You are on page 1of 16

LỜI MỞ ĐẦU

Sau hàng loạt những vụ bê bối lớn xảy ra trên thế giới trong ngành viễn
thông kéo theo sự ra đi của một đại gia kiểm toán quốc tế cũng như nhiều yếu tố
bất ổn trong môi trường kinh doanh có tác động đến hoạt động của doanh nghiệp,
các nhà quản trị chiến lược ngày nay quan tâm ngày càng nhiều hơn đến những vấn
đề thể chế doanh nghiệp, quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ trong quá trình thiết kế
và thực thi chiến lược cho doanh nghiệp của mình. Hệ thống kiểm soát nội bộ được
thiết lập nhằm giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu lợi nhuận đã đề ra cũng như
tuân thủ tôn chỉ hoạt động của doanh nghiệp trong khi giảm thiểu những yếu tố xảy
ra bất ngờ gây tác động xấu tới hoạt động của doanh nghiệp. Kiểm soát nội bộ giúp
các nhà quản trị kinh doanh có thể ứng phó kịp thời với những thay đổi trong kinh
tế và môi trường cạnh tranh, trong nhu cầu và những ưu tiên tiêu dùng của khách
hàng cũng như nhìn nhận thấy những nhu cầu của những cải cách doanh nghiệp
hướng tới tương lai phát triển của doanh nghiệp. Kiểm soát nội bộ cũng góp phần
tăng cường tính hiệu quả của hoạt động trong doanh nghiệp, giảm thiểu rủi ro mất
mát tài sản và góp phần làm tăng thêm mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính
cũng như công tác tuân thủ các quy định của pháp luật. Đó cũng là lý do nhóm
chúng em quyết định thảo luận và viết bài tổng hợp về nội dung “ Hệ thống kiểm
soát nội bộ” với mong muốn bài viết của nhóm sẽ giúp các bạn hiểu hơn về Hệ
thống kiêm soát nội bộ trong doanh nghiệp.

