You are on page 1of 3

Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam

Trần Xuân Trường


(Cập nhật: 22/1/2007)

Vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã được
làm rõ dần qua các kỳ đại hội Đảng, đặc biệt là qua Đại hội IX. Trong bài viết này, tôi xin bổ sung
và lý giải thêm vài điểm.

1 - Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn
minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị trường vừa là vấn đề của lực lượng sản
xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải đạt đến một trình độ phát triển nhất định, nền sản
xuất xã hội mới thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Cũng
phải trong những quan hệ xã hội như thế nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất yếu kinh tế:
người sản xuất hàng hóa phải mang sản phẩm dư thừa ra thị trường; kẻ mua và người bán trao
đổi sản phẩm với nhau trên thị trường.

Kinh tế thị trường thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, nhưng nó không bao giờ tự sản sinh ra một
hệ thống quan hệ sản xuất đầy đủ, độc lập với các phương thức sản xuất mà trong đó nó vận
động. Nó bao giờ cũng gắn bó hữu cơ với hệ thống các quan hệ sản xuất và trao đổi của từng
thời đại kinh tế, với các quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối của từng phương thức
sản xuất trong lịch sử. Sự gắn bó đó chặt chẽ đến mức chúng ta có thể nói đến nền kinh tế hàng
hóa của xã hội nô lệ; nền kinh tế hàng hóa giản đơn trong lòng xã hội phong kiến. Đến chủ nghĩa
tư bản, kinh tế hàng hóa giản đơn trở thành kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, trở thành kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa. Và, trong chủ nghĩa tư bản, những quan hệ kinh tế của kinh tế thị
trường và của chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào nhau thành một thể thống nhất. Điều đó gây nên
rất nhiều sự nhầm lẫn của kinh tế học tầm thường. Chỉ có sự trừu tượng hóa khoa học của
những người mác-xít mới phân tích được bản chất và đặc điểm của kinh tế thị trường của từng
phương thức sản xuất trong lịch sử.

2 - Cho đến nay, nhân loại mới chỉ biết đến nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như là nền
kinh tế phát triển ở trình độ cao. Nhân loại chưa biết đến nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, bởi vì ở nơi mà chủ nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời thì lại không phát triển thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; còn ở nơi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thì chủ nghĩa xã hội chưa phát triển hoàn chỉnh.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là một điểm đột phá lý luận, một mô hình thực tiễn đang trong quá
trình thử nghiệm, là sự phủ định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao
cấp. Đương nhiên, đó không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, tuy rằng nó có thể
học hỏi nhiều điều từ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất kinh tế khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Bản chất đó được quy định bởi các quan hệ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.

Bàn về bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là bàn
về bản chất của những thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ ở Việt
Nam. Những thành phần kinh tế đó tạo thành cơ sở kinh tế của định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Ở đây, có một câu hỏi đặt ra: Phải chăng định hướng chính trị
quy định bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Vấn đề mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn
đề không đơn giản chút nào. Chắc chắn rằng, trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, chính trị phải
đóng vai trò hàng đầu và chi phối toàn bộ sự phát triển của đất nước, kể cả sự phát triển kinh tế.
Con đường chính trị xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam trong
thời đại cả loài người vẫn tiếp tục vượt qua chủ nghĩa tư bản, đi lên chủ nghĩa xã hội theo cách
này hay cách khác, cho dù trước mắt còn gặp vô vàn khó khăn. Tuy nhiên, định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở nước ta không phải chỉ do định
hướng chính trị chi phối, mà còn được chi phối bởi cơ sở kinh tế bên trong, được bảo đảm bởi
một kết cấu kinh tế mà trong quá trình vận động, tự nó có xu hướng xã hội chủ nghĩa, và do đó,
nó làm cho các nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh lên. Vậy cái gì là nhân tố xã hội
chủ nghĩa trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta?

Nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên nhiều hình thức sở hữu. Khi lý giải mối quan hệ giữa các
hình thức sở hữu đó, việc lý giải mối quan hệ giữa hình thức công hữu và hình thức tư hữu, đặc
biệt là hình thức tư hữu tư bản chủ nghĩa, là phức tạp nhất về mặt lý luận và thực tiễn.

