You are on page 1of 55

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

Trường Đại Học Sư Phạm

NGUYÊN VĂN HỘ

TRIẾT LÍ GIÁO DỤC


<Tài Liệu Sử Dụng Cho Học Viên Cao Học Thạc Sỹ>

Thái Nguyên - 2007


PHẦN II
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC QUA CÁC THỜI ĐẠI
I. TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC TRONG XÃ HỘI CHIẾM HỮU NÔ LỆ.
1. Xôcơrat (469-344 TCN). Là đại diện cho trường phái duy tâm khách quan
(người Aten).
Ông là người khởi xướng phương pháp dạy học vấn đáp để giúp cho người học đi
tới chân lý (phương pháp đỡ đẻ).
2. Pơlatôn (427-348 TCN). Là học trò của Xôcơrat người đại diện trêu biểu cho
trường phái duy tâm khách quan của Hy Lạp cổ đại.
-Tư tưởng triết học của Pơlatôn coi thế giới là sự tồn tại của thượng đế, của ý
tưởng.
- Xã hội hợp lý bao gồm hai hạng người: Dân tự do và dân nô lệ, quyền hành
thuộc về dân tự do. Để trở thành người có quyền hành,dân tự do cần được trếp nhận
một nền giáo dục (trước 7 tuổi được giáo dục ở gia đình - giáo dục mẫu giáo).
Từ 7 - 17 tuổi học ở trường và ngoài trời (đọc, viết, tính toán, thiên văn, địa lý
thể dục và âm nhạc). Trẻ đần độn không được trếp tục học, đi lao động với công
thương.
Từ 17 - 20 tuổi trẻ trếp tục học văn hóa và thể dục, quân sự, triết học (trẻ nào
không học được triết học thi đi lính để thành quân nhân).
Từ 20 - 30 tuổi, học các môn đề cao như toán, thiên văn, lý luận âm nhạc, luật
pháp.... chuẩn bị được bổ xung vào tầng lớp thống trị.
Những người thông minh được đào tạo trếp từ 30-35 tuổi bằng việc nghiên cứu
sâu về triết học để có hiểu biết sâu về chân, thiện, mỹ. Trong số này sẽ chọn lấy một số
thật xuất sắc để đào tạo thành những chức sắc điều hành nhà nước. Trếp tục làm việc
15 năm đến 50 tuổi chuyển sang viết sách và nghiên cứu lý luận.
Như vậy tư tưởng giáo dục của Pơratôn đã xuất hiện: hệ thống giáo dục, đào tạo
nhân tài, giáo dục là nhiệm vụ của toàn xã hội (gia đình và nhà trường).
- Hạn chế cơ bản của Pơratoon là sự bất bình đẳng trong giáo dục.
3. Arixtoot (384-322 TCN). Người Maxêđôni, ông là thủy tổ của nhiều ngành
khoa học như: Toán, Sinh, Văn, Địa, Thiên văn, Tâm lý, Giáo dục).
- Về Triết học, Arixtôt thừa nhận cả vật chất và tinh thần là nguồn gốc của thế
giới (như nguyên liệu).
- Về mặt xã hội, ông cho rằng sự tồn tại của 2 tầng lớp chủ nô và nô lệ là lẽ tự
nhiên.

2
- Về giáo dục, ông cho rằng con người là một thực thể tự nhiên và giáo dục phải
dựa vào đo mà đưa ra nội dung giáo dục cho phù hợp, đó là:
+ Xương thịt - Thể dục
+ Ý chí - Đức dục
+ Lý chí - Trí dục
* Đây là lần đầu trên trong lịch sử, Arixtôt đã cho rằng muốn giáo dục con người
phải xuất phát từ đặc điểm phát triển tự nhiên của trẻ.
* rixtôt cũng là người đầu trên trong lịch sử cho rằng sự phát triển của trẻ trải qua
những giai đoạn xác định về sinh lý và tâm lý, vì thế cần có nội dung phương pháp và
hình thức giáo dục thích hợp (từ 0 - 7 tuổi ; 7 - 1 4 tuổi ; 1 4 - 2 1 tuổi), cần chú trọng
tuổi 14.
* Arixtôt đánh giá cao giáo dục gia đình. Gia đình được ông coi là môi trường
giáo dục đầu trên của trẻ.
* Arixtôt vẫn thừa nhận xã hội có giai tầng là chủ nô và nô lệ, đồng thời cần giáo
dục tôn giáo cho trẻ.
4. Đêmôcơrit (460 - 370 TCN) - Người Hy Lạp.
Đêmôcơrit là nhà duy vật kiệt xuất của Hy Lạp cổ đại. Vũ trụ theo ông có bản
chất là vật chất và phần tử nhỏ nhất của nó là nguyên tử, chúng luôn chuyển động hợp
- tan để từ đó sinh ra các hiện tượng khác nhau của vật chất.
* Trong giáo dục, ông coi trọng giáo dục lao động và là người đầu trên đề xuất
huyên tắc biết hợp giáo dục với lao động và cuộc sống sinh hoạt của trẻ.
* Ông là người đầu trên công kích tôn giáo, muốn loại bỏ tốn giáo ra khỏi giáo
dục, khỏi trường học.
II.TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC TRONG XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY.
1. Đặc điểm kinh tế xã hội.
* Chế độ phong kiến là giai đoạn phát triển trếp theo của chế độ chiếm hữu nô lệ.
- Trong xã hội tồn tại giai cấp: địa chủ và nông dân (phương Đông); lãnh chúa và
nông nô (phương Tây).
- Là bước trến mới của lịch sử, vì người nô lệ được giải phóng về mặt thân thể
những vẫn là nô lệ của con người gắn với ruộng đất.
* Chế độ phong kiến có những đặc điểm chính sau:
-Nền kinh tế tự cung, tự cấp.
-Tư liệu sản xuất chính là ruộng đất.
- Hình thức bóc lột chủ yếu là địa tô phong kiến (tô hiện vật, tô lao dịch, tô trền:
3
Ý thức hệ tư tưởng chủ yếu là tôn giáo (chế độ phong kiến về hình thức có thể khác
chế độ chiếm hữu nô lệ, nhưng về bản chất là sự thống trị của vương quyền (nhà vua)
và thần quyền (nhà thờ) để sắp đặt các trật tự xã hội.
2. Đặc điểm chung của giáo dục phong kiến Trung Hoa.
(Trung Hoa là một trong 4 trung tâm văn hóa lớn của phương Đông cổ đại).
- Các triều đại phong kiến đều dựng ra trường học riêng để giáo dục con cái của
tầng lớp quý tộc ( Hán có "thái học "; Đường có " Chuyên khoa"; Tống có "thư
viện"...)
- Nho giáo được coi là nội dung giáo dục chủ yếu trong nhà trường phong kiến.
- Thông qua nho giáo để tạo nên trật tự phong kiến với “Đức trị" (Trừ thời tân
Tần Thủy Hoàng lấy "Pháp tự" làm nội dung giáo dục.
- Chế độ khoa cử rất được đề cao..
+Mục đích giáo dục của nhà trường Trung Hoa phong kiến là: Học - thi - làm
quan.
3. Một số tư tưởng giáo dục phong kiến Trung Hoa.
3.1. Khổng tử (551 - 479 TCN) người nước Lỗ.
+ Khổng tử đánh giá cao vai trò của giáo dục: ông cho rằng mỗi dân tộc muốn
tồn tại và phát triển phải có 3 thành tố: Thứ (đông dân); Phủ ( Làm có); Giáo ( giáo
dục).
+ Ông chủ trương mọi người đều được giáo dục (chỉ trừ hai hạng người là trểu
nhân và phụ nữ). ông chia xã hội thành 3 hạng người: Thượng trí, Trung lưu Hạ ngu.
Muốn thành người có đạo phải qua giáo dục và điều đó loại trừ kẻ hạ ngu).
+ Theo ông, giáo dục nhằm tạo nên con người nhân nghĩa, trung chính, hiểu
được cái đạo của người quân tử (Quân tử là người cao thượng nhất, là người tuân theo
mệnh trời, phải nói theo sách thánh hiền, phải noi gương những bậc đại nhân trong xã
hội - nghĩa là họ phải nói, làm và hành động theo lễ giáo của đạo nho).
+ Nội dung giáo dục:
Người quân tử phải được giáo dục lòng nhân ái (nhân); phải tôn thờ chữ "là kỷ
cương, trật tự của tổ tông phép nước.
Ông chủ trương đức trị.
+ Phương pháp giáo dục:
Ông đánh giá cao vai trò của cá nhân trong việc tự tu dưỡng, học thầy, học bạn,
học trong cuộc sống, học mọi điều hay lẽ phải, tránh điều dở, làm điều tết.
Ông dạy trẻ phải tận thấy mâu thuẫn nội tại để lấy đó làm động lực cho sự phát

4
triển.
Ông coi trọng mặt tích cực suy nghĩ của người học, dạy theo cách gợi mở để
người học đạt tới chân lý.
+ Dạy: - Học phải sát đối tượng.
- Học phải đi đôi với hành.
- Học phải thành tâm và luôn hiếu học.
- Học phải bắt nguồn từ thực tế.
3.2. Mặc Tử (475- 390 TCN) Người nước Lỗ.
Tư tưởng triết học của Mặc Tử hướng vào việc giải quyết giữa danh và thực (tên
gọi và cái có thực). Theo ông cái dùng để gọi là tên, cái được gọi là thực, lấy cái tên để
nêu ra cái thực. (Tồn tại khách quan là có thực và khái niệm chỉ là sự phản ánh tồn tại
khách quan vào trong não người).
(Ông kịch liệt bài xích cái "Thượng đế"của Khổng Tử nhưng lại thừa nhận Quỷ
thần.
- Ông chia xã hội thành hai hạng người:
+ Biệt (tầng lớp quý tộc): Là người có lao động, có lòng nhân và khi làm được
điều ấy thì có quyền tham gia quản lý xã hội.
+ Kiêm (nhân dân lao động) là những người sẽ làm cho xã hội đói có cái ăn, rét
có cái mặc, lao động vất vả được nghỉ ngơi.
- Ông đề cao người có tài đức, theo ông bất kỳ ai, kể cả người lao động nếu có tài
đức thì có thể đưa lên giữ vị trí cao, nếu ai ngu đần thì phải thì phải hạ xuống dù cho
họ thuộc dòng dõi quý tộc.
- Ông đánh giá cao vai trò của giáo dục (ông cho rằng bản tính con người như
tấm lụa trắng,về sau nó thành màu gì là do người đời và cuộc đời nhuộm ra (vai trò của
môi trường trong việc hình thành và phát triển nhân cách) .
- Ông chủ trương giáo dục bình đẳng cho mọi người, bất kể ai, thuộc tầng lớp xã
hội nào.
- Về mục đích giáo dục, Mặc Tử cho rằng xã hội (trong đó có giáo dục) phải tạo
nên lớp người "kiêm ái", là người lao động sống bằng chính sức lao động của mình.
- Về nội dung giáo dục, ông đưa ra các nguyên tắc:
+ Học phải phù hợp với lợi ích của muôn dân trăm họ.
+ Học phải mang tính thực tiễn của mọi người.
+ Học phải đi đôi với hành, miệng nói đi đôi với tay làm.
- Về nội dung giáo dục :
5
+ Nội dung phải phù hợp với lợi ích của muôn dân.
+ Nội dung phải mang tính thực tiễn.
+ Học đi đôi với hành.
- Về phương pháp giáo dục: Xuất phát từ quan điểm coi cảm giác và thế giới
khách quan là cơ sở của nhận thức, Mặc Tử đánh giá cao vai trò của thực trến, từ đặc
điểm của người học (cá biệt hóa quá trình dạy học).
Mặc Tử đánh giá cao vài trò của thực tiễn, của hoạt động cá nhân, của việc sử
dụng giác quan. ông cho rằng có 3 nguồn gốc nhận thức đó là: Thân trí (tự mình nhận
biết); Vân trí (điều mình nghe được); Trí tư (do suy luận mà ra). Theo ông con người
phải đi từ 1 - 2 để có 3 và sau này khi có 3 (có tư duy) rồi thì mới nhận thức được thế
giới. Mặc Tử yêu cầu trẻ phải họa động, phải tri giác thế giới xung quanh, phải suy
nghĩ và thầy phải đàm thoại với trò để buộc họ suy nghĩ. Đó chính là phương pháp
giáo dục của Mặc Tử.
III. HỆ THỐNG GIÁO DỤC CỦA XÃ HỘI PHONG KIẾN PHƯƠNG
TÂY.
1.Chế độ phong kiến phương tây gồm 3 đẳng cấp chính: Quý tộc, tăng lữ dân tự
do.
Đẳng cấp quý tộc và tăng lữ dựa vào nhau để thống trị xã hội và đàn áp đẳng cấp
dân tự do. Tăng lữ giữ vai thổ quan trọng trong việc chi phối đời sống tinh thần và độc
quyền về văn hóa (thời kỳ trung cổ).
2.Giáo dục xã hội nhằm rạo ra tầng lớp tăng lữ để hiểu chúa, tin chúa và tuyền
truyền giáo lý của nhà thờ. Thầy giáo là những tăng lữ, ngôn ngữ được sử dụng trong
trường học là trếng La tinh. Hình thức học chủ yếu là thầy đọc, trò ghi, thầy nói, trò
nghe. Trò phải học thuộc và nhớ lại những gì có trong sách và không được phép hoài
nghi điều gì, kể cả những điều chưa hiểu.
- Mục đích giáo dục của nhà trường giáo hội Là tuyên truyền giáo lí của chúa, là
nhẫn nhục và chịu đựng, là rèn luyện sự phục tùng vô điều kiện, chấp nhận cuộc sống
trần thế để có được cuộc sống vĩnh hằng trên thiên đường.
- Nội dung ở trường bậc cao của giáo hội gồm 7 môn chủ yếu:
+ Ngữ pháp trếng La tinh để hiểu kinh thánh.
+ Tu từ học để hiểu được sách tôn giáo, viết được văn bản, đơn từ và cao hơn
nữa là trở thành những người đi truyền đạo.
+ Học biện chứng pháp để có khả năng bảo vệ các tín điều tôn giáo và ca ngợi
chúa.
+ Học số học và tính toán giúp hiểu được ý nghĩa tôn giáo của các con số.

6
+ Học thiên văn để có thể tính toán được ngùng ngày lễ chính có liên quan
đế"chúa trời và thượng đế.
+ Học lý luận âm nhạc để hiểu biết ngôn ngữ âm nhạc và biểu đạt nghệ thuật
trong những nghi lễ và tôn giáo.
* Có thể nói nền giáo dục phong kiến Châu âu đã bóp chết nền văn minh nhân
loại mà thời cổ đại đã đạt được, là một bước lùi của lịch sử.
3. Giáo dục của lãnh chúa phong kiến.
+ Lãnh chúa dùng tôn giáo làm chỗ dựa tinh thần và dùng lớp "hiệp sai để bảo vệ
chính quyền phong kiến. Lớp hiệp sĩ ròng được đào tạo trong hệ thống giáo dục của
các lãnh chúa.
+ Hệ thống giáo dục: Con em lãnh chúa trước 7 tuổi được giáo dục trong gia
đình.
Từ 7-14 tuổi, con trai học trong nhà lãnh chúa có uy tín làm "Thị đồng",hầu hạ
vợ chồng lãnh chúa, qua đó mà học được phong thái cần có của xã hội thượng lưu.
Từ 14-21 tuổi trếp tục theo hầu lãnh chúa với tên gọi "tòng sĩ" để học tập đạo đức
phong kiến đó là:Lòng trung thành với lãnh chúa, triệt để phục tùng mệnh lệnh, khinh
thị với người lao động. Có 7 môn học chính: Cưỡi ngựa, bơi lội ném lao, đánh kiếm,
săn thú, đánh cờ, làm thơ với mục đích thực dụng (đánh cờ để tập tính kiên nhẫn và
làm quen với chiến lược, chiến thuật quân sự, làm thơ và ngâm thơ để ca ngợi chiến
công của lãnh chúa, tồn dương vợ lãnh chúa và người tình, các môn còn lại nhằm biết
cách sử dụng vũ khí và tổ chức chiến tranh thời trung cổ).
Con gái lãnh chúa được giáo dục trong các nữ tu viện về tôn giáo, về lễ giáo
phong kiến, về công việc phụ nữ. Học học đọc, viết, tính toán, âm nhạc, hội họa để trở
thành phu nhân trong giới quý tộc.
+ Đẳng cấp dân tự do không được hưởng nền giáo dục, họ. phải chấp nhận suất
đời đói rách, thất học, ngu dốt để dễ dàng phục tùng xã hội phong kiến.
IV. GIÁO DỤC TRONG THỜI KỲ VĂN HÓA PHỤC HƯNG.
- Khoảng thế ký XIII - XIV, trên cơ sở của sự phát triển sản xuất hàng hóa, công
thương nghiệp được mở mang (tích lũy nguyên thủy của CNTB) làm xuất hiện các
thành thị, nơi tập trung những tư tưởng trến bộ nhất của xã hội đương thời. Nhiều
trường Đại học được thành lập (Paris - Pháp 1150; OxFord - Anh 1167 ; Cambridge
1233 ; Bôtônhơ - Ý 1388 ; Heidenburg - Đức 1385 ; Harward - Mỹ 1636).
- Từ thế kỷ XIV-XVI trào lưu tư tưởng mới xuất hiện (chủ nghĩa nhân văn) mà
đặc điểm cơ bản của nó là:
+ Lên án xã hội phong kiến với các thói hư, tật xấu tập trung ở vua chúa và nhà
thờ.