I- BẢN CHẤT CỦA HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ


1 –Mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ:
Hệ thống kiểm soát nội bộ hay kiểm soát nội bộ thực chất là sự tích hợp một
loạt hoạt động, biện pháp, kế hoạch, quan điểm, nội quy, chính sách và nỗ lực của
mọi thành viên trong tổ chức để đảm bảo tổ chức đó hoạt động hiệu quả, đạt được
mục tiêu đặt ra một cách hợp lý. Có thể hiểu đơn giản là hệ thống kiểm soát nội bộ
là hệ thống của tất cả những gì mà một tổ chức cần làm để có được những điều
muốn có và tránh những điều muốn tránh. Cũng trên nguyên tắc này, các hệ thống
quản lý khác nhau có chuẩn mực quốc tế như ISO, TQM, QA/QC đảm bảo cho sự
hoạt động hiệu quả của một tổ chức đã được xây dựng.
Như vậy, bất kỳ hoạt động nào của tổ chức cũng có thể là đối tượng của
kiểm soát nội bộ, kể cả kiểm toán nội bộ - một hệ thống kiểm tra, đo lường, đánh
giá tính xác thực của các thông tin tài chính và tính khả thi của các quyết định quản
lý trong nội bộ doanh nghiệp. Có nhiều trường hợp, hoạt động kiểm toán nội bộ có
thể mở rộng sang các lĩnh vực khác nhưng quan trọng nhất vẫn là các hoạt động tài
chính - kế toán. Trong khi kiểm toán nội bộ hoạt động theo các chuẩn mực của
Luật kiểm toán, hệ thống kiểm soát nội bộ vận hành theo các chuẩn mực do tổ
chức tự ban hành phù hợp với phông pháp luật chung.
Do đó hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm 4 mục tiêu:
1.1 Bảo vệ tài sản của đơn vị:
Tài sản của đơn vị bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình, chúng có
thể vị đánh cắp lạm dụng vào những mục đích khác nhau hoặc bị hư hại nếu không
được bảo vệ bởi các hệ thống kiểm soát thích hợp. Điều tương tự cũng có thể xảy
ra đối với các tài sản phi vật chất khác như số sách kế toán, các tài liệu quan
trọng…
1.2 Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin:
Thông tin kinh tế tài chính do bộ máy kế toán xử lý và tổng hợp là căn cứ
quan trọng cho việc hình thành các quyết định của các nhà quản lý. Như vậy thông
tin cung cấp phải đảm bảo tính kịp thời, tính chính xác và tin cậy về thực trạng
hoạt động và phản ánh đầy đủ khách quan các nội dung chủ yếu của mọi hoạt động
kinh doanh tài chính.
1.3 Bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý:
Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế trong doanh nghiệp phải đảm bảo
các quyết định và chế độ pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp phải được tuân thủ đúng mức. Cụ thể hệ thống kiểm soát nội bộ cần:
+ Duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các chính sách liên quan đến các hoạt động của
doanh nghiệp
+ Ngăn chặn và phát hiện kịp thời cũng như xử lý các sai phạm và gian lận trong
mọi hoạt động của doanh nghiệp
+ Đảm bảo việc ghi chép kế toán đầy đủ chính xác cũng như việc lập báo cáo tài
chính trung thực và khách quan.
1.4 Bảo đảm hiệu quả hoạt động và năng lực quản lý:
Các quá trình kiểm soát của đơn vị được thiết kế nhằm ngăn ngừa sự lặp lại
không cần thiết các tác nghiệp, gây ra sự lãng phí trong hoạt động và sử dụng kém
hiệu quả các nguồn lực trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, định kỳ các quản lý
thường đánh giá kết quả hoạt động trong doanh nghiệp được thực hiện với cơ chế
giám sát của hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng
quản lý điều hành của bộ máy quản lý doanh nghiệp.
Tuy nằm trong một thể thống nhất song bốn mục tiêu trên đôi khi cũng có
mâu thuẫn với nhau giữa tính hiệu quả của hoạt động với mục đích bảo vệ tài sản,
sổ sách hoặc cung cấp thông tin đầy đủ và tin cậy. Nhiệm vụ của các nhà quản lý là
xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu và kết hợp hài hòa bốn mục tiêu
trên. Do đó một hệ thống kiểm soát nội bộ vững mạnh sẽ giúp đem lại các lợi ích
sau cho công ty:
+ Đảm bảo tính chính xác của các số liệu kế toán và báo cáo tài chính của công ty;
+ Giảm bớt rủi ro gian lận hoặc trộm cắp đối với công ty do bên thứ ba hoặc nhân
viên của công ty gây ra;
+ Giảm bớt rủi ro sai sót không cố ý của nhân viên mà có thể gây tổn hại cho công
ty;
+ Giảm bớt rủi ro không tuân thủ chính sách và quy trình kinh doanh của công ty.
+ Ngăn chặn việc tiếp xúc những rủi ro không cần thiết do quản lý rủi ro chưa đầy
đủ.
Khi công ty phát triển lên thì lợi ích của một hệ thống kiểm soát nội bộ cũng
trở nên to lớn hơn vì người chủ công ty sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc giám
sát và kiểm soát các rủi ro này nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm giám sát trực tiếp của
bản thân. Đối với những công ty mà có sự tách biệt lớn giữa người quản lý và cổ
đông, một hệ thống kiểm soát nội bộ vững mạnh sẽ góp phần tạo nên sự tin tưởng
cao của cổ đông. Xét về điểm này, một hệ thống kiểm soát nội bộ vững mạnh là
một nhân tố của một hệ thống quản trị doanh nghiệp vững mạnh, và điều này rất
quan trọng đối với công ty có nhà đầu tư bên ngoài. Các nhà đầu tư sẽ thường trả
giá cao hơn cho những công ty có rủi ro thấp hơn.
2. Ưu điểm và nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ:
Ưu điểm
Củng cố nề nếp trong quản lí, khai thác và triển khai các sáng kiến nhằm
năng cao năng lực quản lí.
Bảo vệ tài sản trong đơn vị và bảo đảm độ tin cậy của hệ thống thông tin
trong đơn vị.
Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc
phát hiện ngăn chặn, sửa chữa các sai sót có thể có trong hoạt động của đơn vị.
Nhược điểm
Thứ nhất, mỗi hệ thống kiểm soát nội bộ dù được thiết kề hoàn hảo đền đâu
cũng không thể ngăn ngừa hay phát hiện mọi sai phạm có thể xảy ra. Đây là một
hạn chế cố hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Ví dụ như trong vụ sụp đổ của ngân hàng Lehman Brothers, người ta
đã phát hiện ra rằng Lehman đã sử dụng “thủ thuật” kế toán có tên gọi trong
nội bộ của ngân hàng là Repo 105 và Repo 108 để tạm thời che dấu hệ số nợ
quá cao của mình. Khi sử dụng các giao dịch Repo, theo đúng bản chất,
Lehman sẽ nhận được một khoản tiền mặt tương ứng với khoản nợ ngắn hạn
tăng lên. Sau đó, khi Lehman sử dụng toàn bộ khoản tiền này để thanh toán
cho các khoản nợ ngắn hạn khác, hệ số nợ của Lehman sẽ không thay đổi so
với trước khi thực hiện giao dịch Repo. Tuy nhiên các báo cáo kiểm toán sau
đó lại cho rằng, Lehman lại thực hiện hành vi gian lận kế toán để giảm hệ số
nợ của mình. Trong báo cáo tài chính phát hành ra công chúng của Lehman,
thay vì ghi nhận như một nghiệp vụ tài trợ ngắn hạn Lehman đã ghi nhận
như một khoản doanh thu của ngân hàng, số dư tiền sẽ tăng lên đồng thời số
dư công cụ tài chính giảm đi cùng một con số. Sau vụ sụp đổ của Lehman,
người ta mới đặt ra một nghi ngờ về hệ thống kiểm soát nội bộ một đế chế
tài chính hùng mạnh và được coi là một trong ba nhà tạo lập thị trường trên
SGDCK Nasdaq. Điều đó cho thấy rằng sai phạm của một hệ thống kiểm
soát nội bộ vẫn có thể xảy ra cho dù nó được thiết kế chặt chẽ đến đâu.

Thứ hai, ban giám đốc thường yêu cầu giá phí của một thủ tục kiểm tra
không được vượt quá những lợi ích mà thủ tục đó đem lại. Chính điều này đã hạn
chế chất lượng và tính chính xác của cuộc kiểm tra.
Thứ ba, phần lớn công tác kiểm tra NB thường tác động đến những nghiệp
vụ lặp đi lặp lại mà không tác động đến nghiệp vụ bất thường.
Thứ tư, không loại trừ được rủi ro, sai xót của con người, xuất phát từ sự
thiếu chú ý, đãng trí, sai sót về xét đoán hay không hiểu rõ các chỉ thị.
Nhiều trường hợp khả năng vượt tầm kiểm soát của hệ thống kiểm soát nội
bộ do có sự thông đồng của một người trong ban giám đốc hay một nhân viên với
những người khác ở trong hay ngoài đơn vị.
Ngoài ra còn có một số nhược điểm khác như:
Khả năng những người chịu trách nhiệm thực hiện kiểm soát nội bộ lạm
dụng đặc quyền của mình.
Do có sự biến động tình hình, các thủ tục kiểm toán có khả năg không còn
thích hợp và do đó không được áp dụng.

II- CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ


1.Môi trường kiểm soát.
Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong đơn vị và nhân tố
bên ngoài đơn vị có tính môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lí
dữ liệu của các loại hình kiểm soát nội bộ. Các nhân tố thuộc môi trường kiểm soát
chung chủ yếu liên quan đến quan điểm, thái độ và nhận thức cũng như hành động
của các nhà quản lý trong doanh nghiệp.
Các nhân tố trong môi trường kiểm soát bao gồm:
+ Đặc thù về quản lý: Đề cập đến các quan điểm khác nhau trong điều hành doanh
nghiệp của nhà quản lý, các quan điểm đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách,
chế độ, các quy định và cách thức kiểm tra kiểm soát trong doanh nghiệp.
+ Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức hợp lý đảm bảo một hệ thống xuyên suốt từ trên
xuống dưới trong việc ban hành, triển khai, thực hiện các quyết định trong toàn bộ
doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức tốt giúp ngăn ngừa có hiệu quả các hành vi gian lận
và sai sót trong hoạt động tài chính kế toán của doanh nghiệp. Một cơ cấu tổ chức
hợp lý phải thiết lập sự điều hành và kiểm soát trên toàn bộ hoạt động và các lĩnh
vực của doanh nghiệp. Để thiết lập 1 cơ cấu tổ chức thích hợp và có hiệu quả các
nhà quản lý phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, thiết lập được sự điều hành và sự kiểm soát trên toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp, không bỏ sót lĩnh vực nào, đồng thời cũng không có sự chồng chéo
giữa các bộ phận.
Thứ hai, thực hiện sự phân chia rành mạch 3 chức năng: sử lí nghiệp vụ, ghi chép
sổ và bảo quản tài sản.
Thứ ba, đảm bảo sự độc lập tương đối giữa các bộ phận nhằm đat được hiệu quả
cao nhất trong hoạt động của các bộ phận chức năng.
+ Chính sách nhân sự: Đội ngũ nhân viên là nhân tố quan trọng trong môi trường
kiểm soát cũng như chủ thể trực tiếp thực hiện mọi thủ tục kiểm soát trong hoạt
động của doanh nghiệp.Các nhà quản lý doanh nghiệp cần có chính sách cụ thể và
rõ ràng về tuyển dụng, đào tạo, khen thưởng… nhân viên sao cho phù hợp.
+ Công tác kế hoạch: Hệ thống kế hoạch và dự toán bao gồm các kế hoạch sản
suất, tiêu thụ, thu chi…đặc biệt là các kế hoạch tài chính là những nhân tố quan
trọng trong quá trình kiểm soát. Nếu việc lập và thực hiện kế hoạch được tiến
hành khoa học và nghiêm túc thì hệ thống kế hoạch và dự toán đó sẽ thành công cụ
kiểm soát rất hữu hiệu. Vì vậy trong thực tế các nhà quản lý thường quan tâm xem
xét tiến độ thực hiện kế hoạch, theo dõi những nhân tố ảnh hưởng đến kế hoạch đã
lập nhằm xử lý kịp thời.
+ Ủy ban kiểm soát: Bao gồm những người trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của
đơn vị như thành viên hội đồng quản trị nhưng không kiêm nhiệm chức vụ quản lý
và những chuyên gia am hiểu về lĩnh vực kiểm soát. Ủy ban kiểm soát có những
nhiệm vụ và quyền hạn:
Giám sát sự chấp hành luật pháp của công ty.
Kiểm tra và giám sát công việc của kiểm toán viên nội bộ.
Giám sát tiến trình lập báo cáo tài chính.
Dung hòa những bất đồng giữa ban giám đốc với các kiểm toán viên bên ngoài.
Các nhân tố ngoài môi trường kiểm soát bao gồm: +Sự kiểm soát của các cơ quan
nhà nước
+Ảnh hưởng của các chủ nợ.
+Môi trường pháp lý. +Đường lối phát triển đất nước.
2. Hệ thống kế toán :
Hệ thống kế toán ở đơn vị là hệ thống dùng để nhận biết, thu thập, phân loại,
ghi sổ, xử lý, tổng hợp và lập báo cáo về các thông tin kinh tế, tài chính ở đơn vị.
Là mắt xích quan trọng trong hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống kế toán có hiệu
quả phải góp phần đảm bảo thoả mãn tất cả các mục tiêu kiểm soát nội bộ.
Các hệ thống này phải được thiết kế sao cho thể hiện rõ các mục tiêu chi tiết của
kiểm soát đã được tính đến trong đó.
Ví dụ : Đối với các giao dịch về bán hàng, hệ thống kế toán phải được thiết kế
sao cho chỉ cho phép ghi sổ doanh thu những giao dịch bán hàng thực tế xảy ra, ko
cho phép ghi sổ doanh thu với số hàng chưa được giao, số liệu ghi chép phải phản
ánh đúng đắn về giá trị và chính xác về kỹ thuật.
Hệ thống kế toán bao gồm: chứng từ và sổ sách đầy đủ; hệ thống tài khoản; sổ kế
toán; báo cáo kế toán.
+ Chứng từ và sổ sách đầy đủ: Để thực hiện được các mục tiêu chi tiết của
kiểm soát, nguyên tắc cơ bản đối với hệ thống kế toán là phải đảm bảo chứng từ và
sổ sách đầy đủ. Bao gồm:
+ Chứng từ kế toán: Thực hiện chức năng chuyển giao thông tin trong toàn
bộ tổ chức của đơn vị khách hàng và giữa các tổ chức, các đơn vị với nhau.
Chứng từ phải được đánh số liên tiếp: việc thực hiện đánh số liên tiếp trên
các chứng từ sẽ giúp tăng cường kiểm soát đối với các trường hợp chứng từ bị
thiếu, chứng từ chưa ghi sổ kế toán và tránh được những trường hợp chứng từ ghi
trùng trên sổ kế toán
Chứng từ phải được lập vào lúc nghiệp vụ kinh tế phát sinh hoặc ngay sau
đó càng sớm càng tốt: Việc lập chứng từ kịp thời sẽ đảm bảo phản ánh trung thực
nhất về bản chất và nội dung của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và giúp cho việc
ghi sổ kế toán được kịp thời, đúng kì phát sinh của nghiệp vụ kinh tế đó
Chứng từ phải đơn giản để đảm bảo là chúng rõ ràng dễ hiểu: Nếu chứng từ
kế toán quá phức tạp có thể sẽ dẫn đến sự hiểu không đúng về các nghiệp vụ kinh
tế, do vậy việc ghi sổ kế toán cũng sẽ bị ảnh hưởng