Cách giải thích rằng, chỉ có hình thức công hữu mới mang bản chất xã hội chủ nghĩa, cho nên
việc nhanh chóng mở rộng hình thức công hữu, thu hẹp hình thức tư hữu là thực hiện yêu cầu
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường là không đúng với lý luận Mác - Lê-nin và
đường lối chính trị, kinh tế của Đảng ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX của Đảng xác định: Chế
độ công hữu sẽ từng bước được xác lập và "sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được
xây dựng xong về cơ bản"(1). Nhưng, từ nay đến đấy còn xa, hình thức sở hữu tư nhân còn tồn
tại lâu dài và còn đóng vai trò tích cực trong nền kinh tế thị trường nước ta. Để hình thức công
hữu tiến lên chiếm ưu thế tuyệt đối, chắc chắn phải làm cho nó tiến triển một cách kinh tế, như
một quá trình lịch sử tự nhiên, chứ không bằng biện pháp hành chính.

Lại có cách giải thích xóa nhòa ranh giới giữa hình thức công hữu và hình thức tư hữu, hầu như
coi các thành phần kinh tế đều có cùng một bản chất xã hội chủ nghĩa. Ở đây, người ta đã lạm
dụng luận đề trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng: Các thành phần kinh tế "đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"(2). Kinh tế tư bản tư
nhân là một bộ phận tích cực, năng động trong nền kinh tế quốc dân nước ta, tồn tại lâu dài và
phục vụ định hướng xã hội chủ nghĩa, song điều đó không có nghĩa là nó không còn là kinh tế tư
bản chủ nghĩa nữa.

Phân tích một cách lịch sử cụ thể, chúng ta thấy kinh tế tư bản của thời kỳ đổi mới ở nước ta là
sản phẩm của đường lối đổi mới của Đảng ta. Nó không hoàn toàn giống với kinh tế tư bản của
chủ nghĩa tư bản. Theo một nghĩa nào đấy, trong xã hội ta hiện nay vẫn có mâu thuẫn giữa công
hữu và tư hữu, giữa lao động và bóc lột, nhưng đó là những mâu thuẫn có thể giải quyết được
một cách êm thấm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, chúng ta có thể yên tâm thực hiện nhất
quán một chính sách tích cực, cách mạng đối với kinh tế tư bản chủ nghĩa. Cần lãnh đạo và
quản lý chặt chẽ, khắc phục mặt tiêu cực của thành phần kinh tế này, nhưng không hạn chế,
phân biệt đối xử, mà phải khuyến khích, tạo điều kiện cho nó phát triển. Đương nhiên, không nên
phiến diện, một chiều trong việc đánh giá vai trò của các tầng lớp đại diện cho thành phần kinh tế
này, nhất là đánh giá vai trò của họ cao hơn vai trò của những giai cấp và tầng lớp đang là nền
tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Làm thế nào để kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân là một vấn đề lớn cần được bàn luận nhiều, để qua đó, có
biện pháp hữu hiệu trong việc củng cố và hoàn thiện nó. Hiện nay, cần chống định kiến xấu với
kinh tế tư nhân, nhưng cũng cần chống định kiến xấu với kinh tế nhà nước. Có thể khẳng định
rằng, chỉ cần bảo đảm cho kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, và Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối
của Đảng, thì việc phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế theo hình thức sở hữu tư nhân sẽ
phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở nước
ta hiện nay.

Như vậy, khi trả lời câu hỏi, cái gì là nhân tố xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần?, thì phải thật sự phân biệt được đâu là chế độ công hữu, đâu là chế độ tư hữu,
không thể xóa nhòa ranh giới giữa chúng, và phải xem xét mối quan hệ giữa chúng một cách
biện chứng. Chế độ công hữu dưới hình thức kinh tế nhà nước hiện nay là tiêu biểu cho nhân tố
xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta. Tuy nhiên, nhân tố đó không tồn tại biệt lập,
mà đan xen, xâm nhập vào các thành phần kinh tế khác, tạo nên những mầm mống xã hội chủ
nghĩa trong lòng các thành phần kinh tế tư nhân; thông qua những hình thức kinh tế quá độ của
chủ nghĩa tư bản nhà nước.

