You are on page 1of 6

Ptich những truyền thồng quý báu của ĐCSVN,những truyền thống đó được Đ ta giữ gin ntn

Trước hết phải khẳng định ĐCSVN ra đời đó là sản phẩm của lịch sử đấu tranh dân tộc
và đấu tranh giai cấp ở VN, là bước ngoặt quyết định của CMVN. Ngày 3/2/1930 ĐCSVN ra
đời, đó là sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa M-LN vào điều kiện cụ thể ở nước ta; là sự kết hợp của CNM-LN với phong trào
CN và ptrao yêu nước.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã thật sự là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công
nhân và của cả dân tộc Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ mang bản chất giai cấp
công nhân mà còn là lực lượng dẫn dắt phong trào dân tộc chân chính, một Đảng cách mạng vì
nước vì dân.
Suốt 8 thập kỉ qua, dưới sự lãnh đạo của Đ, nhân dân ta đã tiến hành cuộc CMT8 thành
công, xóa bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến lập nên nước CHXHCNVN; đánh thắng
các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tốc, thống nhất đất nước,
tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc và mở
ra 1 kỷ nguyên mới trong sự phát triển của dân tộc ta
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng tôi luyện và trưởng thành và đã
xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Trong những
truyền thống đó nổi bật nhất là 6 truyền thống cơ bản sau:
• Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.
• Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.
• Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
• Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, phải gắn bó mật thiết với nhân dân.
• Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
• Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế…
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và
rèn luyện đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thắng lợi mà
nhân dân, dân tộc ta đánh đổi bằng cả xương máu, với đường lỗi CM cứu nước đúng đắn, Đ ta
đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và tầng lớp yêu nước, xd nên lực lượng
CM to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân pháp và bọn pkien tay sai vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc.
Qua 15 năm lđạo cách mạng, trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ hy sinh, qua 3 cao trào
CM lớn ( 30-31 , 36-39 ,39-45) với khí thế CM vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử,
Đ ta đã lãnh đạo CMT8 thành công, đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân và phong kiến
tay sai thối nát.
Kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn
chiến tranh và trong những năm đầu sau khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi khảo
nghiệm sáng kiến của nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế
mới.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3/1935) đề ra chủ trương đường lối và tổ chức
hoạt động của Đảng. Đại hội đã đánh dấu sự khôi phục của tổ chức Đảng từ Trung ương đến
đại phương, thống nhất phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương
mới, đem lại niềm tin cho đảng viên và quần chúng.
Trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
III đã có nhiều Hội nghị với những Nghị quyết quan trọng, cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc
Đối với sự nghiệp cách mạng miền Nam và chống Mĩ cứu nước, Bộ Chính trị và Ban Chấp
hành Trung ương đã giành nhiều Hội nghị với những nghị quyết quan trọng để lãnh đạo và chỉ
đạo kịp thời. Hội nghị Bộ Chính trị (1/1961) ra Chỉ thị “Về phương hướng và nhiệm vụ công
tác trước mắt của cách mạng miền Nam”. Tháng 2/1962 Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về
công tác cách mạng miền Nam”. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ chín
(12/1963) bàn về “Phương hướng và nhiệm vụ cách mạng miền Nam và đường lối quốc tế
của Đảng trong tình hình mới”.
