao chép nếu không được sự đồng ý.
WWF, Oxfam, Africare và các chi nhánh đại diện của 3 tổ chức này sẽ không chịu
trách nhiệm đối với bất cứ phát ngôn hoặc quan điểm nào được trình bày trong
bản Báo cáo này mà không thuộc phạm vi hoạt động của họ hoặc đối với bất cứ lỗi
nào xảy ra trong quá trình biên soạn Báo cáo.

Thuyết minh trang bìa: Phương pháp SRI hình thành một chiến lược cho nông dân trồng
lúa quy mô nhỏ với mức chi phí thấp và sản lượng tăng, giảm nhu cầu về nước, giống và
phân hóa học. Cây lúa áp dụng cách thức quản lý SRI tăng trưởng tốt, có bộ rễ chắc khỏe,
đẻ nhiều nhánh và bông lúa cho nhiều hạt chắc hơn. Trang bìa chụp cận cảnh những cây
lúa trên thửa ruộng của một nông dân thuộc tỉnh Andhra Pradesh, Ấn Độ. Ruộng lúa của
anh đã tăng năng suất nhờ áp dụng SRI . Canh tác lúa tiết kiệm nước và sử dụng ít hóa
chất đóng vai trò quan trọng đối với vấn đề an ninh lương thực và tính bền vững của môi
trường trong thời gian tới. Các phương pháp SRI cũng đã được áp dụng cho các loại cây
trồng khác như lúa mì, kê, mía, ngô, đậu và rau.
SRI
NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI,
NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
HỆ THỐNG THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN (SRI)
Góp phần đảm bảo an ninh lượng thực, tăng cường khả năng thích ứng
của nông dân với Biến đổi khí hậu và tính bền vững của môi trường

Mục lục
Lời nói đầu: Tại sao cần phải nhìn nhận lại hoạt động sản xuất lúa gạo? ...............
KHÁI QUÁT
Vì sao SRI là một tiến bộ?.......................................................................................
Lợi ích của SRI .......................................................................................................
Nông dân nói về SRI...............................................................................................
Những nhà hoạch định chính sách nói về SRI ........................................................
2

4
6
7
8
Sự phù hợp của SRI với Biến đổi khí hậu .............................................................. 9
BÁO CÁO QUỐC GIA
Giới thiệu các Báo cáo quốc gia ............................................................................. 12
Các lựa chọn
SRI tăng cường khả năng phục hồi và thích ứng của nông dân với Biến đổi khí hậu
Các yêu cầu và chi phí
Kinh nghiệm của Africare về SRI tại Mali .......................................................... 16
Giới thiệu SRI tại Mali
Cách tiếp cận: Nông dân làm chủ
Kết quả: Năng suất cao hơn, thu nhập tốt hơn
Các bài học
Các bước tiếp theo
Kinh nghiệm của Oxfam về SRI tại Việt Nam .................................................... 20
Giới thiệu SRI tại Việt Nam
Cách tiếp cận: Dựa vào cộng đồng
Kết quả: Hộ gia đình nông thôn có khả năng thích ứng và phục hồi tốt hơn
Các bài học
Các bước tiếp theo
Kinh nghiệm của WWF về SRI tại Ấn Độ ........................................................... 24
Giới thiệu SRI tại Ấn Độ
WWF và SRI
Cách tiếp cận: Xây dựng diễn đàn quốc gia
Kết quả: Các ưu điểm của SRI đã thúc đẩy nhanh hơn việc ứng dụng trên toàn quốc
Các bước tiếp theo
TÓM TẮT
Khuyến nghị............................................................................................................ 29
Lợi ích nhờ áp dụng SRI ........................................................................................ 31
Tài liệu tham khảo .................................................................................................. 32
Phụ lục .................................................................................................................. 33

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 1
LỜI NÓI ĐẦU

Tại sao phải nhìn nhận lại


hoạt động sản xuất lúa gạo?
K
hi các tổ chức khác nhau như Oxfam, Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế (WWF)
và Africare với những sứ mệnh riêng biệt của từng tổ chức về công bằng xã
hội, hòa hợp giữa con người với thiên nhiên và phát triển bền vững độc lập
đến với nhau để hỗ trợ một chiến lược chung nhằm giải quyết những thách
thức mang tính toàn cầu thì chiến lược này cần nhận được nhiều sự chú ý và nghiên
cứu sâu hơn.
Báo cáo này nêu lên những kinh nghiệm của Africare, Oxfam Mỹ và WWF trong hoạt
động triển khai Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI) tại khu vực Sahel (châu Phi),
Đông Nam Á và Ấn Độ. Mặc dù hệ thống này được triển khai tại các khu vực có nền văn
hóa và điều kiện khí hậu khác nhau nhưng vẫn có những điểm chung như sau: Người
nông dân có thể sản xuất ra nhiều lúa gạo hơn trong khi tiết kiệm được nước, hóa chất,
giống và mất ít công lao động hơn. Hệ thống SRI đã giúp cải thiện thu nhập của các hộ
gia đình và đảm bảo an ninh lương thực, đồng thời giúp giảm thiểu các tác động tiêu
cực đối với môi trường và tăng cường khả năng thích ứng trong việc sản xuất lúa gạo.
Lúa gạo không chỉ là nguồn cung cấp lương thực chủ yếu cho một nửa dân số trên thế
giới mà còn là nguồn tạo công ăn việc làm và thu nhập lớn nhất cho những người dân ở
nông thôn. Số người nghèo trên thế giới phụ thuộc vào việc trồng lúa và lấy gạo làm
lương thực cao hơn bất cứ loại cây lương thực nào khác. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất
Lúa gạo không chỉ lúa gạo đã gây ra những tác động đáng kể đối với môi trường. Những tập quán canh tác
hiện nay khuyến khích tính đồng nhất gen di truyền. Điều này làm cho cây lúa dễ bị
là nguồn cung cấp nhiễm sâu hại và dịch bệnh hơn. Canh tác tập quán cũng gây lãng phí các nguồn tài
lương thực chủ yếu nguyên hiện đang trở nên ngày càng khan hiếm như tài nguyên nước, tài nguyên hóa
thạch và hàng năm tiêu tốn khoảng 1/4 đến 1/3 tổng lượng nước ngọt tiêu thụ trên toàn
cho một nửa dân thế giới. Những cánh đồng ngập úng quanh năm được bón nhiều phân hóa học góp
số trên thế giới mà phần tăng phát thải khí nhà kính, gây ra hiện tượng trái đất nóng lên. Việc lạm dụng
phân hóa học và các chất bảo vệ thực vật dẫn đến hiện tượng ô nhiễm đất và nước.
còn là nguồn tạo Hơn thế nữa, trồng lúa mất rất nhiều công lao động, trong đó người phụ nữ phải gánh
công ăn việc làm vác nhiều công việc đồng áng, cùng với công việc nội trợ và nuôi dạy con cái.Trong
những năm 1970-1980, cuộc Cách mạng xanh đã giúp tăng sản lượng lúa một cách
và thu nhập lớn đáng kể. Tuy nhiên, sau đó sản lượng ở một số quốc gia đã giảm dần và việc bón phân
nhất cho người dân tổng hợp đe dọa lớn đến lợi ích thu được.

nông thôn.
SRI: CƠ HỘI CÙNG CHIẾN THẮNG
Hoạt động sản xuất lúa gạo cần được đẩy mạnh trong những thập kỷ tới để có thể đáp
ứng được nhu cầu dân số ngày một gia tăng, đó là chưa tính đến tình trạng thiếu lương
thực và dinh dưỡng hiện nay trên thế giới. Cần phải tăng sản lượng lúa gạo trong điều
kiện diện tích đất tính theo đầu người giảm, nguồn nước phục vụ tưới tiêu ít hơn, không
làm suy thoái môi trường và không làm kiệt quệ các nguồn lực của các hộ nông dân sản
xuất nhỏ, những người chiếm đa số hộ nghèo trên thế giới. Việc tìm ra các giải pháp sản
xuất lương thực địa phương đóng vai trò quan trọng trong công tác xóa đói và tạo ra cơ
sở đảm bảo khi giá lương thực tăng cao.
Hiện nay, SRI có lẽ là giải pháp tối ưu nhất cho người nông
dân và các quốc gia nhằm thúc đẩy sự phát triển trong sản
xuất nông nghiệp dựa vào cộng đồng. Đồng thời, SRI cho
phép quản lý các nguồn tài nguyên đất và nước một cách
bền vững hơn và thậm chí còn làm tăng năng lực sản xuất
của những nguồn tài nguyên này trong tương lai.
SRI là tập hợp các phương pháp thực hành quản lý trồng
cây lương thực được thực hiện từ những năm 1980 ở
Madagascar nhằm hỗ trợ cho những hộ nông dân quy mô
nhỏ. SRI giúp tăng năng suất của các nguồn lực sử dụng
trong canh tác lúa, giảm nhu cầu về nước, giống, phân
bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và cắt giảm lao động, đặc
Diện tích(triệu hec-ta) Sản lượng (M/T) biệt là những công việc do phụ nữ đảm nhiệm. SRI chính
là một cơ hội hiếm có để các nước đang phát triển hỗ trợ
Diện tích trồng lúa và sản xuất lúa gạo trên thế giới các nông hộ sản xuất lúa một cách hiệu quả, an toàn, tự
(Nguồn: Số liệu thống kê của Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế) chủ trong khi không làm xấu đi, thậm chí có thể đảo ngược
Trong những thập kỷ qua, sản lượng lúa gạo đã chững lại. Nhu cầu về xu thế về biến đổi khí hậu. Như vậy, SRI mang lại lợi ích
gạo hiện nay đang gia tăng. Tuy nhiên, tính theo nhịp độ gia tăng dân số, cho các hộ gia đình, cho các quốc gia và cho toàn thế giới.
ước tính đến năm 2050, sản lượng lúa gạo phải tăng lên 50% thì mới có Những lợi ích của SRI đã được ghi nhận tại 40 quốc gia,
thể đáp ứng được nhu cầu lương thực toàn cầu. với sản lượng gia tăng ở cả những giống lúa địa phương

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


2 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
KHÁI QUÁT

Vì sao SRI là một tiến bộ?


Hơn 90% sản lượng lúa gạo trên Thế giới được thu hoạch trên những cánh đồng được tưới tiêu hoặc những cánh
đồng lúa phụ thuộc nước mưa. Trong những hệ thống này, hạt giống thường được gieo trên các luống đất mạ,
sau 3-6 tuần sẽ được cấy trên cánh đồng và nước luôn được giữ ở mức xâm xấp mặt ruộng trong cả vụ. Nguyên
tắc SRI giới thiệu một số thay đổi đơn giản nhưng giúp cây lúa sinh trưởng tốt hơn. Dưới đây là các bước cơ bản
khi áp dụng cách thức quản lý SRI so với phương pháp canh tác lúa nước truyền thống.

HỆ THỐNG THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN (SRI)

1. Tuổi mạ 2. Số lượng dảnh


Mạ non được cấy khi Cấy 1-2 dảnh/khóm, cấy
được 8-12 ngày tuổi nông 1-2 cm trên đất
Xúc mạ nhẹ nhàng ra khỏi không đọng nước.
đám mạ và đưa ra ruộng Rễ mạ phải được đặt nhẹ
trong xảo hoặc khay. Mạ nhàng ngay dưới bề mặt
phải được cấy ngay trong ruộng tránh gây tổn thương
ngày. cho bộ rễ, tránh làm cây mạ
Tỷ lệ giống: 5-7 kg /ha bị sốc.

3. Khoảng cách cấy 4. Quản lý tưới tiêu


Các luống cách nhau Điều kiện đất thông khí,
khoảng 20-30 cm, theo không úng nước, tưới
hình vuông hoặc hình tiêu xen kẽ.
lưới để dễ dàng cho việc Nếu có thể, tưới nước vừa
làm cỏ sục bùn và giúp phải, hoặc thay phiên tháo
cây có đủ ánh sáng mặt nước và tưới nước cho
trời. ruộng trong suốt quá trình
sinh trưởng của lúa; giữ
nước ở mức 1-2 cm sau khi
lúa trổ bông.

6. Làm cỏ và quản lý sâu


5. Bón phân bệnh
Khuyến khích bón phân Công cụ cào cỏ thủ công
hữu cơ, có thể kết hợp có thể cào cỏ và đồng
với bón phân tổng hợp. thời làm thông thoáng
Kết hợp bón phân hữu cơ tầng mặt của đất.
và phân hóa học giúp đảm Khuyến khích áp dụng
bảo cân bằng dinh dưỡng phương pháp Quản lý dịch
cho đất. hại tổng hợp (IPM). Lúa
SRI có khả năng kháng sâu
hại và dịch bệnh tốt hơn,
nhờ vậy ít phải sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật hơn.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


4 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
KHÁI QUÁT

CANH TÁC LÚA TẬP QUÁN

1. Tuổi mạ 2. Số lượng dảnh


Cấy khi mạ được 21 - 40 3 -4 dảnh hoặc thậm chí 6-
ngày 8 dảnh được cấy thành
Rũ hết đất ra khỏi rễ mạ; mạ từng khóm sâu trên
được bó lại thành từng bó ruộng ngập nước, làm
và đưa ra đồng. Các bó mạ cho mật độ mạ dày chen
được để trong một vài ngày chúc và đất bí khí.
rồi mới cấy.
Tỷ lệ giống: 50-70 kg /ha

3. Khoảng cách cấy 4. Quản lý tưới tiêu


Khoảng cách cấy dày hơn. Giữ nước liên tục trong
Các luống cách nhau 10-15 ruộng ở mức 5-15 cm
cm, cấy theo hàng hoặc cấy trong toàn vụ.
ngẫu nhiên

5. Bón phân 6. Làm cỏ và quản lý sâu


Bón phân vô cơ tổng hợp, bệnh
thay thế phân hữu cơ trong Ruộng luôn ngập nước,
khi phân hữu cơ giúp cải làm cỏ thủ công hoặc
tạo cấu trúc và chất đất. phun thuốc trừ cỏ. Không
dùng công cụ cào cỏ nếu
cấy ngẫu nhiên, không
thẳng hàng.
Đôi khi IPM được áp dụng,
tuy nhiên vẫn phun thuốc
trừ sâu hoặc dập dịch khi
cần.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 5
COUNTRY REPORTS
KHÁI QUÁT

Lợi ích của SRI


LÚA GẠO NHIỀU HƠN,
THU NHẬP CAO HƠN,
ÍT TIÊU TỐN NƯỚC HƠN

47%
Tăng
40%
Tiết kiệm nước
23%
Giảm chi phí
68%
Tăng thu nhập
sản lượng trên mỗi trên mỗi
hec-ta hec-ta

ĐIỀU KIỆN SINH TRƯỞNG TỐT HƠN Đánh giá tác động của SRI tại 8 quốc gia
Xem bảng trong phần Phụ lục
Phương pháp SRI cải thiện các điều kiện
sinh trưởng của cây thông qua:
1. Giảm thời gian phục hồi của mạ non sau khi cấy;
2. Giảm mật độ chen chúc của mạ;
3. Tối ưu hóa các điều kiện về đất và nước;

Các điều kiện này có được nhờ:


• Bộ rễ chắc, khỏe hơn;
• Khả năng quang hợp tốt hơn;
• Cây sinh trưởng tốt, có khả năng chống
chịu tốt với thời tiết và sâu bệnh;
• Số lượng hạt nhiều hơn;

SẢN LƯỢNG CAO HƠN, ĐẦU VÀO ÍT HƠN


Phương pháp SRI cần :

• Rút ngắn thời gian gieo cấy do mạ được cấy khi 8-12 ngày
tuổi, thay vì 1 tháng như cấy tập quán;
• Giảm 80-90% giống, do mật độ cấy giảm;
• Giảm thời gian cấy do lượng mạ giảm;
• Giảm 25-50% lượng nước do không cần giữ nước ngập
ruộng trong cả vụ;
• Chi phí cho mỗi hec-ta giảm do nhu cầu về giống, phân hóa
học, thuốc trừ cỏ, thuốc sâu giảm. Ở một số quốc gia, công
lao động cũng giảm; Ảnh trên cùng: Cô Sugunamma ở huyện Warangal, vùng Andra
Prahesh, Ấn Độ đang làm cỏ và thông khí tầng mặt cho đất.
Nhờ chi phí giảm, người nông dân có Ảnh trên: Lúa được trồng trong điều kiện đất thoáng khí có bộ
thể sản xuất ra nhiều lúa gạo để ăn và rễ chắc, khỏe hơn lúa trồng trong điều kiện ngập nước quanh
vụ.
bán, cải thiện an ninh lương thực và
tăng thu nhập. Nhờ tiêu tốn ít nước và
hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
nên sức khỏe của người nông dân và
điều kiện môi trường được cải thiện.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


6 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
KHÁI QUÁT

Nông dân nói về SRI

Sản lượng cao hơn,


chi phí sản xuất thấp hơn
Ví dụ như lúa thường một khóm có 5 bông, lúa SRI cho 8-10 bông. Lúa
thường có 100-120 hạt chắc, lúa SRI cho 180-200 hạt chắc, thì chắc chắn là
thắng rồi. Làm SRI hay lắm, đánh trúng vào những vấn đề nông dân đang
bức xúc trong sản xuất lúa gạo như chi phí sản xuất cao và thu nhập thấp, đó
là những vấn đề mà nhiều hộ nông dân đã phải chịu đựng. Họ bón nhiều phân
nên đất bị chai, phun tràn lan thuốc trừ cỏ làm lúa bị ốm nên đẻ nhánh kém,
sâu bệnh nhiều, năng suất thấp.

— Bác Lê Ngọc Thạch, Chủ nhiệm hợp tác xã Đại Nghĩa, Việt Nam. Bác
Thạch là một trong những nông dân đầu tiên ở tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội)
áp dụng phương pháp SRI. Chỉ sau bốn vụ, toàn bộ diện tích 175 hec-ta
của hợp tác xã đã được trồng theo SRI.

Cộng đồng được khuyến khích


Lúc đầu, những người không tham gia chương trình thí điểm SRI cười nhạo
chúng tôi. Đến bây giờ thì họ lại tiếc vì đã không học hỏi kỹ thuật SRI. Tôi
mong muốn tất cả 120 nông dân cùng chia sẻ hệ thống tưới tiêu này cùng áp
dụng SRI. Áp dụng SRI đã cho phép chúng tôi cắt giảm đáng kể chi phí bơm
nước tưới. Chúng tôi, 5 nông dân đã áp dụng SRI có thể truyền đạt kỹ thuật lại
cho các nông dân khác.

— Anh Mossa Ag Alhousseini ở làng Bagadadji, vùng


Timbuktu, một trong những nông dân đầu tiên áp
dụng SRI ở Mali

An ninh lương thực


của hộ gia đình được cải thiện
Sau khi áp dụng SRI trên diện tích 0.2 hec-ta (trên tổng diện tích 0.65 hec-ta
đất nhà tôi), tôi nhận ra rằng SRI cần ít giống và nước hơn, chỉ cần một phụ
nữ cấy thôi. Tôi có nhiều ruộng lúa hơn so với những năm trước đây và lượng
thức ăn xanh cho gia súc tăng lên gấp rưỡi. Vậy là từ năm nay tôi có thể đảm
bảo cho gia đình tôi có thêm lương thực trong khi vẫn tiết kiệm được chi phí
canh tác.

— Damayanthi Devi, Barmanu ki Sher, Sirmour, Himachal


Pradesh. Bà Devi đã được Viện Khoa học tập huấn và hỗ
trợ về kỹ thuật SRI, do WFF-ICRISAT tài trợ

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 7
KHÁI QUÁT

Những nhà hoạch định chính sách nói về SRI


TIỀM NĂNG CHƯA KHAI THÁC HIỆU QUẢ KINH TẾ
Hiện nay chúng tôi đã có kinh nghiệm về việc áp dụng SRI SRI bao gồm các phương pháp đã được kiểm chứng thúc
tại Việt Nam. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng SRI đã giúp đẩy sự sinh trưởng của cây lúa. Việc áp dụng thí điểm SRI ở
tăng hiệu quả kinh tế và có tiềm năng thích ứng với Biến đổi châu Phi đã cho thấy sản lượng tiềm năng của những giống
khí hậu (BĐKH). Những người làm công tác nghiên cứu và lúa hiện nay có thể tăng gấp đôi mà không cần tăng lượng
nông dân cần phối kết hợp với nhau để khai thác tiềm năng thuốc bảo vệ thực vật và vẫn tiết kiệm nước. SRI thực sự
này của SRI. mang lại hiệu quả kinh tế và thân thiện với môi trường.

— Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông — Tiến sỹ Mustapha Ceesay, Trợ lý Tổng giám đốc
thôn, Tiến sĩ Bùi Bá Bổng, trong cuộc họp với bà phụ trách Nghiên cứu và Phát triển, thuộc Viện
Janet McKinley, Chủ tịch Oxfam Mỹ, Tháng 09/2009 Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc gia, Gambia.

TĂNG SẢN LƯỢNG,


GIẢM NƯỚC
Tất cả mọi người đều ngợi ca Cuộc Cách Mạng Xanh của
Ấn Độ. Bản thân tôi thậm chí còn ấn tượng hơn về SRI, hay
còn gọi là Hệ thống thâm canh lúa cải tiến, và theo tôi được
biết, Thủ tướng Manmohan Singh cũng rất quan tâm đến
SRI. Nhờ áp dụng cách thức quản lý thủy nông và canh tác
một cách hiệu quả, những người nông dân ở Tamil Nadu đã
tăng sản lượng lên khoảng 30%-80%, cắt giảm khoảng
30% lượng nước tưới và nhu cầu phân bón cũng giảm đáng
kể. Kỹ thuật mới này không những giải quyết vấn đề an ninh
lương thực mà còn giải quyết thực trạng khan hiếm nước
Mei Xie, Chuyên gia cao cấp về nguồn nước của Ngân hàng- Thế giới
hiện đang xấu đi do sự thách thức của BĐKH. Đây thực sự đang thử dùng một dụng cụ làm cỏ trên cánh đồng SRI trong một
là những bài học cho tất cả chúng ta. chuyến tham quan mô hình dự án của Ngân hàng thế giới/AMWARM
ở Tamil Nadu.

— Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Robert Zoellick, Tamil Nadu đứng thứ hai về sản lượng lúa gạo, sau bang Punjab,
Theo Thời báo Hindustan, 02/12/2009. mặc dù bang Tamil Nadu là một trong những bang khô hạn nhất ở
Ấn Độ với lượng nước bình quân tính theo đầu người chỉ ở mức
900 m3/người, thấp hơn một nửa so với lượng nước bình quân
trên đầu người của quốc gia này. Trong đó, lượng nước phục vụ
cho nông nghiệp chiếm đến 75% lượng nước của toàn bang. Năm
LỢI ÍCH ĐỐI VỚI 2006, nhờ nguồn tín dụng của Ngân hàng Thế Giới, bang đã triển
khai một dự án kéo dài 5 năm nhằm cải thiện hệ thống quản lý thủy
NÔNG DÂN nông trên lưu vực 63 dòng sông ở bang Tamil Nadu. Hiện nay dự
án hiện đại hóa tưới tiêu nông nghiệp, trùng tu và dự trữ nước
Nhờ có dự án thâm canh lúa cải tiến mà năng suất của bang
(IAMWARM) đang mở rộng mô hình SRI trên diện tích 250.000
Tamil Nadu đã đạt 6,461 triệu tấn. Trong khi phương pháp
hec-ta với mục đích tiết kiệm nước và tăng sản lượng trong nông
canh tác truyền thống cho năng suất 3,45 tấn/ha thì SRI cho nghiệp. Nông dân được tham dự tập huấn, cung cấp nguyên liệu
năng suất 6-9 tấn/ha. Những kỹ thuật tiến bộ này sẽ giúp đầu vào, công cụ (công cụ cào cỏ, dụng cụ đánh dấu), hỗ trợ kỹ
ngành nông nghiệp của bang thu lợi cao. thuật và giám sát để triển khai SRI. Trong vụ mùa chính năm 2009,
thiếu mưa đã làm đình đốn các hoạt động sản xuất nông nghiệp ở
rất nhiều vùng tại Ấn Độ. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Ấn Độ tin
— Veerpandi S. Arumugam, Lãnh đạo phụ trách tưởng rằng nhờ áp dụng SRI nông dân sẽ có khả năng đạt sản
Nông nghiệp bang Tamil Nadu, Theo Hindu, lượng cao, tiêu tốn ít nước hơn mặc dù chỉ canh tác trên một diện
01/12/2009. tích nhỏ do tác động của hạn hán.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


8 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
KHÁI QUÁT

Sự phù hợp của SRI với Biến đổi khí hậu

B
iến đổi khí hậu (BĐKH) sẽ tác động tới hoạt động
sản xuất lúa gạo, vì vậy sẽ ảnh hưởng đến vấn đề
SRI đòi hỏi nhu cầu về nước ít hơn
an ninh lượng thực. Theo đánh giá của Viện Quản đồng nghĩa với việc người nông dân có
lý Nguồn nước Quốc tế (IWMI, 2007), nhiệt độ
tăng lên 1ºC sẽ làm giảm 7% sản lượng lúa gạo.
thể tiếp tục trồng lúa tại các khu vực
Theo tính toán của Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực khan hiếm về nguồn nước.
Quốc tế, tính đến năm 2050, sản lượng lúa gạo của Thế giới
sẽ giảm 12-14% do những tác động của BĐKH (Nelson
2009). Ngoài lợi ích tăng sản lượng, SRI còn đem lại ba lợi ích
quan trọng liên quan đến BĐKH nếu được áp dụng trên diện về nguồn nước (Theo đánh giá của IWMI 2007). Cũng theo
rộng: ước tính, đến năm 2015, để xóa đói và suy dinh dưỡng cho
dân số thế giới, cần có lượng nước ngọt bổ sung tương
Ÿ Giảm nhu cầu về nước đương với lượng nước ngọt hiện đang được sử dụng phục vụ
Ÿ Giảm lượng phát thải khí mê-tan (CH4) ngành nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt hộ gia đình
Ÿ Giảm sử dụng phân đạm (SIWI 2005). Cần phải tìm ra những giải pháp để tăng tính
Ngoài ra, SRI giúp cho cây có bộ rễ chắc khỏe, có khả năng hiệu quả sử dụng nguồn nước (bao gồm cả nước tưới tiêu và
chống chịu với lũ lụt và mưa bão so với cây lúa trồng tập quán. nước mưa) trong nông nghiệp.
Quan trọng hơn nữa là bộ rễ bám sâu có thể giúp cây chống Khi áp dụng SRI, nước cho canh tác lúa tưới tiêu sẽ giảm từ
chịu hạn tốt hơn. 25-50%. Việc cắt giảm lượng nước trong sản xuất lúa gạo có
thể tiết kiệm nước cho việc trồng các loại cây lương thực
PHƯƠNG PHÁP SRI LÀM GIẢM NHU CẦU khác, tăng đa dạng cây trồng và sử dụng cho các lĩnh vực
khác như sinh hoạt gia đình, công nghiệp và môi trường. SRI
VỀ NƯỚC TRONG SẢN XUẤT LÚA GẠO đòi hỏi nhu cầu về nước ít hơn đồng nghĩa với việc người
nông dân có thể tiếp tục trồng lúa tại các khu vực khan hiếm về
Theo đánh giá của Viện Quản lý Nguồn nước Quốc tế (IWMI
nguồn nước.
2007), khoảng 24-30% các nguồn nước ngọt có thể tiếp cận
được trên Trái Đất (sông, hồ, tầng nước ngầm) hiện đang
được sử dụng phục vụ cho tưới tiêu trong nông nghiệp. Trên SRI LÀM GIẢM PHÁT THẢI KHÍ MÊ-TAN
Thế giới, khan hiếm nguồn nước hiện đã trở thành một thực
trạng đe dọa khoảng 2 tỷ người. Nước phục vụ nông nghiệp Trong ba loại khí phát thải nhà kính (CO2, CH4, N2O), khí các-
ngày càng trở nên khan hiếm. Nhiệt độ tăng cao do tác động
bô-nic (CO2) được chú ý nhiều nhất do lượng khí phát thải lớn
của BĐKH sẽ làm tăng nhu cầu về nước cho hoạt động trồng
trọt. Vì thế, sự khan hiếm nước càng trở nên nghiêm trọng nhất. Tuy nhiên, xét về góc độ phân tử, khí mê-tan (CH4) và ni-
hơn. Tính đến năm 2025, sẽ có 15-20 triệu hec-ta trong tổng tơ oxit (N2O) có tác động lần lượt gấp 23-25 và 310 lần trong
số 79 triệu hec-ta diện tích trồng lúa cần được tưới tiêu (cung việc làm nóng bầu khí quyển so với khí CO2, theo đánh giá của
cấp ¾ tổng nguồn cung lúa gạo cho thế giới) sẽ bị khan hiếm U.C

Tỷ lệ nước ngọt trên


Trái Đất phân chia
theo ngành
SINH HOẠT
10%

TƯỚI TIÊU LÚA


24-30% CÔNG NGHIỆP
20%

HOẠT ĐỘNG NÔNG NGHIỆP KHÁC


40%

Nguồn:
Dữ liệu từ IWMI (2007) và WRI (2005).

Nguồn: Igor A. Shiklomanov, Viện Thủy văn bang (St. Petersburg) và UNESCO, Pa-ri, 1999. Trong: Biểu đồ về nguồn nước thiết yếu 2. UNEP/GRID-Arendal.

Nguồn nước khan hiếm: Các nguồn nước ngọt chỉ chiếm khoảng 2,5% tổng lượng nước trên Trái Đất, trong đó chỉ một phần nhỏ được
sử dụng phục vụ con người. Phần lớn được sử dụng phục vụ tưới tiêu trong nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa. Lượng nước phục vụ tưới
tiêu cây lúa lớn gấp 3-5 lần so với lượng nước tưới tiêu lúa mì hoặc ngô. Khi nhu cầu về nước tăng cao (Xem ảnh phân bố nước ở thành
thị Ấn Độ), SRI hiện đã trở thành một cơ hội đầy hứa hẹn trong việc giảm nhu cầu về nước trong nông nghiệp. Theo đó, nước sẽ được sử
dụng phục vụ các mục đích sinh hoạt và môi trường.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 9
KHÁI QUÁT

Theo nhà khoa học Kirk Smith, tính đến năm 2017, cứ 1 tấn
khí CH4 phát thải ở thời điểm hiện nay sẽ tạo ra hiệu ứng làm CẮT GIẢM LƯỢNG PHÁT THẢI MÊ-TAN
nóng Trái Đất cao hơn một tấn khí CO2 phát thải cùng thời
điểm (Xem biểu đồ kế bên). Khí CH4 phát thải từ những hoạt MANG LẠI NHỮNG LỢI ÍCH TRƯỚC MẮT
động nông nghiệp phần lớn bắt nguồn từ những cánh đồng “…gần một nửa lượng phát thải đang làm Trái Đất ấm lên
ngập nước và từ những loài động vật nhai lại chiếm gần một trong 20 năm tới do CO2 gây ra. Khí CH4 và một số khí khác
nửa lượng khí CH4 do con người tạo ra. Khí CH4 được tạo ra như carbon monoxit (CO), các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
do những vi khuẩn kỵ khí trong đất bị mất ôxy do ngập úng và hạt than đen gây ra hầu hết những thay đổi này. Các mô
thường xuyên. Việc tạo cho đất luôn ở trong điều kiện háo hình gần đây đã cho thấy cách thức hiệu quả nhất để hạn
khí giúp giảm một cách đáng kể lượng phát thải khí CH4 chế hiện tượng làm nóng Trái Đất trong thế kỷ 21 là ngay
(Nguyên và đồng sự 2007). Theo một nghiên cứu của Viện lập tức giảm lượng phát thải của những khí này và duy trì
Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, hàng năm lượng phát thải phát thải ở mức thấp. Nguy cơ đe dọa sức khỏe con người
khí CH4 sẽ giảm gần 1/3 nếu tất cả những cánh đồng ngập của những chất gây ô nhiễm không khí này cao hơn tất cả
nước được tháo cạn ít nhất một lần trong suốt mùa vụ và những nguy cơ môi trường và căn bệnh khác, ví dụ như
rơm được vùi vào đất vào cuối vụ (Yan và đồng sự 2009). bệnh sốt rét và bệnh lao. Việc cắt giảm phát thải khí CH4 và
Các phương pháp SRI khuyến khích việc tháo nước khỏi một số chất ô nhiễm tạo ra từ phát thải khí nhà kính khác có
ruộng một vài lần trong toàn vụ. thể giúp bảo vệ sức khỏe con người. Nó này nằm trong khả
Những chuyến nghiên cứu thực địa tại Đại học Nông nghiệp năng của chúng ta và đem lại rất nhiều lợi ích trước mắt.”
Bogor ở In-đô-nê-xi-a đã khẳng định SRI làm giảm đáng kể — Giáo sư Kirk Smith, Khoa Sức khỏe Môi trường toàn
lượng khí CH4 phát thải. Theo những đánh giá về tác động cầu, Đại học California, Theo Berkeley
của hệ thống quản lý SRI về bón phân hữu cơ lên hiệu ứng
phát thải khí nhà kính thì những cánh đồng SRI thí điểm hầu
như không có hiện tượng tăng phát thải N2O (Iswandi 2008).
Nghiên cứu của Trung Quốc được đề cập ở phần trên đã đi
đến kết luận với việc giảm ngập nước trên ruộng và vùi rơm
vào đất ở cuối vụ thì những lợi ích thu được từ giảm phát thải Lượng CH4 phát thải trên toàn cầu
khí CH4 sẽ không dẫn đến việc tăng N2O. Trường Đại học từ các nguồn khác nhau năm 2000
Nông nghiệp Tamil Nadu của Ấn Độ hiện cũng đang nghiên
cứu giảm phát thải khí CH4 từ những cánh đồng áp dụng SRI Lúa Khí tự nhiên
Phân 11% 15%
so với những phương pháp canh tác khác. 4%
Than đá
8%
Dầu
… Phân đạm là “một trong ba nguy cơ 1%

đe dọa lớn nhất đối với hành tinh của Lên men ruột
28%
Rác thải rắn
13%
chúng ta, chỉ sau mất đa dạng sinh
Nước thải
học và Biến đổi khí hậu” Đốt cháy Đốt cháy
10%
sinh khối nhiên liệu Nhiên liệu
— John Lawton, Cựu tổng giám đốc điều hành, 5% sinh học 1%
4%
Hội đồng Nghiên cứu Môi trường Tự nhiên,
Vương quốc Anh Nguồn: Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ
Việc chuyển đổi mô hình canh tác tưới tiêu sang mô hình SRI là
một chiến lược đầy hứa hẹn với chi phí thấp giúp giảm phát thải
SRI CÓ THỂ HẠN CHẾ SỬ DỤNG PHÂN ĐẠM CH4 trên toàn cầu.

Ngành nông nghiệp hiện đại phụ thuộc nhiều vào phân bón Bằng cách áp dụng chất hữu cơ để cải tạo cấu trúc đất, sinh vật
tổng hợp nhằm duy trì sản lượng mùa vụ, đặc biệt là phân đất và thông qua tăng cường tính hiệu quả sử dụng chất dinh
đạm vô cơ. Việc sử dụng phân đạm đã tăng gần 20 lần trong dưỡng (Zhao 2009), nông dân có thể hạn chế sử dụng phân
50 năm qua (Glass 2003), trở thành một trong những tác đạm và cắt giảm chi phí. Trong khi phân đạm trong các nguyên
nhân gây ra phát thải khí N2O và axit nitric, gây ra mưa axit. liệu vô cơ đầu vào có thể gây ra phát thải khí nhà kính, thì hầu
Khoảng một nửa lượng phân đạm được sử dụng trong trồng hết phân đạm được sản xuất có nguồn từ các sản phẩm hóa
lúa, ngô và lúa mì, trong đó trồng lúa chiếm 16%. Chỉ khoảng dầu gián tiếp gây phát thải khí nhà kính trong quá trình sản xuất
30-50% lượng phân đạm dùng trong canh tác cây trồng và vận chuyển; chúng không có tác dụng lâu dài đối với việc cải
được cây hấp thụ. Trong điều kiện ngập nước, lượng phân thiện chất lượng đất. Ngược lại, những nguyên liệu đầu vào
đạm thoát ra ngoài môi trường có thể lên đến 60% (Ghosh hữu cơ hầu như không mất chi phí sản xuất hay vận chuyển và
và Bhat 1998). Các nguồn nước uống ô nhiễm có chứa hàm giúp cải tạo độ màu mỡ của đất về lâu dài.
lượng đạm cao, tích tụ nitrat có thể đầu độc cá và hệ sinh Oxfam hiện đang hỗ trợ việc sử dụng phân đóng dạng viên,
thái biển. được vùi vào trong đất, nhờ vậy giảm thất thoát chất dinh
Nếu xu hướng hiện tại vẫn tiếp diễn, nhu cầu phân đạm dưỡng từ những ruộng lúa vào sông hồ. Dù phương pháp SRI
được dự báo có thể tăng 65% tính đến năm 2050, dẫn đến sử dụng toàn bộ phân hữu cơ hay kết hợp phân hữu cơ và phân
lượng phát thải đạm vào không khí và nguồn nước tăng gấp đạm vô cơ đều làm giảm tổng lượng phát thải khí nhà kính do
đôi (Rashid và đồng sự 2005). Cựu Tổng điều hành Hội việc sử dụng quá tải, sản xuất và vận chuyển trên quãng đường
đồng Nghiên cứu Môi trường Tự nhiên đã so sánh việc gia dài các loại phân hóa học.
tăng sử dụng phân đạm như “ một trong ba nguy cơ lớn nhất
đối với hành tinh của chúng ta, chỉ sau mất đa dạng sinh học
và BĐKH” (Giles 2005).

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


10 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
BÁO CÁO QUỐC GIA

Những kinh nghiệm về SRI:


Báo cáo quốc gia từ
Mali, Việt Nam và Ấn Độ

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 11
BÁO CÁO QUỐC GIA

GIỚI THIỆU CÁC BÁO CÁO QUỐC GIA

D
ù ở Ấn Độ, Mali hay Việt Nam, những hộ gia Mặc dù vậy, những quốc gia này cũng cho thấy sự đa dạng
đình nhỏ, đại diện cho lớp người nghèo trên thế về điều kiện xã hội và hệ sinh thái nông nghiệp mà trong đó
giới mà chúng tôi cùng làm việc, hiện đang đều SRI đang được áp dụng, những lợi ích, cũng như các hạn
phải đối mặt với những thách thức như nhau. chế, phương thức tiếp cận và các chiến lược nhân rộng. Ở
Những thách thức này bao gồm diện tích đất các nước này, chúng tôi cùng những tổ chức đối tác trong
canh tác ít, lợi nhuận thấp do sản lượng thu được không đủ nước đã làm việc tích cực và chặt chẽ với nông dân, vì vậy,
bù lỗ cho chi phí đầu tư mua giống, hóa chất, nợ nần, nguồn những kiến thức về SRI bước đầu đã để lại những ấn tượng
cung nước không đủ hoặc thất thường, đất bị sử dụng quá tích cực với người nông dân và cộng đồng.
tải, mùa màng thất bát do các hiện tượng thời tiết cực đoan,
sâu hại, khó tiếp cận thị trường và thông tin, thiếu hoặc sử
dụng quá tải nguyên liệu đầu vào.
CÁC LỰA CHỌN
Đặt trong bối cảnh cần phải tìm kiếm những giải pháp nhằm Thực tế ở các quốc gia áp dụng SRI cho thấy SRI không
cải thiện đời sống của những hộ gia đình nông thôn dễ chịu phải là một kỹ thuật tập quán. Không mang tính chất áp đặt
tổn thương, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức xã hội như một công thức kỹ thuật, SRI có thể được ví như một
dân sự đã tiến hành nghiên cứu SRI. Africare, Oxfam và thực đơn, bao gồm rất nhiều sự lựa chọn nhằm tăng cường
WWF hiện đang ở những giai đoạn trải nghiệm khác nhau tính hiệu quả của đất canh tác, sức lao động, nước, chất
về thực hành, đánh giá và thúc đẩy mô hình SRI. Africare bắt dinh dưỡng và vốn. Kết quả tối ưu nhất sẽ đạt được nếu
đầu thí điểm SRI trên đồng ruộng tại Timbuktu, Mali năm tuân thủ tất cả các bước do có hiệu ứng hiệp lực giữa các
2007. Tháng 2/2010, cuộc họp cấp quốc gia đầu tiên về SRI bước. Tuy nhiên, người nông dân có thể lựa chọn tuân thủ
đã được tổ chức tại Mali nhằm trình bày kết quả của ba dự tất cả các bước hoặc một số bước mà họ thấy phù hợp và
án tiến hành tại năm trên tổng số tám vùng của Mali, với sự tùy điều kiện thực tế cho phép. Dù triển khai bất kỳ bước nào
tham gia của 450 nông dân. Oxfam đã hỗ trợ ứng dụng SRI thì người nông dân cũng sẽ nhận thấy những tiến bộ rõ rệt
tại khu vực sông Mê-kông từ năm 2003 và nhân rộng cho làm họ phấn khích và khuyến khích các nông dân khác áp
264.000 nông dân Việt Nam và 100.000 nông dân Cam-pu- dụng. Như vậy, những gì được “tăng cường” là kiến thức, kỹ
chia. Trong khi đó, WWF đã tiến hành đánh giá, thúc đẩy các năng và cách thức quản lý, chứ không phải là tăng số lượng
nguyên tắc SRI tại Ấn Độ từ năm 2004,với sự tham gia của nguyên liệu đầu vào trong sản xuất.
hơn 600.000 nông hộ sản xuất quy mô nhỏ thông qua rất Như vậy, chúng ta có thể hiểu được vì sao kết quả thu được
nhiều các sáng kiến của xã hội dân sự, Chính phủ, các không giống nhau ở các quốc gia, và thậm chí kết quả không
trường đại học, cộng đồng và khu vực tư nhân. giống nhau ngay trên những cánh đồng liền kề. Kết quả tùy
Những báo cáo quốc gia được soạn thảo trình bày phần nào thuộc vào đất, khí hậu, những khó khăn của từng địa
về SRI và các tổ chức đang làm việc về SRI. Oxfam hỗ trợ phương, các bước được áp dụng và chất lượng của công
các hoạt động SRI ở khu vực Nam Á và Đông Nam Á. WWF tác quản lý. Điều này giúp lý giải vì sao một số nông dân có
hỗ trợ các hoạt động SRI trên diện rộng tại Ấn Độ, Morocco thể tăng sản lượng lên gấp ba lần trong khi một số người
và hỗ trợ Tanzania trên diện nhỏ hơn. khác bước đầu chỉ có thể tăng sản lượng lên 20%. Thông
Tại Ấn Độ, hiện nay WWF đang hướng đến việc áp dụng thường, nếu người nông dân càng có kỹ năng và tự tin thì
SRI trên những loại cây trồng khác đang “khát” nước như hiệu quả mùa vụ càng cao. Mặc dù lúc đầu cũng có một số
mía và lúa mì. tranh cãi giữa các nhà khoa học đối với những báo cáo về

SRI đã được công nhận tại 40 quốc gia và trong các điều kiện trồng lúa khác nhau. Từ trái qua phải: Rio Grande do Sul ở phía Nam Bra-
xin; Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc gia tại tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc; và người nông dân đầu tiên áp dụng SRI thuộc dự án MWEA ở
Kenya.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


12 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
GIỚI THIỆU BÁO CÁO QUỐC GIA

SRI, tuy nhiên những tranh cãi đã lắng xuống khi những nông trang để có thể tự khôi phục sau các sự cố. Yếu tố này
nghiên cứu khoa học đánh giá tác động của SRI bắt đầu đặc biệt quan trọng trong bối cảnh nhiệt độ và các hiện
được xuất bản trên phạm vi quốc tế, được kiểm chứng và khi tượng bất thường của thời tiết được dự báo sẽ gia tăng
SRI được các cơ quan Chính phủ của các quốc gia có thế trong những thập kỷ tới. Các chiến lược theo báo cáo từ
mạnh về sản xuất lúa gạo như Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, những chương trình ở Cam-pu-chia, Việt Nam, Ấn Độ và
Cam-pu-chia và Việt Nam ủng hộ dựa trên những đánh giá Mali và theo quan sát ở một số quốc gia khác sẽ được tóm
và kinh nghiệm thực tiễn về SRI. tắt ở trang 14.

Tầm quan trọng của SRI không chỉ ở YÊU CẨU ĐÒI HỎI VÀ CHI PHÍ
chỗ giúp nông dân tăng sản lượng, SRI hiện đang được liên tục cải thiện và sự sáng tạo của
giảm lượng nước mà còn ở những lợi người nông dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Các thực
hành về tuổi mạ và mật độ cấy, quản lý nguồn nước, quản lý
ích xã hội và môi trường mà SRI sâu bệnh và các lựa chọn sử dụng phân bón được áp dụng
mang lại tùy vào điều kiện của từng địa phương và tùy mùa vụ. Mặc
dù, SRI có thể áp dụng được trong rất nhiều các điều kiện và
các hệ thống cây trồng khác nhau nhưng người nông dân
Vẫn còn tồn tại một số ý kiến xung quanh vấn đề liệu SRI có vẫn gặp một số cản trở khi tiếp thu những kỹ thuật và tiến bộ
thể làm được điều mà các nhà khoa học vẫn gọi là “cách mới. Những khó khăn có thể kế đến như thiếu hệ thống thoát
quản lý tối ưu” hay không do các kết quả thu được không nước và kiểm soát nguồn nước tốt, nguồn lực lao động
nhất quán. Tuy nhiên, không nên so sánh SRI với những không sẵn có, đặc biệt trong giai đoạn học hỏi những kiến
biện pháp canh tác chi phí cao, đòi hỏi đầu vào lớn vì những thức mới về SRI, mạ non dễ bị tổn thương, không có đủ phân
phương pháp này nằm ngoài khả năng của những nông dân hữu cơ bón cho ruộng, không thể tiếp cận được các công cụ
nghèo, những người cần tăng hiệu quả sản xuất lên mức như dụng cụ làm cỏ, dụng cụ đánh dấu và hơn nữa nông dân
cao nhất dựa vào những nguồn lực rất hạn chế về đất đai, còn rất e dè trong việc chuyển đổi từ canh tác tập quán sang
sức lao động, vốn và nước tưới. những phương pháp được giới thiệu trong các chương trình
khuyến nông. Một số khó khăn có thể được khắc phục nhờ
học hỏi, thực hành thêm hoặc tiếp cận với những công cụ,
KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG VỚI BĐKH CỦA trong khi đó, một số khó khăn khác có thể được khắc phục
CÁC HỘ GIA ĐÌNH ĐƯỢC CẢI THIỆN nhờ những cải thiện về môi trường chính sách và thể chế tạo
điều kiện cho SRI được nhân rộng ra cả vùng và toàn bộ
Tầm quan trọng của SRI không chỉ ở chỗ giúp nông dân tăng châu thổ.
sản lượng đồng thời giảm lượng nước mà SRI còn mang lại
những lợi ích xã hội và môi trường. Nên lưu ý là phương Trong giai đoạn đầu, các bước SRI có thể đòi hỏi nhiều sức
pháp này mang tính linh hoạt cao. Nông dân có thể áp dụng lao động hơn – chủ yếu cho công đoạn làm đất và làm cỏ.
các bước tùy thuộc vào hoàn cảnh thực tế và tùy theo kỹ Hầu hết các nông dân áp dụng SRI nhận thấy rằng nhờ nắm
năng cũng như kiến thức mà họ tiếp thu được. Các phương bắt được kỹ năng và kỹ thuật nên hiệu quả công việc của họ
pháp có thể áp dụng cho mọi giống lúa và trên các đồng được cải thiện và việc áp dụng SRI thực sự tiết kiệm được
ruộng có diện tích khác nhau, từ quy mô nhỏ đến lớn. Tuy sức lao động. Ví dụ, ở Cam-pu-chia và Việt Nam, phụ nữ đã
nhiên, các phương pháp được thiết kế đặc biệt phù hợp với ghi nhận việc tiết kiệm sức lao động trong giai đoạn cấy là
nhu cầu của các hộ gia đình hạn chế về các nguồn lực và một điểm mạnh của SRI. Việc nhân rộng SRI khuyến khích
chủ yếu phụ thuộc vào các thửa ruộng diện tích nhỏ. Vì vậy, những sáng kiến và đánh giá của nông dân. SRI khuyến
các phương pháp SRI về căn bản vì người nghèo. khích nông dân có trách nhiệm hơn với việc thích ứng và đổi
mới, đóng góp cho sự phát triển nguồn nhân lực ở các khu
Các hộ nông dân nghèo có nguồn lực tài chính hạn hẹp và vực nông thôn và giúp nông dân nhận biết và sử dụng một
không có nhiều sự lựa chọn hiện đang chịu áp lực lớn để duy cách tốt hơn những tiến bộ khác.
trì nguồn thu nhập ít ỏi và họ hầu như không được trang bị để
ứng phó với những biến động giá cả của nguyên liệu đầu Những độc giả ở các quốc gia khác quan tâm đến các hoạt
vào và rất khó phục hồi khi mùa màng thất bát hay gia súc động SRI, về các khía cạnh liên quan đến nghiên cứu và
chết. SRI và các lợi ích của nó trang bị cho người nông dân khoa học có thể tham khảo các bài báo và các nguồn tư liệu
những chiến lược tự quản lý rủi ro, năng lực và các hệ thống khác trong phần Phụ lục.

