Professional Documents
Culture Documents
HCM
Khoa CNSH
Lớp SH05B
***
1
VIỆN THỦY SẢN III
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU NUÔI BIỂN
I. Giới thiệu:
Trung tâm nghiên cứu giống quốc gia khu vực miền Trung (trực thuộc
viện nuôi trồng thuỷ hải sản 3) gồm có 2 cơ sở :
II. Cơ cấu tổ chức viên nghiên cứu và nuôi trồng thuỷ hải sản
2
khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản nội địa môi trường, phòng chế
biến và công nghệ sau thu hoạch.
− Trung tâm Quốc gia giống hải sản miền Trung .
− Trung tâm Quốc gia Quan trắc CBMT và PNDBTS Miền trung
− Trung tâm Quốc gia giồng thủy sản nước ngọt môi trường
− Trung tâm tư vấn , sản xuất vsf dịch vụ khoa học công nghệ thủy sản
Trung tâm nghiên cứu và phát triển giống sông Lô trực thuộc viện III trực
thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, có chức năng nghiên cứu
khoa học và công nghệ thủy sản bao gồm: Nghiên cứu môi trường, các vấn
đề về giống, nuôi trồng, bệnh thủy sản, công nghệ sau thu họach, bảo vệ và
phát triển nguồn lợi thủy sản nội địa và ven biển; nghiên cứu ứng dụng kỹ
thuật và công nghệ mới vào sản xuất thủy sản.Trung tâm đảm nhận những
nhiệm vụ chính.
− Nghiên cứu, thử nghiệm và hoàn thiện các quy trình sản xuất
giống. Lập phương hướng nghiên cứu khoa học kĩ thuật,tổ chức thực hiện
theo từng giai đoạn và dài hạn.
− Tạo quy trình nuôi thương phẩm. Chuyển giao công nghệ, tổ
chức tập huấn, cho các cơ sở sản xuất và nghiên cứu trong nước.
− Nghiên cứu và phát triển các giống mới, thức ăn cho vật nuôi
theo hướng sản xuất có giá trị kinh tế cao.
− Điều tra môi trường nuôi nguồn lợi thủy sản nội địa và ven
biển, các đối tượng có giá trị kinh tế cao, xây dựng thành các vùng miền
chuyên canh thủy sản có tầm chiến lược quốc gia.
− Nghiên cứu và tìm biện pháp giải quyết các vấn đề tồn đọng
trong quá trình nuôi trồng thủy sản (bệnh truyền nhiễm, điều kiện môi
trường,….)
− Mở các hội thảo về lĩnh vực nuôi và nhân giống, sản xuất các
loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao.
IV. Vài mô hình nhân giống và quy trình sản xuất con giống:
3
Tại đây, cá bố mẹ được nuôi đến thành thục rồi sau đó chuyển vào khu
sinh sản để tiến hành sinh sản.
4
nuôi dưỡng xong thì cá giống được phân loại kích thước để rồi đưa ra thị
trường
5
• Pha 2: ấu trùng sau khi thoát khỏi trứng trở thành ấu trùng phù
du trải qua 12- 15 lần lột xác rồi trở thành giai đoạn ấu trùng.
• Pha 3: hậu ấu trùng có cấu tạo cơ thể giống tôm trưởng thành,
cả về cách bơi, sinh trưởng, bám vào các vật thể khác.
• Pha 4: tôm bắt đầu bước vào giai đoạn trưởng thành.
− Tôm nguyên con trải qua thời kì hậu bị ở trại tôm giống đến khoảng
150-250g là có thể cung cấp cho thị trường.
Việc phát triển tràn lan đã làm cho nguồn lợi thủy sản khác bị cạn kiệt, ô
nhiễm môi trường sinh thái. Để phát triển ngành chăn nuôi thủy hải sản một
cách bền vững cần có những chiến lược phát triển thật tốt, nuôi trồng thủy
hải sản gắn liền với môi trường :
− Xây dựng các trung tâm nghiên cứu và phát triển giống cấp
quốc gia để đảm bảo số lượng và chất lượng nguồn giống.
− Đầu tư vào lĩnh vực đào tạo cán bô khoa học, cán bộ quản lý
để đáp ứng tốt cho nhu cầu thực tế ngày một khó khăn, cạnh tranh cao.
− Đầu tư công tác khuyến ngư, công nghệ tiên tiến, chú trọng
phát triển những giống có giá trị kinh tế cao như tôm he, cá biển (cá
chẻm, cá mú,…)và một số loài như hải sâm, ốc ….để tạo thế mạnh cho
quốc gia, tiến tới xuất khẩu các mặt hang thuỷ sản một cách mạnh mẽ
− Chú trọng việc hợp tác quốc tế, thu hút nguồn vốn nước
ngoài, nâng cao trình độ kĩ thuật, khoa học trong nước, đảm bảo vịêc
sản xuất phải chặt chẽ với chống ô nhiễm môi trường.
− Nhà nước chú trọng hơn vể việc phát triển nuôi trồng thủy
sản, phát triển ngành này thành một ngành công nghiệp mũi nhọn của
đất nước.
ĐẠI HỌC THỦY SẢN NHA TRANG
KHOA CHẾ BIẾN THỰC PHẨM
6
Thủ tướng Chính phủ, Khoa Thủy sản tách thành Trường Thủy sản. Năm
1977, Trường chuyển địa điểm từ Hải Phòng vào Nha Trang và lấy tên là
Trường Đại học Hải sản; Từ năm 1980 đổi tên thành Trường Đại học Thủy
sản. Ngày 25/7/2006, theo Quyết định số 172/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ, Trường đổi tên thành Trường Đại học Nha Trang.