7
+ Cổ vũ cho tự do của con người và đòi giải phóng cho người lao động.
Đây chính là thời kỳ văn hóa phục hưng, nó cổ vũ cho loài người vượt ra khỏi lễ
giáo phong kiến, hướng tới tự do và giải phóng con người để để đưa xã hội đi vào
CNTB.
- Cuộc thập tự quân đồng chinh (l096-1270) do giáo hoàng Pháp Urbarius II
phát động đã tạo cho sự liên thông tư tưởng Đông - Tây, tư tưởng trến bộ được lan
truyền từ quốc gia này sang quốc gia khác.
- 1492 Côlông tìm ra Châu Mỹ.
- 1498 Gama tìm ra Châu Phi và ấn Độ.
-1519 - 1522 Magellan đi vòng quanh trái đất .
- Trong triết học xuất hiện nhà duy vật nổi trếng Brunô đã cho rằng vũ trụ tồn tại
không tuân theo ý muốn của thượng đế, thánh thần (ông bị nhà thờ thiêu sống).
- Côpecnic với thuyết Nhật Tâm chứng minh rằng trái đất tự xoay quanh nó và
quay quanh mặt trời. Trong vãn học nghệ thuật xuất hiện Leondovanhxi; Xêch- Xpia.
-Trong giáo dục xuất hiện các quan niệm giáo dục tách khỏi nhà thờ, theo chiều
hướng khoa học (Thomas More - Anh; Rabơle - Pháp; Môn fenhơ - Pháp; Vitônnô - Ý
... ) .
+ Theo Thomas More, giáo dục cần bình đẳng cho mọi người, dạy học bằng
trếng mẹ đẻ; coi trọng khoa học tự nhiên, đề cao phương pháp quan sát, thí nghiệm,
thực hành, tôn trọng nhân cách của trẻ; Giáo dục nhằm phát triển nhiều mặt cho trẻ:
thể chất, đạo đức, trí tuệ và kỹ năng lao động).
V.GIÁO DỤC THỜI KỲ TÍCH LŨY TƯ BẢN. (Trước CMTS Pháp 1789).
Đây là thời kỳ quá độ từ XHPK lên chủ nghĩa tư bản.
1.Đặc điểm chung.
+ Bình đẳng giáo dục cho mọi trẻ em.
+ Giáo dục dựa niên đặc điểm phát triển của trẻ.
+ Đề cao vai trò của môi trường trong giáo dục.
+ Giáo dục là vạn năng, giáo dục có thể thay đổi xã hội.
+ Giáo dục trẻ em về nhiều mặt.
+ Coi trọng khoa học tự nhiên và các phương pháp dạy học phát huy tính tích
cực của trẻ.
2. Một số nhà giáo dục trêu biểu.
2.1. J.A.Cômenxki (1592 - 1670) Séc-Slôvakia- Ông tổ của nền giáo dục cận đại

8
+ Ông chịu ảnh hưởng quan điểm triết học của Bê cơn(Anh) về thuyết duy cảm -
cảm giác là nguồn gốc của ý thức.Ông coi thế giới khách quan là nguồn gốc của ý
thức, vì thế trong giáo dục ông đưa ra một số quan điểm sau:
- Giáo dục phải phù hợp với tự nhiên.
- Muốn trở thành con người cần phải có giáo dục.
- Trẻ phát triển theo từng giai đoạn, giáo dục cũng phải có sự phù hợp với trình
độ phát triển của trẻ: (từ 0 - 6 tuổi; từ 6 - 12 tuổi; từ 12 - 16 tuổi; từ 18 - 24 tuổi)
- Đưa ra hình thức tổ chức dạy học lớp - bài.
- Đưa ra một hệ thống các nguyên tắc dạy học (tính vừa sức, tính trực quan, tính
bền vững của tri thức, tính hệ thống và liên tục...).
- Viết sách giáo khoa (ngôn ngữ nhập môn - 1631 - sách vỡ lòng; Thế giới tranh
ảnh - 1658 dùng cho trẻ mẫu giáo) .
* Có thể cho rằng Cômenxki rất xứng đáng là ông tổ của nền giáo dục cận đại
ông đã đặt nền tảng lý luận giáo dục cho thời cận đại, là người đặt cầu nối giữa quá
khứ với hiện tại thông qua hệ thống lí luận giáo dục được thực thi đương thời.
2.2. John Locke (1632 - 1704)- Anh.
Ông là triết gia duy vật xuất sắc của nước Anh thế kỷ XVII, kế tục trường phái
triết học của Becơn. Thuyết duy cảm của ông cho rằng nguồn gốc của mọi tri thức là ở
trong kinh nghiệm, trong cảm giác. Theo ông khái niệm, nguyên lý không phải là bẩm
sinh mà do con người thu được thông cuộc sống. ông vì tâm hồn đứa trẻ như tấm lụa
trắng, loài người có thể nhuộm và biến chúng thành những màu khác nhau. Điều đáng
trếc là ông chỉ thấy được tác động một chiều (môi trường) mà không thấy được yếu tố
của chủ thể nhận thức.
Locke chia kinh nghiệm thành hai loại:
+ Kinh nghiệm ngoài là tác động của vật chất vào giác quan - duy vật.
+ Kinh nghiệm trong là hoạt động riêng của tâm hồn (phản tỉnh) duy tâm.
(Với quan niệm này về kinh nghiệm, Lô cơ là một triết gia nhị nguyên).
- Quan điểm giáo dục:
+ Lôcơ đánh giá rất cao vai trò của giáo dục nhưng mỗi tầng lớp xã hội khác
nhau cần có sự giáo dục khác nhau, ông chia giáo dục thành hai hệ thống: Hệ thống
giáo dục cho con quý tộc và hệ thống giáo dục cho con thường dân (người trong nhà
được giáo dục theo các nội dung thể dục, đức dục, trí dục, giáo dục lao động).
+ Lôcơ đánh giá rất cao vai trò của môi trường giáo dục (ông muốn con nhà giàu
được giáo dục ở gia đình để thánh ảnh hưởng xấu của cơn em nhà nghèo, bởi trường
học là nơi tập hợp buột đám đông lộn xộn những trẻ em thiếu giáo dục của các tầng

9
lớp khác nhau).
+ Cơ sở khoa học giáo dục trẻ em đó là đặc điểm cá nhân của trẻ (ông đòi hỏi
cần quan sát trẻ trong điều kiện tự ngiên; giáo dục phải phù hợp với cá tính của trẻ).
+ Lôcơ kịch liệt phản đối giáo dục bằng roi vọt: "Roi vọt là một kỷ luật nô lệ nó
sẽ tạo nên con người nô lệ".
+ Về phương trện giáo dục: Theo ông, phương trện giáo dục tốt nhất không phải
ở lại nói mà ở tấm gương và ở môi trường xung quanh trẻ "không có gì thấm sâu vào
tâm trí người ta một cách nhẹ nhàng và sâu sắc bằng sự gương mẫu".
+ Về nguyên tắc giáo dục: Dạy học phải dựa vào hứng thú, sở thích của trẻ, dạy
học phải khởi động sự đam mê cho trẻ, dạy học phải đảm bảo gắn liền với thực tiễn,
dạy học phải phát triển tích độc lập suy nghĩ và chủ động của trẻ.
+ Hệ thống giáo dục cho con em nhà nghèo: Lô cơ rất khinh miệt con trẻ nhà
nghèo: "Trẻ nhà nghèo có tài nhất là ăn trộm hoa quả nhanh nhất trong vườn cây".Ông
đưa ra chữ cái "Nhà lao động" thu thập trẻ em từ 3 - 14 tuổi. Cha mẹ vẫn chịu trách
nhiệm với con cái về ăn mặc, học hành. Trẻ phải chấp nhận ăn uống kham khổ (muối
và bánh mì), mặc áo mỏng, đi chân đất, nằm thường không đệm, chấp hành mệnh lệnh
như quân đội. Muốn có ăn thì trẻ phải lao động. Như vậy "nhà lao động thực chất là
nơi tập cho trẻ nhà nghèo quen cuộc sống của người thợ, chỉ biết làm và phục tùng,
chấp nhận một cuộc sống đói nghèo để tồn tại.
2.3. J.J. Rút xô (1712- 1778).
Thụy Sỹ gốc Pháp.
+ Một triết gia nổi trếng của dòng triết học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII.
+ Một đại biểu xuất sắc của tầng lớp tư sản Pháp.
+ Một văn sĩ nổi trếng của văn học Pháp thế kỷ XVIII.
+ Một nhà giáo dục lớn của Pháp và thế giới.
* Lý luận giáo dục của Rút xô:
- Rút xô xuất phát từ luận đề "Giáo dục tự nhiên và tự do” làm xuất phát điểm
cho công tác giáo dục. Theo ông con người là một thực thể tự nhiên, tự nhiên vận động
theo quy luật, do đó giáo dục con người cũng phải tuân theo quy luật của tự nhiên mà
một trong đó là tự do. Bởi vậy, giáo dục tự nhiên cũng có nghĩa là phải giáo dục tự do.
- Rút xô chia trẻ em thành 4 thời kỳ lứa tuổi:
+ Từ 0 - 2 tuổi: Tuổi ấu thơ.
+ Từ 3 - 12 tuổi: Tuổi thiếu niên. ("Lí trí ngửi).
+ Từ 13 - 15 tuổi: Tuổi trí dục.

10
+ 16 tuổi trở lên: Tuổi đức dục.
- Có thể nói bên cạnh mặt hạn chế như phân kỳ lứa tuổi một cách máy móc, biệt
lập các giai đoạn phát triển, quá đề cao mặt tự do của trẻ, hạ thấp vai trò của nhà giáo
dục... Song Rút xô đã để lại cho chúng ta một số di sản giáo dục trến bộ đó là: Không
được áp đặt giáo dục mà giáo dục phải tuân theo đòi hỏi tự nhiên của trẻ, phải làm cho
trẻ. được tự do phát triển mọi mặt nhân cách để trở thành con người làm chủ được bản
thân, có quyền tham gia quản lý xã hội. Đây chính là tư tưởng dạy học lấy hoạt động
của trẻ làm trung tâm - một trong những tư tưởng giáo dục trêu biểu của loài người.
VI. GIÁO DỤC TƯ BẢN CHỦ NGHĨA. (Từ 1798 đến đầu thế kỷ XX).
1. Hầu hết các nước phương tây đã hoàn thành cuộc cách mạng tư bản làm cho
sức sản xuất phát triển mạnh mẽ. Đến những năm 30 của thế kỷ XIX, hầu hết các nước
tư bản phương tây (Anh, Pháp, Đức...) đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất. Thời kỳ này đã khẳng định tính ưu việt của phương thức sản xuất tư bản.
Do sự phát miễn của khoa học kỹ thuật đặt ra những vấn đề con người và phải
phóng con người đã tác động tới nhà trường, vào giáo dục và được phản ánh qua một
số tư tưởng giáo dục trến bộ.
2. Đặc điểm giáo dục tư bản từ 1798-1917 bao gồm:
+ Tư tưởng trến bộ xã hội đều hướng vào việc đấu tranh với nhà nước tư bản vì
một nền giáo dục trến bộ.
+ Giáo dục được coi là nhu cầu chính đáng của mọi người lao động, vì thế nổi
lên xu thế là đấu thanh cho một nền giáo dục bình đẳng giữa nam và nữ; giữa giàu và
nghèo.
+ Đòi nhà nước phải mở trường cho trẻ em bằng giáo dục miễn phí, bắt buộc và
không phụ thuộc và tôn giáo.
+ Vai trò của thầy giáo được đề cao, lý luận sư phạm được coi mọng, khoa học
sư phạm được chính thức đặt ra và đòi hỏi phải được quan tâm thích đáng.
+ Nội dung giáo dục con người được đề cập tới nhiều mặt như đức dục, thị dục,
thể dục ... Đây là những phẩm chất và năng lực được coi là cần thiết cho người lao
động ở thời kỳ sản xuất công nghiệp phát triển.
+ Nhân cách của trẻ được tôn trọng và trở thành một vấn đề quan tâm lớn của
các nhà sư phạm.
3.Một số nhà giáo dục trêu biểu.
3.1. Petxtalôdi (1746-1827) - Thụy Sỹ.
Học sinh coi ông là cha, người đương thời gọi ông là "ông thầy của các ông
thầy", nhân dân dựng tượng ông và ghi dòng chữ "Tất cả cho người khác và không gì
cho mình".
11
- Về mục đích giáo dục: ông cho rằng mục đích giáo dục là làm phát miễn mọi
trềm năng tự nhiên ở con người, một sự phát triển toàn diện và cân đối đề trêu diệt tận
gốc rễ mọi sự nghèo khổ của nhân dân.
+ Giáo dục phải xuất phát từ đặc điểm cá nhân của trẻ, con người can thiệp vào
trẻ như là sự định hướng trên cơ sở quy luật tự nhiên của trẻ.
+ Ông coi trọng việc giáo dục trẻ từ tuổi ấu thơ và thước hết trao cho người
mẹ.Giáo dục gia đình đi trước, giáo dục trường học là sự trếp nối "Giờ nào sinh ra trẻ
em là giờ ấy bắt đầu sự giáo dục ".
+ Giáo dục phải xuất phát từ tình yêu con người thực sự chứ không phải bằng lý
thuyết: thế nào và tại sao ?
+ Trí tuệ của trẻ được phát miễn trong quá trình hoạt động tư duy của cá nhân,
chứ không phải lĩnh hội máy móc qua ý nghĩ của người khác.
+ Sự phát triển thể chất của trẻ em là quá trình phát triển liên tục từ đơn giản đến
phức tạp, từ thấp đến cao, phải thường xuyên luyện tập.
+ Muốn đạt được mục trêu giáo dục phải điều khiển quá trình phát triển của trẻ
trên cơ sở quy luật phát triển tự nhiên của chúng chứ không được áp đặt. (Hạn chế
trong tư tưởng giáo dục của ông là: mục đích giáo dục trẻ bị chi phối bởi địa chỉ mà trẻ
xuất thân, con nông dân thỉ sẽ trở thành người của nông nghiệp, con công nhân sẽ trở
thành người thợ, con quý tộc thì trở thành người điều hành xã hội).
- Về nội dung giáo dục:
+ Nhiệm vụ trung tâm của giáo dục là giáo dục đạo đức (đức dục) dựa trên cơ
sở chung nhất là tình yêu cha mẹ - con cái).
(Ông phê phán tôn giáo nhưng lại thừa nhận cho phép tôn giáo có chỗ đứng trong
nhà trường và giáo lễ là nội dung của giáo dục đạo đức: "Thượng đế có ở nơi mà con
người có lòng thương yêu nhau".Đây là hạn chế trong nội dung giáo dục đạo đức của
Petxtalôdi).
+ Trí dục: ông xây dựng lý luận dạy học xuất phát từ quan niệm về nhận thức và
cho rằng:Quá trình nhận thức bắt đầu từ tri giác cảm tính, vì thế ông đánh giá cao vai
trò của cảm giác và tri giác.
Theo ông, dạy học trước hết phải làm cho trẻ tích lũy được vốn tri thức dựa trên
cơ sở kinh nghiệm cảm tính, sau đó phát triển những năng lực trí tuệ:"Phát triển năng
lực trí tuệ chứ không phải làm giàu trí óc bằng biểu tượng"
Ông đề xuất các nguyên tắc dạy học: Trực quan, hệ thống hóa tri thức. Trong nội
dung dạy học, ông đưa vào chương trình các môn học: độc, viết, số học, hình học, đo
đạc, vẽ, hát, thể dục, địa lý, lịch sử, khoa học thường thức.
+ Ông coi trọng lao động sản xuất và giáo dục lao động, ông cho rằng qua lao

12
động để"sưởi ấm trái trm và phát triển khối óc của trẻ".
3.2. Robert Owen (1771 - 1858) - Anh.
Ông đã xây dựng một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh trong xưởng cho người lao
động từ tuổi ấu thơ đến lúc trưởng thành (trường ấu thơ cho trẻ từ 1 - 6 tuổi; trường
trểu học cho trẻ từ 6 - 10 tuổi, trường ban đêm cho công nhân từ 10 tuổi trở lên).
Ông đưa ra lý thuyết về chủ nghĩa cộng sản, đó là: Công hữu về tư liệu sản xuất
mọi người bình đẳng về quyền lợi (học tập, lao động, ngôn luận, quản lý xã hội, bình
đẳng về nghĩa vụ lao động theo nguyên tắc; làm tùy sức, hưởng theo lao động). ông đề
xuất phải thay thế tư hữu bằng công hữu, tôn giáo bằng khoa học, hôn nhân tư sản
bằng giáo dục tập thể.
- Có thể nói rằng, cho dù không thành công trong thực tiễn, song tư tươngt giáo
dục của Owen để lại những giá trị sau:
+ Đánh giá cao vai trò của giáo dục (giáo dục là cần thiết và phải được bình đẳng
cho mọi người), giáo dục suất đời từ trẻ em đến người lớn.
+ Lần đầu trên trong lịch sử, Owen đã tách nhà trường ra khỏi tôn giáo.
+ Ông chủ trương "kết hợp giáo dục với lao động sắm xuất!', giáo dục gắn liền
với nền sản xuất hiện đại - cơ khí, điện lực, hóa chất,...
VII. GIÁO DỤC THỜI KỲ ĐẾ QUỐC CHỦ NGHĨA Ở TÂY ÂU. (Cuối thế
kỷ XIX, giữa thế kỷ XX).
* Một số hình thức mới của nền giáo dục tư sản thời kỳ đê quốc chủ nghĩa:
Giáo dục thời kỳ này hết ít. đa dạng nhưng chung mục đích là:
- Chuẩn bị cho con em giai cấp tư sản có đủ năng lực quản lý Nhà nước và nền
sản xuất hiện đại.
- Chuẩn bị cho người lao động vốn tri thức và kỹ năng tối thiểu, cần thiết để họ
trở thành người lao động làm thuê đem lại lợi nhuận cao nhất cho tư bản.
1.Một số hình thức trêu biểu của nền giáo đục thời kỳ ĐQCN ở Âu - Mỹ.
1.1.Nhà trường mới: (Ra đời vào cuối thế kỷ 19, đầu trên ở Anh-1889, sau đó
lan sang các nước khác ở Châu âu như: Pháp, Mỹ, Bỉ, Thụy S ...). Nhà trường mới có
một số đặc điểm sau:
+ Xây dựng ở nông thôn, ở nơi thoáng mát để trẻ em sống gần tự nhiên.
+ Nhà trường nội trú, trẻ sống thành từng nhóm từ 10 - 15 cm với sự chăm sóc
của vợ chồng thầy giáo hoặc của 1 phụ nữ giúp việc để tạo nên không khí gia đình.
+ Nam, nữ học chung.
+ Tổ chức cho trẻ lao động ít nhất lh30/ngày với mục đích thực dụng.