So sánh sản lượng thu được giữa phương pháp SRI


và phương pháp tập quán – Nông dân ở Baghlan
Baghlan - SRI

Baghlan - phương pháp tập quán


Tấn/ha

Số thứ tự nông dân


Phương pháp SRI đã đem lại hiệu quả tại rất nhiều địa phương nơi người dân đang dần hồi phục sau các cuộc bạo động và thảm họa thiên tai.
Tại miền Bắc Afghanistan, Tổ chức Aga Khan hiện đang giới thiệu SRI trong những điều kiện rất khó khăn. Trong năm 2009, đối chiếu những
kết quả thu được từ 27 nông dân cho thấy sản lượng đạt được đã tăng một cách đáng kể (Theo Thomas và Ramzi, 2009).

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 13
BÁO CÁO QUỐC GIA GIỚI THIỆU

SRI tăng cường khả năng phục hồi và thích ứng của hộ nông dân
trước Biến đổi khí hậu

Những lợi ích được báo cáo và công nhận Tăng cường khả năng phục hồi và thích ứng với BĐKH
Sản lượng lúa gạo bình quân tăng 20%-50%, thậm chí còn cao hơn, không những giúp
Sản lượng cao hơn tính theo một đơn vị diện tạo ra nhiều lương thực hơn mà còn giải phóng đất và sức lao động cho các hoạt động
tích đất, công lao động và vốn đầu tư sản xuất khác. Năng suất cao hơn trên mỗi đơn vị diện tích đất làm giảm áp lực mở rộng
diện tích canh tác gây ảnh hưởng tới các hệ sinh thái khác
Phụ nữ ghi nhận phương pháp SRI giúp họ tiết kiệm được thời gian và bớt đi nỗi vất vả
cực nhọc cấy trồng do họ mất ít thời gian hơn cho công việc chăm sóc và cấy mạ non,
Giảm gánh nặng công việc của người phụ nữ việc cấy mạ non cũng dễ dàng hơn và mất ít thời gian tát nước hơn. SRI giúp phụ nữ có
thêm thời gian cho công việc khác như trồng rau để cải thiện bữa ăn trong gia đình và
tạo điều kiện cho các thành viên khác trong gia đình tìm kiếm công việc phi nông nghiệp
khác. Như vậy, SRI giúp đa dạng hoá nguồn thu nhập của hộ nông dân.

Áp dụng SRI, nhu cầu nước tưới giảm từ 25-50% do nước chỉ được tưới để duy trì điều
kiện đất thoáng khí. Nông dân có thể tiến hành canh tác lúa ở cả những khu vực ngày
Giảm nhu cầu nước tưới càng khan hiếm nước hoặc khó dự báo chế độ mưa. Nông dân có thể giảm thất bát mùa
màng do mùa mưa đến muộn hoặc lượng mưa ít. Nhu cầu nước ít hơn đồng nghĩa với
việc nông dân sẽ có nhiều nước sử dụng hơn. Nước có thể được sử dụng để tưới cho
các loại cây trồng khác, phục vụ nhu cầu con người và duy trì các hệ sinh thái tự nhiên.

Nhờ giảm được 80-90% giống nên người nông dân cần ít diện tích đất hơn để gieo mạ.
Mạ cấy bình thường với tỷ lệ 50-70kg/ha trong khi đó mạ cấy theo phương pháp SRI
Giảm tỷ lệ giống với tỷ lệ chỉ 5-7kg/ha, giúp nông dân có thêm gạo để ăn thay vì để dành làm giống.
Những đám đất gieo mạ nhỏ nên rất dễ quản lý và tiết kiệm diện tích đất.

Giảm sự phụ thuộc vào phân hoá học, thuốc Chi phí phân bón và nguyên liệu đầu vào cao là một trong những nguyên nhân khiến
diệt cỏ và thuốc trừ sâu người nông dân quan tâm đến SRI do SRI giúp họ hạn chế sử dụng các hoá chất mà
không làm giảm sản lượng. Lượng hoá chất sử dụng giảm cũng mang lại những lợi ích
về sức khoẻ cho người nông dân và gia súc. Lượng hoá chất sử dụng giảm kết hợp với
chất lượng đất và nước được cải thiện tạo ra những ảnh hưởng tích cực đối với môi
trường.

Tăng cường khả năng chống chịu trước ảnh BĐKH hiện nay đang gây ra những cơn bão thường xuyên với sức tàn phá mạnh hơn,
gây thiệt hại cho cây lúa. Đây thực sự là một thảm hoạ với người nông dân. Cây lúa bị
hưởng của mưa bão (cũng như các đợt rét)
đổ gãy rất dễ bị thối mục và gây khó khăn cho việc gặt. Các phương pháp SRI giúp cây
lúa có bộ rễ ăn sâu và khoẻ hơn, khó bị gãy rạp và đổ.

Tăng khả năng kháng chịu sâu bệnh BĐKH cũng là tác nhân làm gia tăng sự hoành hành của các loài sâu bệnh do nhiệt độ
tăng cao và lượng mưa thay đổi. Theo cách thức quản lý của SRI, mùa màng sẽ ít thiệt
hại vì sâu bệnh mặc dù sử dụng ít hoá chất hơn.
Cây lúa SRI có bộ rễ ăn sâu vào lòng đất. Ở độ sâu lớn hơn, cây có thể lấy được độ ẩm
Tăng cường khả năng chống chịu với hạn hán và chất dinh dưỡng tốt hơn từ đất. Đặc điểm này đóng vai trò rất quan trọng khi nguy cơ
lượng mưa thay đổi ngày càng tăng trong suốt cả mùa vụ như hiện nay.
Với cùng một giống lúa SRI có thể gặt sớm hơn 1-2 tuần, thậm chí 3 tuần so với lúa
Mùa vụ ngắn hơn trồng theo phương pháp tập quán. Điều này vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa mang lại
lợi ích cho môi trường. Nông dân có thể sử dụng ruộng để trồng các cây ngắn ngày như
rau, hoặc có thể trồng gối vụ lúa mì sớm hơn và cho sản lượng cao hơn. Mùa vụ ngắn
hơn giúp giảm nhu cầu về nước, giảm nguy cơ sâu bệnh và nguy cơ bị tan phá bởi mưa
bão thường xảy ra vào cuối vụ.
Nếu cây trồng có khả năng chống chọi tốt với các điều kiện bất lợi của thời tiết thì nông
Tốn ít giống và giảm thời gian gieo mạ giúp tạo dân sẽ dễ dàng tìm giống và gieo lại mạ vì SRI chỉ đòi hỏi bằng 1/10 lượng giống và mạ
ra sự linh hoạt có thể được cấy sau 8-15 ngày, thay vì 30-45 ngày so với cấy tập quán. Nếu nông dân
phải đi xa kiếm việc làm thêm thì họ có thể đi sớm hơn sau khi cấy mạ xong, và nếu gặp
rủi ro phải cấy lại thì họ chỉ cần ít thời gian để ở lại nhà.

Áp dụng SRI, nông dân có thể thu được sản lượng cao hơn từ những giống lúa truyền
thống, hầu hết các giống này mang đặc tính di truyền thích ứng tốt hơn với BĐKH. Các
Tăng sản lượng và tiềm năng thị trường của giống địa phương thường có giá cao hơn trên thị trường. Đa dạng sinh học giống lúa
các giống lúa truyền thống giúp các giống lúa đã giảm mạnh từ những năm 1960. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã cho thấy rất nhiều các
này có thể tồn tại giống truyền thống chứa hàm lượng sắt và prô-tê-in cao hơn. Việc cải tạo và bảo tồn
các giống cây trồng vật nuôi có thể tạo ra đa dạng di truyền nhằm ứng phó với những
điều kiện nuôi trồng bất lợi và duy trì tính bền vững của các hệ thống canh tác

Việc nhân rộng các mô hình về SRI thúc đẩy nông dân sáng tạo và tự đánh giá. SRI
Nâng cao kiến thức, kỹ năng thử nghiệm và khuyến khích nông dân có trách nhiệm hơn với việc thích ứng và sáng tạo, góp phần
tính sáng tạo của nông dân phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn và giúp nông dân có thể phát hiện và khai thác
những sáng kiến khác.

Với sản lượng thu được cao tính trên 1 đơn vị diện tích đất trồng trọt, nhiều nông dân đã
sử dụng một phần diện tích đất để trồng thêm một số loại cây khác giàu chất dinh dưỡng
Nâng cao kiến thức, kỹ năng thử nghiệm và và cho lợi nhuận cao như hoa quả, rau, đậu, nuôi thả gia súc, cải thiện bữa ăn và tạo
tính sáng tạo của nông dân thêm thu nhập. Việc cắt giảm sử dụng hoá chất làm cho hệ thống canh tác thích hợp
hơn với việc nuôi cá, nuôi gà vịt. Các hệ thống cây trồng được đa dạng giúp bảo vệ đa
dạng sinh học và tích tụ các-bon vào trong đất.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


14 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
GIỚI THIỆU BÁO CÁO QUỐC GIA

SRI làm vơi đi nỗi vất vả trong


việc cấy trồng lúa của người
phụ nữ. Làm việc trên những
mảnh đất gieo mạ nhỏ hơn, ít
mạ hơn với các công cụ tiết
kiệm lao động đã giúp họ có
thêm thời gian cho những hoạt
động khác. SRI cũng giúp phụ
nữ thoát cảnh ngâm nước hoặc
cúi khom lưng hàng giờ liền,
gây ảnh hưởng không tốt tới
sức khoẻ của họ.

Nhờ áp dụng SRI, nhiều nông dân có thể tăng thu nhập cho gia
đình do bán lúa ở thị trường trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là
các giống lúa truyền thống, nhờ vậy mà thúc đẩy việc bảo tồn đa
dạng sinh học giống lúa . Lotus Foods, một công ty ở California,
Hoa Kỳ hiện đang nhập khẩu gạo sản xuất theo phương pháp
SRI của các nông dân ở Cam-pu-chia, In-đô-nê-xi-a và
Madagascar. Các ảnh trên: Đồng Chủ tịch của công ty, ông Ken
Lee đang kiểm định chất lượng gạo tại Cam-pu-chia; Gạo SRI
Lúa SRI có bộ rễ khoẻ và bám sâu hơn vào lòng đất giúp của In-đô-nê-xi-a được cấp chứng nhận Tốt cho Cuộc sống; và
chúng chống chịu tốt hơn với gió bão. Đây là hình ảnh trưng bày các sản phẩm gạo SRI tại Hội chợ Thương mại năm
cánh đồng lúa của thôn Đông Trù, phía bắc Hà Nội sau 2009.
một trận bão. Cánh đồng SRI ở bên trái, cánh đồng canh
tác tập quán ở bên phải

SRI khuyến khích nông dân


sáng tạo và khuyến khích sự
phát triển của những doanh
nghiệp nhỏ. Đây là ví dụ về
việc sáng chế ra dụng cụ làm
cỏ, dụng cụ này có thể làm
cỏ hai hàng cùng một lúc và
có thể điều chỉnh cho phù
Với cùng một giống lúa, lúa SRI thường có thể thu hoạch hợp với khoảng cách giữa
sớm hơn trước một vài tuần so với lúa trồng tập quán. Ở hai hàng.
Mali có thể thấy lúa SRI (bên phải) chín sớm hơn lúa trồng
theo truyền thống (bên trái). Hai cánh đồng trồng cùng
một giống lúa, được cấy cùng một ngày. Mùa vụ ngắn hơn
đem lại một số lợi ích: nhu cầu tưới tiêu ít hơn nhờ vậy mà
giảm được lượng nước và chi phí bơm nước; thời gian cho
thu hoạch ngắn hơn cho phép người nông dân chuyển sang
các giống dài ngày hơn, cho năng suất cao hơn.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 15
BÁO CÁO QUỐC GIA

KINH NGHIỆM LÀM SRI CỦA AFRICARE TẠI MALI

A
fricare bắt đầu hoạt động tại Mali từ năm 1973, CÁCH TIẾP CẬN: NÔNG DÂN LÀM CHỦ
làm việc với cộng đồng nhằm tăng sản lượng
lương thực và thu nhập cho người dân nông Dựa trên những kết quả khả quan trên, tổ chức Better U
thôn, cải thiện sức khoẻ, điều kiện dinh dưỡng Foundation (BUF) đã tài trợ cho Africare để tiến hành đánh
và quản lý tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài giá hiệu quả SRI trên diện rộng hơn trong vụ mùa năm 2008-
nguyên nước. 2009 nhằm:
Từ năm 1997, Africare tập trung nỗ lực triển khai Chương Ÿ Thu thập thông tin về việc triển khai SRI tại các cánh
trình an ninh lương thực tổng hợp tại Timbuktu. Vùng đất đồng trong khu vực
khô cằn giáp sa mạc Sahara này là một trong những khu vực Ÿ Nâng cao nhận thức cơ bản về SRI tại các khu vực trồng
bất ổn lương thực nhất tại Mali. Lượng mưa trung bình hàng lúa của Timbuktu
năm chỉ khoảng 150-200 mm. Vì thế sản xuất nông nghiệp Ÿ Xác định tiềm năng cho việc nhân rộng mô hình SRI tại
phụ thuộc nhiều vào lưu lượng nước của con sông Niger và Timbuktu và trên toàn Mali
lượng nước lũ lên theo mùa của các nhánh sông và ao hồ.
Theo truyền thống, nông dân sử dụng nước lũ hàng năm để Africare đã lựa chọn 12 thôn tại Dire và Goundam mà tổ
tiến hành canh tác trên các bãi bồi khi nước lũ rút hoặc canh chức đã hợp tác trong suốt 5-10 năm qua và có đặc điểm địa
tác lúa nước sâu ngay trong mùa lũ. Phạm vi của lũ quyết lý khác nhau. 12 thôn đã được lựa chọn tham gia thông qua
định diện tích đất canh tác hàng năm. Phạm vi lũ thay đổi bỏ phiếu và mỗi thôn có năm nông dân tự nguyện tham gia
thường xuyên làm cho sản xuất nông nghiệp không bền đánh giá SRI. Diện tích canh tác lúa của 12 thôn khoảng hơn
vững. Sản lượng thường rất thấp, chưa đến 1 tấn/ha, tính cả 1.900 hec-ta, chiếm hơn 10% tổng diện tích trồng lúa ở
lúa gạo và lúa miến. Timbuktu, bao gồm gần 17.200 hộ trồng lúa.
Cây lúa có vai trò quan trọng trong chiến lược vùng cũng
như đối với toàn bộ quốc gia này. Lúa gạo hiện ngày càng
được cư dân thành thị ưa chuộng thay vì lúa miến, kê và
cũng được ưa chuộng ngay tại các vùng nông thôn nơi sản
xuất ra sản phẩm này. Luợng tiêu dùng hàng năm tính theo
đầu người đã tăng gấp ba lần trong 20 năm qua, từ 34kg/
người/ năm lên 94kg/ người/ năm. Để tăng sản lượng, diện
tích tưới tiêu đã được mở rộng, giúp nông dân tăng năng
suất lên 4-6 tấn/ha.
Africare đã làm việc với những nông dân để xây dựng các
mô hình thủy lợi nhỏ, mỗi mô hình khoảng 30-35 ha, được
tưới tiêu bằng một máy bơm chạy động cơ điêzen. Tuy
nhiên, trong các mô hình này, 80-100 nông dân phải chung
nhau một khu ruộng được tưới tiêu. Diện tích canh tác được
tưới tiêu cho mỗi hộ gia đình khoảng 1/3 ha. Việc tăng sản
lượng lên tối đa và sử dụng một cách tối ưu nhất đầu vào
trong đó có tài nguyên nước trên những cánh đồng diện tích Trên các ruộng mạ truyền thống (ảnh phía trên bên trái), phụ
nhỏ này có vai trò cực kỳ quan trọng trong công tác giảm nữ ngồi ngâm trong nước hàng giờ để nhổ mạ, điều này rất
nghèo. không tốt cho sức khỏe. Rễ mạ sau đó được rửa sạch và rũ bỏ
đất bám xung quanh rễ trước khi mạ được bọc lại và đem ra
ruộng. Mạ SRI (ảnh bên phải) được xúc một cách nhẹ nhàng
GIỚI THIỆU SRI bằng cuốc và vận chuyển mạ ra đồng trở thành “trò chơi của
trẻ con”
Chương trình Sáng kiến An ninh Lượng thực Goundam
được Africare triển khai với nguồn tài trợ của tổ chức USAID
đã tiến hành thí điểm SRI lần đầu tiên vào năm 2007 nhằm
đánh giá hiệu quả mô hình SRI so với các phương pháp
canh tác tập quán khác tại Timbuktu, đồng thời đánh giá tác
động tiềm năng của SRI đối với vấn đề an ninh lương thực.
Các cố vấn kỹ thuật của SRI đã chọn lựa các nguyên tắc và
các bước tiến hành SRI để đưa vào thử nghiệm. Hộ gia đình
ông Imam ở làng Douegoussou, trưởng làng và đồng thời là
nông dân đầu tiên thử nghiệm mô hình trên ruộng nhà mình,
tự bỏ công lao động và các nguyên liệu đầu vào. Các bước
bao gồm cấy mạ non một dảnh/khóm mắt sàng vuông 25
cen-ti-met, bón phân hữu cơ đã cho ra sản lượng 9 tấn/ha
trong khi sản lượng cao nhất từng đạt được trước đây là 6,7
tấn/ha.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


16 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
AFRICARE BÁO CÁO QUỐC GIA

Sản lượng bình quân trên các thửa


ruộng SRI cao hơn 66% so với các thửa
ruộng đối chứng (Xem biểu đồ). Mặc dù
phương pháp SRI giúp tiết kiệm được
3,5-5 lần giống trong giai đoạn cấy, một
dảnh mạ SRI trung bình cho ra hơn 50%
nhánh so với cấy 3 dảnh trong các ô
ruộng đối chứng. Khi thu hoạch, số
lượng bông lúa SRI trên mỗi mét vuông
cao hơn 31% so với các ruộng đối
chứng. Ảnh bên: anh Bouba Boureima,
Ruộng SRI
một nông dân ở làng Morikoira đang
Ruộng đối chứng cầm một khóm lúa 3-4 bông ở ruộng đối
chứng (bên trái) và một khóm lúa SRI
Số nông dân (bên phải).

Africare cung cấp cho mỗi thôn một dụng cụ làm cỏ (một loại nhuận ròng mà các nông dân thu được từ SRI là 1 triệu
dụng cụ đơn giản mà trước đây chưa được biết đến tại CFA/ha (tương đương 2.220 đô la Mỹ) trong khi đó lợi nhuận
những thôn này) và hỗ trợ kỹ thuật cho họ. Cứ 15 nông dân ròng của các ruộng mẫu là 490.000 CFA/ha (tương đương
lại có một người hướng dẫn cách thức áp dụng các bước 1.089 đô la Mỹ) (Xem Bảng chi tiết trang 18).
SRI. Lãnh đạo phụ trách nông nghiệp tại Goundam đảm bảo Nông dân rất hưởng ứng phương pháp SRI và chỉ ra hàng
những số liệu được thu thập theo đúng nguyên tắc. Các loạt các lợi ích của phương pháp này như: sản lượng tăng,
nông dân tình nguyện đã đi thăm ruộng của nhau cũng như giảm giống, tiết kiệm thời gian làm cỏ (dùng dụng cụ cào cỏ
mời những người muốn học hỏi về SRI đến thăm ruộng của thủ công), lúa sinh trưởng nhanh hơn, chất lượng tốt hơn.
mình. Họ cũng tham gia vào các cuộc đánh giá do Africare tổ Phương pháp SRI chỉ mất 6kg hạt giống/ha trong khi đó các
chức, đề xuất các khuyến nghị và tham gia xây dựng giáo ruộng mẫu mất 40-60 kg hạt giống/ha. Việc tăng cường bón
trình tập huấn về SRI. phân chuồng giúp giảm 30% lượng phân hóa học. Các thửa
Nông dân tự lựa chọn kích thước thửa ruộng, giống lúa, ruộng SRI có thể cho thu hoạch sớm hơn từ 10-15 ngày so
phân bón và tự lo các nguyên liệu đầu vào. Các thửa ruộng với các ruộng đối chứng, cho phép nông dân tránh được ảnh
gieo mạ SRI và các thửa ruộng đối chứng (trung bình hưởng của mùa đông lạnh giá và chuyển từ các loại giống
khoảng 400 m2) được gieo cùng một loại giống vào cùng ngắn ngày cho sản lượng thấp sang các loại giống dài ngày
một ngày. Mạ non được cấy 10-12 ngày sau khi hạt nảy cho sản lượng cao hơn, như giống BG90-2. Nông dân ở các
mầm, cấy một dảnh. Trên các thửa ruộng đối chứng, mạ non làng Adina, Niambourgou và Donghoi thường phải hứng
được cấy trung bình khoảng 29 ngày sau khi hạt nảy mầm, chịu một đợt không khí lạnh vào thời điểm cuối vụ. Trong khi
cấy 2-5 dảnh. Do việc phân bổ nước được xây dựng trước lúa SRI đã ở giai đoạn trĩu hạt thì lúa ở ruộng đối chứng vẫn
theo kế hoạch tưới tiêu nên việc tiết kiệm nước không thực chưa đẻ nhánh. Thêm vào đó, ở Niambourgou và Donghoi,
sự tối ưu. các đàn chim di cư thường đến vào cuối vụ, gây tổn thất lớn
Ngành nông nghiệp đã đưa ra khuyến nghị nên bón 200kg cho mùa màng.
phân urê cho mỗi hec-ta lúa. Các nông dân áp dụng SRI
được khuyến cáo chỉ nên bón phân hóa học trong trường
hợp thực sự cần thiết, và nên hạn chế tối đa việc sử dụng Năng suất tăng và các lợi ích kinh tế
phân bón.Tất cả các nông dân áp dụng SRI đã bón phân của SRI đã được ghi nhận ở cả 12
chuồng và giảm lượng phân urê xuống mức 120kg/ha so
với 145 kg/ha trên các ruộng đối chứng. thôn.