Qua 47 năm xây dựng và phát triển, đến nay Trường đã đi vào thế ổn
định và đang từng bước trở thành một trường đại học đa ngành, đa cấp học
với các chuyên ngành thủy sản truyền thống là mũi nhọn và thế mạnh. Trước
năm 1990, Trường chỉ có 5 chuyên ngành phục vụ ngành thủy sản, đến nay
Trường đã có 23 chuyên ngành thuộc các lĩnh vực khác nhau; từ chỗ chỉ có
1 cấp đào tạo nay Trường đã có 4 cấp đào tạo từ Trung cấp chuyên nghiệp
đến Tiến sĩ.
2. Tổ chức nhân sự, cơ cấu bộ máy quản lý, các ngành đào tạo:
Bộ máy quản lý của Trường Đại học Nha Trang gồm 3 cấp: cấp Trường,
cấp Khoa và cấp Bộ môn.
Cấp trường :
Đứng đầu Nhà trường là Hiệu trưởng - chịu trách nhiệm điều hành mọi
hoạt động của Nhà trường và do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo bổ
nhiệm. Giúp việc cho Hiệu trưởng là các Phó Hiệu trưởng. Tham mưu cho
Hiệu trưởng và trực tiếp triển khai các mặt hoạt động là các Phòng, Ban với
các chức năng nghiệp vụ theo các lĩnh vực khác nhau:
- Phòng Đào tạo ĐH và SĐH
- Phòng Khoa học - Công nghệ và QHQT
- Phòng Công tác Sinh viên
- Phòng Tổ chức - Hành chính
- Phòng Kế hoạch - Tài chính
- Phòng Quản trị và Thiết bị
- Phân hiệu Kiên Giang
- Hội đồng Đào tạo - Khoa học
- Hội đồng Xét và Công nhận Tốt nghiệp
- Hội đồng Tuyển sinh
- Hội đồng Thi đua
- Hội đồng Xét cấp Học bổng
- Hội đồng Kỷ luật
7
Cấp khoa và Bộ môn :
Đứng đầu mỗi Khoa là Trưởng khoa. Giúp việc cho Trưởng khoa là
các Phó Trưởng khoa. Mỗi khoa có một số bộ môn, đứng đầu mỗi bộ
môn là Trưởng bộ môn. Hiện nay Trường đại học Nha Trang có các
Khoa và Bộ môn sau đây:
- Khoa Khoa học Cơ bản
- Khoa Khai thác thuỷ sản
- Khoa Cơ khí
- Khoa Chế biến
- Khoa Kinh tế
- Khoa Nuôi trồng Thủy sản
- Khoa Công nghệ Thông tin
- Khoa Lý luận Mác – Lênin
Các Trung tâm và Viện nghiên cứu, đào tạo triển khai ứng dụng KHCN,
dịch vụ và phục vụ:
- Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Quốc Tế: có chức năng xây dựng
và triển khai các chương trình đào tạo bằng Anh ngữ cho các học viên trong
và ngoài nước, tìm kiếm và tổ chức thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học
và chuyển giao công nghệ do nước ngoài tài trợ, và tư vấn phát triển công
nghệ cho các doanh nghiệp trong ngành thủy sản.
-Viện nghiên cứu sinh học và MT: Có chức năng tổ chức quản lý và
triển khai các hoạt động thực nghiệm khoa học trong lĩnh vực Công nghệ
sinh học và bảo vệ môi trường phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học.
- Viện Nuôi trồng Thủy sản: Trung tâm có nhiệm vụ nghiên cứu ứng
dụng các thành tựu mới vào việc sinh sản nhân tạo và ương nuôi các loại
giống tôm cá và hải đặc sản.
- Trung tâm Giáo dục Quốc phòng
- Viện NC Chế tạo Tàu thủy
- Trung tâm NC và Phát triển CNPM
- Trung tâm Ngoại ngữ
- Thư viện
II. Các công trình đã nghiên cứu, ứng dụng của trường:
Nhà trường đã trang bị các thiết bị, máy móc dùng để phục vụ việc
nghiên cứu và học tập với tổng giá trị khoảng 74 tỉ VNĐ. Các thiết bị này
có thể nói là hàng đầu trong nước như:
8
Và còn nhiều thiết bị khác. Hiện nay trường có nhận phân tích dịch vụ
các mẫu VSV, và giá 1 mẫu khi đi đem định danh trung bình là 1,8trđ.
Một số hoạt động trên cơ sở các thiết bị được trang bị của trường:
- Quy trình tạo chế phẩm vi sinh để nuôi heo bằng cách xử lý vỏ tôm cua
bằng các vi khuẩn khử lưu huỳnh, Lactobacillus , Bacillus để tạo ra hỗn hợp
để dùng nuôi heo làm tăng trọng heo lên 8% và giảm lượng NH3 & H2S
trong phân heo nên không gây thối, ô nhiễm.
9
- Ngoài ra trường còn dùng phóng xạ 60Co cắt Chitosan sản xuất ra
glucozamin ( Thuốc làm tăng sản xuất dịch ở khớp hạn chế thái hóa khớp.
Phương pháp này có nhiều ưu thế và đang được nghiên cứu, mua thiết bị.
- Trích chất Carageenan ( khi đưa vào hỗn hợp sẽ tăng độ nhớt và kết
tủa các chất hòa tan) trong rong sụn Kappaphycus alvarezii với nhiều
ứng dụng:
+ Tạo kẹo carageenan
+ Nước uống carageenan nha đam
+ Sản xuất sản phẩm dược, liên kết vào các mô, dạ dày, vết loét làm thành
phần trám vào giúp vết loét mau liền. Làm thực phẩm chức năng chống đau
loét dạ dày. Tăng khả năng nhũ hóa các loại thuốc kháng sinh.
+ Dùng carageenan thay agar trong môi trương nuôi VSV ( đang được
nghiên cứu).
- Nghiên cứu thủy phân: Tận dụng phế liệu cá basa, cá tra ( da, mỡ và
xương) để làm ra:
+ Mỡ cá chứa DHA.
+ Tạo dầu DO, mỡ bôi trơn.
+ Da cá Collagen Gelatin : Tăng sức đông kết thực phẩm ( tạo khối
thịt nguội), làm màng bao viên con nhộng.
