Professional Documents
Culture Documents
1. Giới thiệu
Thép, do có tính chất đa năng và khả năng tái chế , là vật liệu cơ bản cho sự phát triển bền vững
trong xã hội công nghiệp hiện đại. Nó thu hút dải rộng người dùng trong hầu hết các thị phần
công nghiệp quan trọng, như sản xuất thiết bị và máy, xây dựng cầu, xây dựng nhà khung
thép, năng lượng và kỹ thuật môi trường, giao thông, và công nghiệp bao gói, và những gì nêu
trên chỉ chiếm một phần nhỏ ứng dụng của thép.
Cấp độ sản xuất thép và ứng dụng thép của một quốc gia hay vùng miền phụ thuộc vào phát triển
con người và vào sự phát triển kinh tế - kỹ thuật của quốc gia. Trong giai đoạn từ 1900 đến 2005,
sản lượng thép thô tăng từ 40 triệu Tấn tới trên 1,1 tỷ Tấn. Nước Đức xếp hạng thứ 6 và hàng
năm sản xuất khoảng 44,7 triệu Tấn trong năm 2005, trong khi đó nền kinh tế EU đứng thứ 2 thế
giới về sản lượng thép thô cho đến năm 2002 . Trung Quốc chiếm vị trí số một năm 2003China .
Thép vẫn là, và sẽ tiếp tục là, vật liệu số 1 của thế kỉ này với tỉ số hiệu năng/giá tốt nhất.
Hoàn nguyên quặng sắt, chủ yếu qua con đường lò cao - lò thổi (BOF),
Nấu chảy thép phế trong lò điện hồ quang.
Quặng sắt là nguyên liệu thô chinh và chúng được nhập khẩu chủ yếu từ Brazil, Canada,
Australia và Sweden. Sử dụng thép phế để chế tạo thép là một trong những cách ổ xưa nhất của
quá trình tái chế.
Lò cao là thiết bị dạng hình trụ đứng hoạt động theo nguyên lý dòng chuyển. Vật liệu nạp dạng
hạt thô (coke và liệu hay quặng sắt + trợ dung) được nạp từ đỉnh lò, trong khi dòng khí hoàn
nguyên chạy lên trên, di chuyển ngược với liệu chuyển xuống.
Thiêu kết (= tạo cục (agglomeration)) được thực hiên tại các sàn thiêu kết (nhà máy thiêu kết), ở
đó các sàn với kích thước rộng hơn 4m và dài hơn 100m where. Quá trình thiêu kết gồm có nạp
Chất mang C quan trọng nhất là coke lò cao, mà ngày nay được sản xuất trong các nhà máy coke
hóa hiện đại, môi trường thân thiện. Quá trình coke hóa (coking) là quá trình nung nhiệt than
trong buồng coke yếm khí, trong quá trình tăng nhiệt độ nung các chất bốc như khí lò coke, H2S
và NH3 được thải ra và tái chế cho các mục đích sử dụng khác.
Khí nóng hay khí thổi có nhiệtđộ khoảng 1200°Cđược thổi qua hệ thống dẫn vào phần dưới của
lò cao để tạo khí hoàn nguyên. Cacbon trong coke ở vùng này sẽ hóa khí do bị oxy hóa và tạo khí
hoàn nguyên (CO), quá trình cháy tạo nhiệt độ ở đây lên đến 2200 °C. Khí tạo thành chạy lên
trên, liên kết với Oxy, hay hoàn nguyên quặng. Khí chạy lên trên sẽ nung nóng liệu. Một phần
nhỏ C tan vào gang, làm giảm nhiệt độ chảy lỏng của kim loại lỏng. ỏngCác nguyên tố lẫn
(tramp) trong vật liệu nạp tạo thành xỉ lỏng và chúng được tách khỏi kim loại lỏng. Kim loại
lỏng và xỉ được tập hợp ở vùng dưới lò cao (đáy) và tháo ra ở vùng dưới lò với nhiệt độ khoảng
1500 °C qua lỗ tháo, mà phải được mở. Kim loại lỏng và xỉ được tách bằng hệ thống dẫn lót
gạch chịu lửa và dẫn đến lò chứa kim loại lỏng và lò chứa xỉ lỏng tương ứng. Để tối ưu hóa quá
trình và giảm chi phí sản xuất, chất mang C như than, dầu hoặc các chất thải nhựa dẻo được phun
vào làm chất thay thế coke qua ệ thống tuyer. Hoạt động của lò cao không có coke là không thể
được. Coke được duy trì trong lò làm chất tạo cấu trúc cứng trong các vùng của lò cao khi quặng
biến mềm hoặc chảy lỏng, nhờ đó nó đảm bảo khí chạy thông suốt và coke làm nhiệm vụ tạo cấu
trúc nâng đỡ cột liệu rắn.