13
+ Coi trọng hoạt động thể dục thể thao.
+ Việc truyền thụ kiến thức thông qua thực hành, thí nghiệm, lý luận đi sâu về
thực tiễn .
+ Giảng dạy dựa vào sự hoạt động của cá nhân và hứng thú của trẻ - dùng
phương pháp tích cực và tự do để trẻ trếp nhận tri thức.
+ Số môn học không nhiều (mỗi ngày trẻ chỉ học 1 môn).
+ Giảng dạy ngoại ngữ theo phương pháp trực trếp.
+ Dân chủ hóa nhà trường thông qua việc xây dựng một chế độ cộng hòa hoặc
quân chủ lập hiến (cho học sinh tham gia quản lý nhà trường, cho bầu lãnh đạo).
+ Trường học do một cá nhân hoặc một tổ chức xã hội thành lập và chịu trách
nhiệm.
+ Học phí rất cao so với các loại trường khác.
1.2. Nền giáo dục công dân và nhà trường lao động.
Xuất hiện ở Âu-Mỹ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, do Giáo sư Kécsenstenơ - Đức
đề xuất
Đây là nhà trường có mục đích trở thành công cụ thực hiện nhiệm vụ chính trị
cho giai cấp tư sản. Theo đó:
- Mọi trẻ em, mọi người đều được học theo mục đích thực dụng: cần họ vào việc
gì thì dạy họ làm điều đó.
+ Trẻ em học đọc, viết, có sự hiểu biết tối thiểu về tự nhiên xã hội.
+Cần dạy cho trẻ một lượng kiến thức phổ thông tối thiểu nhưng phải trang bị
cho trẻ một lượng tối đa về kỹ năng lao động, đặc biệt là lao động nghề nghiệp.
+ Người lao động được bổ túc học vấn và kiến thức nghề theo mục đích thực
dụng .
Theo hình thức này, nhà trường lao động muốn té ra một lớp người lao động làm
thuê với chất lượng cao, có lợi cho nền công nghiệp phát triển.
1 3. Nền giáo dục thực nghiệm.
- Nhiệm vụ của nền giáo dục này là nghiên cứu trẻ em bằng phương pháp thực
nghiệm trong phòng thí nghiệm, sau đó đưa ra lý thuyết giáo dục và áp dụng vào thực
tiễn.
Phương pháp đặc thù, phổ biến nhất được các nhà giáo dục thực nghiệm là 'test" -
trắc nghiệm (người khởi xướng cho phương pháp này là Bi nê - Pháp (1857 - 191 l).
+ Trắc nghiệm được trến hành đồng loạt mà không chú ý tới hoàn cảnh lịch sử
của người tham gia trắc nghiệm. (Đây là một sai lầm cơ bản dẫn tới những nhận định:

14
Con nhà giàu sẽ có tâm hồn lành mạnh, trí tuệ phát triển sẽ trếp tục giữ vị trí quản lý
xã hội, con em nhà nghèo kém cỏi về trí tuệ chỉ thích hợp ở vị trí người làm thuê).
1.4.Về giáo dục thực dụng.
Những năm 90 cuối thế kỷ 19 ở Mỹ xuất hiện một trào khu triết học thực dụng,
mà cất lõi của nó là phủ nhận chân lý khách quan của chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng
không có cái gì là chân 1 ý khách quán,chỉ những cái đem lại lợi ích),tác hại cho chúng
ta thì đó mới là tồn tại, chân lý. (Điều đó cũng có nghĩa là mọi tồn tại phụ thuộc vào ý
chí của con người - Triết học duy tâm chủ quan: Tư tưởng này cổ vũ cho mọi người
tìm cho mình một chân lý, cổ vũ cho chủ nghĩa cá nhân, mỗi ngưng chạy theo một lợi
ích riêng, không ai được xem xét, phê phán. Triết học thực dụng không thừa nhận giá
trị truyền thống mà chỉ thừa nhận lợi ích cá nhân).
1.5. Người có ảnh hưởng lớn đến triết học thực dụng ở Âu - Mỹ và đồng thời
được thể hiện trên inh vực giáo dục là lon Dewey - Mỹ.
+ Dewey cho rằng "Toàn bộ thế giới tồn tại với chủ thể, tồn tại chừng nào có ý
nghĩa đối với chủ thể". Điều đó cũng có nghĩa là cái gì có lợi cho con người thì cái đó
là chân lý, chân lý không có trêu chí chung mà nó là của riêng mỗi người, chẳng hạn:
Tôn giáo có ý nghĩa đối với giai cấp thống trị, bóc lột cần thiết với giai cấp thống trị,
+ Về giáo dục, các quan điểm chủ yếu của ông bao gồm:
- Giáo dục trí tuệ chỉ được coi là đúng đắn trong xã hội nếu chỉ có một số ít
người được hưởng thụ, số đó bao gồm những người có năng lực, có xu hướng hoạt
động trí tuệ.
- Trẻ em là con em nhân dân lao động chỉ có năng lực và xu hướng hoạt động
thực tiễn)vì thế hệ thống nhà trường phổ thông được áp dụng rộng rãi nhằm phát triển
mọi trềm năng về hoạt động thực tiễn (chẳng hạn xu hướng và trềm năng của người
công nhân là làm một việc gì đấy) nên giáo dục có nhiệm vụ phải dạy cho họ biết "làm
như thế nào” để họ trở thành thợ lành nghề mà không cần thiết phải dạy họ "tại sao
phải làm vậy”.
- Đối với con em nhân dân lao động không cần phải có một vốn trí thức sâu rộng
và hệ thống mà chỉ cần gì học nấy, học để làm chứ không cần biết tại sao phải làm như
vậy.
- Nhiệm vụ của nhà trường là phải bằng cách dạy học và giáo dục để làm giảm
bớt những mâu thuẫn giai cấp một cách trực trếp.
- Ông thay thế quá trình giáo dục con người xã hội bằng "sự phát triển" những
đặc điểm sinh vật cá thể, ông cho rằng giáo dục khỉ là một quá trình phát triển những
xu hướng bẩm sinh về lý trí và tình cảm". Ông phủ nhận sự rèn luyện những phẩm
chất cá nhân trong quá trình sống và giáo dục.
- Ông cho rằng, yếu tố quan trọng bấc nhất trong sự phát triển con người là di
15
truyền, vì thế giáo dục phải dựa vào di truyền, phải xuất phát từ hứng thú và kinh
nghiệm của trẻ, giáo dục chỉ là sự phát triển những kinh nghiệm của trẻ, trẻ em là hình
ảnh trung tâm của quá trình giáo dục - như vậy cũng đồng nghĩa với việc phủ nhận các
nhân tố khác trong sự hình thành nhân cách trẻ, vị trí của giáo viên như là người chấp
hành sở thích của trẻ, theo trẻ để cung cấp cho họ những phương trện nhằm thỏa mãn
những như cầu tự nhiên của trẻ.
- Ông coi nhẹ tính hệ thống trong dạy học, không cần lớp học, không cần
chương trình .
- Ông phủ nhận việc xác định mục trêu giáo dục, phủ nhận tính kế hoạch trong tổ
chức hoạt động giáo dục.
- Nhà trường phải góp phần quan trọng vào việc xây dựng nhân cách cho trẻ để
họ trở thành những người công dân có được ý thức hòa bình và hòa hợp giai cấp chớp
tác giữa người có của và kẻ có công - sự bình đẳng theo dewey) - ở đây, ông đã biện
hộ cho tính phi giai cấp, phi chính trị của nhà trường.
VIII.Giáo dục từ giữa thế kỷ XX cho tới nay.
1.Tình hình thế giới sau đại chiến thế giới lần thứ 2 (1945) đến nay.
- Chủ nghĩa tư bản bằng vũ lực đã mở rộng chiến tranh xâm lược thôn tính các
nước để vơ vét tài nguyên, mở rộng thị trường trêu thụ hàng hóa, bóc lột sức lao động
của đàn thuộc địa.
-Tư bản xâm lược thực hiện chính sách ngu để trị, hạn chế tối đa sự phát triển
giáo dục, nhà trường, phát triển những thủ đoạn ngu dân khác (thuốc phiện, rượu cồn
... ) làm nhụt ý chí đấu tranh của tuổi trẻ. Tập trung đào tạo một bộ phận nhỏ trong giới
quan lại địa phương làm tay sai đàn áp người lao động.
- Các mâu thuẫn mới xuất hiện:
+ Mẫu thuẫn giữa các đế quốc đi xâm lược và cuộc đấu tranh giành độc lập
chủ nhân dân thuộc địa.
+ Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc tranh nhau xâm chiếm, phân chia thị
trường thế giới thành các khu vực thuộc địa (giữa các nước tư bản có truyền thống với
Đức, Ý, Nhật ... ).
-Cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 (1939-1945) phản ánh những mâu thuẫn trong
CNTB, cùng với ảnh hưởng của nước Nga Xô Viết, phong trào giải phóng dân tộc đã
nổ ra như một làn sóng mới tạo nên hệ thống XHCN.
- Sau thất bại của chủ nghĩa thực dân mới ở Việt Nam, Triều Trên, thế giới đã bắt
đầu chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Cuộc chạy đua giữa các quốc gia trên thế giới
không chỉ trên lĩnh vực quân sự mà chủ yếu chuyển sang lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ
thuật, giáo dục, các quốc gia vừa chạy đua, vừa hợp tác để cùng tồn tại và phát triển.

16
- Hiện nay, nhân loại đang đứng trước những thách thức về sự bùng nổ dân số ô
nhiễm môi trường, tài nguyên thiên nhiên dần cạn kiệt, bệnh tật và tệ nạn xã hội,
...Giải quyết những khó khăn nàljcác quốc gia cần có sự liên kết, hợp tác (thay thế
phương thức "cá lớn nuốt cá bé" với quan niệm "tôi tồn tại thì anh phải chén sang
phương thức "cùng tồn tại để phát triển", “anh tồn tại để tôi phát triển".
- Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, các quốc gia
đều có nhận thức rằng muốn tồn tại và phát triển thì chỉ có con đường duy nhất chiến
thắng trong cuộc khai thác trềm lực trí tuệ của con người mà trước hết là trí tuệ của
dân tộc và thành quả trí tuệ của nhân loại. Muốn loại được điều đó cần thiết phải đầu
tư cho lĩnh vực đào tạo con người, cho giáo dục.
2. Đặc điểm của tính giáo dục thế giới những năm cuối thế kỷ 20.
2.1. Giáo dục của Liên Xô.
- Vào những năm 50 của thế kỷ 20, giáo dục các nước XHCN quan tâm nhiều tới
giáo dục lý tưởng, giáo dục chính trị cho thế hệ trẻ, tăng cường tính giai cấp trong giáo
dục, vận dụng các nguyên tắc giáo dục: giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, giáo
dục theo nguyên tắc kỹ thuật tổng hợp, gắn giáo dục nhà trường với hoạt động chính
trị xã hội. Thực hiện triệt để nhà trường phi tôn giáo, bình đẳng trong giáo dục giữa
nam và nữ, giữa các dân tộc, nhà nước quản lý, bảo trợ và thực hiện một hệ thống, một
chương trình giáo dục, dạy học thống nhất.
- Việc phát triển giáo dục của các nước XHCN được tuân thủ theo một kế hoạch
lấy mục trêu đáp ứng nhu cầu học tập của quần chúng làm trọng tâm chủ yếu Đồng
thời đào tạo lực lượng lao động và một đội ngũ cán bô khoa học - kỹ thuật phục vụ cho
sự phát triển công nghiệp, nông nghiệp và củng cố quốc phòng .
- Từ những năm 60, phe XHCN do Liên Xô đứng đầu, sự phát triển kinh tế xã
hội đã mắc những sai lầm:
+ Về kinh tế: Lấy cường độ làm việc thay cho đổi mới công nghệ, coi trọng
công nghiệp quốc phòng mà không chú ý thỏa đáng tới sản xuất hàng hóa trêu dùng,
phân công sản xuất giữa các nước trong XHCN mất cân đối ...
+ Về chính trị: Tồn tại một bộ máy quan liêu bao cấp, bảo thủ, trì tuệ, một cơ chế
quản lý xã hội, chính sách xã hội không phát huy tài năng, sáng tạo của con người.
+ Về xã hội: tạo lập nên thói quen ỉ lại, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước,
không giải quyết đúng mức mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
+ Về giáo dục: Mục trêu giáo dục chưa xuất phát từ yêu cầu của xã hội, nội
dung, chương trình không thường xuyên đổi mới, hiện đại hóa tri thức, coi trọng lý
thuyết cơ bản mà chưa chú ý thỏa đang tới việc rèn luyện kỹ năng thực hành nghề
nghiệp, phương pháp giáo dục chưa tạo được tính năng động, sáng tạo, chủ động cho
người học. Coi nhẹ giáo dục của gia đình, mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và

17
nơi ở không được chú ý đúng mức.
2.2 . Giáo dục ở một số nước trong khu vực và các nước phát triển.
2.2.1. Giáo dục Nhật Bản.
+ Nhà nước Nhật bằng giáo dục và thông qua giáo dục nhằm thực hiện hai mục
trêu: phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ để nâng cao năng suất lao động, nâng cao
thu nhập quốc dân, mức sống của xã hội. Đồng thời bằng giáo dục, thay đổi, thiết lập
một quan hệ xã hội tết đẹp hơn quan hệ con người của chủ nghĩa phát xít trước đó
(quan hệ con người được cải thiện ngay trong sản xuất trong lãnh đạo xã hội và trong
gia đình).
+ Hệ thống giáo dục Nhật Bản đã đáp ứng nhu cầu học tập không ngừng của
quần chúng. Tri thức học tập,á gắn với thực tiễn sản xuất. Giáo dục nước Nhật coi
trọng tính thực tế, phải thiết lập được các giải pháp, tạo được sự thống nhất giữa giáo
dục nhà trường - gia đình - xã hội.
+ Nhật bản coi trọng việc học tập kinh nghiệm giáo dục nước ngoài.
+ Chương trình học được soạn riêng cho từng trường dựa trên các muôn học do
Bộ Giáo dục qui định. Nội dung chương trình nhằm đạt mục trêu thực tế, có kiến thức
phổ thông, trếp thu và sử dụng công nghệ mới nhập khẩu, chú ý tới giáo dục đạo đức,
nhân cách, tính kỷ luật.
+ Bên cạnh hệ thống giáo dục chính qui tập trung, Nhật khuyến khích giáo dục
tại gia đình, các xí nghiệp (gia đình đầu tư cho giáo dục, các công ty cũng quan tâm
bồi dưỡng trình độ công nhân).
+ Nhật coi trọng tới giáo dục trễn học đường, giáo dục trểu học, phát triển mạnh
giáo dục cho người lớn, chú trọng đào tạo nhân tài (Nhật là nước đứng đầu thế giới về
công nghệ kỹ thuật tinh xảo).
2.2.2 . Giáo dục của Mỹ.
+ Từ những năm 80 của thế kỷ XX, ở Mỹ đã có sự chuyển biến từ thiết lý lấy
công nghệ làm trung tâm sang coi con người là trung tâm, ưu trên con người ở các khía
cạnh tri thức, trình độ chuyên môn và động cơ lao động. Hệ thống sản xuất kinh doanh
lấy con người, coi con người là trung tâm, là động lực của sự phát triển sản xuất xã
hội, điều đó sẽ giảm thiểu các xung đột giữa công nhân với tầng lớp quản trị, nhờ giáo
dục, mức độ tham gia của người lao động vào công việc chung tăng lên. Điều này có
lợi cho nhà sản xuất.
+ Trong những năm gần đây, chiến lược giáo dục và đào tạo Hoa Kỳ có một số
đặc điểm sau:
• Thu hút cán bộ có trình độ chuyên môn cao vào đào tạo và là lực lượng nòng
cốt cho các xí nghiệp sản xuất.