+ Thủy phân phế liệu thủy sản, dùng chế phẩm VSV protease để sản xuất
thức ăn cho tôm hùm.
10
VIỆN VACXIN
VÀ CHẾ PHẨM Y TẾ
Viện Vacxin và Các Chế phẩm Sinh học được Bộ Y tế nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định thành lập vào ngày 23 tháng 11 năm
1978 với chức năng và nhiệm vụ sản xuất các loại Vacxin, Huyết thanh phục
vụ cho Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) và cho nhân dân cả
nước.
Đến năm 1997, Bộ Y Tế qui định lại chức năng nhiệm vụ của Viện
Vacxin là :
+ Xây dựng kế hoạch và thực hiện sản xuất các loại vacxin và huyết
thanh, chủ yếu là các vacxin cho Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR)
và các vacxin và huyết thanh khác để phục vụ cho nhu cầu dự phòng và điều
trị.
+ Nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản
xuất.
+ Hợp tác liên doanh với các tổ chức trong và ngoài nước trong lĩnh
vực nghiên cứu sản xuất vacxin, huyết thanh và các chế phẩm sinh học để
mở rộng sản xuất và nâng cao chất lượng sinh phẩm.
+ Đào tạo cán bộ, quản lý ngân sách và công sản. Từng bước hoạch
toán sản phẩm, tiến tới tự trang trải kinh phí.
Từ lúc thành lập, qua quá trình phát triển, cho đến nay Viện Vacxin
gồm ba cơ sở và một công ty trực thuộc:
+ Cơ sở Nha Trang là bộ phận chính của Viện với diện tích 13.946m2.
+ Cơ sở II Đà Lạt trước đây là Viện Pasteur Đà Lạt, với diện tích
16.000m2.
+ Trại chăn nuôi Suối Dầu với diện tích 126 ha cách Nha Trang 22km
về phía Nam, thuộc huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
+ Công ty Vacxin và Sinh phẩm số 2 (Biopharco)
11
- Cán bộ đại học chiếm 32.6% cơ cấu.
- Còn lại là công nhân: đa số là Công nhân lành nghề được huấn
luyện nhiều năm về sản xuất vacxin.
II. Quy trình công nghệ sản xuất vacxin:
-Quy trình sản xuất vacxin uốn ván, ho gà bạch hầu:
Nguồn nước để sản xuất vacxin sẽ được xử lý sạch, khử khoáng, kim loại
nặng bởi các hệ thống xử lý và chưng cất hiện đại như: máy cất nước 100s
100 l/h, hệ thống R-O 900 l/h, Aqua nova 250 l/h. Qua hệ thống này nước sẽ
trở thành nước cất tinh khiết luôn luôn đạt tiêu chuẩn dược liệu châu Âu &
Mỹ.
Nước sau khi xử lý được dẫn đến các phòng sản xuất bởi đường ống bằng
thép không rỉ hồi lưu và luôn luôn bảo đảm nhiệt độ ở 800C.
Môi trường dùng cho sản xuất được pha trong các nồi thép không rỉ và
được chuyển qua nồi nuôi cấy bằng hệ thống đường ống. Sau khi quá trình
nuôi cấy kết thúc huyền dịch vi khuẩnho gà được bất hoạt và được bảo quản
trong kho lạnh.
Độc tố uốn ván, độc tố bạch hầu được bât hoạt bởi formalin trong phòng
ấm 350C để giải độc và tinh chế bằng công nghệ màng lọc dòng chảy tiếp
tuyến đạt độ tinh khiết cao.
Hiện nay hệ thống nồi lên men có dung tích lớn để sản xuất vacxin bạch
hầu, uốn ván, ho gà được đặt tại Nha Trang.
Các loại vacxin trên được đóng lọ bằng hệ thống liên hoàn tự động từ khâu
súc rửa, khâu tiệt trùng tới khâu vô thuốc đều thực hiện trong phòng hoàn
toàn vô trùng.
Hàng năm Viện cung cấp hàng chục triệu liều vacxin ho gà, bạch hầu,
uốn ván đạt tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn Việt Nam cho chương trình
tiêm chủng mở rộng, chích loại trừ uốn ván sơ sinh và hướng tới xuất khẩu.
- Khác với Vacxin bạch hầu, uốn ván, ho gà được nuôi cấy trên dây
chuyền công nghệ sinh học, vacxin phòng lao BCG được sản xuất bằng
phương pháp nuôi cấy tĩnh. Đây là 1 phương pháp đơn giản nhưng rất khó
sản xuất vì rất dễ nhiễm khuẩn, khó khăn nhất trong việc sản xuất vacxin
này còn ở chỗ là làm sao đảm bảo độ sống vi khuẩn để công hiệu vacxin
được lâu bền nhờ thiết bị hàn tự động với điều kiện chân không. Viện đã có
máy hàn Uma B ES 100 có khả năng hàn 5000 ống/1h.
Trước khi xuất xưởng mỗi ống vacxin được kiểm tra chặc chẽ về độ
sống, độ chân không, độ ẩm tồn dư.
12
- Trước kia Viện có phân xưởng sản xuất vacxin dại, nhưng đã đóng
cửa khoảng 1 năm nay do sản xuất vacxin dại theo phương pháp cũ, Bộ y tế
cho rằng không an toàn, có biến chứng.
Các loại vacxin: bạch hầu, uốn ván, lao, thương hàn, các loại huyết
thanh được lấy từ huyết thanh cua hơn 400 con ngựa ở trại Suấi Dầu.
Hiện nay Viện đang hợp tác với Cuba và các nước khác để sản xuất
loại vacxin 5 trong 1 để tiêm cho trẻ 1 mũi nhưng phòng ngừa được 5 bệnh:
viêm gan B, viêm não, quai bị, bại liệt, lao.
13
• Phòng kế toán tài vụ: đảm nhân chức năng kiểm tra, cung cấp tiền
vốn,..,
• Phòng tổ chức hành chính nhân sự: tính toán lương, bố trí và điều
hành nhân sự.