Các quá trình được phát triển, mặc dù, để hoàn nguyên quặng không sử dụng coke. Chúng đươc
gom nhóm theo thuật ngữ "hoàn nguyên trực tiếp" và "hoàn nguyên nóng chảy"
Hoàn nguyên trực tiếp không tạo ra kim loại lỏng, nó hoạt độnở nhiệt độ thấp hơn so với quá
trình lò cao. Chỉ có Oxy được tách khỏi quặng, và các phần tử đất chay trong quặng vẫn được
duy trì trong các sản phẩm hoàn nguyên (DRI-DRI= Direct Reduced Iron - Sắt hoàn nguyên trực
tiếp). Trong hầu hết quá trình hoàn nguyên trực tiếp khí hoàn nguyên được sản sinh bằng cách
chuyển hóa khí thành H2 và CO. sản phẩm DRI được nạp trực tiếp vào lò điện hồ quang.
Quá trình hoàn nguyên nóng chảy hoạt động qua 2 giai đoạn. Đầu tiên tất cả quặng được hoàn
nguyên thành sắt xốp, và sau đó được chuyển thành kim loại lỏng, tương tự quá trình lò cao, các
nhiên liệu là vào than và Oxy. Về phương pháp hoàn nguyên nóng chảy, chỉ có công nghệ Corex
được sử dụng trong công nghiệp.
Vì nhiều lý do về hiệu quả chi phí, cả hai quá trình bị ràng buộc theo các vùng nhất định và cấu
hình nhà máy cho thấy còn lâu nữa chúng mới có sản lượng như lò cao.
Từ kim loại lỏng thành thép thô. Các tạp chất được Oxy hóa trong lò chuyển (converter) oxy thổi
đỉnh, ống thổi Oxy được làm nguội bằng nước. Một lượng nhất định thép phế, chiếm 25% tổng
lượng liệu nạp, được thêm vào làm phụ gia làm nguội, do quá trình oxy hóa sinh ra lượng nhiệt
rất lớn.
Lò chuyển có thể chứa đến 400 tấn thép thô. Ngoài kim loại lỏng và thép phế, đá vôi được sử
dụng với mục đích tạo xỉ và cùng các chất hợp kim hóa. Quá trình thổi luyện kéo dài khoảng 20
phút. Ngày nay bên cạnh việc thổi khí Oxy nguyên chất ở đỉnh, người ta sử dụng công nghệ thổi
khí trơ hoặc Oxy ở đáy để tăng cường khuấy trộn cường hóa quá trình.
Dòng điện không thể đơn giản lấy từ các hệ thống công cộng. Bằng việc sử dụng máy biến thế,
để chuyển dòng điện có điện thế cao thành dòng điện có thế thấp (600 đến 1000V) dòng cao (55
đến 78kA). Tham số quan trong nhất của 1 lò hồ quang là năng lượng riêng của biến tế theo quan
Lò điện hồ quang xoay chiều (A.C. electric arc furnace) có tâm lệch và lỗ tháo đáy
Các phần tử cấu trúc chính của lò hồ quang là vỏ lò với ệ thống tháo ở đáy lệch tâm và cửa thao
tác, vòm di chuyển cùng các điện cực, và cơ cấu nghiêng lò. Vỏ lò có lớp gạch chịu lửa.
The main structural elements of an arc furnace are the furnace shell with eccentric bottom tap
hole system and working door, the removable roof with graphite electrodes, and the tilting
mechanism. The furnace shell has a refractory lining. Trọng lượng mẻ thép lò hồ quang ngày nay
có thể lên đến 200 tấn, với sản lượng hàng năm khoảng 1,5 triệu tấn.
Để nạp liệu cho lò, mái lò được nâng lên và quay theo 1 hướng. Thép phế được chuyển bằng
boongke lớn phía trên đỉnh và đổ vào miệng lò. Miệng lò được chuyển trở lại vàđiện cực di
chuyển xuống thấp, tạo mồi lửa hồ quang lên thép phế nguội. Trong suốt quá trình nấu chảy,
nhiệt độ hồ quang đạt tới 3500°C, và thép trong bể lò đạt tới 1800°C. Nhiệt độ cao cũng cho
phép hòa tan chất khó nóng chảytrong thép phế. Để cường hóa quá trình nấu chảy ử dụng quá
Lò điện hồ quang có thể sản xuất mác thép bất kì, hoàn toàn không phụ thuộc liệu nạp (thép phế,
kim loại lỏng, cũng như kết hợp của chúng) . Ngày nay, thép thô được sản xuất không chỉ trong
lò hồ qaung xoay chiều, được hoạt động với ba điện cực, mà còn được sản xuất bằng lò hồ quang
1 chiều với chỉ 1 điện cực.
Thiết bị như hình trên, đã đem lại các lợi ích về nấu luyện thép phế như tiêu thụ năng lượng điện
thấp,tieu hao điện cực và vật liệu chịu lửa thấp.
Nhu cầu chất lượng cao về tính chất của thép sản xuất bằng lưu trình lò cao/lò chuyển hoặc lò
điện hồ quang phải đáp ứng nhu cầu bằng quá trình xử lý tiếp sau. Điều này được thực hiện bằng
quá trình luyện kim thứ cấp, nghĩa là xử lý lò nồi hoặc chân không cho thép thô lỏng.