18
• Tăng cường hợp tác giữa các cơ sở sản xuất với các trường đại học, cao đẳng
dạy nghề trong quá trình soạn thảo chương trình, nội dung đào tạo.
• Các cơ sở sản xuất thiết lập các trung tâm đào tạo và ứng dụng công nghệ mới,
làm cho quá trình đào tạo gắn với công nghệ mới. Các cơ sở sản xuất đầu tư kinh phí
cho đào tạo để thu nhập nhân tài.
• Giáo dục Mỹ đặc biệt quan tâm tới phát triển tư duy sáng tạo (khả năng tính
toán và ra quyết định hợp lý) (trong chương trình đào tạo chú ý tới thống kê học, toán
học cao cấp, vi tính).
• Đầu tư cho giáo dục ngày một tăng (Giấy Becken - giải Nghẹn nói "Không có
đầu tư nào mang lại nguồn lợi như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho
giáo dục"), (Hoa Kỳ 7% - Nhật 5% . Theo thống kê 1992: ở Mỹ: Trểu học: 20HS/1GV
; THPT: 5HS/1GV ; IOSV/1GV).
• Phát triển đại học gắn với sản xuất và hoạt động xã hội, trường tư thục chiếm
tỷ lệ lớn (1994 có 3406 trường ĐH và CĐ: IOSVIIGV - Nhật: 18SVIGV). quản lý đại
học theo nguyên tắc tự chủ, nhà nước quản lý về đường lối và kinh phí đầu tư.
• Nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục đại học là đa dạng và phong phú (các
trường công nhà nước cấp 60% kinh phí, các trường tư cấp 20% kinh phí) (nguồn đầu
tư của nhà nước chủ yếu dành cho công tác nghiên cứu khoa học, cấp học bổng cho
sinh viên).
2 .2.3 . Giáo dục ở một số nước Châu Âu (khôi EU)
• Các nước EU coi giáo dục là một nhân tố phát triển kinh tế, xã hội. Lấy giáo
dục làm đòn bẩy tạo ra lực lượng lao động có đủ năng lực đảm nhận sản xuất hiện đại,
nâng cao năng suất lao động (hiến chương chung của EU đã ghi rõ: Giáo dục và đào
tạo là của mọi người).
• Tỷ lệ học sinh trên giáo viên thuộc hàng đầu thế giới: Đức 14HS/1GV, Pháp là
12, Thụy Điển 9, Hà Lan 18, Anh 22HSIIGV. Ngân sách đâùjâ tư cho giáo dục từ 5-
6% tổng thu nhập (Thụy Điển 7,4%).
• Giáo dục phổ thông của EU thực hiện mục trêu chính là xây dựng chương trình
đáp ứng nhu cầu học tập của mọi đối tượng, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên, huy động sự đóng góp và tham gia của quần chúng vào sự nghiệp giáo dục.
• Các nước trong EU có chính sách phát triển nhiều nguồn nhân lực từ giáo dục
và nhà nước can thiệp vào kế hoạch phát triển nguồn nhân lực (bằng chính sách, pháp
luật, khuyến học, phúc lợi).
• Có mục trêu đào tạo một đội ngũ lao động có trình độ học vấn cao, có kỹ năng
nghề nghiệp thích ứng với cuộc cạnh tranh và sự phát triển của công nghệ mới.
• Giáo dục bình đẳng cho mọi người (không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn

19
giáo, giới tính (thu hút chất xám từ các nước trên thế gian).
• Trọng dụng nhân tài, cố gắng thay đổi quan hệ giữa chủ và thợ (góp vốn, cổ
phần, ký kết hợp đồng, được đào tạo, đề bạt, ủy thác trách nhiệm, đầu tư cho con em
thợ, ... ).
- Mặt hạn chế
• Tính đồng bộ của sự phát triển giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển đa
dạng của kinh tế - xã hội còn thấp.
• Do sự phát triển nhanh của khoa học kỹ thuật và công nghệ, một bộ phận lao
động không thích ứng kịp bị dư thừa, thấp nghiệp khá phổ biến - Điều này đòi hỏi phải
tăng cường giáo dục thường xuyên.
• Tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng trong nhà trường, hiện tượng bỏ học
tăng (ở THPT: Mỹ 29% ; Đức 9% ; Nhật 6%).
• Quá coi trọng dạy học, phát triển trí tuệ, trang bị kiến thức nghề, coi trọng lợi
ích, quyền lợi cá nhân, ít chú trọng tới giáo dục đạo đức, thái độ cộng đồng, trách
nhiệm xã hội.
2.2.4. Giáo dục ở một số nước Châu Á:
Sự phát triển của một số nước Châu Á cho chúng ta thấy vai trò của giáo dục đã
tạo ra một lực lượng lao động có trình độ cao, có đủ phẩm chất, năng lực giải quyết
các yêu cầu của sự phát triển khoa học, ứng dụng, sáng tạo công nghệ mới, góp phần
đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa.
• Đầu tư cho giáo dục cao (Singapo:22,9% ;Malaixia: 19,6% ; Inđônêxia: 9,8%
;Thái Lan 21,1% ; Hàn Quốc: 16,2% - Số liệu 1992).
+ Giáo dục Hàn Quốc : Năm 1953 : 100USD/14 người ; 1983:9.000 USD/1
người. Với 4 triệu dân, Hàn Quốc có 250 trường đại học.
• Coi trọng giáo dục năng khiếu, lựa chọn đào tạo nhân tài.

• Phân cấp quản lý, tổ chức cho địa phương về giáo dục qua hệ thống luật và
chính sách.
IX. Học thuyết giáo dục của Các Mác và F.Ăng ghen.
1. Học thuyết giáo dục Mác xít ra đời như là một tất yếu lịch sử.
• Học thuyết giáo dục Mác-Xít là một bộ phận của chủ nghĩa cộng sản khoa học
và dần được hoàn thiện bởi tư tưởng của V.I.Lênin và các nhà giáo dục Mác-xít khác.
Học thuyết này có liên quan tới tất cả các vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa,
khoa học kỹ thuật. Theo quan điểm của Mác, Giáo dục là một hình thái ý thức xã hội
đặc biệt của xã hội loài người, nó có những qui luật phát triển riêng, nhưng lại bị chế
ước bởi những qui luật xã hội, tự nhiên. Vì thế, muốn phân tích một hiện tượng giáo

20
dục, cán quán triệt phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật tự nhiên và lịch sử.
• Sự khác biệt của học thuyết giáo dục của Mác so với những lý luận giáo dục
trước Mác là ở cách nhìn các hiện tượng giáo dục trong quá trình phát triển của nó và
mối quan hệ của giáo dục với các mặt xã hội, tự nhiên.
• Theo Mác, giáo dục là một hình thái xã hội, là một bộ phận của thượng tầng
kiến trúc. Trong xã hội có giai cấp, giáo dục mang tính giai cấp, là công cụ của giai
cấp thống trị xã hội. Vì thế chỉ có được một nền giáo dục vô sản khi có giai cấp VS
nắm được chính quyền, chỉ khi đó giáo dục mới có những điều kiện để phát triển con
người toàn diện.
2. Những tư tưởng giáo dục của Mác và Ăng ghen.
• Đóng góp lớn nhất của Mác về giáo dục là đã phát hiện ra bản chất xã hội của
con người, đó chính là qui luật của sự phát triển và giáo dục nhân cách con người
trong xã hội loài người.
- Theo Mác, trong quá trình hình thành bản chất con người, yếu tố xã hội, các
quan hệ xã hội là yếu tố chi phối,là nhân tố quyết định. Trong các quan hệ xã hội thì
quan hệ sản xuất quyết định các quan hệ khác. Tuy nhiên, sự lựa chọn các quan hệ phù
hợp, sự tự chủ các quan hệ, tạo ra các quan hệ xã hội mới đó là một đặc điểm bản chất
- người có ý thức.
- Theo Mác, trong quá trình hình thành nhân cách, điều kiện quyết định là hoạt
động thực tiễn (lao động và hoạt động xã hội khác). Những hoạt động này vừa là điều
kiện để hình thành nhân cách, vừa là thước đo đánh giá tính chủ thể của mỗi cá nhân.
- Mác đã chỉ ra những qui luật của quá trình nhận thức thế giới khách quan của
con người và đã tạo ra sự hoàn thiện khi đánh giá vị trí con người trong trến trình phát
triển của tự nhiên và xã hội.
- Học thuyết của Mác đã cung cấp cho khoa học giáo dục một phương pháp luận
vững chắc để xây dựng lý luận giáo dục và tổ chức thực hiện quá trình giáo dục con
người cho CNXH và CNCS.
• Mác đã vạch ra qui luật tất yếu của xã hội tương lai là đào tạo, giáo dục những
con người phát triển toàn diện.
- Đóng góp của Mác là ở chỗ vạch ra bản chất của qui luật lao động tha hóa đã
dẫn tới sự phát triển phiến diện con người dưới chế độ có giai cấp bóc lột.Trong xã hội
tương lai, theo Mác do sự đòi hỏi của nền sản xuất đại công nghiệp, do tính luân
chuyển chuyên biệt hóa các dạng lao động, con người theo đó cần có sự phát triển toàn
diện.
- Theo Mác, con người phát triển toàn diện sẽ là mục đích của nền giáo dục
CSCN, và đó là những người phát triển đấy đủ, tối đa năng lực, sẵn có về tất cả mọi
mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, tình cảm, nhận thức, óc thẩm mỹ và có khả năng cảm thụ
21
được các hiện tượng tự nhiên, xã hội, đồng thời có thể sáng tạo ra những điều mới
mẻ.Con người phát triển toàn diện phải biết kết hợp giữa lao động chân tay và lao
động từ óc, biết tham gia vào các hoạt động xã hội khác.
• Mác và Ăngghen đã vạch ra những nguyên lý cơ bản để đào tạo, giáo dục
những con người phát triển toàn diện, đó là sự kết hợp một cách hợp lý giữa giáo dục
đạo đức, thể dục, trí dục và lao động sản xuất trong việc thực hiện giáo dục kỹ thuật
tổng hợp trong hoạt động thực trến và hoạt động xã hội.
• Mác đã chỉ ra những nội dung cơ bản của giáo dục đó là: trí dục (như toán,
thiên văn, cơ học, vật lý, hóa học, văn học, sử, triết học, động vật học, thực vật học) ;
thể dục ( giáo dục thể chất và huấn luyện quân sự) ; giáo dục bách khoa (GDKTTH)
bao gồm việc giới thiệu các nguyên lý cơ bản của các quá trình sản xuất trêu biểu, phổ
biến và hình thành kỹ năng, thói quen sử dụng công cụ sản đơn giản.
- Mác yêu cầu việc giảng dạy trong nhà trường phải cung cấp cho trẻ những tri
thức hệ thống, cơ bản, những qui luật, những tri thức hiện đại để con người có khả
năng vận dụng những tri thức đó vào cải tạo tự nhiên và xã hội.
X. Tư tưởng giáo dục của V.I. Lênin (22/4/1870-20/1924)
1. Bàn về mục đích giáo dục:
Lênin cho rằng "Sự nghiệp của chúng ta trong lĩnh vực giáo dục quốc dân là cuộc
đấu tranh để lật đổ giai cấp tư sản. Chúng ta tuyên bố công khai rằng nhà trường đúng
ngoài cuộc sống, đứng ngoài chính trị là giả dồn,.
• Người nhấn mạnh: Nhà trường có nhiệm vụ vũ trang cho thanh niên nhưng tri
thức thực sự khoa học về tự nhiên và xã hội, rèn luyện cho học một thế giới quan duy
vật, hình thành ở họ những quan điểm về niềm tin CSCN, những phẩm chất đạo đức
cao cả của giai cấp công nhân.
• Lênin đã đề cao vấn đề phát triển toàn diện con người: "xóa bỏ sự phân công
lao động giữa con người với nhau, người ta sẽ giáo dục, huấn luyện và đào tạo những
con người phát triển về mọi mặt, được chuẩn bị về mọi mặt và biết làm mọi việc. Đó là
đích của CNCS đang đi tới, phải đi tới, nhưng chỉ đạt tới sau bao năm lâu dài nữa".
Việc hình thành những con người phát triển toàn diện không chỉ là trách nhiệm
của riêng nhà trường mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội, của gia đình, đoàn thể và
tự rèn luyện của thế hệ trẻ.
2. Về nội dung giáo dục
2.1. Lênin coi trọng việc giáo dục đạo đức cộng sản "Cần đào tạo những con
người có lập trường vững vàng, có bản lĩnh chính trị kiên định, có lòng yêu nước
XHCN, ... sẵn sàng bảo vệ nhà nước Xô Viết non trẻ ... " .
- Theo Lênin, giáo dục cộng sản là giáo dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà

22
trước hết là giáo dục tính kỷ luật trong lao động và hoạt động tập thể vì người khác
Đạo đức con sản theo Lênin, còn là tính tổ chức, khả năng tổ chức, ý thức làm chủ,
lòng dũng cảm, gan dạ, không sợ gian khổ, hy sinh, bình tĩnh, trung thực và kiên quyết
trong hành động, khiêm tốn học hỏi quần chúng, lôi kéo, giác ngộ họ, tổ chức họ đoàn
kết lại để đấu tranh. Đạo đức cộng sản là thực hiện khẩu hiệu "Tất cả vì mỗi người,
mỗi người vì tất cả" trong hành động, là tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau giữa các dân
tộc và giai cấp vô sản.
2 .2 . Về giáo dục trí tuệ :
Lênin cho rằng trí dục là thành phần cơ bản của giáo dục cộng sản. Nhà trường
có nhiệm vụ trả trang cho thế hệ trẻ những tri thức khoa học cơ bản, hệ thống, hiện đại,
bồi dưỡng cho họ năng lực nhận thức, phát triển trí tuệ, ... Lênin đưa ra khẩu hiệu
“học, học nữa, học mãi”, để nhắc nhở thanh niên trong công cuộc xây dựng CNXH.
Việc học tập phải được thực hiện bằng việc hiểu biết của tri thức của nhân loại có
sự suy nghĩ và vận dụng vào thực tiễn, nhà trường phải bám sát nhu cầu xã hội, đưa
thế hệ trẻ vào thực tiễn cuộc sống.
Nội dung dạy học trong nhà trường cần "thiết lập nến giáo dục phổ thông để giới
thiệu những tri thức lý luận và thực tiễn về tất cả các ngành chủ yếu của nền sản xuất
xã hộp. Lênin yêu cầu đưa giáo dục kỹ thuật tổng hợp vào nhà trường: Thành lập nền
giáo dục phổ thông KTTH, vũ trang cho học sinh kỹ năng tri thức của các ngành sản
xuất chủ yếu của xã hội ; tổ chức lao động sản xuất, giáo dục kỹ thuật phải được coi
như phương trện đào tạo con người XHCN.
Ngoài những nội dung giáo dục đạo đức, trí dục, lao động và KTTH, Lênin cũng
rất quan tâm tới thể dục, quân sự, giáo dục thẩm mỹ.
2.3. Về nguyên tắc xây dựng nhà trường và phương thức đào tạo con người.
Lênin khẳng định: Nhà trường phải trở thành công cụ của chuyên chính vô sản ;
loại trừ tôn giáo ra khỏi trường học ; Đảng cộng sản phải là người lãnh đạo toàn diện
đối với sự nghiệp giáo dục, giáo dục phải đảm bảo sự bình đẳng giữa nam và nữ, giữa
các dân tộc, nhà nước phải tạo mọi điều kiện thuận lợi thỏa mãn nhu cầu học tập của
quán chúng lao động và con em của họ, thực hiện giáo dục phổ cập - bắt buộc, giáo
dục chuyên nghiệp - dạy nghề.
XI. Tư tưởng giáo dục của N.C. Cơrúpxcaia (26/2/1969- 1939)
1. Bà đã vận dụng phương pháp luận Mác xít vào việc nghiên cứu khoa học giáo
dục và đặt nền móng phương pháp luận nghiên cứu KHGD XHCN.
2. Về bản chất của quá trình giáo dục - vai trò của giáo dục trong việc hình thành
nhân cách. Bà cho rằng: đó là một quá trình vận động phức tạp của mỗi cá thể được tác
động của toàn bộ hoàn cảnh sống.
3. Về mục đích giáo dục, theo bà: " nhà trường trểu học, trung học đến đại học,
23
chúng ta chỉ có một mục đích chung: Giáo dục những người phát triển toàn diện, có ý
thức XHCN, có ý thức tổ chức và khả năng tổ chức, có thế giới quan đầy đủ sâu sắc có
hiểu biết rõ ràng toàn bộ những gì xảy ra xung quanh trong tự nhiên cũng như trong
cuộc sống xã hội, đó là những người được chuẩn bị về kỹ thuật cũng như thực hành
cho bất kỳ một hình thức lao động nào, lao động chân tay cũng như lao động trí óc. Đó
là những người biết xây dựng một cuộc sống có nội dung và hạnh phúcl,.
4. Về nguyên tắc giáo dục XHCN theo bà gồm: Giáo dục nhà trước tách khỏi tôn
giáo và tăng lữ, nhà trường do Đảng và nhà nước quản lý, thực hiện các chính sách
bình đẳng trong giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc (phổ cập) và miễn học phí cho
con em lao động ; giáo dục nhà trường mang tính dân tộc và quần chúng rộng rãi.
Nguyên tắc chung nhất, phản ánh đặc thù của giáo dục cộng sản theo bà bao
gồm: đảm bảo linh mục đích CSCN, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất một cách
hợp lý, giáo dục kỹ thuật tổng hợp và giáo dục tập thể.
Ngoài ra, bà còn nhấn mạnh quá trình giáo dục phải gắn với hoạt động thực tiễn,
quá trình giáo dục mang tính kế thừa, phải quán triệt chủ nghĩa nhân đạo XHCN vào
toàn bộ quá trình giáo dục.
Bà rất quan tâm tới vai trò giáo dục của tổ chức đoàn thanh niên và đội thiếu
niên: Bà là người xây dựng nền móng lý luận giáo dục tập thể, là một trong những
người sáng lập tổ chức đoàn, đội và là người sáng lập tổ chức đó trong nhà trường Xô
Viết.
XII. Tư tưởng giáo dục của A.C. Makarenko (1888 - 1939) - Nga.
1. Hệ thống giáo dục của Makarenko gồm:
1.1 Tính biện chứng của quá trình giáo dục
* Vận dụng triết học Mác - Lênin vào khoa học giáo dục.
Quá trình giáo dục tham gia vào việc giải quyết mâu thuẫn: Quan hệ giữa cá nhân
và tập thể; giữa chủ thể và và khách thể ; giữa mục trêu và quá trình ; giữa mục đích
và phương trện ; giữa lý luận và thực tiễn ; giữa quá khứ và tương lai ; giữa hoạt động
tổ chức giáo dục của nhà sư phạm và tập thể học sinh.
Lôgíc sư phạm (tính biện chứng) theo ông là sự giải quyết hợp lý, trọn vẹn, cân
bằng, đồng bộ các yêu cầu phát triển toàn diện nhân cách, trí tuệ, tình cảm, nhận thức,
ý chí, năng lực, thể chất để mỗi người có khả năng tự điều chỉnh nhu cầu, hứng thú,
nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi và quyền hạn, tự trọng và tôn trọng, hưởng thụ và
cống hiến, phục tùng ra lệnh, đánh giá và ra lệnh ...
• Theo ông, lôgíc biện chứng của quá trình giáo dục không xuất phát từ việc lựa
chọn các phương trện giáo dục và phụ thuộc vào tính mục đích của quá trình giáo dục.
Lôgíc sư phạm còn là quá trình tổ chức hợp lý hoạt động của học sinh tham gia vào
cách mạng xã hội, lao động sản xuất, các hoạt động tập thể như vui chơi, thể dục thể
24
thao, tham quan du lịch, văn hóa nghệ thuật ... Qua đó, giáo dục ý thức, năng lực tự
quản, tự rèn luyện, tập dung dư luận lành mạnh của tập thể để điều chỉnh hành vi.
1.2. Chủ nghĩa nhân đạo và niềm lạc quan XHCN trong tư tưởng giáo dục của
Makarenkin.
• Theo ông, nhân đạo và lạc quan là "thương yêu con người vô hạn", uất cả vì
con người”. Xong, tình thương không phải là một sự ban ơn, mà ngược lại phải là lòng
thương yêu, quí trọng, hy vọng, tin tưởng và phải tạo điều kiện con người hoạt động và
phát triển.
• Nhân đạo và lạc quan trong giáo dục còn thể hiện ở chỗ nhìn nhận và đánh giá
con người phải được đặt trong sự phát triển biện chứng giữa con người và hoàn cảnh
xã hội, có lòng vi tha đối với sai lầm và tạo điều kiện cho con người vượt lên trên
những lỗi lầm. Hạt nhân của chủ nghĩa nhân đạo và lạc quan trong giáo dục là ở chỗ
biết tôn trọng và yêu cầu cao đối với con người, vạch ra phương hướng, tạo điều kiện
cho con người rèn luyện để tự khẳng định mình trong tập thể, trong xã hội. Chủ nghĩa
nhân đạo phải bao gồm trong nó tính nghiêm khắc, sự không khoan nhượng đối với
khuyết điểm, hành vi sai trái qui định của tập thể. Chủ nghĩa nhân đạo và lạc quan có
quan hệ biện chứng với nhau, nó thể hiện sâu sắc trong lô lúc sư phạm giữa tình
thương yêu - tôn trọng - tin tưởng - yêu cầu - nghiêm khắc, giữa hoạt động cá nhân và
tập thể của quá trình giáo dục và tự giáo dục.
1.3. Về tập thể và tập thể cơ sở trong quá trình giáo dục.
• Đóng góp lớn lao của Makharencô về tập thể chính là ở chỗ ông không chỉ coi
chủ nghĩa tập thể như là nội dung, yêu cáu của quá trình giáo dục, mà còn coi tập thể
là môi trường, phương trện giáo dục. Vì vậy, giáo dục tập thể phải trở thành nguyên
tắc trong giáo dục XHCN.
• Giáo dục chủ nghĩa tập thể là hình thức làm chủ tập thể, làm chủ xã hội, làm
chủ quá trình sản xuất, làm chủ tự nhiên, làm chủ bản thân, là hoạt động tự giác, tích
cực, tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật, tính tổ chức. Giáo dục tập thể là hình thành ở
thế hệ trẻ hưởng thụ, quyền lợi và trách nhiệm, quyền hạn và trách nhiệm, tự do và kỷ
luật, nhận thức và tình cảm, hành động và tư duy ... . Giáo dục tập thể nghĩa là công
tác tổ chức giáo dục không hướng vào từng cá nhân mà phải tổ chức toàn bộ hoạt động
của tập thể học sinh.
• Về tập thể cơ sở, theo ông đó là "Một tập thể mà trong đó những thành viên
riêng biệt của nó đoàn kết với nhau một cách thường xuyên về công việc chung, về
tình bạn, thống nhất về sinh hoạt tư tưởng”. Theo ông tập thể không phải là sự cộng
tác một cách đơn giản những cá nhân mà nó phải là một tế bào xã hội có các cơ quan
đại diện, có trách nhiệm, có mối tương quan của các bộ phận, có sự phụ thuộc lẫn
nhau. Trong nhà trường, tập thể cơ sở là lớp học.