Những quyết định về phương án giải phóng miền Nam đã được Hội nghị Bộ Chính trị họp ngày
30/9 đến 8/10/1974 và từ 18/12/1974 đến 8/1/1975 thông qua trực tiếp đưa đến thắng lợi hoàn
toàn của Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đất nước thống nhất và đi lên
chủ nghĩa xã hội nhân dân cả nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa phải tiến hành chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đó là khó khăn và cũng là
thách thức mới. Các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra những chủ trương,
biện pháp để kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tình hình kinh tế, xã hội, đời sống của nhân dân có nhiều khó khăn do hậu quả của chiến
tranh và cũng do sự trì trệ, kém hiệu quả của cơ chế quản lý cũ… Từ trong khó khăn đó Đảng
và nhân dân ta đã bắt đầu có những khảo nghiệm thực tế và tìm tòi cách thức, cơ chế quản lý
mới. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu khoá IV (9/1979) đã mở đầu cho
quá trình tìm tòi, đổi mới chủ trương khuyến khích mọi lực lượng và năng lực sản xuất làm cho
sản xuất bung ra làm ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (10/1998) thảo luận và quyết định
những vấn đề kinh tế – xã hội để khắc phục những khó khăn yếu kém, vượt qua những thách
thức do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ các nước trong khu vực
Có thể thấy rằng sự lãnh đạo của Đảng từ khi mới ra đời cho dù còn non trẻ qua các kỳ
Đại hội nhưng vẫn giữ vững được những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tinh thần độc lập tự chủ, vận dụng sáng tạo và vấn đề đoàn kết, tạo sự thống nhất trong
toàn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức luôn được đặt lên hàng đầu điều đó được thể hiện
qua các cuộc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương vì vậy trên con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam, nhất là trong những bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thử thách dù
hiểm nghèo tưởng không thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt đáp
ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng đã đưa
con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
Đảng ta không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn
biết vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đồng thời, Đảng ta
không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của
nhân loại
Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc thể hiện tinh thần cách mạng triệt
để, trình độ trí tuệ ngày càng được nâng cao của Đảng ta.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ đơn độc, biệt lập của phong trào dân tộc
Việt Nam. Từ đây gắn chặt phong trào cách mạng nước ta gắn kết chặt chẽ với phong trào cách
mạng thế giới, kết hợp sức mạnh thời đại và sức mạnh trong nước, kết hợp chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân
Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của Đảng viên ntn
Tại Điều 1 Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn của đảng viên như sau:
1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, không bóc lột, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân
dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ
sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét
để kết nạp vào Đảng.
Tại Điều 2 Điều lệ Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam quy định nhiệm vụ của đảng viên:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục từng tuyệt đối sự phân công và điều động của
Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm
chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm
lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia
công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và
nhân dân thựuc hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục từng kỷ luật,
giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyện tự phê bình và phê bình, trung thực với
Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Tại Điều 3 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định quyền của đảng viên như sau:
1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp
hành Trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi
tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối
với mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh
đạo của Đảng.
Sự cần thiêt học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM trong giai đoạn hiện nay
Để hiểu được sự cần thiết học tập và làm theo tấm gương đạo đưc HCM trước hết ta phải hiểu
được đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Đạo đức hiểu theo nghĩa chung nhất
là 1 hình thái của ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị
được xã hội thừa nhận. Đạo đức có chức năng giáo dục, chức năng điều chỉnh và chức năng
phản ánh.
Với chức năng giáo dục, chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng đồng chấp nhận tác động vào
ý thức và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân để mỗi các nhân tự giáo dục, rèn luyên, hoàn thiện
nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của xã hội, mặt khác cũng từ đó tự điều chỉnh mình
Với chức năng điều chỉnh, chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân và mqh giữa
người và người trong xã hội. Trong xã hội, quan niệm và hành vi đạo đức của người này có tác
động đến quan niệm và hành vi đạo đức của người khác và ngược lại
Với chức năng phản ánh, đạo đức phản ánh thực trạng xã hội, do tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội. Những mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội được thể hiện trong đạo đức xã hội.Một
xã hội bị tha hóa về đạo đức là một xã hội không có tương lai
Qua 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Tuy nhiên, trong Đ và xã hội ta hiện nay đã xuất hiện tình trạng suy thoái về đạo đức, lối
sống làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đó là nguy cơ lớn liên quan tới sự sống còn
của Đ và chế độ
Về khách quan, trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, đặc biệt là khả năng kích
thích lối sống thực dụng của cơ chế này. Sự tác động của đạo đức, lối sống tư sản, hưởng thụ
phương Tây vào nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và bùng nổ
mạng thông tin toàn cầu. Các thế lực thù địch, phản động đã chủ động khuyến khích lối sống
ích kỉ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ , đảng viên, cán bộ lãnh đạo và gia đình họ coi đó là
1 trong những biện pháp thực hiện diễn biến hòa bình
Về nguyên nhân chủ quan thì do cta chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc nên tàng của đạo đức
trong ổn định và phát triển xã hội và tác động của cơ chế thị trường đến đạo đức xã hội. Trên
thực tế ta chưa coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, thiếu sự tổ chức, phối hợp các ngành, các
cấp
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lỗi sống nêu trên đã tác đống lớn tới sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ TQ hnay. Sự suy thoái về đạo đức của một số bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho nhân
dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu đến uy tín và vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, đến việc
tổ chức thực hiện đường lỗi, chủ trương của Đảng.