NĂNG SUẤT CAO HƠN, Mặc dù nông dân có đề cập đến một số khó khăn như công
lao động tăng cho việc làm đất và học kỹ năng cấy nhưng
THU NHẬP TỐT HƠN nhìn chung họ không nhận thấy điểm bất lợi nào của SRI.
Người ta hy vọng rằng nông dân sẽ giảm được thời gian cấy
Năng suất tăng cùng với các lợi ích kinh tế của SRI đã được một khi họ đã quen cấy mạ non và cấy mạ vuông mắt sàng.
ghi nhận ở cả 12 thôn. Việc áp dụng SRI còn tùy thuộc vào
loại đất, loại giống, chế độ phân bón và làm cỏ. 53 nông dân
áp dụng SRI đã thu được năng suất bình quân 9,1 tấn/ha, CÁC BÀI HỌC
cao hơn 66% so với năng suất bình quân thu được trên các
ruộng đối chứng (5,5 tấn/ha). Năng suất bình quân trên các Tại Mali, những kết quả đạt được nhờ áp dụng SRI đã làm
ruộng liền kề của các nông dân không áp dụng SRI là 4,86 các kỹ thuật viên và nông dân thực sự ngạc nhiên. Rất nhiều
tấn/ha. chỉ dẫn có phần khác với những lý thuyết do các viện nghiên
Chi phí đầu vào trên mỗi hec-ta khi áp dụng phương pháp cứu và kỹ thuật đưa ra và cũng có phần khác với những nếp
SRI có cao hơn một chút. Đó là các chi phí cho công làm đất, nghĩ hiện nay của nông dân. Ví dụ, nông dân ở Mali cho rằng
cấy và làm phân chuồng. Hầu hết nông dân áp dụng SRI cánh đồng càng ngập nước thì lúa càng cho sản lượng cao.
không mua phân bón mà thu gom và tự vận chuyển phân Các cán bộ khuyến nông và nông dân tin rằng việc sử dụng
đến các cánh đồng. Các tính toán trên dựa vào giá cả và chi nhiều phân hóa học sẽ giúp thu được kết quả tốt hơn. Việc
phí do nông dân thông báo. Do lợi nhuận thu về của SRI cao nhân rộng mô hình trong tương lai sẽ phải giải quyết những
gấp 2,1 lần so với các ruộng đối chứng nên nhìn tổng thể lợi sai lệch trong nếp nghĩ truyền thống này.
nhuận vẫn cao hơn. Tính theo giá thị trường hiện nay, lợi

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 17
COUNTRY REPORTS
BÁO CÁO QUỐC GIA AFRICARE

Chi phí, giá trị sản xuất, lợi tức thu được từ ruộng SRI, ruộng đối chứng và ruộng của nông dân (trên mỗi hec-ta)

ĐẦU VÀO SRI Ruộng Ruộng SRI Ruộng Ruộng


mẫu đối chứng đối chứng nông dân
Tưới tiêu (ga, dầu) 90% 100% 100% 99.000 (21) 110.000 (27) 110.000 (29)
Chi phí máy bơm 90% 100% 100% 40.500 (8) 45.000 (11) 45.000 (12)
Gióng (kg) 6 50 50 2.280 (0,5) 19.000 (5) 19.000 (5) ii) Cải thiện các kỹ thuật làm đất
Ure (kg) 120 145 97 42.000 (9) 50.750 (12) 33.950 (9) thông qua việc giới thiệu và
DAP (kg) 8 34 20 2.800 (0,5) 11.900 (3) 7.000 (2)
thử nghiệm các loại máy san
ủi đất và máy đánh luống.
Phân chuồng (tấn) 13 3 0 39.000 (8) 9.000 (2) 0
Công lao động (người ngày)* 251 169 161 251.000 (53) 169.000 (41) 161.000 (43) iii) Đánh giá các bước ứng dụng
SRI trên các loại giống lúa và
giống cây trồng khác, ví dụ
Tổng chi phí đầu vào 476.580 (100) 414.650 (100) 375.950 (100)
giống lúa truyền thống Oryza
SẢN LƯỢNG/ha 9,1 tấn 5,49 tấn 4,86 tấn 1.501.500 CFA 905.850 CFA 801.900 CFA glaberrima của châu Phi và
LỢI NHUẬN RÒNG/ha 1.024.920 CFA 491.200 CFA 425.950 CFA các loại giống mới như
Chi phí sản xuất/kg 52 CFA 76 CFA 77 CFA Nerica;
Chi phí đầu vào 32% 46% 47% iv) Thử nghiệm các chế độ tưới
tính theo % giá trị sản xuất tiêu khác nhau nhằm đưa ra
các khuyến cáo kỹ thuật đáng
FP = Nông dân canh tác, nguyên liệu đầu vào thấp hơn so với các thửa ruộng mẫuđược đánh giá là canh tác tốt nhất
* Làm đất: SRI - 40% máy kéo, 60% làm bằng tay; Ruộng mẫu - 33% máy kéo, 15% làm bằng tay, 52% không cày, tin cậy cho vùng Timbuktu và
Ruộng nông dân - 20% máy kéo, 80% không cày. các địa phương khác ở Mali.
Ghi chú: Nông dân chưa quen áp dụng SRI trong vụ đầu tiên; họ cho rằng kết quả sẽ được cải thiện ở những vụ sau.

Các nông dân tham gia vào việc đánh giá SRI trên cơ sở CÁC BƯỚC TIẾP THEO
hoàn toàn tình nguyện. Họ tự lo các chi phí đầu vào trong khi
ở các chương trình khác, khi tiến hành các cuộc thử nghiệm Tính đến năm 2009, trong vòng 3 năm với sự hỗ trợ của tổ
thì phải cung cấp giống và phân bón miễn phí cho nông dân. chức BUF và AUSAID, Africare đã giúp 300 nông dân tiếp
Do nông dân phải tự chịu trách nhiệm đối với hoạt động cận với SRI tại Timbuktu. Trong năm 2009, tổ chức AUSAID
quản lý mùa vụ nên những kết quả đạt được phản ảnh đúng đã tài trợ cho dự án Các sáng kiến cho tăng trưởng kinh tế ở
thực trạng và điều kiện của họ. Khi tiếp thu những sáng kiến Mali (IICEM) để nhân rộng mô hình SRI trên địa bàn 04 tỉnh
SRI và những kết quả qua việc nhân rộng có chất lượng và nữa. Quỹ nông nghiệp bền vững Syngenta hiện đang hỗ trợ
trực tiếp tham gia vào công việc tính toán, đánh giá, các Viện Kinh tế Nông thôn Mali trong việc đưa mô hình SRI trở
nông dân và kỹ thuật viên tỏ ra cởi mở hơn trước những ý thành một vùng trồng lúa chủ đạo trên cả nước
tưởng mới, quan sát rộng hơn và xem xét lại các nếp suy
nghĩ trước đây của mình.
Những hỗ trợ kỹ thuật có chất lượng cao rất cần thiết trong Việc áp dụng SRI đòi hỏi ít nguyên
việc giúp nông dân hiểu một các triệt để các nguyên tắc SRI liệu, không quá tốn kém ngoài chi phí
và sau đó có thể tự tin tiến hành. Các kỹ thuật viên cần có
kiến thức chuyên sâu chắc chắn để hỗ trợ nông dân. Việc cho các nghiên cứu ở địa phương,
soạn thảo và phổ biến các tài liệu kỹ thuật đóng một vai trò nhân rộng mô hình và tạo cơ hội cho
quan trọng trong việc hỗ trợ này vì đó là các tư liệu tốt thu
thập được (làm cùng với nông dân thay vì làm cho nông những sáng kiến mới tại cơ sở.
dân) nhằm thông báo cho họ biết về những quyết định của
họ cũng như các hoạt động mở rộng, nghiên cứu và chính
sách. Khó khăn trước mắt là phải thiết kế và nhân rộng mô hình
phù hợp để SRI có thể đến được với nông dân trên cả nước.
Các lớp tập huấn nên bao gồm cả nam giới và phụ nữ vì phụ Người ta hy vọng rằng nếu nông dân tiếp tục nhận được sự
nữ thường chỉ tham gia vào một số khâu nhất định trong sản hỗ trợ về kỹ thuật và mô hình được mở rộng một cách thống
xuất truyền thống. Một trong những kết quả đáng lưu ý trong nhất thì SRI, một phương pháp có căn cứ và dựa vào kiến
hoạt động đánh giá năm 2009 là một nhóm phụ nữ nông dân thức sẽ nhanh chóng được nhân rộng và được nông dân
đã tự tiến hành các bước SRI và đạt được những kết quả rất trồng lúa ở Mali tiếp nhận. Việc áp dụng SRI đòi hỏi ít nguyên
tốt (Xem ảnh: Phụ nữ ở Findoukaina áp dụng SRI). liệu, không quá tốn kém ngoài chi phí cho các nghiên cứu ở
Để SRI thích ứng tốt hơn trong điều kiện thực tế ở Mali và địa phương, nhân rộng mô hình và tạo cơ hội cho những
cải thiện tính khả thi về mặt kỹ thuật giúp nông dân có thể sáng kiến mới tại cơ sở.
mở rộng diện tích áp dụng SRI cần phải tiếp tục đẩy mạnh Tác động về vấn đề an ninh lượng thực là cực kỳ quan trọng
các hoạt động sau: đối với những nông dân áp dụng SRI nói riêng cũng như với
i) Đầu tư cho các hệ thống sản xuất sinh khối chất lượng Mali nói chung. Mali là một trong những nước sản xuất lúa
cao để làm phân hữu cơ, có thể là các hầm phân trộn làm gạo chính ở khu vực Tây Phi. Người nông dân Mali đã sẵn
từ rơm, phân động vật hoặc các chất hữu cơ khác (sinh sàng bắt tay vào nhân rộng những kiến thức và kỹ thuật về
khối thực vật hoặc tất cả các loại khác). Ở những nơi sử SRI trên các loại cây trồng khác, đặc biệt là lúa mì. SRI có thể
dụng phân tổng hợp, kỹ thuật sử dụng phân bón tổng giúp người nông dân ở Mali tự cung tự cấp lúa gạo mà không
hợp cần được cải thiện, đặc biệt đối với phân urê. Ví dụ, cần đến các khoản trợ cấp về giống và phân bón từ Chương
nên trộn phân urê vào đất trong giai đoạn làm cỏ sẽ giữ trình “Sáng kiến lúa gạo” của Chính phủ như hiện nay. Mali
được các chất dinh dưỡng thay vì cách làm thông có thể trở thành một quốc gia xuất khẩu gạo và đóng vai trò
thường là trộn phân vào nước tưới vì làm như vậy làm quan trọng trong việc bình ổn an ninh lương thực ở khu vực
mất các chất dinh dưỡng cho đất. Tây Phi.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


18 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
AFRICARE BÁO CÁO QUỐC GIA

Caption

Phụ nữ đang làm đất và cấy trên ruộng SRI (ảnh trên). Maya Abdoulaye và Maya Hama tự hào giới thiệu ruộng
của mình cho các nông dân là nam giới đến từ làng Morikoira và Findoukaina trong một chuyến tham quan mô
hình tại Findoukaina (ảnh trái phía dưới). Abdoulaye (ảnh phải phía dưới) trong vụ mùa thứ hai áp dụng SRI.

Phụ nữ ở Findoukaina tiếp nhận SRI


Ở khu vực phía Bắc Mali, cây lúa được xem là cây trồng của nam giới. Phụ nữ không tự canh tác lúa. Phụ nữ
chỉ làm một số công việc tẻ nhạt như nhổ mạ, làm cỏ và đập lúa.
Nhờ phối hợp với Africare trong 5 năm qua mà một nhóm phụ nữ của làng Findoukaina đã được trang bị một
máy bơm nước động cơ đi-ê-zen. Các thành viên trong nhóm sử dụng máy bơm để tưới nước cho vườn rau
trong mùa mát. Vào vụ lúa, phụ nữ kiếm thêm chút thu nhập bằng cách dùng máy bơm để bơm nước cho
ruộng lúa của nam giới, vì phụ nữ không hề có chút ruộng nào cho riêng mình.
Trong các cuộc họp của thôn, để lên danh sách những nông dân mong muốn tham gia hoạt động thử
nghiệm SRI, chúng tôi đã khuyến khích phụ nữ tham gia mặc dù biết họ không quen với việc trồng lúa.
Chúng tôi đã rất ngạc nhiên khi làng Findoukaina lựa chọn hai thành viên trong nhóm phụ nữ là chị Maya
Abdoulaye và Maya Hama để tham gia chương trình thử nghiệm SRI.
Cũng giống như các phụ nữ khác ở Findoukaina, hai chị chưa bao giờ từng trồng lúa trước đó. Tuy nhiên,
họ đã nhận được sự hỗ trợ của tất cả 20 thành viên trong nhóm phụ nữ để thiết kế, quản lý các thửa ruộng
SRI và tuân thủ chặt chẽ những hướng dẫn của cán bộ Africare. Hai chị tự làm tất cả các công việc như bừa,
san đất và cấy mà không có sự hỗ trợ nào của nam giới.
Sau khi đã chỉ cho nhóm nông dân tham quan thấy mô hình, khi nhóm này ra về, các phụ nữ của
Findoukaina cùng nhau múa hát thể hiện sự vui sướng và niềm tự hào về những gì mình đã làm được.
Maya Abdoulaye nói: “Năm nay chúng tôi được học về SRI. Đến sang năm, cả nhóm 20 người chúng tôi có
thể cày cấy trên những cánh đồng SRI của chính chúng tôi.”
[Ghi chú: Mặc dù lượng nước phục vụ tưới tiêu có muộn trong vụ 2009-2010, nhưng hơn một nửa số phụ nữ
trong hợp tác xã, gồm cả Maya Abdoulaye đã áp dụng SRI trên các cánh đồng của họ.]

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 19
BÁO CÁO QUỐC GIA

Kinh nghiệm của Oxfam về SRI tại Việt Nam

O
xfam đã hoạt động tại vùng đồng bằng sông Mê tập huấn đã được triển khai mở rộng trên 5 tỉnh khác trong
Kông, khu vực Đông Nam Á được hơn 30 năm, năm 2004 và 12 tỉnh vào năm 2005 trên quy mô lớn từ 2-5
và hoạt động tại Việt Nam khoảng 20 năm. Mặc hec-ta. Năm 2006, SRI đã được nhân rộng trên 17 tỉnh, thu
dù nền kinh tế của Việt Nam đang được cải hút sự tham gia của 3.450 nông dân trong Chương trình IPM
thiện nhưng khoảng cách giàu nghèo đang gia Việt Nam và Chương trình Sử dụng và Bảo tồn đa dạng sinh
tăng và hiện có hàng triệu người thuộc các dân tộc thiểu số học tại châu Á (BUCAP) do FAO và DANIDA tài trợ.
và người dân sinh sống ở các vùng nông thôn vẫn đang Báo cáo đánh giá của Bộ NN&PTNT về SRI giai đoạn 2003-
sống trong tình trạng đói nghèo. 2006 thuộc Chương trình IPM Quốc gia đã kết luận SRI đóng
Từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền một vai trò rất quan trọng trong phát triển bền vững về canh
kinh tế theo định hướng thị trường năm 1986, khu vực nông tác lúa nước tại Việt Nam. Báo cáo đưa ra khuyến nghị “SRI
nghiệp nước này tăng trưởng ở mức 4%/năm nhờ có ngành nên được phổ biến một cách rộng rãi hơn nữa để đem lại lợi
sản xuất lúa gạo rất phát triển. Tổng sản lượng lúa tăng từ ích cho nhiều nông dân hơn …Cây lúa khỏe hơn có thể
19,2 triệu tấn năm 1990 lên 35,8 triệu tấn năm 2005. Việt kháng chịu tốt hơn với sâu hại và làm giảm một cách đáng kể
Nam là một trong những quốc gia trồng lúa cho sản lượng việc sử dụng thuốc trừ sâu trên đồng ruộng.” Sản lượng bình
cao nhất trên thế giới với năng suất bình quân 5 tấn/ha từ hai quân tăng từ 9-15% so với phương pháp canh tác tập quán
vụ trong năm. hiện nay, đồng thời tiết kiệm được 70-90% giống, 20-25%
Khoảng trên 9 triệu hộ nông dân Việt Nam, trong đó 95% lượng phân đạm và giảm 1/3 lượng nước tưới tiêu.
sống ở miền Bắc, sở hữu dưới 0,5 hec-ta đất trồng lúa, diện
tích này lại thường bị chia ra thành những thửa ruộng nhỏ.
Các hộ nông dân trồng lúa quy mô nhỏ phải đối mặt với bất “SRI cần được phổ biến rộng rãi hơn
ổn giá cả của nguyên liệu đầu vào, thậm chí tiền thu về
không đủ bù lỗ. Họ không được hưởng lợi gì từ việc giá nữa để có thêm nhiều nông dân được
lương thực tăng. Trong khi đó, các chương trình khuyến hưởng lợi từ kỹ thuật mới này.”
nông hiện nay thường không đến được với các hộ nông
trang nhỏ.
Việc lạm dụng hoá chất (đặc biệt là phân đạm), thuốc trừ sâu Cuối năm 2006, Oxfam phối hợp với Chi cục BVTV Hà Nội
và giống là vấn đề nổi cộm trong hoạt động sản xuất lúa gạo (trước là tỉnh Hà Tây) để bước đầu triển khai SRI. Cán bộ
ở Việt Nam nói chung và ở miền Bắc nói riêng. Việc lạm lãnh đạo tỉnh đã nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật mới này, đặc
dụng đạm và cấy mật độ dày là những nguyên nhân chính biệt là sau chuyến tham quan nghiên cứu, trao đổi, học hỏi
làm cho cây lúa dễ bị sâu hại và dịch bệnh, ảnh hưởng đến về những thành công, thách thức và cơ hội về SRI. Các hoạt
sản lượng, hiệu quả kinh tế, sức khoẻ cộng đồng và môi động về SRI tại quốc gia này do Tổ chức Oxfam tài trợ và vẫn
trường (Dung 2007). tiếp tục tăng cho đến thời điểm hiện tại.
Một nửa diện tích trồng lúa của Việt Nam được tưới tiêu và
hiện trạng khan hiếm nguồn nước gia tăng đang trở thành
một thách thức. Theo UNDP, lượng nước bình quân tính CÁCH TIẾP CẬN
theo đầu người hiện nay chỉ bằng 1/3 so với năm 1945 và Mô hình SRI dựa vào cộng đồng
tình hình cạnh tranh tài nguyên nước đang gia tăng nhanh
chóng. Chiến lược tại Việt Nam bao gồm các hoạt động thử nghiệm,
kiểm chứng và phổ biến. Chiến lược này bao gồm việc nâng
cao nhận thức cho người nông dân, tăng cường năng lực
GIỚI THIỆU VỀ SRI ứng dụng các nguyên tắc và các bước thực hành SRI;
chứng minh lợi ích của SRI cho nông dân và các cơ quan
Tại thời điểm mà các nông dân trồng lúa quy mô nhỏ chịu áp Chính phủ; nhân rộng mô hình một cách thích hợp để đem
lực từ nhiều phía như chi phí đầu vào tăng (thường là do sử những kiến thức SRI đến với người nông dân trên cả nước.
dụng quá mức), cạnh tranh về đất, BĐKH, khan hiếm nước Mục tiêu cuối cùng là gây dựng niềm tin cho nông dân và
thì SRI thực sự là một cơ hội tốt. giúp họ có đủ năng lực để tiếp thu các kỹ thuật mới trong hoạt
Cục Bảo vệ Thực vật (CBVTV) thuộc Bộ Nông nghiệp và động canh tác lúa. Như vậy, họ sẽ có thể giải quyết những
Phát triển Nông thôn Việt Nam (NN&PTNT) đã học hỏi mô vấn đề trong sản xuất nông nghiệp và cộng đồng thông qua
hình SRI từ năm 2002 từ những cộng sự thuộc chương trình những phương pháp kỹ thuật phù hợp và làm chủ được sự
Quản lý sâu bệnh tổng hợp (IPM) của In-đô-nê-xi-a. Những phát triển của mình.
cộng sự này đã làm việc với tổ chức CIIFAD (Viện Lương Năm 2007, với nguồn tài trợ của Oxfam, Chi cục BVTV tỉnh
thực, Nông nghiệp và Phát triển Quốc tế) thuộc trường Đại Hà Tây đã phối hợp với Hợp tác xã nông nghiệp Đại Nghĩa
học Cornell để đánh giá phương pháp SRI tại In-đô-nê-xi-a. triển khai các hoạt động SRI dựa vào cộng đồng, với sự
CBVTV đã tiến hành các hoạt động tập huấn về SRI trong tham gia của chính quyền địa phương, Hội Nông dân, Hội
năm 2003 tại ba tỉnh trong Chương trình IPM quốc gia do Tổ Phụ nữ, Đoàn Thanh niên và cộng đồng. Các hoạt động thử
chức Lương nông Liên hiệp quốc (FAO) tài trợ. Hoạt động nghiệm tiến hành trên đồng ruộng được triển khai với Hợp

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


20 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
OXFAM BÁO CÁO QUỐC GIA

tác xã nông nghiệp đã đánh giá mối liên quan giữa tỷ lệ mạ Giai đoạn 2:
cấy, chế độ điều tiết nước, bón các loại phân khác nhau, và Phát triển dựa trên những thành công ban đầu
chất lượng các lúa giống được tạo ra theo phương pháp
SRI. Các thử nghiệm này đồng thời cũng được tiến hành Sau khi thu được những kết quả triển khai ban đầu rất tốt tại
trong chương trình tập huấn cho nông dân và các kỹ thuật Hà Nội, Oxfam đã triển khai một chương trình SRI tại Việt
viên. Sau đó các học viên này tổ chức các Lớp học đồng Nam kéo dài 3 năm trên nhiều tỉnh thành và có sự tham gia
ruộng (FFS) ngay tại cộng đồng và họ cùng nhau thiết kế các của nhiều đối tác như Cục BVTV, Trung tâm Phát triển Nông
thửa ruộng thử nghiệm. Các Lớp học đồng ruộng áp dụng thôn Bền vững (SRD), Oxfam Quebec và Đại học Nông
cách tiếp cận có sự tham gia, mang tính thử nghiệm và kéo nghiệp Hà Nội. Công tác phổ biến và tập huấn về SRI đã
dài suốt cả vụ lúa bao gồm các hoạt động như thử nghiệm được triển khai tại 13 xã thuộc 6 tỉnh miền Bắc Việt Nam là
của nông dân, thăm đồng thường xuyên và phân tích nhóm Hà Nội, Yên Bái, Phú Thọ, Thái Nguyên, Hà Tĩnh và Nghệ
với sự hỗ trợ kỹ thuật của các kỹ thuật viên. Những kiến thức An. Cũng trong thời gian đó, Chương trình IPM Quốc gia và
thu được từ những hoạt động này đã giúp các học viên có BUCAP đã độc lập tổ chức các lớp học đồng ruộng, triển
thể tự đưa ra những quyết định về cách thức quản lý mùa vụ khai các mô hình trình diễn và các hoạt động tập huấn tại một
tùy vào điều kiện cụ thể của địa phương mình. số tỉnh miền Trung. SRI đã được thí điểm tại một số ruộng
nhỏ, trên nhiều chất đất và áp dụng với các giống lúa được
ưa chuộng. Các hoạt động thí điểm nhằm mục đích tập huấn
cho nông dân trở thành những tập huấn viên, họ sẽ đóng vai
trò là các đại diện khuyến nông tại địa phương. Thông qua
việc khuyến khích các nông dân đi đầu trong sáng tạo, thử
nghiệm và hướng dẫn học hỏi mô hình, Chương trình đã gây
dựng được lòng tin và tăng cường năng lực cho phụ nữ nông
thôn, chiếm đến 76% số lượng các nông dân nòng cốt của
chương trình.
Các thửa ruộng lựa chọn cho lớp học đồng ruộng được giám
sát chặt chẽ và ghi chép đầy đủ kết quả, trong đó chú trọng
đến một số vấn đề phi nông nghiệp như tác động về giới, tạo
thu nhập và chuyển giao tri thức. Công tác tập hợp và phân
tích một cách nhất quán các dữ liệu này góp phần giúp các tổ
chức đối tác và chính quyền địa phương trong việc cân đối
và nhân rộng mô hình.
Để nâng cao nhận thức về các nguyên tắc SRI và phát triển
nông nghiệp bền vững, Chương trình đã tiến hành một số
cuộc hội thảo tại cộng đồng cho nông dân và cán bộ địa
Lãnh đạo Hà Tây (cũ) thăm ruộng lúa SRI: Ông Nguyễn Duy phương cũng như mở các lớp tập huấn cho tập huấn viên
Hồng, Chi cục trưởng Chi cục BVTV (bên trái); Ông Trịnh Duy (TOT). Ngoài ra, chương trình cũng ưu tiên cho việc in ấn tài
Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh (giữa); Ông Chu liệu và các họat động truyền thông nhằm mục đích nâng cao
Văn Thương, Giám đốc Sở NN&PTNN tỉnh (bên phải). -
nhận thức cộng đồng.