Tổng số lao động hiện có: 200 lao động. Trong đó, tỷ lệ lao động có
trình độ chuyên môn cao học: 4%; đại học: 30%; cao đẳng, trung cấp:
20%. Với đội ngũ công nhân lành nghề, 60% có tay nghề trên 15 năm,
20% trên 10 năm. Luôn tận tâm, gắn bó và cống hiến cho mục tiêu phát
triển Công ty. Với bề dày về truyền thống văn hoá doanh nghiệp được xây
dựng và hun đúc qua quá trình hình thành và phát triển, giá trị nguồn nhân
lực hiện nay là tài sản lớn nhất Công ty.
14
Trang hệ thống kho hàng của Công ty luôn đảm bảo sức dự trữ và cung cấp
kịp thời cho thị trường tiêu thụ.
Trong thời kì bao cấp, xí nghiệp đảm nhận rất nhiều nhiệm vụ, thu mua
nông sản, thủy hải sản của ngư dân địa phương, ngoài ra công ty còn kinh
doanh cả xăng dầu.
Sau khi bước sang nền kinh tế thị trường, được cổ phần hóa, công ty chỉ
chuyên về sản xuất một mặt hàng đó là nước mắm với lượng trang thiết bị
không được mấy dồi dào.So với trước đây, thì lượng sản phẩm của công ty ít
hơn rất nhiều, sản phẩm trước đây của công ty gồm có nhiều loại như: cá
khô, mắm khô, mắm ruốt,…Mặc dù chỉ sản xuất có một mặt hàng là nước
mắm nhưng công ty đã chuyên hóa với một sản lượng rất lớn, khoảng 3
triệu lít nước mắm các loại mỗi năm. Với khoảng 20 chủng loại mặt hàng từ
120N đến 400N, giá cả khác nhau tùy chất lượng nước mắm và phù hợp với
tất cả người tiêu dùng.
Thị phần và hệ thống phân phối của công ty: công ty có thị phần rất lớn,
hệ thống phân phối bao gồm nhiều đại lý lớn nhỏ và bán lẻ trải khắp các
tỉnh, thành phố trên cả nước, tại miền Bắc: Hà Nội, Thái Nguyên, Hải
Phòng,...miền Trung và Tây Nguyên: Nha Trang, Đà Nẵng, Quảng Nam,
ĐăkLăk, Gia Lai,...miền Nam: Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vũng Tàu,...
Thành tích của công ty:
• Sản phẩm Công ty nhiều năm liền đạt danh hiệu hàng Việt Nam chất
lượng cao nhiều năm liền
Năm 2004, sản phẩm nước mắm 350N tại hội chợ an toàn thực phẩm ở
Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt giải thưởng sản lượng an toàn vì sức khỏe
cộng đồng do nhiều viện uy tín chứng nhận.
• 2005, đạt giải thưởng tại hội nghị Festival Tây Nguyên.Ngoài ra
công ty còn đạt được rất nhiều danh hiệu cao quý của nhà nước và
15
người tiêu dùng bình chọn trong nhiều năm liề, trở thành một thương
hiệu rất uy tín với người tiêu dùng.
Có rất nhiều cách chế biến nước mắm khác nhau theo phương pháp
truyền thống, như đánh khuấy (Cát Hải), phương pháp sản xuất nước mắm
Phú Quốc, phương pháp thuỷ phân protein bằng chất hóa học,…Nhưng tóm
lại đều có chung một nguyên tắc là thuỷ phân protein thịt cá thành hỗn hợp
acid amin, polypeptide có giá trị dinh dưỡng cao. Đối với phương pháp lên
men truyền thống thì trong quá trình sản xuất, hệ vi sinh vật làm cho nước
mắm có mùi vị đặc trưng.
*Quy trình sản xuất có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau:
16
Đầu tiên nguyên liệu cá tươi được tiến hành ướp muối, trộn muối
theo công thức ( theo phương pháp Phú Quốc thì cứ cho 3 cá thì 1
muối, và cho đủ muối một lần rồi gài nén.Còn đối với phương pháp
Cát Hải thì cho muối nhiều lần kết hợp đánh khuấy để tạo điều kiện
lên men nhanh hơn,…) rồi tiến hành lên men từ từ
Đợi đến khi chượp chin thì bắt đầu tiến hành kéo rút.
Phương pháp kéo rút này cần yêu cầu trình độ kĩ thuật và kinh
nghiệm của người thợ rất nghiêm ngặt để có chất lượng nước mắm
thật tốt, mùi vị thơm ngon.
Đối với phương pháp lên men truyền thống thì thời gian lên men dài
do sử dụng hệ enzyme trong nội tạng cá là chủ yếu, còn đối với
phương pháp lên men nhanh thì thời gian rút ngắn hơn rất nhiều do
được bổ sung một lượng lớn protein, nhưng sản phẩm không có
hương vị đặc trưng do thiếu các sản phẩm chuyển hóa của hệ vi sinh
vật tồn tại trong chượp như các ester tạo hương (theo phương pháp
lên men truyền thống).
17
Nước mắm thành phẩm từ các cơ sở sẽ được chuyển về công ty ( số
584 Lê Hồng Phong ) để tiến hành pha chế theo các độ đạm khác
nhau rồi đóng chai thành phẩm.
III. Hướng phát triển sản phẩm và phát triển thị trường:
Hiện nay công ty đang nghiên cứu công nghệ làm nước mắm ngắn
ngày, và nghiên cứu phát triển thêm một số sản phẩm mới.
Đối với phương pháp sản xuất nước mắm thì nhanh nhất cũng phải 5-6
tháng mới cho sản phẩm, phương pháp của công ty sử dụng thì thường đến 9
tháng mới có thể xuất hàng.