Chứng từ phải được thiết kế cho nhiều công dụng và thể hiện tối đa mức độ
kiểm soát nội bộ
Hệ thống tài khoản: Là cầu nối liên quan chặt chẽ giữa chứng từ kế toán và sổ kế
toán. Hệ thống tài khoản có tác dụng kiểm soát luồng đi của các thông tin theo các
nội dung đã được phân loại. Một hệ thống tài khoản được thiết lập đúng đắn sẽ có
ảnh hưởng lớn đến mục tiêu kiểm soát “sự phân loại” của hệ thống kiểm soát nội
bộ, giúp cho số liệu các chỉ tiêu trên BCTC phản ánh đúng quy mô và bản chất của
chúng. Đối với từng đơn vị, khi quy định nội dung của từng tài khoản phải trên cơ
sở tuân thủ các nguyên tắc, chế độ và chuẩn mực kế toán chung.
Sổ kế toán: Có nhiều hình thức sổ kế toán và tương ứng với mỗi hình thức có một
hệ thống sổ kế toán cụ thể với trình tự ghi sổ nhất định. Đơn vị phải cân nhắc lựa
chọn hình thức sổ kế toán phù hợp và tổ chức các sổ kế toán đầy đủ, hợp lý theo
yêu cầu kế toán của mình. Việc ghi sổ kế toán phải có đầy đủ chứng từ hợp lý, hợp
lệ. Nếu trước khi ghi sổ kế toán, các căn cứ chứng từ được kiểm tra nghiêm ngặt sẽ
giúp đạt được nhiều mục tiêu kiểm soát như loại trừ khả năng ghi sổ các nghiệp vụ
kinh tế thực sự không phát sinh hoặc giá trị của chúng phản ánh ko đúng với thực
tế…
Báo cáo kế toán: các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, sau quá trình ghi nhận, phân loại,
ghi chép…cuối cùng phải được tổng hợp theo những chỉ tiêu tài chính và được
trình bày vào báo cáo kế toán phù hợp, theo những nguyên tắc và phương pháp
nhất định.
Ví dụ ở ngân hàng: thông qua việc quan sát, đối chiếu, tính toán và ghi chép các
giao dịch phát sinh, hệ thống kế toán không những cung cấp thông tin cho các cấp
quản lý ra quyết định mà còn có tác dụng kiểm soát nhiều mặt hoạt động của ngân
hàng.
3. Thủ tục kiểm soát:
a. Các nguyên tắc kiểm soát:
Thứ nhất, nguyên tắc “phân công, phân nhiệm”: Mỗi cá nhân trong tổ chức
đều có mục tiêu theo đuổi riêng của mình, nhưng để mọi người cùng nhau thực
hiện mục tiêu chung của tổ chức thì các công việc của tổ chức phải được phân
công và giao nhiệm vụ rõ ràng gọi là “phân công phân nhiệm”. Đây được xem là
nguyên tắc quan trọng của kiểm soát. Vì trên cơ sở phân công phân nhiệm rõ ràng
mỗi người trong tổ chức không những hiểu rõ nhiệm vụ và trách nhiệm của mình
mà còn hiểu rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của nhau để phối hợp cùng nhau và kiểm
soát lẫn nhau nhằm đạt mục tiêu chung của tổ chức.
Thứ hai, nguyên tắc “bất kiêm nhiệm”: hay còn gọi là sự cách ly thích hợp
về trách nhiệm có tác dụng trong việc ngăn ngừa những sai phạm nhất là
những sai phạm cố ý.
+ Bất kiêm nhiệm trong việc bảo vệ tài sản với kế toán,
+ Bất kiêm nhiệm trong việc phê chuẩn các nghiệp vụ kinh tế với việc thực hiện
các nghiệp vụ ấy. Ví dụ như người ra quyết định đầu tư không thể kiêm nhiệm việc
sử dụng vốn để đầu tư.
+ Bất kiêm nhiệm giữa việc điều hành với trách nhiệm ghi sổ,
-Thứ ba, nguyên tắc “phê chuẩn, uỷ quyền”: Phê chuẩn là biểu hiện cụ thể của việc
quyết định và giải quyết một công việc trong một phạm vi nhất định. Quá trình uỷ
quyền được tiếp tục thực hiện xuống cấp thấp hơn tạo nên một hệ thống phân chia
trách nhiệm và quyền hạn mà vẫn không làm mất tính tập trung của đơn vị.
Nguyên tắc phê chuẩn, uỷ quyền yêu cầu tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều
phải được cấp có thẩm quyền phê chuẩn.
b. Thủ tục kiểm soát:
Kiểm soát trực tiếp: Là các thủ tục, quy chế, quá trình kiểm soát được thiết
lập nhằm trực tiếp đáp ứng các mục tiêu chi tiết của kiểm soát.
Kiểm soát bảo vệ tài sản, thông tin: Là các biện pháp, quy chế kiểm soát
nhằm bảo đảm an toàn về tài sản và các thông tin trong đơn vị. Bao gồm:
- Phân định trách nhiệm bảo vệ tài sản và thông tin
- Thiết lập các quy chế, biện pháp để ngăn ngừa sự tiếp cận đến tài sản, thông
tin của những người ko có trách nhiệm
- Đảm bảo các điều kiện vật chất như kho tàng, thiết bị cho việc bảo vệ và
kiểm soát tài sản, sổ sách và thông tin
- Thiết lập các quy chế về kiểm kê hiện vật, lấy xác nhận của bên thứ 3…
Kiểm soát xử lý: Là loại kiểm soát được đặt ra để trong quá trình xử lý, ghi sổ các
nghiệp vụ kinh tế đảm bảo rằng nghiệp vụ đó xảy ra và việc ghi chúng vào sổ kế
toán là đúng đắn
Kiểm soát quản lý: Là việc kiểm soát các hoạt động riêng lẻ do những nhân viên
độc lập với người thực hiện hoạt động đó tiến hành
Kiểm soát tổng quát: Là sự kiểm soát tổng thể đối với nhiều hệ thống, nhiều công
việc khác nhau.
Ví dụ ở các ngân hàng thương mại, thủ tục kiểm soát được phân loại:
+ Kiểm soát quản lý là việc kiểm soát các hoạt động riêng lẻ của ngân hàng, do
Hội đồng quản trị độc lập với người thực hiện hoạt động đó tiến hành. Kiểm soát
quản lý diễn ra thường xuyên và là hoạt động quan trọng nhất trong cơ chế kiểm
soát nội bộ của ngân hàng.
+ Kiểm soát xử lý được đặt ra để kiểm tra việc xử lý các giao dịch, tức là kiểm tra
lại những công việc mà nhân viên ngân hàng đã thực hiện và đã được công nhận,
cho phép, phân loại, tính toán, ghi chép và tổng hợp trong báo cáo.
+ Kiểm soát để bảo vệ tài sản là các biện pháp, quy chế kiểm soát nhằm đảm bảo
sự an toàn của tài sản và thông tin trong ngân hàng.+ Kiểm soát tổng quát là sự
kiểm soát tổng thể đối với tất cả các hoạt động và giao dịch diễn ra trong ngân
hàng.