Thông qua chiến lược dựa vào cộng đồng, hơn 1000 nông KẾT QUẢ: HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN
dân đã tiếp cận được SRI. Lợi nhuận ròng của những thửa
ruộng SRI bình quân tăng trên 2 triệu đồng/ha (khoảng 125 CÓ KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG
đô la Mỹ). VÀ PHỤC HỒI TỐT HƠN
Tháng 10/2007, theo khuyến nghị của Cục BVTV, đồng thời
Sau hơn hai vụ thực hiện phương pháp thâm canh lúa cải
hưởng ứng thành công của SRI do Oxfam hỗ trợ và các hoạt
tiến ở sáu tỉnh đã cho thấy có những kết quả tích cực. Báo
động nhân rộng mô hình tại Hà Nội và một số tỉnh khác, Bộ
cáo thống kê mùa vụ năm 2008 ở khu vực thực hiện chương
trưởng Bộ NN&PTNT đã công nhận SRI là một tiến bộ kỹ
trình đã cho thấy năng suất bình quân của những khu vực áp
thuật và ủng hộ việc áp dụng rộng rãi mô hình SRI tại cấp địa
dụng SRI đạt 6,3 tấn/ha với mô hình lớp học đồng ruộng, cao
phương, trong đó chính quyền địa phương có thể tiếp cận
hơn 11% so với các biện pháp canh tác khác hiện được áp
nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ nhằm mở rộng mô hình.
dụng trong toàn tỉnh. Mặc dù năng suất này không cao so với
Hà Nội đi đầu trong triển khai và sử dụng nguồn ngân sách hầu hết các quốc gia khác đang áp dụng SRI, nhưng cần
nhà nước để nhân rộng mô hình trên diện tích 33.000 hec-ta xem xét phương thức này vì nó đang mang lại nhiều lợi ích
trong năm tiếp theo, thu hút sự tham gia của 108.000 nông quan trọng khác cho nông dân. Năng suất gia tăng đạt được
dân. Trong vòng một năm, SRI đã được áp dụng trên 18% trong khi lượng phân bón urê sử dụng giảm đi 16%.
tổng diện tích canh tác của toàn thành phố.

Chuẩn bị mạ non để cấy. Các mảnh đất gieo mạ SRI


nhỏ hơn, và dễ quản lý hơn giúp tiết kiệm giống, đất và
công lao động. Trong vụ xuân năm 2009 khi SRI được
áp dụng trên diện tích khoảng 85.000 hecta, ước tính
đã tiết kiệm được khoảng 2.500 tấn lúa.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 21
BÁO CÁO QUỐC GIA OXFAM

Ở Việt Nam, chiến lược của Oxfam bao gồm thử nghiệm, trình diễn và phổ biến được triển khai thực hiện cùng với các cấp chính
quyền và cộng đồng địa phương và triển khai trong toàn quốc. Hoạt động thử nghiệm không chỉ đóng vai trò tập huấn cho nông dân
về các biện pháp thâm canh lúa cải tiến mà còn xây dựng được nguồn dữ liệu quan trọng về cách thức áp dụng phương pháp thâm
canh lúa cải tiến tốt nhất trong điều kiện thực tiễn của các địa phương.
Tần suất sử dụng thuốc trừ sâu đã giảm xuống 45%, và chi phí thí điểm, các thực nghiệm do họ tiến hành, và những thông
thuỷ lợi bình quân giảm 35%. Sự kết hợp giữa tiết kiệm đầu điệp của họ có ý nghĩa rất lớn trong việc nhân rộng SRI cũng
vào và tăng năng suất đã góp phần tăng thu nhập thêm gần như giành được sự ủng hộ về mặt chính trị.
50%, tương đương khoảng 5,4 triệu VND (315 USD)/ha/vụ. ŸThu thập, phân tích và xử lý số liệu được củng cố thông qua
Năng suất tăng một phần là do khả năng kháng sâu bệnh tự việc phối hợp với các trường đại học trong nước, do đó các
nhiên tốt hơn của cây lúa được trồng theo phương pháp SRI. thông điệp về tuyên truyền vận động chính sách có trọng
Nhìn chung theo quan sát, những cánh đồng lúa áp dụng lượng hợn.
phương pháp SRI đã giảm thiểu rủi ro và tăng khả năng chống ŸChiến lược truyền thông có sự tham gia của phương tiện
chọi và hồi phục của nông dân trong những điều kiện bất ổn. thông tin đại chúng rất có hiệu quả trong việc nâng cao nhận
Sự xuất hiện những cơn bão ngày càng tăng về tần suất và thức về SRI và nhân rộng tác động của chương trình, như
cường độ đã được cảnh báo, đặc biệt là ở miền Bắc Việt Nam. được minh chứng trong trường hợp của Hà Nội.
Mưa to gió lớn thường gây ra hiện tượng lúa đổ rạp - là một
thảm họa đối với nông dân. Một cánh đồng lúa bị đổ rạp rất dễ
bị thối mục và nông dân thường phải tiến hành thu hoạch ngay Chương trình Oxfam tại Việt Nam
những gì có thể thu hoạch được (thậm chí là rơm). Những nhằm hỗ trợ mở rộng phương pháp
cánh đồng trồng lúa theo phương thức SRI có thân nhánh
khỏe hơn và hệ thống rễ sâu hơn cho nên ít khả năng bị đổ rạp. SRI ra các khu vực khác.
Bộ rễ khoẻ hơn giúp cây hút được độ ẩm và chất dinh dưỡng
sâu hơn trong lòng đất, nhờ đó chống chịu tốt hơn với hạn hán CÁC BƯỚC TIẾP THEO
và đất nghèo chất dinh dưỡng. Trong trường hợp cây không
thể chống chịu được những điều kiện bất lợi của thời tiết, SRI Ở cấp độ quốc gia phương pháp SRI đang được áp dụng toàn
sẽ giúp nông dân cấy lại một cách nhanh chóng do cần ít giống phần hoặc một phần cho hơn 264.000 nông dân tại 21 tỉnh với
hơn, tuổi mạ ngắn hơn và mất ít công hơn . tổng số khoảng 85.422 ha, tiết kiệm được 2.500 tấn lúa giống,
1.700 tấn phân urê và giúp thu nhập tăng lên 170 tỉ VND/một
BÀI HỌC KINH NGHIỆM vụ. Cho tới nay SRI mới được thực hiện ở khu vực miền Bắc
và miền Trung Việt Nam, chưa được mở rộng ra khu vực đồng
Sáng kiến thâm canh lúa cải tiến đã thực hiện thành công ở bằng sông Cửu Long.
Việt Nam nhờ: Tiềm năng ứng dụng SRI trên diện rộng là rất lớn. Bộ
ŸChương trình đã giải quyết được vấn đề quan trọng trong NN&PTNT đang phát động chiến dịch phát triển nông nghiệp
việc mở rộng mô hình hiện nay như gây dựng được niềm tin bền vững được biết đến với tên gọi “3 Giảm 3 Tăng”, trong đó
cho nông dân và cách thức làm việc giữa người nông dân với có những khuyến nghị của chiến dịch cũng nhất quán với các
cán bộ khuyến nông/cán bộ địa phương. bước trong SRI: giảm đầu vào về giống, phân bón và thuốc trừ
sâu; nâng cao năng suất, chất lượng gạo và lợi nhuận. Ở
ŸSự tán thành ủng hộ của Chính phủ là một thuận lợi lớn đối
nhiều nơi, các khâu của biện pháp SRI đang được lồng ghép
với tính chính thống và thúc đẩy nhân rộng phương pháp với chiến dịch này.
SRI.
Trong những năm tới, chương trình Oxfam tại Việt Nam dự
ŸChương trình là một sự cộng tác giữa nhiều bên bao gồm các
kiến sẽ hỗ trợ mở rộng phương pháp SRI tại một số khu vực,
cơ quan của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ trong nước và tăng cường ứng dụng SRI tại những nơi đã triển khai.
và quốc tế, các trường đại học và các tổ chức địa phương. Oxfam cùng với các tổ chức trong nước tiến hành một số
Tất cả các bên đã tham gia từ giai đoạn đầu tiên như xây nghiên cứu liên quan tại địa phương như mức độ áp dụng
dựng chương trình, tạo sự hiểu biết chung về mục tiêu, cách SRI, những trở ngại đối với việc áp dụng phương pháp SRI và
tiếp cận của chương trình, tạo tính cam kết, tính liên kết và phân tích chi phí – lợi ích của phương pháp SRI thông qua sổ
hợp tác hiệu quả. kế toán hộ gia đình. Kết quả của những nghiên cứu này sẽ
Ÿ Phương thức tiếp cận dựa trên bằng chứng, và học hỏi được đưa vào quá trình hoạch định chính sách và sẽ giúp
không ngừng được khuyến khích thông qua các lớp học đồng chọn lọc các thông điệp về việc mở rộng mô hình tới những hộ
ruộng rất được nông dân và các cán bộ địa phương đón nông dân trồng lúa hiện đang đối mặt với những khó khăn về
nhận. Những phát hiện của nông dân thông qua các ô ruộng nguồn lực và các điều kiện canh tác ngày càng đa dạng.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


22 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
OXFAM BÁO CÁO QUỐC GIA

Nhìn chung, mỗi phụ nữ tham gia Lớp học đồng


ruộng (FFS) thường thúc đẩy được 5-8 nông dân
khác cùng áp dụng phương pháp SRI, trong khi đó
con số này là 1 - 3 đối với nam giới. Ảnh trên là các
học viên tham gia khóa học FFS tại xã Đông Trù, Hà
Nội. Một chị cầm trên tay 2 khóm lúa được trồng theo
phương pháp “thông thường” và phương pháp SRI
để làm dẫn chứng cho lớp học. Ảnh bên trái: Người
nông dân dân tộc đang nhiệt tình chia sẻ những kinh
nghiệm về phương pháp SRI với các kỹ thuật viên
nông nghiệp và đối tác Cam-pu-chia trong Hội thảo
Toàn quốc lần thứ hai về phương pháp SRI diễn ra
vào tháng 1/2010.

KHUYNH HƯỚNG VỀ GIỚI


TRONG CÔNG TÁC TIẾP CẬN SRI TẠI VIỆT NAM
Ở Việt Nam và nhiều nơi khác trong khu vực, gần đây có xu hướng là phụ nữ trên 40 tuổi là những nông dân trồng
lúa chính. Từ xưa tới nay, phụ nữ và nam giới cùng chia sẻ công việc đồng áng. Nhìn chung, nam giới thường làm
các công việc liên quan đến làm đất, trong khi đó cấy và làm cỏ là nhiệm vụ của phụ nữ. Thu hoạch là việc chung
đối với cả phụ nữ và nam giới. Do Việt Nam ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới, những công việc phi
nông nghiệp ở thành thị đang trở thành một nguồn tạo thu nhập ngày càng quan trọng. Điều này rõ ràng đã góp
phần vào việc phân chia lại khối lượng công việc và quá trình ra quyết định tại các hộ gia đình nông thôn. Một
nghiên cứu gần đây được tiến hành vào năm 2010 về việc áp dụng SRI tại Việt Nam do Oxfam ủy thác thực hiện
đã cho thấy người phụ nữ tham gia tích cực hơn trong việc áp dụng phương pháp SRI. Khoảng 70% nông dân
tham gia Lớp học đồng ruộng là phụ nữ. Phụ nữ thường là thành viên đầu tiên tiếp nhận phương pháp SRI.
Trong các khảo sát được tiến hành tại khu vực Hà Nội, Ninh Bình và Yên Bái – những địa phương áp dụng SRI
với tỉ lệ cao, những nông dân nữ cho biết các khoản tiết kiệm trước mắt mà SRI mang lại nhờ giảm được chi phí
sản xuất đã giúp họ giảm bớt sức ép về nhu cầu tín dụng ngắn hạn và có thể dành nhiều chi tiêu hơn cho con em
của mình. Những lợi ích kinh tế hữu hình từ phương pháp SRI đã giúp người phụ nữ có tiếng nói hơn trong gia
đình. Cả phụ nữ và nam giới đều cho biết việc phải làm cỏ bằng tay và làm đất kỹ lưỡng hơn là những thách thức
của phương pháp SRI. Khuyến cáo làm cỏ mà không có máy móc hay các dụng cụ đơn giản làm cho nông dân
không sẵn lòng từ bỏ việc phun thuốc trừ cỏ. Việc làm đất kỹ hơn cũng là một bất lợi đối với các hộ gia đình có
phụ nữ là người trụ cột gia đình nếu họ không có nhiều người lao động là nam giới hoặc thiếu hỗ trợ của các máy
móc phù hợp.
Các khảo sát cũng ghi nhận rằng những phụ nữ áp dụng phương pháp này mong muốn có nhiều tài liệu tốt hơn
về SRI. Họ cũng cho biết nhu cầu và ý kiến của họ về cải thiện cách thức quản lý nước và làm đất không được
lắng nghe thấu đáo do vẫn có quan niệm rằng nông dân thì không có kiến thức đầy đủ về những vấn đề này.
Mặc dù còn tồn tại những thách thức đó, việc áp dụng phương pháp SRI của nông dân nữ rất ấn tượng. Nhìn
chung, một nữ học viên sau khi tốt nghiệp Lớp học đồng ruộng thường thúc đẩy được 5-8 nông dân khác áp dụng
SRI trong khi tỉ lệ này chỉ là 1-3 đối với học viên nam. Sự khác biệt chính ở đây là phụ nữ thường có khả năng đổi
công và hỗ trợ lẫn nhau trong những khâu quan trọng nhất của SRI như chuẩn bị đất làm mạ, cấy và thảo luận
nhóm. Đổi công cho nhau thường bắt đầu với một nhóm nhỏ những nông dân trong họ hàng sau đó mở rộng ra
hàng xóm và giữa những người có ruộng lúa gần nhau.
Trích dẫn từ: Nguyễn Xuân Nguyên và đồng sự. (Tháng 1/2010). Nghiên cứu về việc áp dụng phương pháp
Thâm canh Lúa cải tiến ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Báo cáo do Oxfam Mỹ tài trợ thực hiện.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 23
BÁO CÁO QUỐC GIA

KINH NGHIỆM CỦA WWF VỀ SRI TẠI ẤN ĐỘ

V
ới tư cách là một tổ chức bảo tồn thiên nhiên Trước kia, gia tăng sản xuất lúa thường chủ yếu đi liền với
quốc tế, WWF từ lâu đã quan tâm đến những tác việc tăng năng suất chứ không phải tăng diện tích trồng lúa.
động của con người đối với môi trường. Công Năng suất gia tăng đạt được nhờ việc áp dụng và mở rộng
việc đồng áng, đặc biệt là thủy lợi trong nông các phương pháp canh tác bao gồm việc sử dụng nhiều hơn
nghiệp là hoạt động tiêu thụ nhiều nước nhất nước tưới tiêu, các giống lúa năng xuất cao và giống lúa lai,
trên hành tinh. cùng với việc tăng cường bón phân tổng hợp, sử dụng nhiều
Do xác định được việc trồng lúa , đường, bông và lúa mì là hơn thuốc trừ sâu, diệt nấm và diệt cỏ.
bốn loại hình canh tác tiêu tốn nước ngọt nhiều nhất, WWF
đã ưu tiên tìm kiếm các cách thức cải thiện năng suất cho
những cánh đồng trồng các loại cây này về mặt đất đai và
nước phục vụ sản xuất. Mục tiêu nhằm giảm thiểu sức ép
Trong 20 năm tới, khoảng 60% tầng
đang gia tăng về hệ thống sinh thái nước ngọt, giúp bảo vệ ngậm nước của Ấn Độ sẽ rơi vào tình
sự đa dạng sinh học thiết yếu và nâng cao sản lượng lương
thực.
trạng nguy kịch. Nhu cầu cấp bách
Kể từ năm 2003, WWF đã tham gia vào đối thoại đa bên và hiện nay là phải thay đổi hiện trạng.
đa ngành - “Đối thoại về Lương thực, Nước và Môi trường”,
cùng hợp tác chương trình với Viện Nghiên cứu Cây trồng
Quốc tế cho Vùng nhiệt đới bán khô cằn (ICRISAT) có trụ sở
tại Andhra Pradesh, Ấn Độ. Động lực tham gia trước mắt là Sau khi giành độc lập, sự phát triển của nông nghiệp Ấn Độ
tìm kiếm các phương pháp thay thế cho những kế hoạch hạ có được là nhờ đầu tư lớn vào các dự án thủy lợi, giúp tăng
tầng thủy lợi và các đập nước lớn có chi phí cao đang được tổng diện tích tưới tiêu gấp 3 lần - từ 22,6 triệu hecta (1950-
Chính quyền Andhra Pradesh đề xuất nhằm tăng cường sản 1951) lên 76,3 triệu hecta (1999-2000). Dân số gia tăng đã
xuất nông nghiệp. làm giảm mạnh lượng nước bình quân đầu người của Ấn Độ
trong giai đoạn này.
Mặc dù Ấn Độ được coi là một quốc gia đang gia tăng đô thị
hóa và công nghiệp hóa, nhưng 70% dân số nước này vẫn là Như được trình bày trong biểu đồ dưới đây, phần gia tăng
nông dân; 80% trong số đó có ít hơn một héc ta đất. Ấn Độ là mạnh nhất trong hệ thống nước tưới là việc lắp đặt các giếng
quốc gia có diện tích trồng lúa lớn nhất trên thế giới, và đứng nước. Ở một số khu vực, khai thác quá mức nguồn nước
thứ hai về sản lượng lúa gạo sau Trung Quốc. Hơn một nửa ngầm thông qua các máy bơm nước đang làm giảm thiểu
diện tích trồng lúa nước, cung cấp hơn 75% sản lượng lúa nghiêm trọng lượng nước ngầm (hơn một phần tư lượng
gạo, đã tiêu tốn hết 50-60% nguồn nước ngọt rất hạn chế nước ngầm trên thế giới); 60% lượng nước cho thủy lợi và
của đất nước này. Dân số Ấn Độ được dự kiến sẽ tăng từ 85% nguồn nước uống phụ thuộc vào nguồn nước ngầm.
1,15 tỷ lên tới 1,6 tỷ vào năm 2050, gây ra những sức ép Theo Ngân hàng Thế giới, nếu xu hướng hiện nay vẫn tiếp
mạnh mẽ đối với nguồn tài nguyên đất đai và tài nguyên diễn thì trong vòng 20 năm tới khoảng 60% tầng ngậm nước
nước. Điều này làm cho việc sản xuất lúa gạo ở Ấn Độ trở của Ấn Độ sẽ rơi vào tình trạng nguy kịch.
thành một mục tiêu quan trọng cho các hoạt động can thiệp
của WWF.

35
30
1950-51
25
Triệu hec-ta

1999-00
20

15
10

5
0
Kênh Giếng Bể Các nguồn khác

Nguồn thủy lợi

Các giếng đào ở Ấn Độ phải đào ngày càng sâu hơn do mực
Nguồn: Lúa gạo nhiều hơn, tiết kiệm nước hơn (WWF 2008).
nước ngầm đang giảm dần. Hình ảnh giếng mở khô hạn này là
một ví dụ rõ ràng về sự cạn kiệt nguồn nước ngầm.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


24 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
WWF BÁO CÁO QUỐC GIA

Điều này sẽ gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng cho tính bền tham gia của các nhà khoa học tại ICRISAT và thành viên
vững của nông nghiệp, an ninh lương thực dài hạn, đời sống Ban Giám đốc Nghiên cứu Lúa gạo của Hiệp hội Nghiên cứu
và phát triển kinh tế. Ước tính, hơn một phần tư cánh đồng Nông nghiệp Ấn Độ. Dựa trên những kết quả đánh giá tích
của quốc gia này sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm. Nhu cầu cực, tháng 11/2005 WWF-ICRISAT đã tiếp cận với Chính
cấp bách hiện nay là phải thay đổi hiện trạng. quyền Bang Andhra Pradesh nhằm yêu cầu áp dụng
Mặc dù lượng thuốc trừ sâu và phân bón sử dụng trên đồng phương pháp SRI. Chính quyền bang đã hưởng ứng tích
ruộng đã tăng lên rất nhiều, nhưng năng suất và sản lượng cực và cung cấp ngân sách cho việc thúc đẩy ứng dụng SRI.
lúa được tưới tiêu trên toàn quốc không thay đổi nhiều kể từ
thập niên 1990, thậm chí còn giảm ở một số khu vực. Lượng
phân bón được bán cho nông dân Ấn Độ tăng từ 338.000 tấn
năm 1961 lên tới 8 triệu tấn năm 1985 và 20,6 triệu tấn năm
2005. Cấu trúc và sự màu mỡ của đất đai đã bị ảnh hưởng
tiêu cực bởi việc tưới nước quá mức và sử dụng quá nhiều
hóa chất, dẫn tới hình thành đất nhiễm mặn, đất bị nén khí và
những hạn chế khác đối với năng suất cây trồng. Khi đất và
nước phải tiếp nhận quá nhiều phân bón và thuốc trừ sâu,
các tác động tiêu cực có thể ảnh hưởng đến đất ẩm, môi
trường, sức khỏe con người, cây cối và côn trùng.
Ấn Độ cần gia tăng sản xuất lúa gạo ở mức 2,5 triệu tấn/năm
nhằm đáp ứng nhu cầu của quốc gia này vào năm 2050
–tăng gần 92% so với mức sản xuất hiện nay. Dùng nhiều
nước hơn cho sản xuất nông nghiệp lấy từ các sông ngòi và
tầng nước ngầm sẽ làm giảm nguồn nước cho sinh hoạt và
Cố tiến sĩ Y.S. Rajashekar Reddy, nguyên Chủ tịch Bang
duy trì hệ thống tự nhiên không phải là một giải pháp khả thi. Andhra Pradesh, cùng với ông Raghuveera Reddy, Bộ trưởng
Ấn Độ cần áp dụng các phương pháp như thâm canh lúa cải Bộ Nông nghiệp (giữa) thăm các cánh đồng lúa theo biện pháp
tiến. SRI tại huyện Ranga Reddy, Bang Andhra Pradesh vào năm
2005 do WWF–ICRISAT tổ chức.
GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP
THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN
SRI được đưa vào Ấn Độ vào năm 2000 khi các nhà nghiên
cứu thuộc trường Đại học Nông nghiệp Tamil Nadu (TNAU)
khởi xướng thí nghiệm liên quan đến các nguyên tắc của
SRI trong một dự án hợp tác về trồng lúa sử dụng ít nước.
Kết quả của thí nghiệm này trong năm 2002-2003 đã được
đánh giá trên cánh đồng của bà con nông dân. Năm 2003,
một gói các biện pháp SRI đã được hình thành và thử
nghiệm tại cánh đồng của 200 nông dân thông qua một sáng
kiến của Chính phủ nhằm so sánh hiệu quả của phương
pháp SRI và các phương pháp thâm canh tập quán tại lưu
vực sông Cauvery và Tamiraparani. Kết quả ở hai lưu vực
sông cho thấy sản lượng bình quân tăng 1,5 tấn/hecta trong
khi giảm chi phí sản xuất, thậm chí nhu cầu lao động giảm
8%/ha. Đánh giá này tạo nền tảng cho việc chính thức
khuyến cáo áp dụng phương thức thâm canh lúa cải tiến cho
nông dân vào năm 2004.
Đồng thời, trường đại học nông nghiệp quốc gia tại Andhra
Pradesh – Đại học Nông nghiệp Acharya N.G. Ranga (AN-
GRAU), giới thiệu phương pháp SRI trên các ruộng lúa của
nông dân trong vụ mùa thu năm 2003, sau khi nhà khoa học
ANGRAU quan sát phương pháp SRI được áp dụng tại Sri
Lanka. Thử nghiệm so sánh đã được tiến hành trên các
huyện của toàn bang. Việc so sánh này đã tạo ra sự quan
tâm chú ý trong toàn quốc khi kết quả chỉ ra rằng năng xuất
trung bình của ruộng lúa SRI tăng 2,5 tấn/hecta – tăng 50%
so với ruộng canh tác lúa nước tập quán.