Còn theo hướng sản xuất nước mắm ngắn ngày thì chỉ cần 8-10 ngày là
đã thủy phân hoàn toàn protein trong cá, nhưng vấn đề rất lớn đối với
phương pháp này là nước mắm không có hương vị đặc trưng. Chính vì thế
việc nghiên cứu này sẽ còn là một vấn đề nan giải để đưa vào thực tế sản
xuất.
Công ty còn tiến hành nghiên cứu đưa ra nhiều sản phẩm mới, đa
dạng hóa các mặt hàng, tăng uy tín với người tiêu dùng, mở rộng thị trường
kinh doanh. Có thể nói đến vài sản phẩm mới của công ty như cá cơm khô,
mắm nêm,…
Ngoài ra, công ty cổ phần thủy sản 584 Nha Trang cũng đã khai trương
mẻ nước mắm bổ sung chất sắt ngày 4/7/2008 tại Khánh Hoà, trong
khuôn khổ dự án “bổ sung chất sắt vào nước mắm”.
Hiện nay, thiếu máu thiếu sắt là một vấn đề dinh dưỡng phổ biến nhất
trên toàn thế giới. Nhóm có nguy cơ cao là trẻ em và phụ nữ độ tuổi sinh đẻ,
đặc biệt là phụ nữ có thai và đang cho con bú.
Trước thực trạng thiếu máu thiếu sắt khá phổ biến ở nước ta, Bộ Y Tế
đã giao cho Viện Dinh Dưỡng là cơ quan chủ quản, đảm nhiệm việc thiết kế
và triển khai Chương trình “ Bổ sung chất sắt vào nước mắm “ trong chiến
18
lược quốc gia dinh dưỡng 2001-2010, nhằm làm giảm tỷ lệ thiếu máu thiếu
sắt trong cộng đồng dân cư, đặc biệt ở phụ nữ và trẻ em.
Sản phẩm” nước mắm sắt dinh dưỡng “ đầu tiên được tiến hành tại 7
tỉnh : Hà Nội, Khánh Hoà, Bình Định, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiêng
Giang, Bình Thuận, Vũng Tàu.
Sau khi tìm hiểu và điều tra, Viện Dinh Dưỡng đã chọn Công ty Cổ
Phần Thuỷ sản 584 Nha Trang là doanh nghiệp duy nhất tại Khánh Hoà có
đủ điều kiện và năng lực để thực hiện dự án “ sung chất sắt vào nước mắm”.
“Nước mắm sắt dinh dưỡng” là sản phẩm của kết qủa nghiên cứu được
áp dụng thực tiển, thể hiện sự kết hợp ngành Y tế với các doanh nghiệp,
mang tính nhân đạo sâu sắc. Sử dụng “ Nước mắm sắt dinh dưỡng” hằng
ngày là bổ sung sắt cho cơ thể. Nước mắm bổ sung sắt có tác dụng phòng
chống thiếu máu dinh dưỡng, để tăng cường sức khoẻ, tăng khả năng lao
động và học tập, đặc biệt ở phụ nữ và trẻ em.
19
− Năm 1991 được đổi tên thành công ty chế biến thủy sản Nha
Trang, với trang thiết bị dây chuyền được nhập từ Hàn Quốc.
− Hiện nay công ty đã được cổ phần hoá, mở rộng thêm nhiều
nhà máy, đến tận miền Tây( Kiên Giang, Cần Thơ ).
− Công ty có hội đồng quản trị gồm 5 người, trong đó có 1
người Hàn Quốc, còn lại là các thành viên chủ chốt của công ty ban đầu
(ban giám đốc, phòng kế toán)
− Khối quản lý gồm có:
• Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu
• Phòng tài vụ
• Phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm (ở từng đơn vị
sản xuất và ở tổng công ty để có thể kiểm soát chặt chẽ chất lượng
hàng).
− Công ty có tổng diện tích mặt bằng khoảng 18000 km2 ,có
3 phân xưởng sản xuất
• Chế biến hàng đông lạnh.
• Chế biến hàng thủy đặc sản.
• Phân xưởng cơ điện lạnh, sản xuất nước đá phục vụ sản
xuất, với công suất cấp đông là 60 tấn/ ngày
Nguồn nguyên liệu được thu mua từ trong và ngoài tỉnh, sức chứa của
kho 2000 tấn, có thể đáp ứng nhu cầu của sản xuất của công ty trong các
mùa vụ.
Ngoài ra, còn có một cửa hàng vật tư khác nằm ở trung tâm thành phố.
− Công ty là một trong những doanh nghiệp sản xuất, chế biến
thủy hải sản lớn nhất tỉnh Khánh Hòa, với các mặt hàng chủ yếu: cá fillet
đông lạnh, mực, tôm, ghẹ, cua …
− Cá thị trường chính của công ty gồm có: Nhật (30%), Mỹ
(50%), còn lại là các thị trường khác: Úc, Đài Loan, Châu Âu. Xuất
khẩu trên 5000 tấn mỗi năm, đạt giá trị kim ngạch 30 triệu USD.
− Sản phẩm của công ty được chứng nhận các yêu cầu về quản
lý chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm HACCP, ISO ,BRC và một
số chứng chỉ xuất khẩu sang EU ( DL17 & DL90 ).
20
1. Vấn đề vệ sinh và an toàn lao động trong chế biến thủy sản:
Trong sản xuất thực phẩm nói chung, và chế thủy sản xuất khẩu nói riêng
cần có một chế độ đảm bảo thậ nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Nó là yếu tố quyết định đến sự tồn tại của công ty, đặc biệt là các công ty
chế biến mặt hàng xuất khẩu. Có như thế nó mới đáp ứng được yêu cầu ngày
một nghiêm ngặc của thị trừơng các nước xuất khẩu đến. Vấn đề vệ sinh
trong sản xuất được thực hiện theo nhiếu khâu từ nơi công nhân bước vào
đến nơi đi ra của sản phẩm.
− Đối với công nhân khi đi vào sản xuất phải:
• Không mắc bệnh truyền nhiểm.