4 – Kiểm toán nội bộ:


4.1 Khái niệm về kiểm toán nội bộ:
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị tiến hành
công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ đơn
vị. Theo các chuẩn mực tiến hành kiểm toán nội bộ do viện kiểm soát nội bộ Hoa
kỳ ban hành năm 1978 “Kiểm toán nội bộ là một chức năng đánh giá độc lập được
thiết kế trong một tổ chức để kiểm tra đánh giá các hoạt động của tổ chức như là
một hoạt động phục vụ cho một tổ chức”.
Theo liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) “Kiểm toán nội bộ là một hoạt đọng đánh
giá được lập ra trong một doanh nghiệp như là một loại dịch vụ cho doanh nghiệp
đó, các chức năng kiểm tra đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu quả của hệ
thống kế toán và kiểm soát nội bộ”.
4.2 Thực trạng của kiểm toán nội bộ:
Trên thế giới, kiểm toán nội bộ đã ra đời từ lâu nhưng chỉ phát triển từ sau
các vụ gian lận tài chính ở Công ty Worldcom và Enron (Mỹ) những năm 2000-
2001 và đặc biệt là khi Luật Sarbanes-Oxley của Mỹ ra đời năm 2002. Luật này
quy định các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ phải báo cáo về
hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ công ty.
Tại Việt Nam dù đã có mặt được hơn 10 năm nhưng cho đến nay, khái niệm
kiểm toán nội bộ vẫn còn xa lạ với nhiều nhà quản lý. Tuy nhiên, yêu cầu hội nhập
WTO, sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán và những vụ bê bối
về quản trị ở một số doanh nghiệp lớn của Nhà nước gần đây cho thấy sự cần thiết
của kiểm toán nội bộ ở doanh nghiệp.
Trong khi hoạt động của kiểm toán độc lập giới hạn ở việc kiểm tra báo cáo
tài chính (mức độ trung thực và hợp lý), hoạt động của kiểm toán nội bộ không bị
giới hạn ở bất kỳ phạm vi nào trong công ty, từ mua hàng, sản xuất, bán hàng đến
quản lý tài chính, nhân sự hay công nghệ thông tin. Mục đích của kiểm toán nội bộ
là phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp, chứ không phải cho đối tác bên
ngoài. Kiểm toán nội bộ không chỉ đánh giá các yếu kém của hệ thống quản lý mà
còn đánh giá các rủi ro cả trong và ngoài công ty.
4.2.1 Lợi ích của kiểm toán nội bộ:
Kiểm toán nội bộ có thể đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích. Đây là
công cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của
doanh nghiệp. Thông qua công cụ này, ban giám đốc và hội đồng quản trị có thể
kiểm soát hoạt động tốt hơn, quản lý rủi ro tốt hơn, tăng khả năng đạt được các
mục tiêu kinh doanh. Một doanh nghiệp có kiểm toán nội bộ sẽ làm gia tăng niềm
tin của các cổ đông, các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán về hệ thống quản
trị. Các thống kê trên thế giới cho thấy các công ty có phòng kiểm toán nội bộ
thường có báo cáo đúng hạn, báo cáo tài chính có mức độ minh bạch và chính xác
cao, khả năng gian lận thấp và cuối cùng là hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn
so với các công ty không có phòng kiểm toán nội bộ.
Tuy nhiên, có một thực tế là không phải doanh nghiệp nào cũng thấy hết các
lợi ích trên và có biện pháp để hiện thực hóa các lợi ích đó. Nhiều doanh nghiệp
theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nóng và đã không cân bằng được ba mục tiêu bắt
buộc của phát triển bền vững. Đó là tăng trưởng, hiệu quả và kiểm soát. Kết quả là
tam giác ba mục tiêu này không thực sự mở rộng ở cả ba góc trong quá trình tăng
trưởng một cách đồng bộ. Thay vào đó là bị co méo ở hai góc kia, tăng trưởng tuy
có đạt, nhưng hiệu quả và kiểm soát lại giảm sút hoặc không ngang tầm với sự tăng
trưởng. Để phát triển bền vững, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải cân bằng cả ba
mục tiêu trên. Đây là bài toán thực sự của quản trị. Doanh nghiệp nào xem nhẹ một
trong ba mục tiêu trên thì sớm muộn cũng phải trả giá.
4.2.2- Thực tế kiểm toán nội bộ ở Việt Nam
Hiện nay khung pháp lý cao nhất cho hoạt động kiểm toán nội bộ là Luật
Doanh nghiệp (cũ và mới). Khái niệm đầu tiên liên quan đến kiểm toán nội bộ quy
định trong luật là ban kiểm soát do cổ đông bầu ra. Tuy nhiên, vai trò, chức năng,