25
1.4.Về giáo dục lao động và kỹ thuật tổng hợp kết hợp với các mặt giáo dục khác.
• Giáo dục lao động theo ông phải là việc cung cấp cho học sinh cả về mặt lý
luận và kỹ năng thực hành, hình thức lao động phải đa dạng (lao động tự phục vụ lao
động có thù lao và lao động sản xuất với công nông) ; các hoạt động lao động phải
được trến hành bằng hình thức tập thể và xuất phát từ mục đích tập thể ; tổ chức lao
động phải quán triệt tinh thần kỹ thuật tổng hợp (tính khoa học, chính xác, kết hợp lý
luận và thực tiễn, cung cấp kỹ năng thực hành, ý thức tổ chúc kỷ luật, tình trạng tâm lý
và sức khỏe).
1.5. Về nhà giáo dục và tập thể sư phạm
• Ông yêu cầu cao đối với các nhà giáo dục.Theo ông, nhà giáo dục phải có
những phẩm chất năng lực làm công tác giáo dục: yêu nghề, yêu trẻ, sống say sưa, vui
vẻ không được đem nỗi u buồn, sự bực bội cá nhân đến với trẻ, phải mẫu mực.
• Để thực sự trở thành một nhà giáo dục, theo ông cần phải rèn luyện thường
xuyên về đạo đức, về năng lực nghề nghiệp.
• Đối với tập thể sư phạm, ông yêu cầu: sự tồn tại của tập thể các nhà sư phạm
phải lớn hơn tập thể học sinh, truyền thống của tập thể thầy giáo phải sâu sắc hơn tập
thể học sinh "không có gì nguy hiểm hơn là chủ nghĩa cá nhân và sự tranh chấp trong
tập thể giáo viên " , "tự giáo dục đúng đắn cho có thể thực hiện được với một tập thể
nhà giáo dục nhất trí về quan điểm và tin tưởng giúp đỡ lẫn nhau, không ganh tỵ,
không quá ham muốn, tỏ lòng thân thiện riêng với học sinh".
1.6. Quan điểm của Makarenkoo về giáo dục gia đình .
• Ông đã phân tích sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội, vai
trò của giáo dục trong giáo dục nhân cách.
• Về nguyên tắc, muốn giáo dục con em mỗi gia đình phải tổ chức như một tập
thể xã hội lao động, mỗi thành viên có nhiệm vụ một nhiệm vụ nào đó. Cha mẹ phải là
những người mẫu mực, sống lạc quan, có văn hóa, giản dị, khiêm tốn, phải hiểu con
cái và tạo điều kiện cho chúng thực hiện mơ ước lành mạnh, ngăn ngừa thói quen xấu.
+ Về nghệ thuật sư phạm
• Ông đã sáng tạo ra một hệ thống phương pháp hình thành nhân cách XHCN
cho trẻ em, đó là: phương pháp tác động song song ; giáo dục bằng hệ thống viễn cảnh
; giáo dục bằng bùng nổ sư phạm, giáo dục bằng truyền thống ; giáo dục cái đẹp ; giáo
dục bằng chế độ sinh hoạt, khen thưởng, trách phạt, nêu gương…
2. Có thể nói:
+ Makarenkoo là nhà lý luận và thực tiễn xuất sắc của nền giáo dục XHCN ông
đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác xít vào thực tế để rút ra những kinh nghiệm làm
phong phú cho lý luận giáo dục XHCN nói riêng và giáo dục nhân loại nói chung .

26
+ Hệ thống giáo dục của ông là rất toàn diện.
+ Kinh nghiệm và lý luận giáo dục của ông có tính phổ biến và có giá trị thực
tiễn lớn lao trong thời đại ngày nay.

27
PHẦN III
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM GIÁO DỤC MÁC-LÊNIN VÀO XEM XÉT SỰ
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

BÀI 1: GIÁ TRỊ CỦA GIÁO DỤC


1.Cách nhìn nhận giá trị của giáo dục đối với sự phát triển lịch sở xã hội .
- Nhìn nhận giá trị của giáo dục là việc hết sức phức tạp do:
+ Mỗi con người, mỗi tập đoàn, mỗi giai cấp có những quan điểm khác nhau
(VD: nền giáo dục Đức và Nhật trước đại chiến thế giới lần thứ 1 - đối với những kẻ
khởi xướng thì đó là sự thành công, còn đối với nhân loại có lương tri thì đó là một
nền giáo dục tàn bạo, đáng phỉ báng và tồi tệ nhất).
+ Một chủ trương giáo dục đối với một thời đại có thể là phi lý, là không thực tế
có thể dẫn tới sự thất bại, xuống cấp của một nền giáo dục, nhưng rất có thể lại phù
hợp với xu thế phát triển giáo dục hiện nay (ví dụ: vấn đề l,công xưởng mở trường
học, trường học mở công xưởng" mà Mao Trạch Đông đề ra năm 1958 là phù hợp với
quan điểm xã hội hóa giáo dục, với hình thức giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp hiện nay).
+ Thường tồn tại 2 phương pháp phân tích hiện tượng xã hội:
• Phương pháp phân tích lịch sử chú trọng đến sự phát triển khách quan của sự
vật, làm sáng tỏ nguồn gốc, nguyên nhân, kết quả của sự phát triển, ít khi lưu ý tới sự
phán đoán giá trị.
• Phương pháp phân tích giá trị lại chú trọng tới kết quả của sự phát triển đem lại
gì cho xã hội.
• Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội cần thiết phải được nhìn nhận
trong sự kết hợp giữa 2 phương pháp, trong đó, ở góc độ lý tưởng, khi phân tích giáo
dục, cần đi sâu phân tích giá trị của giáo dục trong những giai đoạn phát triển lịch sử
khác nhau về sự đóng góp của nó đối với xã hội tại thời điểm đó .
2. Các giá trị cụ thể của giáo dục
2.1. Thúc đẩy trên bộ xã hội.
Giáo dục góp phần thúc đẩy trến bộ xã hội trên các bình diện:
- Có tác dụng phát triển sản xuất:
+ Phát triển sản xuất là nền tảng cơ bản của phát triển xã hội.Trong các nhân tố
thúc đẩy sản xuất phát triển thì con người là nhân tố quan trọng nhất.
• Trong xã hội nông nghiệp, tác dụng của con người tháo phát triển sản xuất
thông qua sự tăng cường về số lượng người, cường độ lao động.

28
• Trong xã hội công nghiệp và thời đại ngày nay, vai trò của con người đối với
sản xuất biểu hiện chủ yếu ở sự nâng cao hoạt động trí tuệ, phát triển sức sáng tạo của
con người.Vì thế giáo dục trong giai đoạn hiện nay nhất thiết phải quan tâm tới việc
trang bị cho người học hệ thống tri thức của nền sản xuất hiện đại và hệ thống kỹ năng
tương ứng .
- Có tác dụng xây dựng nền dân chủ chính trị và pháp chế.
• Dân chủ và pháp chế là hạt nhân của việc xây dựng nền văn minh tinh thần của
xã hội hiện đại (quốc gia nào có trình độ văn hóa thấp thì thường trình độ dân chủ và
phép chế cũng ở mức độ tương ứng.Tuy nhiên ngược lại thì chưa hẳn đúng).
• Giáo dục phục vụ tết cho việc xây dựng nền dân chủ và phép chế thì sự phát
triển giáo dục phải phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của quảng đại quần chúng (lấy
ý kiến của quần chúng, công bố rộng rãi những vấn đề cơ bản của giáo dục ... ) ; can
đảm bảo tính dân chủ trong nhà trường. Tăng cường giáo dục pháp luật trong ngành
giáo dục thông qua các đợt học tập chính khóa ngoại hóa, phối hợp với các cơ quan
pháp luật tuyên trueyèn về pháp luật và xử lý nghiêm những hiện tượng tiêu cực/ phạm
pháp trong hoạt động giáo dục.
- Tác dụng đối với sự bình đẳng :
Sự bình đẳng xã hội do giáo dục mang lại được biểu hiện trước trên trong việc
tạo cơ hội cho mọi người dân được trếp nhận giáo dục (ngày 10/12/1948, Hội nghị
Liên hợp quốc đã thông qua "Tuyên ngôn nhân quyền thế giới" điều 26 đã chỉ rõ "Mỗi
người đều có quyền được giáo dục").
+ Cơ hội bình đẳng giáo dục được biểu hiện như sau:
+ Cơ hội được nhập học bình đẳng ở mọi trẻ em và mọi cấp học.
+ Cơ hội bình đẳng về quá trình giáo dục và kết quả giáo dục.
+ Cơ hội bình đẳng trong việc tham gia quản lý hoạt động giáo dục.
- Tác dụng đối với sự hưng thịnh văn hóa.
Trên bình diện tổng quát của văn hóa, giáo dục cũng là một bộ phân hợp thành
của văn hóa, nó có nhiệm vụ giữ gìn những di sản văn hóa dân tộc, biết tính lọc những
tết đẹp của tinh hoa văn hóa nhân loại để thế hệ trẻ có khả năng hội nhập nhanh chóng
với thế giới nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
- Tác dụng đối với sự luân chuyển xã hội (kế thừa xã hội).
+ Sự tồn tại và phát triển xã hội dược biểu hiện trong luân chuyển xã hội giữa cái
cũ và cái mới, giữa thế hệ đi trước và thế hệ đi sau trên tất cả các mặt của đời sống.
Hình thức luân chuyển có thể là khác nhau (huyết thống - thế tập ; quyền lực - quan
hệ; tri thức, kỹ năng và sự hiểu biết).
+ Giáo dục tham gia việc đào tạo con người phù hợp với các trêu chí luân chuyển
29
của nhu cầu xã hội, giúp cho xã hội sắp xếp con người đúng vị trí vừa đảm bảo chất
lượng cho công việc, vừa thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng của cá nhân. Sự tương hợp
này tạo ra trềm năng to lớn cho sự phát triển xã hội.
- Có tác dụng cải biến đời sống tinh thần của con người.
Giáo dục góp phần làm cho những tố chất bẩm sinh, vốn có của mỗi người được
phát triển, năng lực, trình độ nhận thức của họ được nâng cao - đây chính là cơ sở cho
sức sống của con người khi họ có được khả năng thích ứng với những biến động lớn
lao về kinh tế, văn hóa trong xã hội hiện đại.
2.2. Đảm bảo cho các mối liên hệ xã hội phát triển.
- Sự phát triển các mối quan hệ xã hội bị chi phối bởi sự phát triển và hoàn thiện
kinh tế hàng hóa.
+ Trong xã hội phong kiến.Quốc gia và gia đình là 2 đẳng cấp, 2 trụ cột chi phối
các mối quan hệ giữa xã hội và con người (xã hội truyền thống là một xã hội đóng cửa,
các thành viên trong gia đình có sự phân công lao động chật chế để thực hiện hoạt
động xã hội nông nghiệp giản đơn.Giữa các nhóm xã hội khác nhau là biệt lập nhưng
lại tuân thủ những qui phạm truyền thống giống nhau, có cùng hệ thống trêu chuẩn giá
trị và tín ngưỡng. Hình thức kết hợp xã hội truyền thống là một loại kết hợp máy móc).
+ Trong xã hội hiện đại, gia đình hạt nhân trở thành hình thức gia đình cơ bản,
chức năng của chính phủ ngày càng được chuyên môn hóa, sản xuất, trao đổi lưu
thông, trêu thụ hàng hóa cùng với các hoạt động xã hội tương ứng do xã hội tự điều
trết. Chức năng của Nhà nước và gia đình giảm đi, chức năng xã hội ngày càng được
mở rộng.
Có thể biểu thị các mối tương quan quốc gia - xã hội - gia đình trước đây và hiện
nay như sau:
Tương quan truyền thống: Quốc gia - Xã hội - Gia đình.
Tương quan hiện đại: Quốc gia - Xã hội - Gia đình
* Trong xã hội hiện đại, mối tương quan giữa cá nhân - xã hội - gia đình là mối
đảm nhận những chức năng đặc thù của mình, đồng thời lại có quan hệ dựa vào nhau,
liên hệ với các bộ phận khác. Có thể nói trình độ xã hội hóa trong các mối quan hệ xã
hội được nâng cao là hiện tượng cộng sinh của trến trình xã hội hiện đại.
* Thể hiện và thúc đẩy quá trình xã hội có 3 nhân tố chủ yếu:
+ Sự chuyên môn hóa các bộ phận xã hội.
+ Tính phi tự túc của các bộ phân xã hội.
+ Xu thế thực dụng và hiệu quả (quan niệm giá trị hàng đầu của con người là lợi
nhuận kinh tế thu được.Con người coi trách nhiệm đối với xã hội và bảo vệ quyền lợi
cá nhân xà ngang nhau - khoa học, kinh tế, tri thức và văn hóa là những yếu tố có khả
30
năng mang lại cho xã hội và con người lợi ích đã nhận được sự coi trọng phổ biến).
- Sự phát triển các môlquan hệ xã hội được đảm bảo bởi tính độ nhận thức, rình
độ hiểu biết của mỗi cá nhân trong các bộ phận khác nhau của đời sống xã hội.
+ Giáo dục làm cho nhân cách của mỗi con người được hoàn thịên những phẩm
chất và năng lực cần thiết cho sự hòa nhập trong cộng đồng người, trong gia đình, ở
mỗi quốc gia và thế giới.
+ Hệ thống tri thức và kỹ năng mà thế hệ trẻ trếp nhân không chỉ là những kinh
nghiệm của mối quan hệ mới nẩy sinh trong sự vận động của đời sống kinh tế xã hội.
+ Giáo dục giúp cho mỗi người điều hòa được một cách hợp lý giữa trách nhiệm
và quyền lợi (Mác viết: không có quyền lợi vô nghĩa, cũng không có nghĩa vụ phi
quyền lợi "Mác - Ănghen" toàn tập, tập 2,tr.137).
Điều đó có nghĩa là không có quyền lợi sẽ không có trách nhiệm, không có ý
thức về quyền lợi sẽ không có tình cảm trách nhiệm. Không có nhận thức về quyền lợi
bản thân thì cũng không có ý thức tôn trọng quyền lợi của người khác và không thể có
trách nhiệm với người khác. Tình cảm trách nhiệm, tình cảm nghĩa vụ của một con
người đối với xã hội, không tách rời với quyền lợi mà xã hội đem lại cho họ.
2.3. Thúc đẩy sự phát triển của cá nhân.
- Giáo dục không chỉ có chức năng truyền thụ những tri thức và kỹ năng sản xuất
xã hội và hình thành các qui phạm đạo đức, lý luận xã hội, Mà còn phải phát triển bản
thân con người - Đây chính là giá trị nội tại của giáo dục.
(Mục trêu cuối cùng của con người là hạnh phúc tự thân, vì thế cần thiết phải tìm
hiểu sâu sắc bản chất con người, hạnh phúc con người, giá trị của con người .
- Không Tử nói:"Kẻ có lòng nhân, là con người vậy" nhân biểu hiện ra lễ.
- Phaton cho rằng:người phân thành 3 đẳng cấp: nhà triết học, vũ sĩ, người lao
động thủ công).
Với cách nhìn nhận như vậy, ở đây tuyệt đối không có sự bình đẳng giữa mọi
người. Giá trị con người là tùy thuộc vào địa vị của họ, biểu hiện ra trong qua hệ đẳng
cấp xã hội nhất định. Chính trong quan hệ đẳng cấp đó, ai tuân thủ thì người đó có giá
trị. Thời cận đại, khi địa vị bình đẳng của con người có pháp luật đứng ra bảo vệ, tính
độc lập, giá trị cá thể của nhân cách độc lập mới được quan tâm.
- Các Mác nhấn mạnh: "Lịch sử xã hội loài người cuối cùng chỉ là lịch sự phát
triển cá thể của họ, không kể rằng họ có ý thức được điều đó hay không" (Mác - ăng
ghen toàn tập, tập 27, trang 478) với quan điểm đó, nếu trong một thời gian dài, chúng
ta đem bản tính con người qui nạp thành tính xã hội, lại đem tính xã hội thu hẹp lại
thành tích giai cấp - kết quả là cái tính diện sự áp chế và sự phát triển xã hội cũng bị
cản trở.