• Có trang bị đầy đủ bảo hộ lao động như: quần áo, mũ, găng tay,
ủng, khẩu trang, yếm,…
21
• Không để móng tay dài, không đeo đồng hồ, nữ trang.
• Trước khi vào xưởng sản xuất phải rửa tay sạch bằng xà phòng, lăn
tóc, lội qua nước có pha chlorine 100 ppm.
− Trong quá trình sản xuất, các công nhân phải:
• Không được nói chuyện, đùa giỡn ồn ào .
• Không ăn quà vặt, hút thuốc lá, khạc nhổ bừa bãi.
• Sau 1 giờ thì phải vệ sinh tay lại một lần.
• Sau khi đi vệ sinh, sau giờ giải lao, khi trở lại phòng làm việc cần
phải thực hiện lại các bước như ban đầu khi đi vào sản xuất.
− Sau giờ sản xuất: rửa sạch giày, ủng, tập trung yếm, mũ, trang thiết
bị lao động để tổ vệ sinh làm công tác.
Sơ chế :
3.
Được tiến hành bằng thủ công là chủ yếu. Trong công đoạn này thường
bỏ đầu tôm, vì đầu tôm chứa hệ enzyme và vi sinh rất dễ làm hư tôm. Ngoài
22
ra đầu của tôm bị đen còn làm mất giá trị cảm quan của tôm. Giai đoạn sơ
chế này có ý nghĩa rất lớn đối với chất lượng tôm thành phẩm.
4. Phân loại:
Tôm được phân loại kích cỡ một cách tự động bằng máy phân loại.
III. Tiêu chuẩn xuất khẩu đối với các chủng loại sản phẩm:
Đối với sản phẩm thủy sản nói chung yêu cầu rất nghiêm ngặt về các
mặt:
− Hóa học: không có các chất độ gây ngộ độc, mất an toàn vệ
sinh thực phẩm.
23
− Về tính chất lý học: phải đảm bảo các chỉ tiêu về lý học như
nhiệt độ, độ ẩm, kim loại nặng không được phép có,….
− Chỉ tiêu về vi sinh: không được phép có các vi sinh vật gây hại,
ngộ độc thực phẩm, chỉ tiêu về các loại vi sinh trong giới hạn cho phép,..
− Chỉ tiêu về hóa sinh: không được có dư lượng kháng sinh, thuốc
điều trị bệnh cho vật nuôi….
− Về vấn đề con người: phải đảm bảo tác phong công nghiệp, tính
tự giác của công nhân, (tránh việc tóc rơi khi sản xuất, hạn chế tối đa vi
sinh vật xâm nhập vào sản phẩm …)
- Hiện nay công ty đang tiến hành phấn đấu trở thành một tập
đoàn lớn mạnh, vươn đến các vùng miền trên đất nước, để quản bá
thương hiệu Nha Trang seafood.
- Xây dựng thêm nhiều nhà máy, để chủ động nguồn nguyên liệu
phục vụ sản xuất để xuất, đẩy mạnh tên tuổi thương hiệu đến các vùng
miền, (chẳng hạn như xây 2 nhà máy ở Kiên Giang và Cần Thơ để chế
biến xuất khẩu sản phẩm cá tra, cá ba sa).
- Nghiên cứu thêm nhiều chủng loại sản phẩm để đa dạng hoá
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường và xuất khẩu (như các sản phẩm
tẩm gia vị, sản phẩm sấy khô..)
- Xây dựng và duy trì hệ thống, quy trình sản xuất theo các tiêu
chuẩn HACCP, ISO, …để đảm bảo chất lượng sản phẩm.
- Đào tạo nguồn nhân lực tận tụy với nghề nghiệp, sẵn sàng chấp
nhận thử thách mới trong công việc.
I. Sơ Lược:
Khánh Hòa là địa phương có nghề nuôi tôm hùm phát triển nhất Việt
Nam, hình thành và phát triển mạnh từ 15 năm nay. Toàn tỉnh hiện có trên
29.800 ô lồng nuôi tôm hùm, trong đó TP. Nha Trang có 8.472, Vạn Ninh
24
7.598, Ninh Hòa 500, Cam Ranh 13.230. Sản lượng tôm hùm nuôi đạt
khoảng 1.000 tấn/năm. Đây cũng là nghề nuôi phát triển tương đối mạnh và
cho thu nhập tương đối cao. Cuộc sống và diện mạo của các làng biển cũng
từ đó thay da đổi thịt. Tuy nhiên, 2 năm gần đây, hiện tượng dịch bệnh trên
tôm hùm đã và đang làm cho người chăn nuôi điêu đứng; bao nhiêu tài sản,
vốn liếng “đội nón” ra đi vì tôm chết.
Vạn Ninh nằm trên trục Quốc lộ 1A Bắc Nam, phía Bắc tiếp giáp với
huyện Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên) nối qua đèo Cả (12 cây số), phía Nam chung
vách với huyện láng giềng Ninh Hòa vốn là anh em sinh đôi. Trung tâm
huyện là thị trấn Vạn Giã nằm giữa hai thành phố Tuy Hòa - Nha Trang,
cách chẵn tròn mỗi bên 60 cây số, thật là một sự cân đối thú vị về “con
đường thiên lý” giao thương.
Vùng đất có bề dày lịch sử trên 350 năm này từ xa xưa đã nổi tiếng với hình
ảnh “cơm trước mặt cá sau lưng”. Phía Đông nằm dọc theo bờ biển tạo một
đường cong ôm tròn vịnh Vân Phong. Phía Tây mở rộng về hướng núi Đá
Đen - Hòn Chảo - Hòn Ngang qua những cánh đồng trù phú phì nhiêu. Tất
cả tạo nên một vùng cảnh quan riêng biệt với những nhóm đất - cát - đất cát
biển - đất mặn để có những dòng nước chè hai và mạch ngọt nguồn uống
mát.