3 - Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không chỉ khác kiểu với nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thế giới mà còn khác về trình độ phát triển; nền kinh tế thị
trường nước ta còn sơ khai, giản đơn, trong khi nền kinh tế thị trường thế giới đã ở trình độ phát
triển cao, hiện đại. Chúng ta cần nhanh chóng hội nhập nền kinh tế thị trường nước ta vào nền
kinh tế thị trường thế giới, bởi vì càng hội nhập nhanh chóng bao nhiêu thì chúng ta càng sớm có
chủ nghĩa xã hội bấy nhiêu. Cần lưu ý rằng, trong lĩnh vực kinh tế thị trường, cũng có quy luật
phát triển rút ngắn, đi tắt, đón đầu.

Từ nền kinh tế thị trường Việt Nam tiến tới hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, xét từ góc
độ kinh tế hàng hóa là từ kinh tế hàng hóa giản đơn của những người sản xuất nhỏ tiến tới hội
nhập với nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa hiện đại, phát triển. Ở đây, chúng ta gặp lại vấn
đề từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, nhưng theo tư duy mới, theo con đường kinh tế thị trường.
Chúng ta sẽ đi từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ lên nền kinh tế hàng hóa lớn mang bản chất xã hội
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, học tập và sử dụng tối đa các thành tựu của nền kinh tế hàng hóa lớn
tư bản chủ nghĩa.

Hiện nay, hàng hóa Việt Nam đi vào thế giới còn kém về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh...
Vì sao vậy? Có nhiều lý do, nhưng có một lý do chính là, nền kinh tế hàng hóa nước ta chưa thật
sự trở thành nền kinh tế hàng hóa lớn. Lấy việc xuất khẩu nông, thủy sản làm ví dụ. Cơ sở sản
xuất, chế biến nông, thủy sản ở nước ta, nói chung còn lạc hậu, trong khi thị trường quốc tế lại
khó tính, đòi hỏi rất cao về chất lượng, quy cách và mẫu mã sản phẩm. Không tiến lên trình độ
sản xuất lớn, hiện đại thì nền kinh tế thị trường nước ta sẽ không thể khắc phục được sự lạc
hậu. Chúng ta sẽ không đi lại con đường từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa kiểu
tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây. Tuy rằng việc xây dựng những tổ hợp sản xuất, chế biến
quy mô lớn nào đấy chuyên để xuất khẩu là cần thiết, nhưng sản xuất lớn không có nghĩa là quy
mô mọi thứ phải lớn. Con đường đi lên sản xuất lớn của chúng ta hiện nay là con đường thị
trường, một con đường mà chúng ta phải tìm tòi, khai phá ra. Vẫn là kinh tế gia đình, nhưng nếu
biết biến các cơ sở nhỏ lẻ của nó thành những mắt khâu của nền kinh tế thị trường lớn, một nền
kinh tế có sự liên kết các cơ sở sản xuất, khoa học và quản lý, các cơ sở sản xuất lớn, vừa và
nhỏ thành một hệ thống thống nhất để tạo ra những sản phẩm ổn định, có chất lượng và sức
cạnh tranh cao, thì đó chính là cách sản xuất lớn của nền kinh tế thị trường hiện đại.

Nền kinh tế hàng hóa nhỏ Việt Nam trở thành nền kinh tế thị trường lớn, hiện đại là một vấn đề
của lực lượng sản xuất, đồng thời cũng là một vấn đề của quan hệ sản xuất. Hiện nay, chế độ
công hữu được thực hiện ở kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và một phần ở các thành phần kinh
tế khác khi liên doanh với kinh tế nhà nước. Vậy trong nền kinh tế thị trường hiện đại Việt Nam
định hướng xã hội chủ nghĩa, khi có sự liên kết tất cả các cơ sở kinh tế, kể cả kinh tế gia đình,
thành một hệ thống kinh tế lớn; khi công nghệ thông tin làm cho việc lao động tại gia đình trở
thành một hình thức lao động hiện đại; khi sở hữu cá nhân của người lao động mà C. Mác nói
đến không còn chỉ là những tư liệu tiêu dùng... thì liệu chúng ta có thể nghĩ đến những hình thức
mới của chế độ công hữu? Những người mác-xít cần đặt cho mình nhiệm vụ đa dạng hóa chế độ
công hữu. Tư duy biện chứng không cho phép chúng ta dựng một hàng rào siêu hình giữa chế
độ công hữu và chế độ tư hữu, mà phải tìm tòi những hình thức kinh tế quá độ giữa chế độ tư
hữu và chế độ công hữu, làm cho chế độ công hữu trở thành một hệ thống các hình thức quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa sinh động, sáng tạo trên con đường hoàn thiện chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.

You might also like