31
- Con người là sản phẩm của tự nhiên, song nó là một sản phẩm đặc biệt bởi nó
không chỉ tồn tại đơn thuần tự nhiên mà nó còn có đời sống tâm lý và đời sống xã hội.
Một khi có sự chín muồi của đời sống xã hội, chính những nhân tố xã hội đến lượt nó
sẽ quay trở lại, thẩm thấu vào đời sống tâm lí và bản thể tự nhiên của con người. Nhấn
mạnh tác động to lớn này của đời sống xã hội, C.Mác đã chỉ rằng: về bản chất, con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên nếu chỉ thấy một xã hội trong con
người mà không thấy cái riêng trong đời sống tâm lí của họ là một cách nhìn lệch lạc
(năng lực tâm lý của con người nay sinh từ tính tự nhiên nhưng nó không phải là bản
sao của tính xã hội: trình độ cấp thấp của năng lực tâm lý gần gũi với tính tự nhiên,
còn trình độ cấp cao của năng lực tâm lý có quan hệ mật thiết hơn với tính xã hội của
con người. Về điều này, ta có thể coi năng lực tâm lực như là cấu nối trung gian giữa
tính tự nhiên và tính xã hội của con người. Chính sự phong phú trong đời sống tâm lí
người tạo ra sự khác biệt giữa các cá nhân, làm cho đời sống trở nên đa dạng, nhiều
màu sắc. Vì thế không thể dùng một loại hình tượng điểm mình kể nhào nặn con
người, đào tạo con người, nhất loạt như một sản phẩm máy móc thì đó chính là phủ
nhận giá trị con người về trình độ tâm lý).
- Về tính xã hội của con người, chúng ta trở lại câu nói nổi trếng của Mác:"Bản
chất con người không phải là cái gì chung chung, trừu tượng vốn có trong mỗi cá nhân
riêng rẽ, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hợp các mối quan hệ
xã hội". Có thể thấy ở luận điểm của Mác những giá trị cất lõi sau:
+ Mác đã phê phán nghiêm khắc quan điểm qui kết bản chất con người là bản
tính tự nhiên của "loạn.
+ Không được qui kết quan hệ xã hội thành quan hệ giai cấp, quan hệ giữa tập
thể và cá nhân. Nếu quan hệ xã hội là cực kỳ phức tạp thì tính xã hội của con người
cũng là một phức hợp nhiều cấp, nhiều mặt.
+ Trong tính hiện thực của nó" bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội, đó là xét bản chất người trong trạng thái tĩnh tại, còn ở trạng thái động, con
người ~ là một chủ thể luôn mang trong mình tính năng động, tác động trở lại đối với
các quan hệ xã hội (hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực con người tạo ra
hoàn cảnh). Đây chính là sự khác biệt lớn nhất về giá trị của con người trong lịch sử
phát triển của tự nhiên.
- Cá tính là tầng bậc cao nhất của nhân tính, cũng là nội dung sâu sắc nhất của giá
trị con người..
+ Những đặc điểm chung bao hàm trong cá tính.
+ Điều căn bản nhất của cá tính là tính tự tồn tại, tính sáng tạo, độc lập (suy nghĩ,
phán đoán, lựa chọn, biểu hiện). Có tính chủ động, độc lập mới có giá trị tự thân (Giáo
dục hiện nay còn thiếu chú ý việc bồi dưỡng cá tính, thường lấy truất tập thể tính xã
hội để thay thế cá tính. Ở nơi này hay nơi khác, việc giáo dục cá tính còn bị hiểu lầm

32
là phát triển chủ nghĩa cá nhân, đề cao tư lợi. Rõ ràng chúng ta đem đối lập giữa cá
nhân và tập thể mà quên rằng cá nhân càng phát triển thì tập thể mới càng phát triển).
- Sự phát triển cá tính trong giáo dục truyền thống ở nước ta luôn bị coi nhẹ:
+ Về phương diện chính trị : Xã hội phong kiến thông trị theo kiểu hình tháp, chế
độ chính trị cường quyền, đẳng cấp nghiêm ngặt (quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử,
... ) chuẩn tắc phổ biến của xã hội là phục tùng, giá trị về tự do của cá nhân không
được đề cập tới.
Giáo dục với tư cách là một hệ thống xã hội, mang màu sắc chính trị, luân lý rõ
rệt. Nhà trường sớm được xây dựng trong cung quản, kẻ thống trị vừa là quan vừa là
thầy giáo, giáo dục là công cụ của lễ giáo: Học Kỷ ghi "Giáo dục để giáo hóa dân, hình
thànhh phong tục" . Không Tử nói : "Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của giáo dục là
đào tạo người quân tử".
Giai cấp thông trị đã sử dụng trật tự chính trị để biến nhà trường thành một xã hội
thu nhỏ về đẳng cấp, đó chính là nhiên địa quân sư" (thiên địa là sự sắp đặt luân lý của:
+Giai cấp thống trị , quân là kẻ thống trị trong quan hệ quân - thần.
+Phụ là người thống trị trong quan hệ gia đình.
+Sư là người thống trị trong quan hệ thấy trò ở trường học).
(Địa vị của người thầy giáo trong các mối quan hệ xã hội là rất thấp, là người bị
thống trị, nhưng khi thực hiện chức năng bảo vệ các mối QHXH thì họ trở nên có uy
quyền tối thượng, mang tính hợp lý: "Thầy nghiêm đạo đức mới được trọng'! ; thấy là
công cụ của "đạo") làm trái lời thầy là chống lại trật tự xã hội. Chính bởi vậy, giáo dục
theo đó chỉ có thể đào tạo những con người chỉ biết vâng lời, không có sự phát triển cá
tính).
+ Về phương diện lý luận, giáo dục phong kiến Việt Nam khi xử lý các mối quan
hệ giữa cộng đồng và cá thể luôn biểu hiện những xu hướng sau:
- Xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống để đưa ra những chế định hạn chế hành vi
cá thể.
- Cho rằng cộng đồng mới là chủ thể năng động ở mọi thời đại và mọi hoàn cảnh,
cộng đồng đề ra các yêu cầu)còn cá thể là khách thể bị động chỉ có thể ứng thụ động
với những yêu cầu của quần thể.
- Tất cả quyền lợi đạo đức thuộc về quần thể, tất cả nghĩa vụ đạo đức thuộc về cá
nhân.
Với những xu hướng đó đã làm gia tăng sự trói buộc và hạn chế đối với cá nhân
(đạo đức phong kiến đề cao "tự kiềm chế", "tự kiểm điểm", "tự tranh cãi"… làm những
hành động tự trói buộc mình, như trung, hiếu, trết, nghề cá nhân mới trở thành người
có đạo đức cao đẹp).

33
Triết học truyền thống phong kiến chỉ nói đến "nguyên tắc tự giác” mà không nói
đến nguyên tắc "tự nguyện",chỉ khuyến khích con người biết tuân thủ mà không nói tới
ý chí lựa chọn, nhấn mạnh hành động dựa vào lý chí phục tùng cách suy nghĩ của mọi
người (các nhà triết học cổ đại đã có bàn đến ý chí phục tùng cách suy nghĩ của mọi
người, đề cập tới nó thì triết học đã bị chính trị hóa, luân lý hóa-con người trước trên
bị phạm hành đẳng cấp rồi mới bàn đến ý chí: "Quân tử học cao thành yểu người, trểu
nhân học đạo thì dễ "sai khiến" - Không Tử. Chỉ có một số người thần thánh mới có ý
chí độc lập").
+ Có thể nói văn hóa truyền thống có nhiều yếu tố tích cực, song vấn đề phát
triển cá tính con người thì luôn giữ thái độ vùi dập.
+ Quan điểm hiện đại cho rằng sự phát triển cá nhân và sự phát triển xã hội là có
mâu thuẫn:
• Xã hội muốn phát triển thì trước trên phải xem xét lợi ích của số đông và khi
đó nếu lợi ích cá nhân và lợi ích của sổ đông nảy sinh xung đột thì đương nhiên lợi ích
cá nhân phải phục tùng lợi ích số đông, cá nhân phải tuân thủ những qui phạm xã hội
đã được chế định. Chính điều này sức mạnh thống nhất của mỗi cá nhân gộp thành sức
mạnh xã hội.
• Xã hội phát triển làm nảy sinh sự phân công lao động, chuyên môn hóa và
thành thạo hóa, một mặt nó đem lại hiệu quả cao cho sản xuất, nhưng đồng thời nó dẫn
tới sự phát triển phấn diện và phổ quát hóa cá nhân. Nói cách khác xã hội muốn phát
triển, cần thiết phải dựa vào sự hy sinh đặc trưng cụ thể của mỗi cá nhân. Mác
nói:"Loại người cũng cũng giống như giới tự nhiên, lợi ích của chủng tộc luôn luôn
phải dựa vào sự hy sinh lợi ích của cá thể để mở ra con đường đi của mình"(Mác - Ăng
ghen toàn tập, tập 26, tr. 125).
+ Mặc khác, sự phát triển của cá nhân và tự phát triển của xã hội có sự thống
nhất.
• Sự phát triển cá nhân là trền đề cho sự phát triển xã hội (xã hội trung cổ do cá
tính của con người bị áp chế, cá nhân chỉ biết phục tùng, ngoan đạo, dựa dẫm vào
nhau, thiếu sáng tạo, phê phán, ... và như vậy xã hội này được tập hợp bởi những con
người luôn trong thái thái trêu cực sẽ luôn là một xã hội trầm lặng, thiếu sức sống).
• Trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã biểu thị một cách sâu sắc tính tất yếu
của sự phát triển xã hội dựa trên sư phát triển cao độ tính đặc thù của mỗi cá nhân: "sự
phát triển tự do của một người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người"
(Mác-Ăng ghen toàn tập, tập 4, tr.491).
Trong giáo dục không được phiến diện nhấn mạnh tính chung và tính xã hội, coi
nhẹ sự phát triển cá tính, nhưng đồng thời cũng không quá nhấn mạnh sự phát triển cá
tính mà càn phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển cá thể và phát triển xã hội,
không đối lập chúng để đi tới sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng trong việc hình
34
thành nhân cách cho thế hệ trẻ.
BÀI 2: MỤC TIÊU CỦA GIÁO DỤC
1. Mục trêu giáo dục ở những tầng bậc khác nhau đều có chức năng chung
là:
- Làm cơ sở cho việc xác định nội dung và phương pháp tổ chức hoạt động giáo
dục.
- Là trêu chí đánh giá kết quả hoạt động giáo dục.
(Nhà giáo dục Mỹ J.B. Macdonald đưa ra 5 chức năng của mục trêu giáo dục :
+ Xác định rõ phương pháp phát triển giáo dục
+ Chọn lọc kinh nghiệm giáo dục lý tưởng.
+ Giới hạn phạm vi kế hoạch giáo dục
+ Nêu rõ yếu điểm của kế hoạch giáo dục
+ Làm cơ sở quan trọng trong việc đánh giá).
(Năm 1976 Hội nghị bộ trưởng các nước thành viên tổ chức văn hóa, khoa học,
giáo dục Châu phi ở Hagos và đã ra tuyên ngôn qui định nhục trêu, tác dụng và tôn chỉ
của quá trình giáo dục bao gồm các vấn đề cơ bản: Giáo dục thanh niên hình thành
chuẩn mực giá trị phù hợp với tình hình trong nước và xu thể của nền văn minh ; hình
thành tinh thần phấn đấu vì lợi ích của dân tộc mình ; tăng cường hiểu biết và tình
đoàn kết giữa người với người ; phổ cập tri thức khoa học kỹ thuật, cung cấp hình thức
giáo dục mới để xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa nhà trường và đời sống").
(Liên Xô trong cải cách giáo dục 1984 đã xác định: Nâng cao chất lượng giao
dưỡng và giáo dục, đảm bảo được việc thực hiện bài giảng có mức độ tương đối cao,
củng cố nắm vững tri thức khoa học cơ sở, tư tưởng chính trị, cải thiện lao động và
hoàn thiện sự phát triển của giáo dục đạo đức, năng lực thẩm mỹ và sức khỏe ; hoàn
thiện giáo dục và giảng dạy lao động cũng như công tác hướng nghiệp trong nhà
trường phổ thông ; tăng cường thái độ trách nhiệm của học sinh đối với chất lượng học
tập, lao động, nâng cao tính tích cực xã hội của học sinh dựa trên cơ sở phát triển năng
lực, tự quản tập thể của học sinh. Đề cao giá trị xã hội người thầy giáo, nâng cao mức
độ rèn luyện thực tiễn và lý tưởng của đội ngũ giáo viên, đáp ứng đủ nhu cầu giáo viên
cho hệ thống giáo dục quốc dân ; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các trường
học, các cơ sở giáo dục trểu học đường và giáo dục ngoài nhà trường ; hoàn thiện cơ
cấu các trường phổ thông, trường dạy nghệ và các ngànhq bản lý giáo dục).
(Nhật xác định các mục trêu cơ bản trong cải cách giáo dục: Dự toán tư tưởng cơ
bản của nền giáo dục thế kỷ 21 ; xóa bỏ những trêu cực xã hội trong quá trình giáo
dục, xây dựng hệ thống cơ cấu giáo dục suất đời ; nâng cao chất lượng giáo dục cao
cấp và phát huy các đặc tính của nó, tăng cường giáo dục trung học, THCS và trểu

35
học; nâng cao trình độ giáo viên ; xem xét đánh giá lại hành chính và tài chính giáo
dục).
- Phương hướng và xu thế CCGD các nước phát triển, tr.168-173.)
- Xem xét một số mục trêu cụ thể trong giáo dục của các nước, và có những điểm
khác biệt do trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước, song nhìn chung, các mục
trêu đó đề cập tới các mặt: số lượng, chất lượng, cơ cấu, chế độ và thể chế.
- Ở Việt Nam: Mục trêu giáo dục tổng thể mang tính xã hội là: nâng cao dân trí
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Đây chính là mục trêu xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
(Ngay từ những năm đầu của cách mạng tháng 8,nghị quyết của Hội nghị cán bộ
trung ương lần thứ 4 - tháng 41/1947 chủ trương của Đảng về giáo dục phục vụ cuộc
kháng chiến chống Pháp là:
- Chương trình học phải thiết thực nhằm mục đích đào tạo nhân tài, cần dùng cho
kháng chiến, trước hết về tất cả các ngành y tế, canh nông, quân mười cũng như
thương mại, ngoại giao, ... ).
- Học sinh phải vừa học, vừa tham gia sản xuất để tự túc một phần nào.
- Trếp tục phát triển bình dân học vụ.
- Chú ý mở trường ở các vùng quốc dân thiểu số.
(Đến cải cách giáo dục lần thứ 1 - 1950 đã xác định: Mục trêu đào tạo của nhà
trường là giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người"Công dân là tương lai").
Tính chất của giáo dục của dân, do dân, vì dân trung thành với chế độ dân chủ nhân
dân và có đủ phẩm chất năng lực phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân.
Nội dung giáo dục nhằm vào việc bồi dưỡng người học có tinh thần dân tộc, lòng
yêu nước, chỉ căm thù giặc, tinh thần yêu chuộc lao động, tôn trọng của công, tinh thần
tập thể, phương pháp suy luân và thói quen làm việc khoa học.Tháng 7/1951 đại hộ
giáo dục toàn quốc đã chỉ rõ: phương châm giáo dục là giáo dục phục vụ kháng chiến
chủ yếu là trền tuyến, giáo dục phục vụ nhân dân, chủ yếu là công nông binh, giáo dục
phục vụ sản xuất chủ yếu là nông nghiệp.
(Cải cách giáo dục lần thứ 2 (1956) đặt cơ sở cho việc thành lập hệ thống giáo
dục quốc dân theo tính chất GD XHCN).
Tính chất của nền giáo dục: Mang tính chất XHCN, lấy CN Mác - Lênin làm nền
tảng tư tưởng nhằm phục vụ nhân dân lao động.
Mục đích của giáo dục Việt Nam là nhằm đào tạo bồi dưỡng thế hệ thanh niên va
thiếu niên trở thành những người phát triển về mọi mặt, những công dân tết, trung
thành với tổ quốc, những người lao động tết, cán bộ tết của nước nhà, có tài có đức để
36
phát triển chế độ dân chủ nhân dân trến lên xây dựng XHCN ở nước ta, đồng thời để
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.
Nội dung giáo dục mang tính toàn diện bao gồm 4 mặt là đức, trí, thể, mỹ. Đại
hội lần thứ 3 của Đảng năm 1960 đã xác định: Sự nghiệp giáo dục phải nhằm bồi
dưỡng thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ đất nước, có giác ngộ XHCN,
có văn hóa và kỹ thuật, có sức khỏe, những người phát triển toàn diện để xây dựng xã
hội mới, đồng thời phải phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ xây dựng xã hội mới,
đồng thời phải phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ xây dựng kinh tế và văn hóa
XHCN và việc nâng cao không ngừng trình độ văn hóa của nhân dân lao động.
Cải cách giáo dục 1979 có 3 mục trêu lớn:
- Làm tốt việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng
thành nhằm tạo ra cơ sở ban đầu rất quan trọng của con người Việt Nam mới, người
lao động làm chủ tập thể và phát triển toàn diện.
- Thực hiện phổ cập giáo dục toàn dân, góp phần xây dựng quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trến hành 3 cuộc cách mạng.
- Đào tạo và bồi dưỡng veắì qui mô ngày càng lý đội ngũ lao động mới có phẩm
chất chính trị và cách mạng, có trình độ KHKT và quản lý phù hợp với yêu cầu phân
công lao động trong nền sản xuất lớn XHCN. Cải cách giáo dục dựa trên những
nguyên lý cơ bản của nền giáo dục XHCN: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động sản xuất, nhà trường gắn liên với xã hội.
• Nội dung giáo dục nhằm hình thành con người lao động mới, làm chủ tập thể
XHCN, phát triển toàn diện đáp ứng yêu cáu của công cuộc xây dựng XHCN từ một
nền nông nghiệp sản xuất nhỏ. Giáo dục Mác - Lênin, lý tưởng CSCN, đường lối chính
sách của Đảng, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lòng yêu nước chân chính và
tinh thần quốc tế XHCN. Đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học hiện đại và tính
thực tiễn (chọn lọc có hệ thống những kiến thức cơ bản, hiện đại, sát với thực tiễn Việt
Nam, làm cho vốn văn hóa, khoa học và kỹ thuật, khoa học và kỹ thuật giảng dạy ở
nhà trường có tác dụng thật sự trong việc hình thành thế giới quan khoa học, phát triển
tư duy khoa học, phát triển năng lực hành động của học sinh). Nội dung giáo dục quán
triệt nguyên tắc giáo dục kỹ thuật tổng hợp, coi trọng việc giáo dục lao động, kết hợp
chặt chẽ giữa lý luận với thực hành, học tapạ với lao động sản xuất. Nội dung giáo dục
được hoàn thiện theo nguyên tắc toàn diện và cân đối trong nội dung giáo dục phải bao
hàm giáo dục tư tưởng văn hóa, khoa học kỹ thuật, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể
chất.
• Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 7 (711 99 1 ) đã đề ra mục trêu cho ngành giáo
dục đó là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ
lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng
tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu CNXH. Nhà trường đào tạo thế hệ