WWF VÀ SRI
Ấn tượng trước những kết quả áp dụng SRI của trường
TNAU và ANGRAU, Dự án Đối thoại Chung WWF-ICRISAT WWF-ICRISAT đã hỗ trợ nghiên cứu về SRI, các thử nghiệm và
đã mở rộng hỗ trợ kỹ thuật và tài chính để tiến hành đánh giá trình diễn trên đồng ruộng, các hội thảo có sự tương tác với
mang tính hệ thống về các phương pháp SRI của trường nông dân trên toàn Ấn Độ (Ảnh trên cùng: Mô hình trình diễn
ANGRAU và Trung tâm Hoạt động Nông nghiệp và các tại Bang Tripura). Phía trên, Biksham Gujja, tư vấn chính sách
Chương trình Xã hội, một tổ chức Phi chính Phủ trong nước, tại Chương trình Nước ngọt Toàn cầu WWF thảo luận về biện
thông qua phương pháp thử nghiệm trên đồng ruộng trong pháp SRI với nông dân và các cán bộ nông nghiệp tại Bang
thời gian một vài năm tại 11 huyện trong bang, bắt đầu từ vụ Punjab- một trong những khu vực sản xuất lúa lớn nhất của Ấn
đông năm 2004-2005. Các đánh giá trong năm thứ hai có sự Độ và là nơi thiếu hụt nước nghiêm trọng.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 25
BÁO CÁO QUỐC GIA WWF

Về các hoạt động triển khai biện pháp SRI trong tất cả các Ÿ Ban giám đốc Nghiên cứu về Lúa gạo (DRR), Hyderabad
quận huyện của bang và khởi động một chương trình tập Ÿ Viện Khoa học Nhân dân (PSI), Dehradun
huấn cho nông dân và các thành viên của Phòng Nông nghiệp
Ÿ Trường ĐH Khoa học Nông nghiệp và Công nghệ Sher-
Bang, trong vòng hơn 5 năm (từ 2003-2004 đến 2007-2008)
với hai vụ trong năm, sản lượng trung bình của các cánh đồng e-Kashmir, Jammu (SKUAST-J), Chatha
SRI tăng 26,5% so với các biện pháp truyền thống. Ÿ Vikas Sahyog Kendra (VSK), Jharkhand
Ÿ Mạng lưới Hoạt động và Dịch vụ hỗ trợ Lưu vực sông
(WASSAN), Hyderabad.
CÁCH TIẾP CẬN: XÂY DỰNG DIỄN ĐÀN QUỐC GIA
Hoạt động điển hình và có tầm ảnh hưởng nhất của WWF-
Vào thời điểm này, các tổ chức phi chính phủ, trường đại học, ICRISAT là ba hội nghị chuyên đề toàn quốc. Các hội nghị
cơ quan chính phủ và các đơn vị từ khu vực tư nhân trong các chuyên đề này đã thúc đẩy việc học tập lẫn nhau, hỗ trợ xây
bang khác cũng bắt đầu đánh giá và phổ biến SRI ở một số nơi dựng mạng lưới các tổ chức và cá nhân quan tâm, khuyến
khác thuộc Ấn Độ. WWF-ICRISAT bắt đầu làm việc với các tổ khích nỗ lực phát huy sáng kiến của nông dân cũng như xác
chức và cá nhân quan tâm khác để những triển vọng của SRI định nội dung chương trình nghiên cứu thông qua xác định
có thể có tác động rộng lớn hơn trong toàn quốc. các vấn đề có liên quan đến SRI.
Đặc biệt, rất nhiều Tổ chức xã hội dân sự địa phương và trong Hội nghị đầu tiên diễn ra tại ANGRAU vào năm 2006, đã hội
vùng (CSO) của Ấn Độ đã độc lập giới thiệu biện pháp SRI ở tụ khoảng 200 các chuyên gia nghiên cứu, người thực hiện
những khu vực nông thôn. Vai trò của CSO trong việc thúc đẩy và các nhà hoạch định chính sách về SRI trong toàn quốc.
SRI trong toàn quốc là rất quan tâm và mong muốn, đặc biệt Bộ trưởng Nông nghiệp Bang Andhra Pradesh chủ trì khai
nhằm nâng cao đời sống của người dân nghèo trồng lúa ở khu mạc. Hội nghị thứ hai được tổ chức vào năm 2007 tại Bang
vực xa xôi hẻo lánh và khu vực của người thổ dân. Tripura, nơi chính quyền bang đã dành 1/3 ngân sách nông
CSO được nhiều tổ cơ quan chính phủ tham gia như Phòng nghiệp của bang cho việc thúc đẩy SRI. Cùng kết hợp tổ
Nông nghiệp Bang Tripura, các trường cao đẳng, đại học, các chức Hội nghị có Phòng Nông nghiệp, Ban Nghiên cứu Lúa
tổ chức như Viện Quản lý Xavier ở Bhubaneswar; các tổ chức gạo Hyderabad; Viện Nghiên cứu Lúa gạo Trung ương
từ khu vực tư nhân như Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Cuttack; Ban Phát triển Lúa gạo Patna; NABARD; SDTT; và
TildaRicelands Pvt.; các quỹ như Quỹ Tín thác Sir Dorabji Tata ANGRAU. Hội nghị chuyên đề năm 2008 do TNAU chủ trì và
Trust (SDTT); và các ngân hàng như Ngân hàng Nông nghiệp được sự hỗ trợ từ SDTT và NABARD.
và Phát triển Nông thôn Quốc gia (NABARD). Tất cả đã mang Ngoài việc chủ trì một trang thông tin điện tử quốc gia về SRI
lại nhiều cách tiếp cận và khả năng khác nhau đối với việc phổ (www.sri-india.net) và cùng với các cơ quan chính phủ, đối
biến kiến thức và cơ hội về SRI. tác là các trường và tổ chức phí chính phủ - đã giới thiệu và
WWF-ICRISAT nhận ra rằng nếu không có sự phối hợp giữa phổ biến những nghiên cứu, báo cáo, tờ tin, sổ tay, ghi chép,
các đơn vị khác nhau, không xây dựng được khung lô gic ghi bảng biểu và các bảng thông tin trích yếu cho những trường
chép và lưu trữ kinh nghiệm về SRI không quy tập tất cả hợp điển hình.
những nghiên cứu và ứng dụng SRI trên toàn quốc, thì những
nỗ lực này sẽ ít hiệu quả hơn so với mong đợi. Và như vậy
những bài học kinh nghiệm cũng không được tổng hợp để có
thể chia sẻ và học hỏi. Tiền bạc và thời gian có thể bị lãng phí
do đầu tư vào các nỗ lực trùng lặp. Do đó, WWF-ICRISAT đã
đưa ra sáng kiến xây dựng một Diễn đàn quốc gia đặt tại
ICRISAT nhằm thúc đẩy: 1) sự liên kết hợp tác giữa các bên
liên quan chủ chốt, đó là các viện nghiên cứu lúa gạo quốc gia
và của các bang, các trường đại học nông nghiệp, tổ chức dân
sự hoặc xã hội dân sự, các quan chức cấp tỉnh thành và các
nhà tài trợ; 2) các hoạt động nghiên cứu và phát triển; 3) liên
kết và chia sẻ thông tin; và 4) đối thoại giữa các bên hữu quan
từ cấp độ người nông dân đến cấp độ toàn quốc.

Thiết lập sự Hợp tác và Liên kết Các hội nghị chuyên đề toàn quốc về SRI là một hoạt động quan
Các hoạt động của WWF-ICRISAT bao gồm nghiên cứu để trọng thúc đẩy việc học tập và đối thoại chính sách về SRI tại Ấn
nâng cao sự hiểu biết một cách khoa học về các nguyên tắc Độ (ảnh trên). Ảnh dưới, Dr. V.V. Sadamate, Tư vấn, Bộ phận
của SRI, các sáng kiến nhằm hỗ trợ giới thiệu SRI trong các
lập Kế hoạch (Nông nghiệp), Chính phủ Ấn Độ (đội mũ bên
trái) và Dr. V. Vinod Goud (cạnh ông), Điều phối viên Dự án,
điều kiện thời tiết, khí hậu khác nhau, thử nghiệm và trình diễn WWF -ICRISAT, và các cán bộ Nông nghiệp Huyện thăm các
trên đồng ruộng, các hội thảo có sự thảo luận với nông dân, cánh đồng của hộ nông dân theo phương pháp SRI tại huyện
hội thảo đầu bờ, các trung tâm nguồn dựa trên thực tiễn đồng Warangal, Andhra Pradesh.
ruộng, các sự kiện truyền thông, xây dựng năng lực cho các
tác nhân tạo sự thay đổi trong các tổ chức chính phủ và phi
chính phủ, và vận động chính sách ở cấp bang và cấp toàn
quốc. Hoạt động của WWF-ICRISAT được cấp kinh phí một
phần từ Bộ Ngoại giao, chính phủ Na Uy, và một số đối tác
trong nước chủ chốt trong đó có:
Ÿ Trường ĐH Nông nghiệp Acharya N.G. Ranga (ANGRAU),
Ÿ Hyderabad
Ÿ Quỹ Nông nghiệp – Con người – Sinh thái (AMEF),
Bangalore
Ÿ Trung tâm Hoạt động Nông nghiệp và các Chương trình Xã
hội (CROPS), Jangaon, Andhra Pradesh

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


26 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
WWF BÁO CÁO QUỐC GIA

Sản lượng lúa gạo ghi nhận trong các hoạt động thử nghiệm SRI tại Ấn Độ các trạm ở nhiều bang trong các
STT Địa điểm Sản lượng ( tấn /ha ) Nguồn
điều kiện môi trường trồng lúa đa
dạng đều chứng tỏ rõ ràng là SRI
Canh tác SRI % tăng
tập quán /giảm có tiềm năng nâng cao năng suất
và giảm nhu cầu sử dụng nước,
1 Viện nghiên cứu lúa gạo Tamil Nadu , TNAU, Aduthurai 4,7 7,1 + 48,9 Rajendran et.al., 2005
giảm chi phí đầu vào và hóa chất.
2 14 trạm nghiên cứu, ANGRAU, Andhra Pradesh 4,9 5,7 + 16,6 Mallikarjuna Reddy et.al., 2007 Các số liệu từ những thí nghiệm
3 Đại học Nông nghiệp Gandhi Ấn Độ, 5,9 (2006) 6,6 + 12,0 Shrikant Chitale SRI ở Ấn Độ cho thấy năng suất
Raipur, Chattisgarh 4,3 (2007) 5,1 + 17,8 et al., 2007
lúa gạo tăng tới 68%. Một số kết
4 Viện nghiên cứu nông nghiệp, Patna, Bihar 3,9 6,1 + 55,1 Ajaykumar et. al., 2007
quả thí nghiệm thu được trên toàn
5 Đại học Nông nghiệp Pandit Jawaharlal Nehru 2,2 3,7 + 68,3 Sridevi and Chellamuthu, 2007 quốc được trình bày trong bảng
Và Viện nghiên cứu, Karaikal, Puduchery
bên trái.
6 Khu liên hiệp nghiên cứu ICAR, Umiam, Meghalaya 4,0 (2005) 4,4 + 9,3 Munda et.al., 2007
4,7 (2006) 5,2 + 10,2 Ở Việt Nam và Mali, nông dân
7 Viện nghiên cứu lúa gạo Trung ương, Cuttack, Orissa 4,9 (2005) 5,9 + 20,4 Rao et.al., 2007 nhận thấy các ưu điểm chủ yếu
5,6 (2006) 7,0 + 25,0 của SRI là giảm giống, tiết kiệm
8 Trạm nghiên cứu nông nghiệp, 3,1 4,5 + 45,2 Bora and Dutta, 2007 đến 50% lượng nước, chất lượng
Shillongani, Assam đất được cải thiện, năng suất tăng
9 Trạm nghiên cứu nông nghiệp, UAS, 8.8 (2005) 10,2 + 15,9 Jayadeva et al., 2008 20-30%. Ngoài ra, SRI giúp giảm
Kathalagere, Karnataka 9,1 (2006) 10,5 + 15,4
thời gian mùa vụ, sản lượng gạo
10 Trạm nghiên cứu lúa gạo, 4,0 (2006) 6,3 + 35,9 Chauhan et al., 2008
AAU, Nawagam, Gujarat 4,7 (2007) 7,5 + 37,1
xay xát cao hơn, khả năng chống
hạn hán và mưa bão tốt hơn. Khó
11 Birsa, Ranchi, Jharkhand 4,3 5,0 + 16,3 Singh et al., 2009
khăn chủ yếu là thiếu lao động có
kỹ thuật, khó xử lý mạ non, quản lý
tưới tiêu ở các vùng đất trũng và
WWF-ICRISAT đã tổ chức một cuộc họp về chính sách cấp phải làm cỏ nhiều hơn.
quốc gia vào tháng 2/2009. Với tên gọi “Nhân rộng biện
Ở Ấn Độ, vai trò của SRI không chỉ ở cây lúa. Những nguyên
pháp SRI – Định hướng cho tương lai: Cuộc họp của nhóm
tắc cơ bản của SRI được áp dụng trên các loại cây trồng
chủ chốt”. Cuộc họp đã đưa ra nhiều khuyến nghị như
khác, như cây mía. WWF-ICRISAT mới đây đã cho phát
nghiên cứu quy mô phát triển canh tác SRI trong thực tiễn;
hành cuốn sổ tay về Sáng kiến Cây mía Bền vững (SSI): Cải
các biện pháp can thiệp cấp vùng, bang và nhà nước; hỗ trợ
thiện hoạt động trồng mía tại Ấn Độ. Kết quả bước đầu thu
Nghiên cứu và Triển khai tích cực; ủng hộ chủ trương chính
được rất tốt. Giống như SRI, SSI có triển vọng được triển
sách và cơ chế thể chế nhằm thúc đẩy SRI.
khai trên toàn cầu. Những thử nghiệm đầy hứa hẹn hiện
đang được tiến hành trên lúa mì, kê, mù tạc, vừng và một số
Đối thoại Chính sách loại cây khác tại nhiều bang của Ấn Độ.
Các đối thoại chính sách do WWF-ICRISAT thúc đẩy đang
ngày càng gia tăng từ cấp huyện lên cấp bang và cấp nhà CÁC BƯỚC TIẾP THEO
nước. SRI đã được lồng ghép vào Nhiệm vụ An ninh Lương
Đại diện của Dự án WWF-ICRISAT, cùng với các cộng sự
thực Quốc gia (NFSM) với tư cách là một chiến lược nhằm
đến từ các tổ chức đối tác đã tham gia cuộc đối thoại với các
gia tăng sản xuất lúa gạo tại hơn 130 huyện không đảm bảo
cơ quan Chính phủ ở cấp tiểu bang và cấp quốc gia về việc
về lương thực tại Ấn Độ. Vào tháng 5 năm 2009, một cuộc
hỗ trợ áp dụng SRI trên quy mô lớn hơn, đặc biệt là ở cấp lưu
“Đối thoại Chính sách Tương tác về nhân rộng biện pháp
vực. Dự án đã tổ chức và tham gia một số cuộc đối thoại
SRI” – được tổ chức trên cơ sở các đầu ra của hội thảo
nhằm thuyết phục Chính phủ thông qua mục tiêu quốc gia
chuyên đề năm 2008 và của Cuộc họp Nhóm Chủ chốt tại
tính đến năm 2015 sẽ chuyển đổi ít nhất 20% diện tích đất
ANGRAU. Khoảng 50 đại biểu đã tham dự cuộc đối thoại.
trồng lúa tưới tiêu sang phương pháp SRI. Áp dụng SRI,
Cuộc họp tập trung vào việc xây dựng một khuôn khổ chính
nông dân không những sản xuất được nhiều lương thực
sách và khung thời gian quốc gia cho việc nhân rộng SRI,
hơn mà còn đóng góp cho nền kinh tế quốc gia và giúp cải
các vấn đề khoa học và kỹ thuật khi tăng cường áp dụng
thiện môi trường thông qua các lợi ích mà SRI đem lại như:
biện pháp SRI, bao gồm thiết kế và sản xuất các công cụ tốt
tiết kiệm nước (nhờ đó, giảm gánh nặng của Chính phủ cho
hơn, nghiên cứu về các phản ứng khác nhau đối với biện
các dự án về cơ sở hạ tầng nước sạch); giảm sử dụng phân
pháp SRI, xác định sự ổn định của các khu vực khí hậu khác
bón (giúp giảm chi phí trợ cấp, đồng thời chất lượng đất
nhau và xây dựng năng lực nhằm nhân rộng SRI.
được cải thiện nhờ bón phân hữu cơ); giảm công sức bơm
nước từ các giếng khoan. Các nhà hoạch định chính sách
KẾT QUẢ: NHỮNG ƯU ĐIỂM CỦA SRI cần ghi nhận và biểu dương những lợi ích do SRI đem lại. Để
nhân rộng SRI, Chính phủ không cần tăng chi phí mà chỉ cần
ĐÃ THÚC ĐẨY NHANH VIỆC ỨNG DỤNG điều chỉnh lại các nguồn lực.
TRONG TOÀN QUỐC
Dự án WWF-ICRISAT hiện nay đang tập trung vào: a) tính
Hiện nay, SRI được biết đến ở tất cả các bang trồng lúa tại toán nhu cầu nước của SRI; b) tiến hành các nghiên cứu
Ấn Độ. Ước tính, có khoảng 600.000 nông dân đang trồng khoa học với các tổ chức đối tác để hiểu được làm thế nào
lúa sử dụng hầu hết hoặc toàn bộ các biện pháp quản lý mùa các chất dinh dưỡng trong đất và sinh khối của rễ cây có thể
vụ SRI trên diện tích khoảng 1 triệu hecta thuộc 300 trong số mang lại năng suất cao; c) phối hợp với các chương trình
564 huyện trồng lúa của Ấn Độ. SRI cũng đang được điều cấp quốc gia hiện nay liên quan đến nông nghiệp và quản lý
chỉnh để áp dụng tại những khu vực canh tác nhờ nước mưa nguồn nước để nhân rộng mô hình SRI; d) cung cấp các
tự nhiên. cộng cụ tập huấn; e) hỗ trợ các nghiên cứu quan trọng của
Đây có lẽ là tiến bộ nông nghiệp được triển khai áp dụng các tổ chức xã hội dân sự (CSOs) về lợi ích của SRI; f) tăng
nhanh nhất ở quốc gia này, điều đó làm cho SRI trở thành cường trao đổi giữa nông dân; và g) tổ chức các hội nghị
một hiện tượng quốc gia rất điển hình với chi phí ít nguồn lực chuyên đề cấp quốc gia về SRI để giúp các bên tham gia có
cho việc nhân rộng. Đánh giá trên đồng ruộng và đánh giá tại cơ hội gặp gỡ, chia sẻ.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 27
BÁO CÁO QUỐC GIA WWF

Ảnh trên: Nông dân Siddimallaiah đang chăm sóc ruộng lúa SRI của mình. SRI đã giúp lúa của ông chống chọi được
đợt hạn hán năm 2009. Ảnh trên cùng: Lúa của ông trồng theo phương pháp tập quán, phụ thuộc vào tưới tiêu, phải
chống chịu khô hạn. Nếu không nhờ SRI, ông và gia đình ông có lẽ đã phải đối mặt với mùa màng thất bát và nguồn sinh
kế có thể đã bị ảnh hưởng.

SRI MANG LẠI LỢI ÍCH


CHO CÁC NÔNG DÂN CHỊU ẢNH HƯỞNG CỦA HẠN HÁN
Sau bốn năm mưa thuận gió hòa, năm 2009 đã bị thiếu mưa trầm trọng trong suốt mùa mưa từ tháng 6 đến tháng
8, thời điểm mà các nông dân trồng lúa theo phương pháp tập quán cần tưới để cấy. Thông thường, ở vùng Andhra
Pradesh, tính đến tháng 7 hàng năm lượng mưa ở mức 297mm. Năm 2009, tính đến tháng 7, lượng mưa chỉ đạt
157mm. Mực nước ngầm giảm sâu thêm gần 2m từ 9,33m vào tháng 07/2008 xuống còn 11,09m vào tháng
07/2009. Jangaon Block (thuộc huyện Warangal của Andhra Pradesh) là một trong những khu vực chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất của đợt hạn hán do thiếu nước ngầm trầm trọng trong khu vực. Tuy nhiên, một số nông dân
trong huyện chủ yếu sống dựa vào cây lúa đã được tập huấn về phương pháp SRI.
Nông dân Siddimallaiah năm nay 65 tuổi, hiện có khoảng 8 hec-ta ruộng. Ông đã quyết định áp dụng thử phương
pháp SRI trên một thửa ruộng nhỏ, phần diện tích còn lại ông vẫn canh tác theo tập quán. Khi đến tuần thứ hai của
tháng 6 vẫn chưa có mưa, giấc mơ có đủ gạo ăn cho gia đình và có một phần dư dật để bán của ông đã không còn
vì mạ non héo úa. Ruộng của ông Siddimallaiah hoàn toàn phụ thuộc vào mưa do các giếng khoan của nhà ông
đều đã cạn. Ông không có đủ tiền để đào thêm giếng. Hơn nữa, các nông dân khác đào giếng cũng không lấy được
chút nước nào từ các giếng mới đào này.
Tình hình càng tồi tệ hơn vì ruộng khô nứt chân chim đòi hỏi phải được tưới tiêu tăng cường. Tuy nhiên, nguồn
cung cấp điện trong mùa hè không ổn định và không có đủ máy bơm để tưới cho các ruộng.
Ông Siddimallaiah lúc đó đã hoàn toàn thất vọng. Ở cái tuổi của ông cũng khó được người ta thuê mướn trong
làng, hay dù ông có đi chỗ khác cũng khó kiếm được việc. Cả gia đình sáu miệng ăn nhà ông trông cậy cả vào mấy
thửa ruộng. Ông càng chán nản hơn khi không có tiền trang trải nợ nần vay mượn để mua thóc giống, phân bón và
thuốc trừ sâu.
Chính lúc này ông nhận thấy các thửa ruộng áp dụng phương pháp SRI vẫn tốt tươi dù có rất ít nước. Các ngày
sau đó, sự khác biệt giữa thửa ruộng SRI và ruộng trồng tập quán càng rõ ràng. Lúa SRI tiếp tục phát triển chỉ cần
rất ít nước trong khi lúa tập quán ngày càng khô héo. Khi thu hoạch lúa, thông thường ông gặt được 30 bao
thóc/acre (70kg/bao), nhưng mùa này thóc lép nên ông đành bán làm thức ăn cho gia súc. Tuy nhiên, dù khô hạn
nhưng thửa áp dụng SRI vẫn cho năng suất 35 bao (70kg/bao).
Thành công của ông Siddimallaiah đã thu hút sự tham gia của hàng trăm nông dân đến với các khóa tập huấn đầu
tiên về phương pháp SRI.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