Người nuôi tôm ở huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa) hiện không dám nuôi
tôm hùm. Vì nhiều người sợ dịch tôm sữa nên tôm hùm giống ở Khánh Hòa
rớt giá thê thảm.Tôm hùm giống chỉ còn 25.000-30.000 đồng/con, trong khi
thời gian này năm ngoái giá tôm lên đến 120.000-140.000 đồng/con. Được
biết, tuy bệnh tôm sữa đã có phác đồ điều trị nhưng rải rác tại các lồng nuôi
vẫn còn hiện tượng tôm chết, đặc biệt đối với tôm mới thả. Vì vậy, người
nuôi tôm rất lo ngại, chuyển sang nuôi cá bớp, cá chẻm... Hơn nữa, tôm thẻ
chân trắng đang thay thế tôm sú ở huyện này vì tôm thẻ chân trắng có khả
năng chống chịu được nhiều dịch bệnh, lớn nhanh hơn tôm sú. Năm nay với
khí hậu thuận lợi tôm phát triển tốt bán được giá cao, và do tôm giống rẻ nên
đa số các hộ nuôi tôm ở Khánh Hòa rất phấn khởi.
Chúng tôi vượt hàng trăm mét trên sóng biển nhấp nhô để đến với những bè
nuôi tôm của làng chài vạn ninh, đến đây chúng ta mới hiểu được sự cơ cực
của ngư dân. Hàng tháng trời họ lênh đênh trên sóng biển, với những vật
dụng sinh hoạt đơn giản hằng ngày đã giúp những con người vượt qua
25
những chuỗi ngày khó khăn, để đến với mùa thu hoạch là bao vui sướng của
họ. Khi đoàn đến tham quan bè nuôi tôm thì được các ngư dân hướng dẫn rất
nhiệt tình và trả lời bất cứ mọi thắc mắc về tôm giống, kĩ thuật nuôi, thức
ăn…
Một ngư dân tâm sự . “Ở ngoài này sướng lắm, chẳng ai quấy rầy,
thích làm gì thì làm và có thể nghe radio hay cassette. Buồn nữa thì nói
chuyện với… tôm”. Như gặp được người để nói chuyện, ông cho biết thêm:
“Mỗi ô lồng rộng 16m2, đủ chỗ cho từ 50-70 con tôm hùm. Ô lồng nuôi tôm
hùm có 2 loại, một là ô lồng cố định bằng cách đóng cọc trực tiếp xuống
biển, đan lồng nuôi xung quanh, cách này trước đây người ta hay áp dụng.
Còn hiện nay chủ yếu chuyển sang nuôi tôm hùm trên bè nổi (lồng bè). Chi
phí làm mới một ô lồng là 3,5 triệu đồng, độ bền 6-7 năm. Cứ 2-3 tháng phải
làm vệ sinh lưới 1 lần vì hàu, vỏ sò bám vào. Con tôm hùm ưa ở sạch, bẩn
quá nó… đi ngay”.
Thức ăn chủ yếu là các loại động vật như: sò đá, cá tạp, các loại tôm…Cách
ăn của chúng là gặm, rỉa và có tập tính kiếm ăn vào ban đêm và lúc mờ sáng.
Chúng ăn mạnh vào thời gian trước khi lột xác từ 3-9 ngày.
Tôm đạt kích cỡ 700gr có thể tham gia sinh sản, tôm đẻ trứng ở
độ sâu 30m nước. Thường thả tôm vào tháng 11-12, sau 14-15 tháng thì
thu hoạch.
Chu kỳ lột vỏ của tôm: tôm nhỏ 10, 15, 20 ngày lột vỏ lần …
chu kỳ lột tỷ lệ thuận với tôủi thọ của tôm . tỷ lệ hao hụt thường 10%
tuỳ thuộc người nuôi.
Tôm sao có giá trị cao hơn tôm rì, giá bán tôm sao:
26
Không ầm ĩ như dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng hay dịch
heo tai xanh, nhưng bệnh dịch trên tôm hùm đã và đang làm cho người
nuôi trồng thủy sản (NTTS) điêu đứng khi thiệt hại lên đến hàng trăm tỷ
đồng. Tuy các cơ quan chức năng, các nhà khoa học đã vào cuộc,
nhưng nguyên nhân tôm chết, cách phòng trị bệnh dịch trên tôm hùm
vẫn đang dừng lại ở quá trình... nghiên cứu. Người dân vẫn đang nơm
nớp lo âu khi chưa tìm ra tác nhân, nguyên nhân và cách phòng trị bệnh
cho tôm hùm.
Theo báo cáo của Sở Thủy sản, tháng 7-2006, dịch bệnh tôm hùm bắt
đầu xuất hiện ở xã Cam Bình (Cam Ranh), đến nay xảy ra ở hầu hết các địa
phương trong tỉnh, gây chết hàng loạt với số lượng lớn. Tính đến tháng 10-
2007, tôm hùm chết chiếm khoảng gần 50% số lượng tôm đang nuôi tại
Khánh Hòa, ước thiệt hại khoảng trên 200 tỷ đồng. Trước tình hình đó, Sở
Thủy sản đã phối hợp với Viện Nghiên cứu NTTS III, Viện Hải dương học
Nha Trang tiến hành kiểm tra, khảo sát và lấy mẫu để nghiên cứu bệnh
phẩm.
Kết quả cho thấy, tôm bệnh có màu sắc nhợt nhạt, thân hơi đỏ, phần
bụng có chất dịch màu trắng đục lan rộng, giảm ăn đến bỏ ăn hoàn toàn và
chết 3 - 7 ngày sau khi có dấu hiệu bệnh lý. Phân tích mẫu tôm bệnh cho
thấy có sự hiện diện của 2 loài vi khuẩn thuộc giống Vibrio (Vibrio
alginolyticus, V. fluvialis); phân tích ký sinh trùng cho thấy sự hiện diện của
vi bào tử trùng Microsporodians trong cơ và mang tương đối cao. Theo phản
ảnh của các địa phương, người nuôi đã thực hiện các biện pháp phòng bệnh
theo hướng dẫn của ngành Thủy sản, sử dụng một số kháng sinh có công
dụng chữa trị đường ruột, đục thân, viêm gan tụy… và vệ sinh môi trường.