37
trẻ theo hướng toàn diện, có năng lực chuyên môn, có ý thức và khả năng tự tạo việc
làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
• Bước vào thế kỷ XXI, mục trêu giáo dục được đặt ra trên 4 mặt cơ bản: học để
biết (nắm được công cụ của sự nhận thức) ; học để làm (tác động lên môi trường sống
một cách chủ động) ; học để cùng chung sống hòa nhập (tham gia vào các mối quan hệ
xã hội) ; học đem tồn tại, để phát triển (là con đường chủ yếu để thâm nhập vào 3 mục
trêu trên). Những mục trêu cơ bản này đặt ra nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu
trang bị ngày càng nhiều và hiệu quả cho người học các tri thức và kỹ năng sống để có
thể phát triển phù hợp với nền văn minh trí tuệ với giới hạn về thời gian và không gian
mà tuổi trẻ được tích lũy hành trang trong học đường. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét cụ
thể 4 mục trêu cơ bản đó:
Học để biết: có thể xem mục trêu này vừa là phương trện, vừa là mục đích của
cuộc sống, nhờ có việc học mà con người hiểu được thế giới xung quanh mình - từ đơn
giản đến phức tạp, từ quá khứ đến hiện đại để có thể chủ động kế tục sự nghiệp của
các thế hệ đi trước, vững bước tới tương lai. Nội dung của sự hiểu biết rất phong phú,
nó đòi hỏi mỗi người phải biết mình, biết đòi hỏi của hiện thực, là cơ sở cho sự rèn
luyện bản ngã về đạo đức, về tư tưởng, trí tuệ.
Để hiểu biết, con người phải học thường xuyên, suất đời. Nhà trường sẽ là nơi
cung cấp cho thế hệ trẻ công cụ, phương pháp để họ có thể trếp tục học tập và phát
triển suất đời trong mọi hoạt động mà họ tham gia.
Học để làm: Không chỉ dừng lại ở mức độ tay nghề, kỹ năng nghề đối với một
nghề nghiệp mà còn là sự hình thành cho họ năng lực thực hành nghề để đáp ứng sự
biến động của công nghệ, kỹ thuật. Sự gia tăng của hoạt động trí tuệ và hoạt động dịch
vụ trong sản xuất và trong đời sống xã hội, đòi hỏi người lao động phải được chuẩn bị
để có được các kỹ năng giao trếp, ứng xử, các phẩm chất nhân văn, kỹ năng thiết lập
được những quan hệ bền vững các yếu tố về mối quan hệ giữa người và người).
Sản xuất ở trình độ công nghệ cao hơn đòi hỏi những kỹ năng trí tuệ kết hợp với
kỹ năng ứng xử, sự phân bổ hài hòa giữa lao động và giải trí lành mạnh để công việc
đạt hiệu quả. Có thể nói học để làm luôn dựa trên học để biết trong suốt cuộc đời của
mỗi cá nhân trong xã hội phát triển.
Học để chung sống: Giáo dục phải giúp cho mỗi con người biết chung sống theo
huyết tộc, trong cộng đồng làng xóm, trong nước và quốc tế. Muốn vậy phải cung cấp
cho họ biết rõ vị trí, thứ bậc của bản thân trong các mối quan hệ để hiểu mình, hiểu
người trong việc hướng tới mục trêu chung. Như vậy, học để chung sống sẽ làm cho
người không chỉ có ý thức về trách nhiệm, quyền lợi của một công dân mà còn là một
thành viên tích cực của xã hội. Muốn biết chúng sống, mỗi người phải có tri thức, phải
có các cảm xúc và sự nhạy cảm để tạo nên các giá trị, thái độ, tín ngưỡng trong các
mối quan hệ xã hội ; phải có lòng tự trọng về mặt cá nhân và xã hội để biết lắng nghe

38
người khác, biết đời sống cộng động. Như vậy, giáo dục để chung sống một mặt nó
xác định và cổ văn cho một tập hợp các giá trị cơ bản được mọi cá nhân, mọi công
đồng, mọi dân tộc thừa nhận, song mặt khác nó hình thành cho cá nhân biết thừa nhận
và tôn trọng sự khác biệt của người khác.
Học để làm ngư để phát triển: Giáo dục phải góp phần vào sự phát triển toàn
diện của mỗi cá nhân trên các mặt thể lực và trí tuệ, sự thông minh, tính nhạy cảm,
khiếu thẩm mỹ, trách nhiệm cá nhân, các giá trị tinh thần và tâm linh. Giáo dục phải
hình thành tính chủ động, độc lập. Sáng tạo để có thể tự xác định mình phải làm gì
trong những hoàn cảnh sống riêng biệt - làm được điều này chính là giáo dục đã đem
lại sự tự do về tư tưởng để họ phát triển tài năng và làm chủ số phận mình.
Bốn mục trêu trên đây của giáo dục hiện đại được đặt ở vị trí ngang nhau trong
sự phát triển của mỗi cá nhân, nó đem đến sự cân bằng về tầm qua trọng của trí tuệ,
của lý thuyết, của thực tiễn. Hội nghị giáo dục quốc tế về "học để chung sống" (2001)
đã nhấn mạnh "học để biết", "để làm", "để phát triển", là những mặt chủ yếu cho sự
phát triển cá nhân, của các cộng đồng hoặc của từng dân tộc. Học để chung sống có
mộc bản chất khác và có tính toàn cầu hơn: thiếu cột trụ này có thể dẫn tới hệ quả là sẽ
thủ trêu mọi cố gắng khác nhằm phục vụ giáo dục, phục vụ sức khỏe và sự phát triển,
nhằm hạn chế các tranh chấp giữa các dân tộc, các cuộc nội chiến, chủ nghĩa khủng bố
dưới mọi hình thức, sự lãng phí của các nguồn lực, tài chính, tự nhiên, ...
BÀI 3: MÔ HÌNH GIÁO DỤC
1. Khái niệm:
* Mô hình theo nghĩa hẹp là một hình mẫu ước đoán về một sự vật, một hiện
tượng trong tương lai. Mô hình là một khái niệm có tính đàn hồi: một phương thúc dạy
học cũng có thể được coi là một mô hình.
* Mô hình theo nghĩa rộng bao gồm trong nó những đặc trưng cơ bản, phương
thức cơ bản của một nền giáo dục của một quốc gia trong một giai đoạn.Mô hình giáo
dục là căn cứ của GCGD.
2.Thuyết mô hình giáo dục.
+ Thuyết này cho rằng mô hình giáo dục chủ yếu là sự phản ánh của kinht ế và
trình độ KHKT, mô hình GD luôn thích ứng với từng giai đoạn phát triển xã hội. Theo
đó, xã hội khi có sự biến đổi thì mô hình giáo dục cũng có sự biến đổi tương ứng.
+ Sự phát triển xã hội phân thành ba giai đoạn: trểu công nghiệp, công nghiệp và
hậu công nghiệp. Tương ứng với các giai đoạnt rên tồn tại 3 mô hình giáo dục.
2.1. Mô hình giáo dục thòi kỳ tiều công nghiệp: Giáo dục phục vụ một số ít
người trong dòng hộ quí tôi địa chỉ và người giàu có. Giáo dục nhà trường là hình thức
giáo dục duy nhất.
- Đặc trưng của giáo dục là chính qui và chế độ hóa.
39
- Mục đích việc trếp thu giáo dục không ở việc con người học được điều gì ở nhà
trường mà bản thân việc giáo dục đã là một mục đích, một tượng trưng cho quyền
được nhận giáo dục và có giáo dục.
- Nội dung giáo dục không truyền bá cho học sinh bản lĩnh sống, kiến thức thực
dụng (vì đây là những điều không được bước vào cuộc sống giàu sang quý tộc)
+ Trong mô hình này, quan hệ thầy trò là quan hệ một chiều: thầy đồ - đồ đệ
(thầy truyền thụ, trò trếp thu). Giá trị của thầy là giá trị của trò. Học vấn được truyền
đạt xa rời thực tiễn, chủ yếu là hun~ỉ đúc tinh thần - điều mà giai cấp bóc lột xem như
đặc quyền, niềm tự hào, là sự phân biệt với tầng lớp bình dân. Loại giáo dục này
không giáo dục con người biết làm bất cứ việc gì, bởi cái có tác dụng thực sự tạo nên
giá trị con người là dáng đi, vẻ đứng, lời ăn trếng nói, xã giao ... . chứ không phải là sự
cống hiến cho xã hội.
Mô hình giáo dục/à hoàn toàn phù hợp với sự phát triển xã hội đường thời, khi
kinh nghiệm sản xuất xã hội chủ yếu dựa vào sự truyền đạt giữa thầy và trò mà không
cần đến nhà trường.
2.2. Mô hình giáo dục cạnh tranh tương ứng với thời đại công nghiệp hóa.
Tính cách mạng của công nghiệp hiện đại hóa và cạnh tranh gắt gao trên thị
trường đặt ra cho giáo dục phải đào tạo cho xã hội: "lớp người mới" được giáo dục, có
đủ khả năng tham gia vào sản xuất và thương trường. Nội dung học vấn mang tính
thực dụng bao gồm lôgíc học, số học, hình học, vật lý, lý học, thiên văn học, địa chất
học, sinh học, xã hội học, sinh lý học, tâm lí học, nghệ thuật.
- Mô hình giáo dục cạnh tranh phù hợp với yêu cầu của kỹ thuật và thương mại,
người học phải đạt tới "trêu chuẩn hóa", "pháp luật và trật tự", "trung thực với xã hội".
- Mô hình giáo dục này được thiết kế để người nhận giáo dục thích ứng được với
xã hội/.thoa mãn cá nhân được đặt vào hàng thứ yếu. Thi cử đa dạng, trêu chuẩn hóa
dẫn tới sự bùng nổ phường pháp trắc nghiệm tâm lý, học sinh bị rơi vào lưới trêu
chuẩn, giỏi được sử dụng, không giỏi bị đào thải, vì thế trong giáo dục cũng có sự cạnh
tranh)có người thắng và có kẻ bại.
Cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, giáo dục tăng cường rèn luyện nghề nghiệp sau
trung học, nền giáo dục thiếu giá trị nhân văn (coi nhẹ các bộ môn KHXH nhân văn).
2.3. Mô hình giáo dục phục vụ cho thời đại hậu công nghiệp
- Giáo dục có tính đại chúng hóa và hướng tới phổ cập hóa, nghĩa vụ hóa đã làm
cho giáo dục trở thành lĩnh vực phục vụ - vì mọi người. Quan hệ thấy trò từ một chiều
trở thành quan hệ bình đẳng, giá trị đơn nhất trở thành giá trị đa dạng, xã hội hiện đại
bản thân đã không có nhận thức giá trị thống nhất nên nhận thức giá trị của thầy không
thể áp đặt cho học sinh.
(Trong xã hội hiện đại phục vụ là một hiện tương rộng, bởi mỗi người vừa có thể
40
đi phục vụ người khác và cũng là đối tượng phục vụ của người khác). Phục vụ hoàn
toàn là quan hệ công việc, là một quan hệ xã hội phổ biến. Mọi người đều bình đẳng
về nhân cách. Ở thời hiện đại, không thể so sánh được bề rộng và chiều sâu của đời
sống xã hội cũng như tốc độ và nhịp điệu đổi mới tri thức, do đó không có sự vật vĩnh
cửu, bất biến, không có kinh nghiệm trêu chuẩn nào có thể áp dụng cho mọi sự vật).
Mô hình giáo dục phục vụ lấy giáo dục suất đời là sợi dây chính, lấy giáo dục sơ
cấp và trung cấp làm nền tảng cơ sở cho giáo dục suất đời.
+ Nội dung và phương pháp giáo dục suất đời là sợi dây chính, lấy giáo dục sơ
cấp và trung cấp làm nền tảng cơ sở giáo dục suất đời.
+ Nội dung không hạn chế trong nhà trường mà tạo ra sự liên tưởng tới mọi gia
đình (dưới sự trợ giúp của tin học) và theo nguyên tắc "hợp tác", "đối thoại".
Việt Nam đang trong gia đoạn phát triển công nghiệp, giáo dục được xây dựng
theo mô hình có lợi cho việc mở rộng phạm vi được giáo dục, nâng cao chất lượng
giáo dục làm chính. Tuy nhiên ở chừng mực nhất định, ảnh hưởng của xã hội thông
tin, ở một số khu vực cũng sẽ thể hiện tôn chỉ giáo dục suất đời, phát triển theo hướng
xã hội hóa học tập. Chính bởi vậy chúng ta đang đứng trước việc xây dựng một một
hình giáo dục chưa có trong hiện thực phát triển lịch sử vừa mang tính cạnh tranh công
nghiệp hóa, vừa đượm màu sắc của xã hội thông tin, giáo dục phục vụ).
- Căn cứ vào đặc tính phát triển kinh tế trong thế kỷ XX, tương ứng với nó, giáo
dục tồn tại 2 mô hình cơ bản: mô hình kế hoạch hóa và mô hình tự do.
+ Mô hình kế hoạch hóa: Mô hình này được hình thành trong cơ chế phát triển
kinh tế có kế hoạch, sản xuất, lưu thông, phân phối đều căn cứ vào kế hoạch,(kế hoạch
này được huế lập trên cơ sở hiểu biết và dự đoán của một số tổ chức trong cơ quan
Nhà nước, vì thế cũng có thể phù hợp với thực tê và có thể sai lệch. Đây chính là sự
phát triển kinh tế theo chủ nghĩa chủ quan- duy ý chí).
Tương ứng với nền kinh tế kế hoạch hóa, giáo dục cũng phản ánh những tính
chất tương tự: Kế hoạch giáo dục như đầu tư giáo dục, quản lý giáo dục, điều phối
nguồn giáo viên, phân phối chiêu sinh, chế định giáo trình, chuyên ngành đào tạo, ...
đều thực hiện thông qua kế hoạch.
Thứ hai, giáo dục là đơn nhát, theo kế hoạch cứng, tất cả những qui phạm giáo
dục, phát triển giáo dục, thời gian, đối tượng giáo dục, hệ thống giáo dục, chế độ chính
sách giáo dục là không thay đổi, được hạn chế trong phạm trù giáo dục trường học,
thước đo giá trị của giáo dục là học lực, lên lớp, văn bằng theo chuẩn mực qui định của
Nhà ngước.
+ Mô hình tự do: Mô hình này được hình thành dựa trên sự phát triển kinh tế thị
trường, nền kinh tế này không do kế hoạch mà là do thị trường điều trết quá trình sản
xuất lưu thông, phân phối, trêu dùng hàng hóa. Giá trị hàng hóa được thể hiện thông