Phương tiện xử lý chân không ở giai đoạn luyện kim thứ cấp
Bước sản xuất này với mục đích chính cần đạt là khử C, Nito, Hydro, P và S trong thép xuống
mức rất thấp, ngoài ra để đồng nhất hóa thép lỏng, và giữ nhiệt nhiệt độ ở một giới hạn hẹp và
chính xác.
3. Đúc thép
Thép lỏng, được sản xuất với số lượng lớn, phải qua quá trình xử lsy hạ nguồn. Vì mục đích này
nó được tạo hình nhất định về hình dạng, kích thước và khối lượng bằng quá trình đúc. Trong
các tổ hợp nhà máy gang và cán thép, các dòng công xưởng đúc lớn, theo khái niệm dòng vật
liệu, đi ra từ nhà máy thép và đi đến nhà máy cán trục. Thép được đúc theo phương pháp đúc
thỏi hoặc đúc liên tục. Đúc thỏi, gồm có rót từng phần thép lỏng và các khuôn đúc (thỏi) vĩnh
cửu,đang giảm dần dần về tầm quan trọng và chỉ được được sử dụng đúc thỏi lớn làm nguyên
liệu cho quá trình rèn tiếp sau.
Thép lỏng được sử dụng cho cán nóng ngày nay thường được tạo thỏi đúc bằng phương pháp đúc
liên tục, ở Đức chúng chiếm thị phần khoảng 97% và trên thế giới chiếm khoảng 90%.
Bởi vì lõi thép vẫn ở trạng lỏng, dòng đúc phải được phun và làm lạnh bằng nước và được giữ
trên các cạnh máy cán cho đến khi đông đặc hoàn toàn, làm như vậy để tránh phá hủy qua vùng
bề mặt mỏng yếu.
Khi thỏi đúc đã đông đặc hoàn toàn, dòng đúc được cắt theo chiều dài nhất định bằng đèn cắt di
chuyển hoặc máy cắt. Tăng tốc độ làm lạnh làm cho vật đúc có cấu trúc đông đặc đồng nhất tùy
theo thuộc tính công nghệ cho phép. Ngày nay tốc độ đúc cao đã đạt được. Phụ thuộc vào tiết
diện và số dòng đúc đồng thời, tốc độ đúc trong khoảng 0,6 đến 6 mét/phút. tiết diện về sau này
với chiều rộng khoảng từ 1500 đến 2000mm và chiều dày khoảng 250mm.
Để có thể đúc liên hoàn mẻ tiếp mẻ mà không gián đoạn, các thùng chứa thép lỏng dự bị phải
được mang đến vị trí đúc kịp thời. Quá trình đúc tuần tự như thế diễn ra với sự trợ giúp của các
tháp, mà có thể chứa 2 thùng.
Công nghệ đúc liên tục thay thế không chỉ đúc thỏi truyền thống mà còn thay thế quá trình đúc
thỏi - cám tấm và cán thanh ở giai đoạn cán hạ lưu. Lợi nhuận của sản phẩm cáncho 1 tấn thép
lỏng có thể được tăng lên với quá trình đúc liên tục 10 đến 12% so với 85% cho đúc thỏi, dẫn
đến tiết kiệm đáng kể năng lượng và nguyên liệu. Độ sạch đạt được trong đúc liên tục cũng tốt
hơn đúc thỏi. Sự đông đặc nhanh làm cho cấu trúc đồng nhất và giảm sự tích tụ (segregation).
Đúc thép tấm liên tục truyền thống (ra khỏi bàn giá cán discharge roller table)
Tiết diện vật đúc liên tục dạng dài, như dầm, ray hoặc thanh dây, ừ 100 x 100 mm tới 450 x 650
mm. Các vật đúc tấm đối với các sản phẩm tấm phẳng 300 x 2000 mm. Vật đúc được gọi tên là
jumbo có thể đạt tiết diện với chiều rộng tới 2700 mm.
Sự phát triển cách mạng như hiện nay là đúc hình dạng thật hoặc đúc - cán, như vậy nó tiết kiệm
đáng kể công cán khi sản xất sản phẩm thép tấm mỏng (Xem thêm: Nghiên cứu và công
nghệ/Công nghệ sản xuất/Tạo hình và lơp phủ). Nó được thiết kế để đạt chiều dày vật đúc từ 50
đến 90mm đối với vật đúc tấm mỏng, từ 10 đến 15mm đối với đúc băng (dải) trực tiếp, và từ 1
đến 5mm đối với đúc băng . Công nghệ tấm mỏng dựa trên quá trình đúc cán đã trở thành quá
trình chuẩn trên thế giới.
4. Triển vọng
Các lưu trình sản xuất gang và thép cũng như sự phát triển sản xuất và lĩnh vực sử dụng các mác
The routes for producing iron and steel, as well as the product developments and fields of use for
the steel grades have reached a very advanced state, yet still offer diverse potentials. The steel
industry continues to face challenges with regard to innovations in plant and process engineering,
product development, and product application, particularly in the use of steel as a resource-
conserving lightweight material.
email: viet4777@mail.hut.edu.vn