28 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
TÓM TẮT

Khuyến nghị

D
o lúa gạo đóng vai trò là nguồn cung cấp lương những lợi ích mà SRI mang lại; đưa SRI vào các chiến lược
thực chủ yếu và được canh tác trên diện tích phát triển của quốc gia và đảm bảo các chính sách và
tưới tiêu lớn nên các lợi ích tiềm năng của việc nguồn ngân sách hỗ trợ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông
áp dụng SRI đem lại là rất lớn tại các nước trên nghiệp và Thủy lợi, các cơ quan nghiên cứu, các tổ chức
thế giới. Những lợi ích này không chỉ dừng lại ở khuyến nông, các trường đại học nông nghiệp và các tổ
việc cung cấp chất dinh dưỡng và đảm bảo an ninh lương chức xã hội dân sự.
thực cho các quốc gia đang phát triển và cho người nghèo ŸCác tổ chức tài trợ song phương và đa phương cần
mà SRI còn đem lại những lợi ích to lớn cho môi trường. tăng cường viện trợ thông qua hình thức vốn vay hoặc viện
Những lợi ích này có được nhờ giảm lượng nước tưới, và trợ hỗ trợ nông dân áp dụng SRI và các kỹ thuật tiến bộ
nhờ vậy giúp giảm lượng phát thải khí nhà kính, đặc biệt là khác. Tài trợ có thể dưới hình thức hỗ trợ kỹ thuật trong
khí CH4, khí này được tạo ra từ những ruộng lúa ngập nước công tác thiết kế và triển khai dự án, xây dựng năng lực cho
quanh vụ. Một lợi ích quan trọng không kém của SRI là cắt tất cả các cấp để áp dụng SRI trên diện rộng và hỗ trợ được
giảm sử dụng chất hóa học (phân bón và thuốc trừ sâu), thực hiện thông qua hợp tác với các đối tác trong các khu
giúp hạn chế tình trạng ô nhiễm gây ảnh hưởng đến sức vực công, tư nhân và phi chính phủ.
khỏe của con người và tính bền vững của các hệ thống sản ŸCác tổ chức nghiên cứu quốc gia và quốc tế cần tiến
xuất hiện nay. hành xem xét, tài liệu hóa và đưa vào sử dụng các kết quả
SRI chính là một cơ hội chín muồi, không đòi hỏi những liên quan đến SRI, trong đó chỉ rõ kết quả đạt được ở các
khoản kinh phí đầu tư lớn cho cơ sở hạ tầng và công tác địa phương cụ thể. Có rất nhiều sự bổ trợ lẫn nhau giữa
nghiên cứu. Nông dân có thể sản xuất thêm lương thực cho cách tiếp cận theo phương thức quản lý và tiếp cận theo di
gia đình họ, đồng thời cải thiện thu nhập chỉ trong vòng từ truyền. SRI đã chứng minh tính hiệu quả trên tất cả các
một đến hai vụ. Với khoản kinh phí đầu tư thấp phương giống lúa địa phương và các giống cải tiến được lựa chọn
pháp SRI đã đem lại hiệu quả trong việc tăng năng suất và thử nghiệm trong điều kiện tưới tiêu đầy đủ. Để tìm hiểu
đồng thời cắt giảm lượng nước tưới tiêu và các nguyên liệu thêm về các điều kiện canh tác SRI, các nhà khoa học cần
đầu vào khác. Các khoản hỗ trợ công tác tập huấn và nhân tiến hành triển khai chọn lựa các giống lúa trồng trong các
rộng mô hình có thể được huy động một phần từ các khoản chế độ ẩm gián đoạn khác nhau và mật độ cấy thưa đặc
trợ cấp phân bón và điện chạy máy bơm hiện nay. trưng của phương pháp SRI.
Tuy nhiên, để nhận thức một cách đầy đủ những lợi ích mà ŸOxfam, Africare, WWF, các tổ chức phi chính phủ và tổ
SRI đem lại cho con người cũng như cho hệ sinh thái thì việc chức xã hội dân sự khác ủng hộ SRI cần tiếp tục chia sẻ
mở rộng mô hình là rất quan trọng. Thông qua việc áp dụng kinh nghiệm, kiến thức và năng lực với các tổ chức khác
SRI và một số phương pháp tương tự trên phạm vi rộng, nhằm tạo ra sự tiến bộ đổi mới trong ngành nông nghiệp, có
Chính phủ các nước có thể cắt giảm dòng ngân sách dùng thể thông qua các mạng lưới hợp tác cấp khu vực, bắt đầu
cho nhập khẩu lương thực, cũng như cắt giảm những trợ từ những quốc gia được đề cập trong bản Báo cáo này.
cấp cho ngành nông nghiệp. Chính phủ không cần đầu tư ŸCác đối tác thuộc khu vực tư nhân, ví dụ như các đại lý
xây dựng những hệ thống cấp nước mới rất tốn kém và bán buôn, bán lẻ, các nhà phân phối và các công ty lương
giảm các chi phí khác như chi cho tranh chấp nước và suy thực quốc tế nên đẩy mạnh chuyển sang phương pháp SRI
thoái môi trường. bằng cách thay đổi các loại gạo thường nhập mua, chẳng
Một ví dụ đưa ra là Chính phủ Ấn Độ đã phân bổ 40 triệu đô hạn từ 10-25% là gạo SRI. Gạo sản xuất theo phương pháp
la Mỹ (khoảng 8 đô la/ha) để mở rộng mô hình SRI trên diện SRI tại một số quốc gia hiện đã thu hút sự quan tâm trên một
tích 5 triệu hec-ta trồng lúa tại các huyện có tỷ lệ nghèo cao số thị trường trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp vừa
trong Chương trình An ninh Lương thực Quốc gia. Những và nhỏ chuyên sản xuất, giới thiệu và cung cấp dịch vụ đối
dữ liệu từ các mô hình thí điểm do Đại học Nông nghiệp với dụng cụ cào cỏ bằng tay và một số công cụ khác cũng có
Tamil Nadu cung cấp cho thấy tại lưu vực sông thể nắm bắt cơ hội này. Ngành công nghiệp sản xuất phân
Tamiraparani năm 2004, SRI đã giúp tăng thu nhập ròng từ bón cần xem xét lại các sản phẩm và khuyến cáo với nông
242 đô la Mỹ/ha lên 519 đô la Mỹ/ha. Như vậy, mặc dù tổng dân trồng lúa quy mô nhỏ nên áp dụng phương pháp SRI.
chi phí đầu tư cao hơn gấp 3 lần nhưng tỷ lệ lợi nhuận thu
được của SRI là 10:1
CÁC YÊU CẦU CƠ BẢN
Chúng tôi khuyến nghị tất cả các nước sản xuất lúa gạo Các chương trình mở rộng phương pháp SRI trên diện rộng
nên mở rộng áp dụng SRI, với mục tiêu đến năm 2015 có cần quan tâm đến những cơ hội và thách thức sau:
ít nhất 25% hệ thống canh tác lúa nước hiện nay chuyển Đào tạo và nhân rộng: Với SRI, những gì được tăng cường
sang áp dụng SRI, trong đó tất cả các đề án mới về hệ là kiến thức, kỹ năng và cách thức quản lý, chứ không phải
thống tưới tiêu cần được thiết kế nhằm hỗ trợ SRI, có khả số lượng nguyên liệu đầu vào được sử dụng. Các hoạt động
năng cung cấp nước ít hơn cho lúa nhưng vẫn đảm bảo thử nghiệm kiểm chứng, tập huấn và mở rộng mô hình là tất
độ tin cậy. yếu. Các lớp học đồng ruộng có sự tham gia của người dân
đã tỏ ra rất có hiệu quả trong việc giới thiệu về SRI. Các
chiến lược nhân rộng như tăng cường năng lực cộng đồng,
hỗ trợ nông dân để họ có thể quyết định cách thức quản lý
CÁC BÊN LIÊN QUAN CÓ THỂ LÀM GÌ mùa vụ theo các điều kiện cụ thể của địa phương, được
chấp nhận hơn cách tiếp cận truyền thống từ trên xuống như
Để đạt được mục tiêu này, một yêu cầu đặt ra là các cơ quan
trước đây. Ngoài ra, các chương trình phải được thiết kế phù
Chính phủ, các tổ chức tài trợ, các viện nghiên cứu và xã hội
hợp với từng nền văn hóa và các nhóm trong cộng đồng, bao
dân sự cần phối hợp cùng nhau để các khoản đầu tư cho
gồm cán bộ khuyến nông, phụ nữ, nông dân, người làm
nông dân được sử dụng một cách hiệu quả nhất.
công trong nông nghiệp, điền chủ và các nhà cung cấp nông
Ÿ Chính phủ các nước đang phát triển cần cân nhắc nghiệp.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 29
TÓM TẮT

Quản lý thủy lợi: Nếu muốn tiết kiệm tối đa và tối ưu hóa
tính hiệu quả của việc sử dụng nước Chính phủ cần đầu tư
nhiều hơn cho công tác kiểm soát việc phân phối nước.
Công tác kiểm soát bao gồm việc thiết kế và kiểm soát dự trữ
nước, kênh mương trên đồng và hệ thống tiêu nước. Công
tác này đòi hỏi những cải cách về thể chế và xây dựng năng
lực cho cán bộ để hỗ trợ việc phân bổ và phân phối nước
đúng lúc và kịp thời.
Các công cụ và đầu vào: Dụng cụ cào cỏ là một công cụ
quan trọng nhằm tăng tối đa năng suất cây trồng và tăng tính
hiệu quả của các nguyên liệu đầu vào khi áp dụng SRI.
Không có dụng cụ cào cỏ nào phù hợp với mọi loại đất và các
điều kiện của địa phương. Việc thiết kế và cung cấp đầy đủ
dụng cụ cào cỏ và các dụng cụ tiết kiệm công lao động khác
được thực hiện ở mỗi địa phương là rất cần thiết. Việc tăng
cường khả năng tiếp cận các loại sinh khối phù hợp và tìm
hiểu cách thức kết hợp phân vô cơ và hữu cơ cũng rất quan
trọng. Nó giúp cải thiện chất lượng đất và giảm sự phụ thuộc
vào các loại hóa chất nông nghiệp. Việc sử dụng các loại
phân dưới dạng viên hay bánh là một ví dụ điển hình để tăng
hiệu quả của việc bón phân hữu cơ.
Nghiên cứu: Nghiên cứu đóng một vai trò cực kỳ quan trọng
trong việc khai thác lợi ích kinh tế và xã hội của phương pháp
SRI vì trong suốt thập kỷ qua các nghiên cứu trong nông
nghiệp chủ yếu tập trung nguồn lực cho công tác cải tiến di
truyền mà không chú trọng đến việc nghiên cứu cách thức
quản lý mùa vụ. Sự tham gia của nông dân cần đóng một vai
trò quan trọng trong công tác nghiên cứu. Một số đề tài
nghiên cứu quan trọng bao gồm:
Ÿ Áp dụng SRI cho các vùng sinh thái cụ thể, bao gồm
khoảng cách cấy và cấu trúc, phân bón và chất lượng đất,
tiết kiệm công lao động.
ŸKhả năng thích ứng và phục hồi của hệ thống canh tác áp
dụng SRI so với phương pháp tập quán do tính đa dạng di
truyền lớn hơn.
ŸCác nghiên cứu dài hạn về phát triển của sâu hại và dịch
bệnh, đặc biệt về cấu trúc và chất lượng đất và điều kiện
của đất.
ŸĐo đạc lượng phát thải khí nhà kính từ việc áp dụng cách
thức quản lý SRI để thấy được đóng góp của nông dân SRI
trong việc giảm phát thải khí nhà kính.
ŸÁp dụng SRI trên các loại cây trồng khác.
Sức khỏe và dinh dưỡng: Phương pháp SRI đóng vai trò
quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng. SRI có thể trở thành
một phần trong các chiến lược quản lý bệnh sốt rét nhờ giảm
lượng nước ứ đọng trong ruộng. Một nghiên cứu các kinh
nghiệm trong 80 năm qua về chế độ tưới tiêu gián đoạn trong
canh tác lúa cho thấy SRI giúp giảm một cách đáng kể mật
độ vec-tơ gây bệnh sốt rét nhờ hạn chế sự phát triển của ấu
trùng (Keiser et al. 2002). Tại một số nước châu Á, đặc biệt là
ở Băng-la-đét, người dân dễ bị nhiễm thạch tín khi ăn cơm,
thạch tín là một loại độc tố kim loại gây ung thư và một số căn
Có thể nhân rộng nhanh SRI trên quy mô lớn bằng cách phải bệnh khác. Cây lúa hấp thu chất thạch tín từ các nguồn nước
đảm bảo trong các chương trình tập huấn vai trò quan trọng
của người phụ nữ được công nhận (ảnh trên cùng); tăng cường tưới tiêu bị nhiễm độc lấy từ các giếng khoan. Trong một
các hệ thống thủy lợi phục vụ cho công tác phân bổ nước tốt nghiên cứu năm 2008 (Xu et al.), các nhà khoa học đã phát
hơn (ảnh giữa) và đảm bảo việc người nông dân có thể tiếp cận hiện ra rằng lúa được trồng trong điều kiện háo khí (khi áp
với dụng cụ làm cỏ và một số công cụ giúp tiết kiệm sức lao dụng SRI) chứa lượng thạch tín thấp hơn 10-15 lần so với
động khác (ảnh dưới bên trái). Tăng cường nghiên cứu cũng lúa trồng trong các điều kiện ngập nước. Các nghiên cứu
đóng một vai trò quan trọng, bao gồm nghiên cứu những tiềm cũng chỉ ra nhiều giống lúa được nông dân áp dụng SRI
năng của việc áp dụng SRI trên các loại cây trồng khác. Tại Ấn thường sử dụng có hàm lượng sắt, prô-tê-in và một số chất
Độ, SRI đã được áp dụng trên cây mía (ảnh dưới bên phải) dinh dưỡng khác cao hơn. Người tiêu dùng ở cả nông thôn
thông qua Chương trình sáng tạo cho cây mía bền vững của và thành thị có thể khai thác thêm các lợi ích của SRI. (Frei
WWF-ICRISAT cho năng suất cao hơn và tiết kiệm nước hơn. và Becker 2005).

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


30 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
TÓM TẮT

Các lợi ích nhờ áp dụng SRI


Đối với các hộ gia đình nông thôn
Ÿ Với cùng một diện tích,
SRI giúp có thêm lương
thực để ăn và dư ra để
bán
Ÿ Thu nhập cao hơn, chi
phí thấp hơn
Ÿ Tiết kiệm nước
Ÿ Giảm sự phụ thuộc vào
các nguyên liệu đầu vào
như giống, phân bón,
thuốc trừ sâu
Ÿ Các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và đa dạng
sinh học được cải thiện,
hệ thống nông nghiệp
chất lượng hơn
Ÿ Giảm tính dễ tổn thương
và các nguy cơ
SRI
{

Cuộc sống người


nông dân được cải thiện

Đối với quốc gia


Ÿ Đảm bảo an ninh lương thực
Ÿ Cải thiện sinh kế nông thôn
Ÿ Nước tiết kiệm được từ trồng lúa được
Đối với Trái Đất
dùng cho các loại cây trồng khác, cho con
người và thiên nhiên Ÿ Không chịu nhiều sức ép trong
Ÿ Ngân sách tiết kiệm được huy động cho các việc cải tạo các khu rừng và cảnh
dự án nước sạch khác quan khác thành đất nông nghiệp
Ÿ Tiết kiệm ngân sách nhập khẩu gạo, năng Ÿ Xóa đói giảm nghèo
lượng và các trợ cấp phân bón Ÿ Hệ sinh thái được cải thiện, gồm
Ÿ Chất lượng đất và nước được cải thiên nhờ có đất, nước và khí hậu
hạn chế sử dụng phân hóa học và thuốc trừ Ÿ Giảm phát thải khí nhà kính, đặc
sâu biệt là mê-tan
Ÿ Ít tổn thương hơn đối với hiện tượng đồng Ÿ Giảm suy thoái môi trường
nhất di truyền Ÿ Giảm tình trạng mất đa dạng sinh
Ÿ Cộng đồng nông thôn có khả năng thích học trên cây trồng vật nuôi từ ô
ứng cao hơn nhiễm đất và nước
{

Ÿ Giảm các xung đột về đất và nước


{

Cuộc sống cộng đồng


được cải thiện
Hành tinh tốt đẹp hơn

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 31
Tài liệu tham khảo
KHÁI QUÁT BÁO CÁO QUỐC GIA
Tính phù hợp của SRI với BĐKH Giới thiệu các Báo cáo quốc gia
Ghosh, B.C. và R. Bhat (1998). Những thảm hoạ môi trường của Báo cáo tổng kết của các quốc gia dưới đây (trong đó một số
phân đạm đối với các cánh đồng lúa nước, Ô nhiễm môi trường báo cáo được sử dụng trong Bảng “SRI giúp cải thiện khả
(Environmental Pollution), 102;1, Phụ lục 1. năng chống chịu của hộ gia đình và tăng khả năng thích ứng
Giles, J. (2005). Nghiên cứu về phân đạm làm tăng mối lo ngại về ô với Biến đổi khí hậu” - Trang 14) có trên website CIIFAD SRI
nhiễm. Tự nhiên (Nature) (24/02/2005). thuộc trang chủ: http://ciifad.cornell.edu/sri/index.html.
Nguồn tài liệu về Ấn Độ, Mali và Việt Nam được liệt kê riêng.
Glass, A.D.M. (2003). Sử dụng phân đạm một cách có hiệu quả cho
cây trồng: Những cản trở về mặt sinh lý trong hấp thụ đạm tố. Các AFGHANISTAN
bài phê bình quan trọng trong ngành Thực vật học. 22 (5) 453-470. Thomas, Vincent và Ali Muhammad Ramzi (2009). Hệ thống
Thâm canh lúa cải tiến (SRI) 2009 : Các kết quả và khuyến
IRRI. Thống kê lúa gạo thế giới. nghị của chiến dịch. Hệ thống quản lý thủy nông có sự
Iswandi, A.D.K., B. Kalsim, I. Setiawan, Yanuar, và S. Herodian tham gia (PMIS). Tổ chức Aga Khan -Afghanistan, Kabul.
(2009). BANGLADESH
Đôi nét đặc trưng về nghiên cứu SRI tại In-đô-nê-xi-a, Đại học Nông Husain, A.A.M. et al. (2004). Báo cáo đánh giá cuối cùng về
nghiệp Bogor (IPB). PowerPoint được trình bày tại Hội thảo của Bộ sự kiểm chứng và chọn lọc Hệ thống Thâm canh lúa cải
Nông nghiệp, Jakarta, 13/06/2008 tiến (SRI) tại các khu vực được lựa chọn của Bangladesh
IWMI (2007). Lúa gạo:Cung cấp lương thực cho hàng tỷ con người, (SP 36 02). Báo cáo được trình IRRI/Bangladesh, Dhaka,
Chương 14, trong sách Nước cho lương thực, nước cho cuộc tháng 06.
sống: Đánh giá toàn diện về quản lý thủy lợi trong nông nghiệp CAM-PU-CHIA
(Water for Food, Water for Life: A Comprehensive Assessment of Anthofer, Jürgen (2004). Tiềm năng của Hệ thống Thâm
Water Management in Agriculture). Earthscan, Lon-don, và Viện canh lúa cải tiến (SRI) trong công tác giảm nghèo tại Cam-
Quản lý Nguồn nước Quốc tế, Colombo. Tại website pu-chia. Deutscher Tropentag, Tháng 10 5-7, Humboldt-
http://www.iwmi.cgiar.org/Assessment/ Universität zu Berlin. (http://www.tropentag.de/2004
Nelson, G. et al. (2009). Biến đổi khí hậu: Tác động đối với ngành /abstracts /full / 399.pdf )
nông nghiệp và các chi phí thích ứng (Climate Change: Impact on TRUNG QUỐC
Agriculture and Costs of Adaptation). Viện Nghiên cứu Chính sách Li, X., X.L. Xu và H. Li (2004). Đánh giá kinh tế xã hội về Hệ
Lương thực Quốc tế: Washington, D.C. thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) : Một trường hợp ở làng
http://www.ifpri.org/sites/default/files/publications/pr21.pdf Xinsheng, hạt Jianyang, tỉnh Tứ Xuyên. Đại học Phát triển
Nguyen, V.T., Q.T. Nguyen và V.A. Nguyen (2007). Ảnh hưởng của và Nhân văn, Đại học Nông nghiệp, Bắc Kinh.
phương thức quản lý thủy nông đối với vấn đề phát thải khí mê-tan GAMBIA
tại Khu vực đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Ban Quản lý đê điều Ceesay, M., W.S. Reid, E.C.M. Fernandes và N. Uphoff
Trung ương Việt Nam [www.vncold.vn] (2006).Những ảnh hưởng của việc thường xuyên tháo
Rashid H., R. Scholes, và N. Ash, eds. (2005). Các hệ sinh thái và nước, bơm nước vào ruộng của Hệ thống Thâm canh lúa
cuộc sống của con người: Tình trạng và các xu hướng hiện nay cải tiến (SRI). Tạp chí quốc tế về Nông nghiệp bền vững
(Ecosystems and Human Well-Being: Current State and Trends). (International Journal of Agricultural Sustainability), 4,5 -
Loạt đánh giá hệ sinh thái thiên niên kỷ. Tập 1. 14.
http://www.milenniumassessment.org/en/Index.aspx IN-ĐÔ-NÊ-XI-A
SIWI, IFPRI, IUCN, IWMI (2005). Hãy chế ngự: Mô hình nước mới Sato, S. và N. Uphoff (2007). Tổng kết những đánh giá về Hệ
cho an ninh lương thực toàn cầu. Báo cáo cuối cùng trình CSD-13. thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) ở khu vực phía Đông In-
Viện Nước sạch Quốc tế Stockholm, Stockholm. đô-nê-xi-a. Tổng kết của CAB: Những triển vọng trong
Khoa học nông nghiệp, thú y, dinh dưỡng và tài nguyên
Smith, K. (2009 ). Quan điểm: Biện pháp kiểm soát mê-tan trước khi
thiên nhiên, (CAB Reviews: Perspectives in Agriculture,
địa công trình bị đe dọa. Nhà khoa học mới (New Scientist) (25/06).
Veterinary Science, Nutrition and Natural Resources, 2. Tổ
UNEP (2008). Biểu đồ nước thiết yếu – Khái quát về tình hình các chức Nông nghiệp khối thịnh vượng chung quốc tế,
khu vực nước ngọt và biển trên thế giới. Xuất bản lần thứ 2. UNEP, Wallingford, UK.
Nairobi, Kenya. Cook, G. (2009). Cập nhật tình hình về Aceh: Lúa gạo bội thu
http://www.grida.no/publications/vg/water2/. ở Aceh. Caritas News. Spring, trang. 10-11.
Vergé, X.P.C., C. De Kimpe, và R.L. Desjardins (2007). Sản xuất IRAQ
nông nghiệp, phát thải khí nhà kính và tiềm năng giảm thiểu. Khí Hameed, K. và F.A. Jaber (2009). Tình hình triển khai Hệ
tượng học trong nông nghiệp và rừng (Agricultural and Forest thống Thâm canh lúa cải tiến tại I-rắc trong năm 2008.
Meteorology), 142, 255-269. Trạm nghiên cứu lúa gạo Al-Mishkhab. Najaf.
Viện Nghiên cứu các nguồn lực Thế giới (WRI). Các bảng dữ liệu LÀO
thông tin về môi trường. Các nguồn nước ngọt năm 2005. Vongsakid, S. (2007). Báo cáo về Công tác phát triển SRI
http://earthtrends.wri.org/pdf_library/data_tables/wat2_2005.pdf của Oxfam Úc (OAus). Báo cáo của Cán bộ phụ trách nông
Yan, X., H. Akiyama, K. Yagi và H. Akomoto (2009). Những đánh giá nghiệp trình Oxfam Úc, Viên-chăn.
trên toàn cầu về lượng tích trữ và giảm nhẹ mối nguy cơ phát thải MY-AN-MA
khí mê-tan từ hoạt động canh tác lúa trong năm 2006. Kênh liên Kabir, H. và N. Uphoff (2006). Những kết quả về phổ biến Hệ
Chính phủ về những chỉ dẫn đối với Biến đổi khí hậu. Các chu trình thống Thâm canh lúa cải tiến áp dụng phương pháp các
hóa sinh trên toàn cầu (Global Biochemical Cycles), 23 lớp học đồng ruộng tại phía Bắc My-an-ma. Nông nghiệp
(doi:10.1029/2008GH003299). thực nghiệm (Experimental Agriculture), 43, 463-476.
Zhao, L.M., L.H. Wu, Y.S. Li, X.H. Lu, D.F. Zhu và N. Uphoff (2009). NÊ-PAN
Tác động của Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến đối với sản lượng lúa Uprety, R. (2005). Triển khai Hệ thống Thâm canh lúa cải
và tính hiệu quả trong sử dụng nước và phân đạm với những tỷ lệ tiến (SRI) tại huyện Morang trong vụ chính năm 2005.
áp dụng N khác nhau. Nông nghiệp thực nghiệm (Experimental Phòng Phát triển nông nghiệp huyện, Biratnagar, Morang.
Agriculture), 45, 275 -286.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


32 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
Phụ lục
Tóm tắt đánh giá tác động của SRI tại 8 quốc gia

Quốc gia (N) Tổ chức Sản lượng tăng Tiết kiệm nước Giảm chi phí Thu nhập tăng
đánh giá (%) (%) trên mỗi hec-ta(%) trên mỗi hec-ta (%)

BĂNG-LA-ĐÉT 1,073 # IRRI-BD/


(2002-04) BRAC, SAFE, 24 NM 7 59
Syngenta BD
CAM-PU-CHIA
(2004) 500* GTZ 41 RF 56 74
(2004) 120** CEDAC 105 50 44 89
TRUNG QUỐC:
Sichuan (2004) 82* CAU 29 44 7.4a 64
ẤN ĐỘ :
Tamil Nadu (2004)100 # TNAU 28 45 11 112
Andhra Pradesh 1,535 # ANGRAU 38 40 NM NM
(2003-04)
West Bengal 108 # IWMI-Ấn Độ 32b RF 35 67
(2004)
IN-ĐÔ-NÊ-XI-A 12,112# Nippon Koei 78 40 20 100+
(2002-06 )
NÊ-PAN(2005) 412# DADO† 82 43 2.2c 163
SRI LANKA (2004) 120* IWMI-SL 44 24 12 104
VIÊT NAM ‡ Chương trình IPM quốc gia 17 33 30 23
(2007-08) (13-29 ) (8-32)

Tổng 16,162 47 40 23 6 8+

( N ) : Số lượng nông dân


NM: Không đo lường được
RF: SRI tưới bằng nước mưa ở những nơi không có hệ thống thuỷ lợi
* Dựa trên các mẫu bất kỳ
# Các kết quả dựa trên tất cả các trường hợp áp dụng SRI trong đánh giá, không phải là mẫu
* * Các kết quả theo một nghiên cứu của tổ chức phi chính phủ trên 120 nông dân đã áp dụng SRI được ba năm tính đến thời
điểm năm 2004
‡ Các kết quả thu được từ các lớp học đồng ruộng thí điểm tại 13 huyện ở Việt Nam, với sự tham gia của 1274 nông dân; tổng
số nông dân áp dụng SRI tại các huyện này trong năm 2008 là 96.544 người (Theo ghi chép của Chương trình IPM Quốc gia
của Bộ NN&PTNT Việt Nam)
† Phòng Phát triển Nông nghiệp Morang, Nê-pan
a. Các cán bộ khuyến nông khuyến khích nông dân mua giống và phân bón cải tiến trong khi áp dụng SRI.
b. Một trong số hai làng được nghiên cứu phải hứng chịu đợt hạn hán năm 2004.
c. Dụng cụ cào cỏ giúp tiết kiệm sức lao động chưa sẵn có để giúp giảm đầu vào và chi phí lao động.