Để nâng cao năng lực và sức chiến đẩu của Đảng, ngăn chặn đẩy lùi suy thoái về tư tưởng đạo
đức,chính trị, lối sống trong Đ và xã hội chúng ta cần không ngừng học tập và làm theo tấm
gương đạo đức HCM
Ptich nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM trong giai đoạn hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và
cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư
tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của
dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự
và tự hào đối với mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người Việt Nam.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là đảng
viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân
dân”.
1. Thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước, hiếu với dân” mỗi cán
bộ, đảng viên phải trung thành vô hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia
tích cực vào việc đầy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh
Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước nồng nàn,
hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
chúng ta cần:
- Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ông cha để
chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao
tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của
mỗi người Việt Nam chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng,
chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm chủ trực tiếp và tự quản cộng đồng; hết lòng,
hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân;
khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc... của nhân dân.
- Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo
nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển.- Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân tộc,
đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi
mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân,
chia rẽ Đảng với nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. - Trung với nước
hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp
trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc;
quyết tâm xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh
2. Thực hiện đúng lời dạy: "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư " nêu cao phẩm giá
con người Việt Nam trong thời kỳ mới
"Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" là chuẩn mực đạo đức truyền thống trong quan hệ
"đối với mình", được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát triển phù hợp với yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng, trở thành chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng. Người là một tấm
gương mẫu mực về "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư". Học tập và làm theo tấm gương của
Người, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong giai đoạn hiện nay là:
- Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất
lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không
xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức; biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà
nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.
- Thực hiện chí công, vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng. Đối
với cán bộ lãnh đạo, đảng viên phải loại bỏ thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích cho
mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công, thu vén cho gia đình, cá nhân..., cục
bộ, địa phương chủ nghĩa. Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm
của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không
bao che, giấu giếm khuyết điểm...
- Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối
sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư
tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho mình thì "hăng
hái", tranh thủ kiếm lợi, việc gì không "kiếm chác" được cho riêng mình thì thờ ơ, lãnh
3. Nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính Người là một mẫu mực
về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi
người, gắn bó với nhân dân. Người luôn luôn phê phán những biểu hiện quan liêu, coi thường quần
chúng, coi thường tập thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là những căn bệnh khác
nhau của chủ nghĩa cá nhân.
- Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tổ chức, trong tập
thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Mọi biểu hiện dân chủ hình thức, lợi dụng dân
chủ để "kéo bè, kéo cánh", để làm rối loạn kỷ cương, để cầu danh, trục lợi hoặc chuyên quyền, độc
đoán, đứng trên tập thể, đứng trên quần chúng..., làm cho nhân dân bất bình, cần phải lên án và loại
bỏ.
- Học tập đạo đức Hồ Chí Minh tất cả vì nhân dân, mỗi cán bộ, đảng viên, dù ở bất cứ cương
vị nào phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Phải trăn trở và thấy trách nhiệm của mình
khi dân còn nghèo đói. Không chỉ sẻ chia và đồng cam, cộng khổ với nhân dân, mà còn phải biết
tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên, lãnh đạo nhân dân phấn đấu
thoát khỏi đói nghèo
- Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình. Người dạy cán
bộ, đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ khuyết điểm, không sợ phê bình, mà chỉ sợ không
nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết điểm
ngày càng to và hư hỏng.
4. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu
nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trong
điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
- Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở rộng tình đoàn kết quốc tế, hợp tác cùng có
lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước.
Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn
đấu vì độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển
- Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tôn trọng
độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, phấn đấu vì hòa bình, phát
triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế
- Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần nâng cao tinh thần
độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi; phê phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành
và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam, đồng thời tạo ra những
thuận lợi và những thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức. Kế thừa truyền
thống đạo đức tốt đẹp của ông cha, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một
trong những biện pháp quan trọng để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị,
xã hội, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững

You might also like