trách nhiệm của ban kiểm soát còn quá mơ hồ, làm công việc của thanh tra mang
tính chất đột xuất, theo yêu cầu hơn là thường xuyên.
Các doanh nghiệp nhà nước có thêm một quy định, hướng dẫn về vấn đề
kiểm toán nội bộ (Quyết định 832/TC/QQĐ/CĐKT năm 1997). Theo đó, phòng
kiểm toán nội bộ vẫn báo cáo lên tổng giám đốc như một bộ phận thuộc sự điều
hành của tổng giám đốc. Điều này làm giảm tính độc lập của phòng kiểm toán nội
bộ, vì toàn bộ hệ thống quản lý trong doanh nghiệp (do ban giám đốc quy định)
đều là đối tượng đánh giá của kiểm toán nội bộ. Trong khi đó, theo thông lệ phổ
biến trên thế giới, phòng kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp lên
cho ban kiểm soát hoặc hội đồng quản trị, tức là cấp cao hơn ban giám đốc.
Ở Việt Nam, trong những năm qua, ban kiểm soát ở các doanh nghiệp nhà
nước và một số ngân hàng đã hoạt động nhưng chưa mang lại hiệu quả do vai trò,
chức năng, trách nhiệm chưa rõ ràng và còn thiếu công cụ để thực hiện công tác
giám sát.
Ở các loại hình công ty khác, hoạt động kiểm toán nội bộ ít nhiều đã hình
thành khi các công ty thực hiện hệ thống quản lý chất lượng hay môi trường (ISO).
Các công ty có được chứng chỉ ISO bắt buộc phải thực hiện đánh giá nội bộ (thực
chất là kiểm toán nội bộ) ít nhất mỗi năm một lần về mức độ tuân thủ các tiêu
chuẩn ISO. Việc đánh giá này thường do một ban hay một bộ phận - thường gọi là
ban ISO hay ban đảm bảo chất lượng - thực hiện và báo cáo lên tổng giám đốc.
Tuy nhiên, do đánh giá nội bộ chỉ giới hạn ở việc tuân thủ các tiêu chuẩn của ISO
(chủ yếu về mặt thủ tục, văn bản), nên hầu như không giúp cải tiến nhiều về hệ
thống kiểm soát ở công ty. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp thực hiện ISO đã
nhận ra điều này và đã thiết lập bộ phận đánh giá nội bộ ở cấp độ cao hơn, đầy đủ
hơn và thực chất hơn.
Ở Việt Nam, việc xây dựng kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp chắc chắn
sẽ phát triển trong thời gian tới cùng với sức phát triển của thị trường chứng khoán
Việt Nam. Sự đòi hỏi của các nhà đầu tư về một hệ thống quản trị chuyên nghiệp
sẽ buộc các doanh nghiệp phải chú ý xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ sao cho
thật hiệu quả.
Xu hướng thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ cũng sẽ phát triển trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Các doanh
nghiệp này đang ngày càng có đóng góp cao về doanh thu, lợi nhuận đối với công
ty mẹ ở nước ngoài. Và rất nhiều công ty mẹ đó đang niêm yết trên thị trường
chứng khoán Mỹ hay ở các thị trường chứng khoán lớn khác trên thế giới. Do đó,
dần dần, các công ty nước ngoài ở Việt Nam cũng buộc phải tuân thủ những quy
định như Luật Sarbanes-Oxley của Mỹ, tức là phải thực hiện kiểm toán nội bộ. Các
công ty này sẽ ngày càng nhận được nhiều chương trình kiểm toán nội bộ do công
ty mẹ thực hiện hoặc sẽ phải xây dựng bộ phận kiểm toán độc lập của riêng mình.
4.3 Giải pháp xây dựng kiểm toán nội bộ
Việc xây dựng bộ phận kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp phải được thực
hiện qua nhiều bước. Trước hết, doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu cụ thể
và mục đích cụ thể của bộ phận này. Kế đó là phải xác định rõ ràng cơ cấu tổ chức,
vai trò, chức năng và quyền hạn của bộ phận kiểm toán nội bộ, có thể bao gồm cả
một văn kiện như điều lệ kiểm toán để đảm bảo đủ tính độc lập cho bộ phận kiểm
toán nội bộ hoạt động. Việc tiếp theo quan trọng không kém là tuyển dụng kiểm
toán viên trưởng, kiểm toán viên và đào tạo họ. Một điều cần lưu ý là nghiệp vụ
kiểm toán nội bộ khác nhiều kiểm toán độc lập và đòi hỏi trình độ chuyên môn và
kinh nghiệm rất cao. Sau cùng, bộ phận kiểm toán nội bộ cần thực hiện kiểm toán
thí điểm và tốt nhất là có sự đánh giá của một công ty tư vấn độc lập, để rút kinh
nghiệm trước khi bắt đầu xây dựng chiến lược và kế hoạch kiểm toán dài hạn.
Kiểm toán nội bộ là hoạt động đánh giá và tư vấn nội bộ trong doanh
nghiệp, có tính chất độc lập và khách quan, nhằm đem lại giá trị và cải tiến công
tác quản lý ở doanh nghiệp thông qua việc tăng cường kiểm soát nội bộ và quản lý
rủi ro.

III. ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ

1. Thực trạng về hệ thống kiểm soát nội bộ ở Việt Nam:

Một thực trạng khá phổ biến hiện nay là phương pháp quản lý của nhiều
công ty còn lỏng lẻo, khi các công ty nhỏ được quản lý theo kiểu gia đình, còn
những công ty lớn lại phân quyền điều hành cho cấp dưới mà thiếu sự kiểm tra đầy
đủ. Cả hai mô hình này đều dựa trên sự tin tưởng cá nhân và thiếu những quy chế
thông tin, kiểm tra chéo giữa các bộ phận để phòng ngừa gian lận. Thực tế hiện nay
các doanh nghiệp của Việt Nam chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của kiểm soát
nội bộ hoặc chưa xây dựng cho mình những hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu.
Phần lớn các doanh nghiệp chưa hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích cũng như cách xây
dựng, tổ chức và vận hành bài bản một hệ thống kiểm soát nội bộ. Công tác kiểm
tra, kiểm soát thường chồng chéo, phiến diện, tập trung vào các chỉ số kinh tế - tài
chính và kết quả cuối cùng với thói quen tìm lỗi, đổ trách nhiệm chứ ít chú trọng
kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của tổ chức. Đây là một trong các điểm yếu
mà các doanh nghiệp cần khắc phục để nâng cao sức cạnh tranh khi hội nhập vào
nền kinh tế toàn cầu.

2. Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp Việt
Nam:

Thứ nhất, tăng cường nhận thức về kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp.

Thứ hai, hoàn thiện môi trường kiểm soát nội bộ trong các doanh nghiệp. Có
sự độc lập giữa Hội đồng quản trị và ban giám đốc. Nâng cao quyền tự chủ cho các
chi nhánh, các công ty con đối với những công ty và tập đoàn lớn.

Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình về chức năng kiểm soát của
Hội đồng quản trị, của ban giám đốc.

Trên đây chỉ là những giải pháp chung nhất để hoàn thiện hơn hệ thống kiểm
soát nội bộ trong các doanh nghiệp ở Việt Nam. Xét về dài hạn, các doanh nghiệp
cần tạo dựng nền tảng cho những phát triển bền vững sau này thông qua những
thiết kế hệ thống hữu hiệu, là một trong những việc làm hết sức cụ thể để nâng cao
năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra việc thiết lập
những thiết kế hệ thống trong đó có kiểm soát nội bộ hoàn toàn thuộc trách nhiệm
của doanh nghiệp. Những đòi hỏi của những đối tác bên trong doanh nghiệp như
cổ đông hay cán bộ nhân viên cũng như những đối tác bên ngoài doanh nghiệp như
khách hàng, nhà cung cấp hay công chúng là những cổ đông tiềm năng cũng là
những sức ép buộc doanh nghiệp phải có những thiết kế hữu hiệu. Với trách nhiệm
bảo vệ thị trường, nhà nước cũng có những quy định bắt buộc doanh nghiệp phải
có những thiết kế quản trị công ty phù hợp đặc biệt khi tham gia thị trường chứng
khoán như quy định của Điều 28 trong Dự thảo Luật chứng khoán đang trong quá
trình thẩm định.

3. Quy trình đánh giá một hệ thống kiểm soát nội bộ

Thiết lập một hệ thống kiểm soát nội bộ chính là xác lập một cơ chế giám sát
mà ở đó chúng ta không quản lý bằng lòng tin, mà bằng những quy định rõ ràng.
Tuy nhiên không phải hệ thống kiểm soát nội bộ nào cũng phát huy hết hiệu quả
của mình. Do vậy đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ không chỉ để xác minh tính
hữu hiệu của kiểm soát nội bộ mà còn là cơ sở cho việc xác định phạm vị thực hiện
các thử nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp vụ của đơn vị.
Việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ được thực hiện theo một trình tự nhất định
và có thể khái quát qua 4 bước cơ bản sau:

3.1. Thu thập hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ và mô tả chi tiết hệ
thống kiểm soát nội bộ trên giấy tờ làm việc

Trong giai đoạn này kiểm toán viên tìm hiểu về kiểm soát nội bộ của đơn vị trên
hai mặt chủ yếu: thiết kế kiểm soát nội bộ bao gồm thiết kế về quy chế kiểm soát
và thiết kế về bộ máy kiểm soát; hoạt động liên tục và có hiệu lực của kiếm soát
nội bộ.

Kiểm toán viên phải tìm hiểu về thiết kế và vận hành của hệ thống KSNB của
khách hàng theo từng yếu tố cấu thành nhằm:

- Đánh giá xem liệu có các BCTC có thể kiểm toán được hay không
- Để nhận diện và đánh giá các sai phạm tiềm tàng.
- Để quyết định về mức giá thích hợp của rủi ro kiểm soát ảnh hưởng đến rủi
ro phát hiện từ đó ảnh hưởng đến quyết định số lượng bằng chứng kiểm
toán phải thu thập.
- Để có kế hoạch thiết kế các cuộc khảo sát thích hợp.

Phương pháp tiếp cận:

- Phương pháp tiếp cận theo khoản mục: Cách làm này dễ thực hiện nhưng
KTV sẽ khó đánh giá về những ảnh hưởng của kiểm soát nội bộ đến các số
dư của khoản mục trong BCTC
- Phương pháp tiếp cận theo chu trình nghiệp vụ: Theo phương pháp này,
KTV xem xét các chính sách, thủ tục kiểm soát đến từng chu trình nghiệp vụ
(Chu trình đầu tư tài chính, chu trình chi tiêu, chu trình sản xuất, chu trình
doanh thu).

Phương pháp này cho phép KTV phân chia các nghiệp và các số dư
tài khoản thành từng loại rõ ràng (các chu trình) và sau đó KTV có thể hiểu
biết về cách thức kiểm soát cho các cơ sở tiêu chí liên quan tới từng loại
nghiệp vụ và số dư tài khoản trong chu trình đó.