Nguồn: Được liệt kê trong Uphoff ( 2007 ). Tăng lượng tiết kiệm nước đồng thời tăng sản lượng với Hệ thống Thâm canh lúa
cải tiến, trong Khoa học, Công nghệ và Thương mại cho Hoà bình và Sự thịnh vượng : Hội thảo Lúa gạo Quốc tế lần thứ 26, 9-
12 tháng 10 năm 2006, New Dehil, P.K. Aggrawal et al., trang. 353-365. Viện nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế, Los Baños, Phi-lip-
pin; Sato và Uphoff ( 2007 ), Dũng ( 2007 ), Dũng và Minh ( 2008 ).

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 33
RWANDA Cục Bảo vệ Thực vật ( 2008 ). Báo cáo: Kiểm chứng và phổ biến
IFAD (2009). Phát triển lúa gạo thành một thương hiệu nổi tiếng mô hình áp dụng SRI dựa vào cộng đồng tại tỉnh Hà Tây (cũ),
tại Rwanda. Báo cáo từ Rwanda về Sứ mệnh của Quỹ Phát Việt Nam, 2007. Chương trình IPM Quốc gia, Chi cục Bảo vệ
triển Nông nghiệp Quốc tế. IFAD, Rome. Thực vật Hà Tây, tỉnh Hà Tây (cũ).
SRI LANKA Nguyễn Xuân Nguyên và đồng sự. (Tháng 01/2010). Nghiên
Ahamed, A.R., W. G. Somaratne và M. Simmons (2007). cứu về việc áp dụng Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) ở
Nghiên cứu dựa vào người nông dân về Hệ thống Thâm canh các tỉnh miền Bắc Việt Nam của Oxfam Mỹ.
lúa cải tiến (Farmer-Based Research on the Productivity of the
System of Rice Intensification). Oxfam Úc, Colombo.
Namara, R., D. Bossio, P. Weligamage và I. Herath (2008). Kinh nghiệm của WWF về SRI tại Ấn Độ
Thực tiễn và những ảnh hưởng của Hệ thống Thâm canh lúa
cải tiến (SRI) tại Sri Lanka. Tạp chí Nông nghiệp quốc tế xuất Website SRI của Ấn Độ: www.sri-india.net
bản theo quý (Quarterly Journal of International Agriculture), Mahender K.R. et al. (2007). Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến
47, 5-23. (SRI): Chiến lược tiết kiệm nước và tăng năng suất trên các
THÁI LAN ruộng tưới tiêu (System of Rice Intensification (SRI): A Water-
Mishra, A . và P. Kumar (2009). Trao đổi kiến thức về SRI trong Saving and Productivity-Enhancing Strategy in Irrigated
khu vực Đông Nam Á: Sản lượng cao hơn, tiết kiệm nước Rice). Ban Giám đốc phụ trách nghiên cứu lúa gạo, Hội đồng
hơn. Viện Công nghệ Châu Á, Băng Cốc, Thái Lan. Báo cáo Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ, Hyderabad.
tại một hội thảo hợp tác với Ngân hàng Thế giới được tổ chức The Hindu (2009). Khảo sát ngành Nông nghiệp Ấn Độ 2009
tại AIT, 22-23 Tháng 06, năm 2009. (Survey of Ấn Độn Agriculture 2009). Bài viết của M.S.
Swaminathan, Norman Uphoff, Abha Mishra, và Biksham
Gujja về những tác động của Biến đổi khí hậu và SRI. Nhà xuất
Kinh nghiệm của Africare với SRI tại Mali bản Hindu, Chennai.
Những báo cáo này được đăng trên website: SDC/MSSRF (2009). Sự tổn thương trước Biến đổi khí hậu và
http://ciifad.cornell.edu /sri /countries /mali / index.html các kinh nghiệm thích ứng của khu vực Rajasthan và Andhra
Pradesh: Câu chuyện thực tiễn về SRI/Ấn Độ (Climate
SRI Timbuktu Blog: Change Vulnerability and Adaptation Experiences from
http://www.erikastyger.com/SRI_Timbuktu_Blog/SRI_Timbukt Rajasthan and Andhra Pradesh: SRI Case Study/Ấn Độ). Báo
u_Blog.html cáo cho Chương trình Tính tổn thương và sự thích ứng, Cơ
Africare (2008). Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) – Những quan Hợp tác và Phát triển Thụy Sỹ (SDC), New Delhi, và M.S.
kinh nghiệm ban đầu từ Timbuktu, Mali: Thí điểm SRI được Tổ chức Nghiên cứu Swaminathan, Chennai.
tiến hành bởi nông dân tại Goundam năm 2007/2008. Africare WWF-ICRISAT (2010). Lúa gạo nhiều hơn, tiết kiệm nước hơn –
Mali, Bamako. Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (More Rice with Less Water -
Styger, E. (2009). Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) – Đánh System of Rice Intensification), bản thảo lần hai. Dự án hợp
giá dựa vào cộng đồng tại Goundam và Dire Circles, tác giữa Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế và Viện Nghiên cứu
Timbuktu, Mali, 2008 /2009. Africare Mali, Bamako. Cây trồng Quốc tế về lương thực, nước và môi trường tại các
Styger, E. và H. Ibrahim (2009). Hệ thống thâm canh lúa mỳ cải khu vực nhiệt đới bán khô hạn, Hyderabad.
tiến (SWI): Thí điểm đầu tiên do nông dân tiến hành tại (http://assets.panda.org/downloads/wwf_rice_report_
Goundam và Dire, Timbuktu, Mali. Sáng kiến an ninh lương 2007.pdf )
thực Timbuktu, Africare, Bamako. WWF-ICRISAT (2008). Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến:
Styger, E., O. Aboubacrine, M. Ag Attaher, và N. Uphoff (sắp Những kinh nghiệm của nông dân Ấn Độ (System of Rice
được xuất bản). Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI) là một Intensification: Experiences of Farmers in Ấn Độ). Dự án hợp
sáng kiến nông nghiệp bền vững: Giới thiệu, áp dụng và mở tác giữa Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Quốc tế và Viện Nghiên cứu
rộng mô hình SRI tại Timbuktu, Mali. Cây trồng Quốc tế về lương thực, nước và môi trường tại các
khu vực nhiệt đới bán khô hạn, Hyderabad. (http://sri-
india.110mb.com / documents /Farmersexperiences.pdf)
Kinh nghiệm của Oxfam với SRI tại Việt Nam
Các báo cáo được đăng trên website: http://ciifad.cornell.edu TÓM TẮT
/sri /countries / Việt Nam /index.html
Dũng, N.T. (2007) . Chương trình IPM Quốc gia – Áp dụng SRI Nhận xét và khuyến nghị
trong sản xuất lúa ở khu vực sinh thái phía Bắc của Việt Nam,
được cập nhật năm 2006. Báo cáo được trình Bộ Nông nghiệp Keiser J., J. Utzinger và B.H. Singer (2002). Tiềm năng của tưới
và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Hà Nội. tiêu không liên tục trong việc tăng sản lượng, tiết kiệm nước,
Dũng, N.V. et al. (2007). Quản lý thủy lợi hiệu quả trong canh tác giảm phát thải khí mê-tan và kiểm soát bệnh sốt rét ở những
lúa và bảo tồn nguồn nước. Khoa Đất và Môi trường, Đại học cánh đồng lúa châu Phi. Tạp chí của Liên hiệp Kiểm soát côn
Nông nghiệp Hà Nội. trùng muỗi Hoa Kỳ (Journal of American Mosquito Control
Gorman, T. (2009) . SRI tại Việt Nam : Cập nhật tình hình. Báo Association), 18, 329-40.
cáo cho Oxfam Mỹ, Cục Bảo vệ Thực vật/ Bộ Nông nghiệp và Xu, X.Y., S.P. McGrath, A.A. Meharg và F.J. Zhao (2008). Canh
Phát triển Nông thôn và Trung tâm Phát triển Nông thôn Bền tác lúa trong điều kiện đất ưa khí làm giảm sự tích lũy thạch tín.
vững (SRD), Hà Nội. (http://vietnamsri.files.wordpress. Khoa học và Công nghệ Môi trường (Environmental Science
com/2009/04/vietnam _sri.pdf) and Technology), 42, 5574-5579. (http://pubs.acs.org /doi /
Dũng, N.T. và L .N . Minh (2008) . Hệ thống Thâm canh lúa cải pdfplus /10.1021/es800324u)
tiến – Mang lại tiến bộ cho các nông dân trồng lúa quy mô nhỏ Frei, M. và K. Becker (2005). Lúa gạo, đa dạng sinh học và các
Đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo cho Cục Bảo vệ thực vật/ chất dinh dưỡng. Viện Chăn nuôi khu vực nhiệt đới và cận
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Văn phòng khu nhiệt đới, Đại học Hohenheim, Stuttgart. (http://
vực Đông Nam Á, Oxfam Mỹ, Hà Nội. www.greenpeace.org/raw/content/usa/rice-biodiversity-
nutrients.pdf)

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


34 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
Các tổ chức khác hỗ trợ SRI Các nguồn khác
Dưới đây là danh sách các tổ chức phi chính phủ quốc tế và các Website
cơ quan tài trợ đã có đóng góp cho công tác đánh giá và phổ Quốc tế: website được điều hành bởi Viện Lương thực, Nông
biến mô hình SRI tại nhiều quốc gia khác nhau: nghiệp và Phát triển Cornell (CIIFAD) http://ciifad.cornell.edu
Liên hiệp Cứu trợ và Phát triển Thiên chúa giáo (Adventist /sri /. Tính đến thời điểm Tháng 07/2010:
Development and Relief Association) (Cam-puchia, In- http://sri.ciifad.cornell.edu.
đô-nê-xi-a, Madagascar) Cam-pu-chia: www.foodsecurity.gov.kh/sri /
Tổ chức Aga Khan (Aga Khan Foundation) (Afghanistan, Madagascar: http://tefysaina.org /;
Madagascar)
http://groupementsrimada.org /en / index.php
Ủy ban Hữu nghị Hoa Kỳ (American Friends service
committee) (DPRK ) Ấn Độ : ICRISAT-WWF Project www.sri-india.net/; WASSAN
www.wassan.org /sri/
Better U Foundation (Madagascar, Mali)
Việt Nam: http: //vietnamsri.wordpress.com /
Care (Bangladesh)
Ngân hàng Thế giới: http: //vle.worldbank.org /moodle /course
Caritas-Cộng hòa Séc (In-đô-nê-xi-a) /view.php?id = 402
Tổ chức Cứu trợ Công giáo (Catholic Relief Services) (CRS
) (Madagascar)
Các đoạn băng ghi hình
Ban Phát triển Quốc tế (Department for International
Development), Vương quốc Anh (DFID ) (Nê-pan) Thách thức Tập quán, Thay đổi Cuộc sống (Challenging
Traditions, Transforming Lives): www.youtube.com/watch?v
Các tổ chức xóa đói (ecHo) (Thái Lan) =GvibR3hiNac
Ủy ban Châu Âu (Afghanistan, Cam-pu-chia) Đối chiếu phương pháp canh tác lúa tập quán và canh tác SRI
Groupe de Recherche et d'Échanges technologiques tại Jharkhand (Comparison of Traditional Paddy Cultivation
(GRET ) (Myanma) and SRI in Jharkhand) [Ấn Độ ]:
Cơ quan Hợp tác Kỹ thuật Đức (German Agency for http://www.youtube.com/watch?v =7yHHRworSgU
technical cooperation) (GTZ) (Cam-pu-chia) Living Labs: Lưu vực đồng bằng Sông Mê-kong:
Trung tâm Phát triển Vùng cao Quốc tế (International http://www.youtube.com/watch?v =b31LgNMu-hg
centre for Integrated Mountain Development) (ICIMOD ) Sistema Intensivo de Cultivo Arrocero: http://ciifad.cornell.edu
(Nê-pan, Pakistan) /sri /countries / cuba /SICAenglish.wmv (36 phút, phụ đề tiếng
Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế (International Anh).
Development Research centre) (IDRC ) (Panama) Ngân hàng Thế giới. Khái quát SRI – Tăng sản lượng lúa gạo,
Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (International Fund for tiết kiệm nước (Overview of SRI - Improving Rice Productivity
Agricultural Development) (IFAD ) (Rwanda) and Achieving Water Savings): http://info.worldbank.org
/etools /docs / library / 245848 /overview.html
Viện Kiến thiết Nông nghiệp Quốc tế (International Institute
for Rural Reconstruction) (Phi-lip-pin) Báo cáo nghiên cứu
Tổ chức Di cư Quốc tế (International organization of Adhikari, P., D. Sen và N. Uphoff (2010). Hệ thống thâm canh
Migration) (I-rắc) lúa cải tiến là một phương pháp bảo tồn các nguồn lực: Đóng
Tình nguyện viên quốc tế Nhật Bản (Japan overseas góp cho an ninh lương thực trong bối cảnh Biến đổi khí hậu.
Volunteer corps) (Lào, Việt Nam) SATSA Mukhapatra, Ấn bản kỹ thuật thường niên, Tập. 14.
Các Quỹ từ thiện LDs (Cam-pu-chia) Liên hiệp Kỹ sư nông nghiệp, Kolkata, Tây Bengal.
Câu lạc bộ Lions Quốc tế (Lions club International) Chapagain, T. và E. Yamaji (2009). Những ảnh hưởng của
(Madagascar-Ambatondrazaka) phương pháp tưới tiêu, tuổi mạ non và khoảng cách cấy đối
với sản lượng lúa gạo và lượng nước tưới ở Nhật Bản. Đồng
Mercycorps (sri Lanka) ruộng và Nguồn nước (Paddy and Water Environment). Ấn
Nippon Koei (In-đô-nê-xi-a, Lào) bản điện tử của Springer (DOI :10.1007/s10333-009-0188-4)
Oxfam (Bangladesh, Cam-pu-chia, Lào, Phi-lip-pin, DOI 10.1007/s10333-009-0187-5).
Sri-lanka, Việt Nam) Gujja, B. và T.M. Thiyagarajan (2009). Triển vọng mới cho an
Pro-net 21 (Lào) ninh lương thực Ấn Độ? Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (New
Hope for Indian Food Security? The System of Rice
Rotary Quốc tế (Rotary International) (France-Lille, In-đô- Intensification). Viện Phát triển Môi trường Quốc tế, London,
nê-xi-a-Ubud) UK.
Sir Dorabji tata trust (Ấn Độ ) Mahender Kumar, R. et al. (2007). Hệ thống thâm canh lúa cải
Tổ chức syngenta Phát triển Nông nghiệp Bền vững tiến (SRI): Chiến lược tiết kiệm nước và tăng năng suất trên
(syngenta Foundation for sustainable Agriculture) (Ấn các ruộng tưới tiêu (System of Rice Intensification (SRI):
Độ, Mali) Water-Saving and Productivity-Enhancing Strategy in
Quỹ Á châu (Asia Foundation) (DPRK ) Irrigated Rice). Ban Giám đốc phụ trách nghiên cứu lúa gạo,
Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ, Hyderabad, Ấn Độ.
Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa kỳ (U.S. Agency for
International Development) (sierra Leone) Mishra, A., M. Whitten, J.W. Ketelaar và V.M. Salokhe (2006).
Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI): Thách thức đối với
U.S. Peace corps (Madagascar)
ngành khoa học và cơ hội đối với người nông dân trong nông
Vredeseilanden (Veco) (In-đô-nê-xi-a, Việt Nam) nghiệp bền vững. Tạp chí Quốc tế về Nông nghiệp Bền vững
Ngân hàng Thế giới (Ấn Độ /Tamil Nadu) (International Journal of Agricultural Sustainability), 4, 193-
Viện Ngân hàng Thế giới (Kenya, Thái Lan) 212.
Giáo dục Thế giới (World education) (In-đô-nê-xi-a) Mishra, A. và V.M. Salokhe (2008). Đặc tính của mạ non và sự
sinh trưởng sớm của cây lúa được cấy trong những chế độ
Tầm nhìn Thế giới (World Vision) (sierra Leone, sri Lanka, tưới tiêu khác nhau. Nông nghiệp thực nghiệm (Experimental
Việt Nam) Agriculture), 44, 1-19.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH 35
Mishra, A. và V.M. Salokhe (2010). Những ảnh hưởng của Thiyagarajan, T.M. et al. (2002). Những ảnh hưởng của SRI lên
phương thức trồng và điều kiện tưới tiêu lên hình thái, chức lúa lai tại Tamil Nadu, Ấn Độ, in B.A.M. Bouman et al., eds.,
năng bộ rễ và sản lượng lúa. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Sản xuất lúa gạo tiết kiệm nước: Hội thảo quốc tế về sản xuất
và Cây trồng (Journal of Agronomy and Crop Science). (DOI : lúa gạo tiết kiệm nước (Water-wise Rice Production:
10.1111/j.1439-037X.2010.00421.x) Proceedings of the International Workshop on Water-wise
Satyanarayana, A., T.M. Thiyagarajan và N. Uphoff (2006). Các Rice Production, April 8-11, 2002, pp. 119-127. Viện nghiên
cơ hội tiết kiệm nước và cho sản lượng cao hơn với Hệ thống cứu lúa gạo Quốc tế, Los Baños, Philippines.
Thâm canh lúa cải tiến. Khoa học Thủy lợi (Irrigation Science), Uphoff, N., I. Anas, O.P. Rupela, A.K. Thakur và T. M.
38, 99-115. Thiyagarajan (2009). Nghiên cứu về những tương tác vi
Shambu Prasad, C. (2006). Hệ thống thâm canh lúa cải tiến: khuẩn tích cực của Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến (SRI).
Lịch sử sáng kiến và những thay đổi về thể chế (The System of Các lĩnh vực trong sinh học áp dụng (Aspects of Applied
Rice Intensification: Innovation History and Institutional Biology), 98, 29-54.
Challenges). Dự án đối thoại WWF-ICRISAT, Hyderabad. Uphoff, N. và A. Kassam (2009). Trường hợp điển hình: Hệ
Shambu Prasad, C., K. Beumer và D. Mohanty (2007). Học hỏi thống Thâm canh lúa cải tiến, trong Công nghệ Nông nghiệp
mô hình SRI ở Orissa (Towards a Learning Alliance: SRI in cho các quốc gia đang phát triển (Agricultural Technologies
Orissa). Xavier Institute of Management, for Developing Countries), Báo cáo Cuối cùng, Phụ lục 3.
Quốc hội Châu Âu, Brussels.
Bhubaneswar và Dự án đối thoại WWF-ICRISAT, Hyderabad,
Ấn Độ. Uphoff, N. (2007). Tăng tiết kiệm nước và gia tăng sản lượng
với Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến, in P.K. Aggrawal et al.,
Sinha, S.K. và J. Talati (2007). Những tác động lên sản lượng eds., Khoa học, Công nghệ và Thương mại cho Hòa bình và
của Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI): Câu chuyện thực sự thịnh vượng: Hội thảo lúa gạo lần thứ 26, 9-12 Tháng 10,
tiễn ở Tây Bengal, Ấn Độ. Quản lý Thủy nông (Agricultural 2006 (Science, Technology and Trade for Peace and
Water Management), 87, 55-60. Prosperity: Proceedings of the 26th International Rice
Stoop, W.A., N. Uphoff và A. Kassam (2002). Tổng hợp nghiên Congress, 9-12 October, 2006), New Delhi, pp. 353-365.
cứu các vấn đề trong nông nghiệp liên quan đến Hệ thống International Rice Research Institute, Los Baños, Philippines.
Thâm canh lúa cải tiên (SRI) tại Madagascar: Các cơ hội tăng Uphoff, N. (2007). Giảm tính tốn thương của các hộ gia đình
cường hệ thống các nguồn lực cho người nông dân nghèo. nông thôn thông qua sinh thái nông học: Hệ thống Thâm canh
Các hệ thống Nông nghiệp (Agricultural Systems), 71, 249- lúa cải tiến (SRI). Mondes en Développement, 35, 85-100.
274.
Zhao L.M., L.H. Wu, Y. Li, S. Animesh, D.F. Zhu và N. Uphoff
Thakur, A.K., N. Uphoff và E. Antony (2010). Đánh giá về những (2010). Đối chiếu sản lượng, tính hiệu quả sử dụng nguồn
ảnh hưởng về tâm lý của Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến nước và sinh khối đất của Hệ thống Thâm canh lúa cải tiến.
(SRI) so với các phương pháp canh tác được khuyến nghị tại Truyền thông trong Khoa học đất và Phân tích cây trồng
Ấn Độ. Nông nghiệp thực nghiệm (Experimental Agriculture), (Communications in Soil Science and Plant Analysis), 41,1-
46, 77-98. 12.

NHIỀU LÚA GẠO HƠN CHO CON NGƯỜI


36 NHIỀU NƯỚC HƠN CHO HÀNH TINH
Thiết kế và bố cục: Tài liệu từ:
Message Brand Advertising, Ithaca, NY
Africare
In ấn : Washington, DC, Hoa Kỳ
Suneetha Art Printers http://www.africare.org/
Hyderabad, Ấn Độ Email: info@africare.org
Ảnh: Africare Mali, Văn phòng Đại diện
Oxfam Mỹ tại Đông Nam Á, và WWF- Africare Mali
ICRISAT. Bamako, Mali
Email: Africare@africaremali.net
Xin cảm ơn:
Ảnh (tại Ấn Độ): Manisha Agarwal Oxfam America
Ảnh (tại Mali): Erika Styger Boston, Hoa Kỳ
Ảnh (tại Việt Nam): Trung tâm Phát triển http://www.oxfamamerica.org/
Nông thôn Bền vững; Elske van de Email: info@oxfamamerica.org
Fliert; Lê Nguyệt Minh ; và Cục Bảo vệ
Thực vật, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Oxfam America Văn phòng khu vực
Nông thôn, và một số tổ chức, các nhân Đông Nam Á
khác: Mei Xie, Ngân hàng Thế giới Phnôm pênh, Cam-pu-chia
(trang 8), Binju Abraham, PRADAN, Email: eastasia@oxfamemrica.org
Ranchi, Ấn Độ (trang 3), Financial
Express, New Delhi, Ấn Độ (page 9) . WWF-ICRISAT
Hyderabad, Ấn Độ
http://sri-india.net/
Email: info@sri-india.net

Chương trình Nước ngọt toàn cầu tại


Gland, Thụy Sỹ
www.panda.org
HỆ THỐNG THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN (SRI)
Góp phần đảm bảo an ninh lượng thực, tăng cường khả năng thích ứng
của nông dân với Biến đổi khí hậu và tính bền vững của môi trường

You might also like