Tuy nhiên, hiện tượng tôm chết chỉ giảm trong 2 tuần rồi bệnh trở lại và gây
chết hàng loạt. Đến thời điểm này, vẫn chưa tìm được tác nhân, nguyên nhân
và cách phòng bệnh có hiệu quả.
Hiện nay, Viện Nghiên cứu NTTS III là đơn vị được giao chủ trì
nghiên cứu về nuôi và phòng bệnh cho tôm hùm. Hiện Viện mới chỉ xác
định được tác nhân, nguyên nhân gây bệnh và biện pháp phòng, trị 2 triệu
chứng bệnh đen mang, đỏ thân; 10 triệu chứng còn lại chưa xác định được
tác nhân, nguyên nhân gây bệnh một cách chính xác. Tuy nhiên, các triệu
chứng bệnh trên có một số loại không phải tác nhân gây bệnh sinh học như:
hàu bám, bệnh dính vỏ, mềm vỏ… và không lan thành dịch, thiệt hại không
lớn. Theo nhận định ban đầu, hiện tượng tôm hùm chết hàng loạt hiện
nay chủ yếu do bệnh tôm sữa. Triệu chứng của loại bệnh này là đốt thân
27
giáp đầu, ngực chuyển màu sáng đục, sau đó lan dần xuống các đốt phía
đuôi. Khi bị bệnh, tôm bỏ ăn và chết sau 2 - 5 ngày. Loại bệnh này lây lan
nhanh trong lồng nuôi, từ lồng này sang lồng khác. Đây là loại bệnh rất nguy
hiểm, đã xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới nhưng chưa có tài liệu nào
thông báo về tác nhân, nguyên nhân gây bệnh và biện pháp phòng, trị.
Trước tình hình dịch bệnh xảy ra ở tôm, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn vừa ban hành quyết định thành lập tổ công tác giải
quyết bệnh dịch cho tôm hùm tại các tỉnh miền Trung. Nhiệm vụ của tổ công
tác là điều tra phương pháp nuôi, con giống, thức ăn, môi trường, lấy mẫu
chẩn đoán, xét nghiệm, tổ chức hội nghị chuyên đề để xác định tác nhân,
nguyên nhân gây bệnh và biện pháp phòng, trị bệnh cho tôm hùm; xây dựng
tài liệu hướng dẫn, tập huấn cho người nuôi, áp dụng các biện pháp phòng
ngừa.
28
nuôi từ 4 – 5 con/m2 (cỡ tôm >500gr/con); giữ khoảng cách giữa các lồng
nuôi từ 5 mét trở lên để đảm bảo nước lưu thông ở các lồng nuôi. Tăng
cường sức khỏe tôm nuôi bằng cách bổ sung Vitamin C, Vitamin tổng hợp
như Stay – C hoặc Cplus 5gr/1kg thức ăn; Vet – C – Encap 3-5gr/1kg thức
ăn. Treo túi Chlorine quanh lồng nuôi từ 0,5 – 1kg/túi, sử dụng từ 4 – 5
túi/lồng, sau từ 3 – 5 ngày thay túi mới. Tách riêng những con tôm bệnh và
tiến hành các biện pháp điều trị.
* Các biện pháp trị bệnh:
- Đối với bệnh do vi khuẩn: sử dụng hỗn hợp thuốc Doxyciline 0,3gr;
Oxytetracyline 0,1gr; Steptomycine 0,1gr; Stay - C hay C – Plus 5gr dùng
điều trị cho 1kg tôm hùm trong 1 ngày, thời gian điều trị liên tục từ 3 – 5
ngày.
- Cách sử dụng: hòa tan các loại thuốc vào nước sau đó ngâm hỗn hợp này
với thức ăn là các loài giáp xác như cua, ghẹ, tôm… từ 15 – 30 phút trước
khi cho tôm hùm ăn.
- Đối với bệnh do vi bào tử trùng:
Hiện nay chưa có thuốc đặc hiệu để điều trị bệnh này. Trước mắt chỉ áp
dụng các biện pháp phòng bệnh là chính như bảo quản thức ăn tươi và vệ
sinh sát trùng thức ăn trước khi cho tôm ăn nhằm hạn chế sự xâm nhập của
các tác nhân gây bệnh. Khi có những cá thể tôm mắc bệnh trong hệ thống
lồng bè nuôi, bà con nhất thiết phải loại bỏ hay tách chúng khỏi hệ thống
nuôi, và phải đặt lồng cách đáy ít nhất 0,8m nhằm tránh lây lan nguồn
bệnh…
Sau đợt dịch bệnh tôm “sữa” ở tôm hùm xảy ra hồi năm ngoái đối với
khu vực nam Trung bộ (riêng Khánh Hoà đã thiệt hại 113 tỷ đồng), năm nay
ngư dân Khánh Hoà chỉ thả giống được trên 21.700 lồng, thấp hơn 7.000
lồng so với năm ngoái, tập trung ở các địa phương như thành phố Nha
Trang, thị xã Cam Ranh, huyện Vạn Ninh... Tuy nhiên, hiện nay bệnh tôm
“sữa” vẫn tiếp tục gây hại, nhiều nhất khi tôm đạt kích cỡ từ 300- 500 gram.
Theo Sở NN & PTNT Khánh Hòa, hiện nay ngoài bệnh “sữa”, các bệnh
khác như: đỏ thân, hở đầu, dính vỏ cũng đang xảy ra khá phổ biến đối với
tôm hùm nuôi lồng. UBND tỉnh Khánh Hòa đã có công văn đề nghị Bộ NN
& PTNT được lập dự án xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm hùm lồng
tập trung tại xã đảo Cam Bình (thị xã Cam Ranh) nhằm phát triển nghề nuôi
tôm hùm một cách bền vững.
29
30