Cụ thể các phương pháp áp dụng:

- Dựa vào kinh nghiệm trước đây của KTV với khách hàng. Do hầu hết các
cuộc kiểm toán của 1 công ty được 1 công ty kiểm toán thực hiện hàng năm
nên KTV thường bắt đầu cuộc kiểm toán với lượng thông tin đã thu thập
được từ cuộc kiểm toán trước. Sau đó KTV cập nhật hóa thông tin và mang
sang năm hiện hành.
- Thẩm vấn nhân viên của công ty khách hàng. Công việc này giúp cho KTV
thu thập thông tin ban đầu (đối với khách hàng mới) hoặc nắm bắt được
những thay đổi trong hệ thống KSNB của khách hàng (đối với khách hàng
thường niên).
- Xem xét các sổ tay về thủ tục và chế độ của công ty khách hàng. Việc này
giúp KTV có thể hiểu được thủ tục và chế độ liên quan đến KSNB đang
được áp dụng ở công ty khách hàng.
- Kiểm tra các chứng từ và sổ sách đã hoàn tất. Giúp KTV có thể thấy được
việc vận dụng các thủ tục và chế độ trên tại công ty khách hàng.
- Quan sát các mặt hoạt động và quá trình hoạt động của công ty khách hàng
để củng cố thêm sự hiểu biết và kiến thức về thực tế sử dụng các thủ tục và
chế độ KSNB tại công ty khách hàng.

Để mô tả hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên sử dụng 1 trong 3 phương
pháp hoặc cả 3 phương pháp sau tùy thuộc đặc điểm đơn vị được kiểm toán và
quy mô kiểm toán: vẽ các Lưu đồ; lập Bảng câu hỏi về KSNB; lập bảng tường
thuật về KSNB.

Trong đó bảng câu hỏi về hệ thống KSNB gồm đưa ra các câu hỏi theo 7 mục
tiêu chi tiết của hệ thống KSNB đối với hệ thống KSNB. Các câu hỏi được thiết
kế dưới dạng trả lời "có" hoặc "không" và các câu trả lời "không" sẽ cho thấy
nhược điểm của KSNB.

Ưu điểm của công cụ này là được lập sẵn nên KTV có thể tiến hành nhanh
chóng và không bỏ sót các vấn đề quan trọng. Nhưng do được thiết kế chung
nên bảng câu hỏi đó có thể không được phù hợp với mọi loại hình doanh
nghiệp.

KTV thường sử dụng kết hợp bảng câu hỏi với lưu đồ hoặc với bảng tường
thuật sẽ giúp KTV hiểu biết tốt hơn về hệ thống KSNB của khách hàng.

2.1. Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát để lập kế hoạch cho các khoản mục
trên BCTC

Rủi ro kiểm soát được đánh giá thông qua những hiểu biết về hệ thống kiểm
soát nội bộ. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành hữu hiệu
thì rủi ro kiểm soát được đánh giá thấp và ngược lại
Sau khi thu thập được một số hiểu biết về cách thiết kế và sự vận hành của hệ
thống KSNB, KTV sẽ đưa ra đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát cho từng mục
tiêu kiểm soát chi tiết thông qua các bước sau:

- Nhận diện các mục tiêu kiểm soát mà theo đó quá trình đánh giá vận dụng.
KTV sẽ vận dụng các mục tiêu KSNB cụ thể cho từng loại nghiệp vụ chủ
yếu của công ty.
- Nhận diện các quá trình kiểm soát đặc thù. KTV chỉ phải nhận diện và phân
tích các quá trình kiểm soát dự kiến có ảnh hưởng lớn nhất đến việc thỏa
mãn mục tiêu kiểm soát mà sẽ mang lại tính hiệu quả cho cuộc kiểm toán.
- Nhận diện và đánh giá các nhược điểm của hệ thống KSNB. Nhược điểm
được hiểu là sự vắng mặt của các quá trình kiểm soát thích đáng mà điều này
sẽ làm tăng khả năng rủi ro của việc tồn tại các sai phạm trên BCTC.
- Đánh giá rủi ro kiểm soát. KTV tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát ban đầu
đối với từng mục tiêu kiểm soát của từng loại nghiệp vụ kinh tế.
- KTV có thể đánh giá rủi ro theo yếu tố định tính thấp, trung bình, cao hoặc
theo tỷ lệ phần trăm.
- Theo ISA 400, KTV thường đặt ra mức độ rủi ro kiểm soát là cao trong
trường hợp:
- Hệ thống kế toán và KSNB không được áp dụng đúng
- Việc đánh giá sự áp dụng của hệ thống kế và KSNB được xem là không đủ.
- Mức độ rủi ro kiểm soát ban đầu này sẽ được chứng minh bằng việc thực
hiện các khảo sát (thử nghiệm kiểm soát) ở giai đoạn 2 của cuộc kiểm toán
(giai đoạn thực hiện các thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản) trước
khi KTV đưa ra mức độ rủi ro kiểm soát thích hợp được sử dụng.
- Trong kiểm toán báo cáo tài chính việc đánh giá rủi ro kiểm soát có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc xác định các phép thử nghiệm áp dụng.

3.3. Thực hiện thử nghiệm kiểm soát( thử nghiệm tuân thủ)

- Mục đích của thử nghiệm này là thu thập bằng chứng về sự hiện hữu của các
quy chế và thủ tục kiểm soát để giảm bớt các thử nghiệm cơ bản trên số dư
và nghiệp vụ
- Thử nghiệm kiểm soát được thực hiện với nhiều phương pháp khác nhau
như: phương pháp kiểm tra tài liệu, thực hiện lại các thủ tục kiểm soát hoặc
tiến hành quan sát các hoạt động liên quan đến KSNB….

3.4. Lập bảng đánh giá kiểm soát nội bộ

Bảng đánh giá kiểm soát nội bộ thường gồm những thông tin sau:
- Các mục tiêu của kiểm soát nội bộ đối với từng khoản mục hay chu trình
nghiệp vụ
- Các thông tin mô tả thực trạng kiểm soát nội bộ do KTV thu thập
- Bản chất và tính hệ trọng của các rủi ro tương ứng

4. Nguyên tắc thiết kế và vận hành các thủ tục kiểm soát
5. Đánh giá về kiểm soát nội bộ đối với từng khoản mục hay chu trình
nghiệp vụ

You might also like