41
qua tự do cạnh tranh .
Tương ứng với nó, giáo dục tạo nguồn nhân lực cũng trở thành một dạng thị
trường sản xuất hàng hóa đặc biệt - con người, bởi vậy giáo dục đào tạo phải căn cứ
vào nhu cầu thị trường để không ngừng điều tiết (mục trêu đào tạo, cơ cấu, tỷ lệ nguồn
nhân lực cần đào tạo,cơ cấu loại hình trường học, chuyên môn, chương trình ... đều có
kế hoạch động, mềm dẻo. Ở mô hình này nổi lên 2 đặt điểm là:
Thứ nhất là tính tự do: Tính tự do được biểu hiện trong sự linh hoạt của hệ thống,
nội dung chương trình, tuyển sinh, ... tính tự trị và tự chủ của phát triển giáo dục.
Thứ hai là tính đa dạng: Thị trường vốn đa dạng, bởi vậy giáo dục đào tạo phải
tương thích với loại thị trường này (loại hình trường lớp, hình thức đào tạo . )
- Tuy nhiên các mô hình nêu trên không hoàn toàn là tuyệt đối về kế hoạch hay
tự do. Tên gọi của loại kiểu mô hình chỉ hàm ý về nguyên tắc cơ bản, khuynh hướng
chỉ đạo của nó. Mô hình kế hoạch trong mô hình tự do trong phát triển giáo dục luôn
thống nhất với chính trị, kinh tế và văn hóa tương ứng. Mỗi quốc gia là một thể hữu cơ
hoàn chỉnh, giáo dục là bộ phận cấu thành của hệ hữu cơ này, có sự ảnh hưởng qua lại
để điều hòa lẫn nhau. Song, do yêu cầu của sản xúât~hiện đại và sự phát triển
KHKT,do sự tăng cường lẫn nhau giữa các nước, sự khác biệt giữa hai loại mô hình
này càng được thu hẹp (hơn 400 năm trước trong "Tuyên ngôn Đảng cộng sản" Mác
đã chỉ rõ:"Tình trạng bế quan tỏa cảng, tự cung tự cấp của địa phương, của dân tộc
trước kia đã mất đi, bây giờ đã được thay thế bởi sự qua lại lần nhau, dựa vào nhau
trên các phương diện của các danh tộc. Sản xuất vật chất như vậy, sản xuất của tinh
thần cũng như vậy, thành quả của hoạt động tinh thần của các dân tộc đã trở thành thứ
mà mọi người cùng hưởng thụ").
Trên thực tế, hiện nay các nước đều đang kéo dài niên hạn giáo dục bắt buộc, phổ
cập trung học, mở rộng và phát triển giáo dục cao đẳng, đại học, phát triển mạnh giáo
dục nghề nghiệp. Về quản lý, nước tập quyền giáo dục như Liên Xô Pháp đã lần lượt
giảm bớt quyền lực tập trung, giảm bớt kế hoạch, tăng cường tính linh hoạt. Ngược lại,
các nước có sự phân quyền giao dục như Mỹ đã nhấn mạnh tới vai trò của tập trung
thông qua việc đầu tư ngân sách trong việc cơ cấu nhà trường, phát triển mạng lưới, ...
Trong chương trình học, các nước đều chuyển theo xu hướng tăng cường kiến thức cơ
sở chuyên ngành, một mặt ở cấp độ cao thì phân hóa chuyên biệt để đào tạo nhân tài.
- Giáo dục Việt Nam hiện náy chủ yếu thuộc mô hình kế hoạch hóa, song đã dần
có tính thích ứng và linh hoạt, trếp thu một số yếu tố của mô hình tự do để phát triển
giáo dục.
- Cần hiểu răng sự khác biệt giữa mô hình kế hoạch và mô hình tự do không chỉ
là sự khác biệt của chế độ giáo dục (bao gồm chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ chi
ngân sách, phân phối, chiêu sinh, chế độ dạy học ... ) mà còn là sự khác biệt của hình
thái ý thức. Không nên nhấn mạnh tính chung (sự tự do trong phát triển) mà coi nhẹ ý

42
thức hệ do ĐCS VN lãnh đạo.
3. Thuyết dao động chu kỳ "đồng hồ quả lắc" và mô hình giáo dục
Sự phát triển giáo dục của mỗi quốc gia có thể dựa trên những quan điểm khác
nhau: đa dạng hóa, xã hội hóa giáo dục,nhà nước,thống nhất quản lý giáo dục.
Nhấn mạnh kiến thức lý luận (học thuật), lấy trường học làm trung tâm và nhấn
mạnh kiến thúc thực tiễn, lấy xã hội làm trường học.
Trên thế giới, phát triển giáo dục luôn tồn tại 2 cực: chủ trương giáo dục chính
qui,coi trọng học thuật và chủ trương giáo dục phi chính qui, coi nhẹ học thuật, coi
trọng thực tiễn.
2.1. Mục đích trung tâm của mô thức học thuật của giáo dục là coi trọng học
thuật, việc học tập được thực hiện ở nhà trường, tất cả hoạt động giáo dục đều có liên
hệ với nhà trường, trếp nhận giáo dục đồng nghĩa với đi học, hạt nhân của trường học,
đọc sách, tự nghiên cứu. Trình độ nhận thức được phân cấp thành cấp học, sự chuyển
đổi cấp học được thực hiện qua thi cử, đánh giá và qua đó chọn lọc để đảm bảo chất
lượng. Trình độ giáo dục càng cao, chọn lọc càng kỹ lưỡng, cạnh tranh càng gay gắt
* Mô hình học thuật bị phê phán về đặc điểm yếu nhất của nó là chế độ thủ cựu
cứng nhắc và thoát ly cuộc sống. Nó hạn chế phạm vi của chương trình học, hạn chế
việc phát triển kinh nghiệm sống của học sinh
2.2. Mô hình thực tiễn (cách mạng) cắt giảm vị trí trung tâm trường học, coi
trường học chỉ là một trong nhiều cơ cấu giáo dục, xã hội có tác dụng tích cực
trong giáo dục, coi xã hội tà giáo viên
Mô hình thực tiễn lấy xã hội làm trung tâm, nếu như mô hình học thuật có định
hướng tới việc chiếm lĩnh kiến thức, còn mô hình thực tiễn lấy định hướng là hành
động. Chương trình nội dung trong mô hình học thuật được xây dựng bởi các chuyên
gia, học giả, còn trong mô hình thực tiễn nó được xây dựng bởi nhà chính trị hoặc
quần chúng có kinh nghiệm.
2.3. Sự chao đảo, thay thế lẫn nhau giữa 2 mô hình giáo dục là hiện tượng
phổ biên trong phát triển giáo dục của nhiều nước trên thế giới.
* Ở Mỹ vào những năm 20 giáo dục phản đối lấy trường học làm trung tâm, lấy
giáo viên làm trung tâm mà lấy học sinh làm trung tâm, chủ trương lấy xã hội làm
giảng đường.
* Sau chiến tranh thế giới thứ 2 đã ban hành "Luật giáo dục quốc phòng "lấy việc
bồi dưỡng nhân tài có khoa học kỹ thuật cao làm mục trêu, tăng cường chương trình
học về toán, khoa học tự nhiên, ngoại ngữ, tăng cường hệ thống tri thức khoa trong
giảng dạy ở trường học .
* Sau những năm 60, xã hội Mỹ có nhiều vấn đề (mâu thuẫn chủng tộc, phong

43
trào phản chiếu , phong trào thanh niên , phụ nữ ... ) .Họ phê phán trường học, cho
rằng nhà trường thiếu gánh vác trách nhiệm xã hội. Giáo dục Mỹ lại chuyển sang mô
hình thực tiễn nhằm nâng cao quyền chủ động, tự giác của học sinh cải cách kết cấu
chương trình, giới hạn niên cấp bị cắt bỏ, chương trình học truyền thống được thăng
bằng chương trình "học tập độc lập", "chương trình học xây dựng học sinh".
* Sau thập niên 80, chất lượng giáo dục nhà trường Mỹ xuống cấp, nhiều chương
trình học thật nông cạn, trêu chuẩn học thuật bị hạ thấp, quản lý giáo dục bị buông
lỏng, kỷ luật nhà trường bị xáo trộn, ... Nước Mỹ lại khôi phục nền giáo dục học thuật
phục vụ cho sự phát triển các khoa học đi đầu như hàng không, sinh vật, hải dương
học, năng lượng , vi tính . Giáo dục được phát triển nghiêng về các mô hình học thuật.
Có thể nói, nước Mỹ đã trải qua 4 lần dao động theo chu kỳ, mỗi khi mâu thuẫn
xã hội trở nên gay gắt, chính trị, kinh tế xuất hiện nguy cơ, khi đó họ phai dựa vào giáo
dục để trung hòa mâu thuẫn - Giáo dục Việt Nam theo mô hình thực tiễn. Còn khi gặp
phải sự tụt hậu về khoa học, kỹ thuật, đào tạo nhân tài, phát triển khoa học mũi nhọn,
giáo dục lại được phát triển theo mô hình học thuật. Lịch sử giáo dục Mỹ cũng cho
thấy, độ dao động của đồng hồ quả lắc giữa 2 cực ngày càng nhỏ, các mô hình ngày
càng trếp thu ưu điểm của nhau và có xu thế dung hòa, pha trộn.
* Ở Liên Xô (cũ) nên giáo dục cũng trải qua 4 lần dao động lớn: - Trước năm 20,
cuộc cải cách phá bỏ nền giáo dục xa hoàng, nền giáo dục phát triển theo mô hình thực
tiễn (cách mạng), nhấn mạnh vai trò hoạt động của người học , xã hội hóa quá trình
dạy học ...
- Sau những năm 30, do nhà trường chưa duy trì được chất lượng dạy học, không
thích ứng được sự phát triển kinh tế, nền giáo dục được chuyển sang mô hình học thuật
với việc nâng cao chất lượng dạy học, khôi phục chế độ phương pháp giáo dục truyền
thống, nhiệm vụ chính của nhà trường là truyền thụ tri thức khoa học.
- Sau năm 1958 giáo dục Liên Xô được cải cách toàn diện, nhấn mạnh giáo dục
kết hợp với lao động sản xuất, với đời sống xã hội, xóa bỏ qui phạm giáo dục truyền
thống, chuyển giáo dục sang mô hình thực tiễn (cách mạng).
- Sau năm 1984, Liên Xô trếp tục triển khai cải cách giáo dục với sự dung hòa
giữa 2 loại mô hình giáo dục.
2.4. Ở Việt Nam, mô hình giáo dục được xây dựng và chuyển đổi dựa trên sự
phát triển khách quan và sự khác nhau của đời sống xã hội
- Việt Nam là một quốc gia coi trọng luân lý truyền thống, nội dung giáo dục
trong xã hội cũ chủ yếu là "tứ thư", "ngũ kinh'!, theo đuổi "hiểu biết mọi vật, chính
tâm, thành ý" để tu dưỡng bản thân. Kẻ đi học chủ yếu là tầm chương, trích cú hiểu
biết về luân thường đạo lý để ứng xử chứ không phải trếp thu tri thức hệ thống tri thức
khoa học chủ yếu bởi sự hiếu kỳ - e dè - đành phải chấp nhận.

44
- Sau cách mạng tháng 8/1945 cho tới cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2(1956)
trong việc xây dựng một nền giáo dục mới, chúng ta đã chú trọng cả mặt tăng cường
học thuật và tính thực tiễn trong tổ chức các hoạt động giáo dục, đặc biệt là sau hòa
bình lập lại(1954) ở miền Bắc cùng với cải cách ruộng đất, đánh đôi giai cấp tư sản
mại bản, xóa bỏ công thương nghiệp tư bản tư doanh, đấu tranh chống tư tưởng nhân
văn trong giới văn học nghệ thuật và giáo dục là luồn) sinh khí mới về tính thực tiễn
trong giáo dục. Các hình thức lao động sản xuất được đưa vào nhà trường, các điển
hình như lá cờ đầu Bắc Lý, trường thanh niên lao động XHCN Hòa Bình ... đều là
những tấm gương về gắn giáo dục với việc đào ra lớp người lao động có năng lực
hành động để phục vụ quê hương. Mô hình giáo dục nghiêng về mô hình thực tiễn hơn
là học thuật. Thời gian thực hiện mô hình này kéo dài cho tới thời kỳ đổi mới của đất
nước 1991 với quan điểm chiến lược : Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài . Từ đó cho tới nay, vấn đề học thuật trong giáo dục được đề cao, cải cách
giáo dục đề cập tới vấn đề nâng cao chất lượng của nội dung chương trình, hệ thống
giáo dục mở rộng việc đào tạo đại học sau đại học, xã hội có xu hướng trọng người có
bằng cấp thi cử là cửa ải đầy gian nan cho lớp trẻ, cũng từ đó, những tiêu cực trong xã
hội cũng gia tăng. Những năm cuối cùng của thế kỷ 20, giáo dục gắn liền với nhà
trường nhiệm vụ chính của học sinh là học tập, cùng với sự xâm nhập của cơ chế thị
trường, lao động của học sinh được thay thế bằng đồng tiền đóng góp cho cơ sở đào
tạo...chính điều này tạo nên nguồn lực ngăn cách ở mức độ khác nhau giữa học sinh
và đời sống xã hội. Cơ cấu đào tạo, nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội đi
theo mô hình học thuật cũng tạo ra sự mất cân đối: chú trọng đào tạo đại học là coi nhẹ
đào tạo công nhân - "lắm thầy nhiều thợ", chương trình đào tạo, NCKH nặng tính hàn
lâm nên hiệu quả thực tiễn không cao, nguồn ngân sách chi cho đào tạo không nhỏ
nhưng sau khi ra trường nhiều người không có việc làm, gây ra tình trạng lãng phí
mang tính xã hội.
- Từ sau Đại hội Đảng X, giáo dục Việt Nam đang có xu thế chuyển sang mô
hình thực tiễn, chú trọng tới tính hữu dụng của nội dung chương trình, đào tạo ngành
nghề được chú trọng, thu hút các lực lượng xã hội tham gia đào tạo để đáp ứng nhu
cầu của chính họ...Sự "chuyển cực " này trong sự phát triển giáo dục Việt Nam là tín
hiệu đáng mừng trong giai đoạn CNH - HĐH đất nước khi mà nhu cầu nguồn nhân lực
có trình độ khoa học và đặc biệt là tay nghề được đặt lên như một trêu chuẩn cất lõi để
đáp ứng đòi hỏi của phát triển sản xuất. Tuy nhiên, nếu phát triển thái quá phần thực
tiễn mà sao nhãng phần học thuật sẽ là một sai lầm mà việc sửa chữa nó sẽ rất nan giải
? Để dung hòa giữa 2 mô hình này, một mặt chúng ta mở rộng mạng lưới ở trường cao
đẳng và THCN, tăng qui mô và số lượng, mặt khác tạo ra hệ thống các trường đại học
có chất lượng - trường trọng điểm, mở rộng xã hội hóa giáo dục, quyền tự chủ của cơ
sở đào tạo nhưng có sự tự kiểm định, đánh giá chất lượng nghiêm ngặt, thay đổi hình
thực thi tuyển, tăng cường quản lý theo luật .... cùng với sự thay đổi cơ chế quản lý
Nhà nước về giáo dục sẽ làm giảm bớt khoảng cách giữa hai mô hình phát triển giáo

45
dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Phân tích sự chuyển đổi mô hình giáo dục giúp chúng ta có được cách nhìn và
cách làm hợp lý và hiệu quả đối với giáo dục trọng những điều kiện của sự phát triển
kinh tế - xã hội, đó là:
- Phải có sự phân tích kỹ lưỡng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong nước,
khu vực và thế giới, không chạy theo phong trào quần chúng, đôi khi cả dư luân xã
hội.
- Không ham lợi trước mắt dễ dẫn tới vội vàng, phải từng bước, thận trọng thực
hiện nhằm đạt tới kết quả bền vững.
- Giáo dục phải dựa vào sức mạnh xã hội, dựa vào thầy giáo, vào lực lượng cán
bộ khoa học có trình độ.
- Cần thường xuyên xem xét các mô hình giáo dục trong nước và nước ngoài,
trước đây để làm ra, từ đó những ưu điểm vận dụng vào hiện tại để phát triển giáo dục.
- Cần thống nhất giữa đào tạo thực dụng và học thuật, giữa thông và chuyên,
không nên tư duy theo kiểu tách biệt và đối lập giữa lập.
3. Thuyết tương phản trong phát triển mô hình giáo dục
- Khoa học xã hội đưa ra khái niệm tương phải để chỉ một hiện tượng hay một
vấn đề lý luận khi được nhìn ở những góc độ khác nhau, thì có thể rút ra được nhuận
kết luận khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau.
- Từ góc độ triết học, Kante đã bàn về mâu thuẫn giữa 2 luận đề cùng tồn tại và
bài trừ lẫn nhau và ông gọi hiện tượng này là thai qui luật tương phản", ông đã đưa ra
4 nhóm hai qui luật tương phản làm ví dụ:
+ Thời gian và không gian có hạn, thời gian và không gian là vô hạn.
+ Trên thế giới tất cả là đơn nhất, không thể phân chia, trên thế giới tất cả là
phức hợp có thể phân chia.
+ Trên thế giới có sự tồn tại của tự do, trên thế giới không tồn tại tự do.
+ Thế giới có nguồn gốc, thế giới không có nguồn gốc.
Trong giáo dục ta có thể nêu ra một sôi hiện tượng tương phản sau:
* Về bản chất giáo dục và mục đích giáo dục:
+ Giáo dục tái hiện cuộc sống - Giáo dục chuẩn bị cho cuộc sống.
+ Giáo dục hướng đạo - giáo dục phục vụ.
+ Giáo dục nhằm tới phát triển cá nhân - giáo dục nhằm phục vụ xã hội.
+ Bình đẳng trong giáo dục - bất bình đẳng trong giáo dục.
+ Giáo dục nhằm phát triển toàn diện - giáo dục phiến diện.
46
+ Giáo dục có mục đích - giáo dục phi mục đích.
* Về chế độ giáo dục:
+ Chế độ giáo dục tập quyền - chế đô phân quyền.
+ Thống nhất, tập trung giáo dục - đa dạng hóa giáo dục.
+ Đơn phương hóa giáo dục - xã hội hóa giáo dục.
* Về tổ chức nhà trường:
+ Giáo dục trường học - giáo dục phi trường học.
+ Trường học khép kín - trường học mở cửa.
+ Trường học chính qui - trường học phi chính qui.
* Về nội dung chương trình giáo dục:
+ Trọng tâm là các khoa học tự nhiên - trọng tâm là các khoa học xã hội.
+ Lấy khoa học làm cất lõi - lấy thực hành làm cất lõi.
+ Chú trọng kiến thức phổ thông - chú trọng kiến thức hướng nghiệp.
+ Chú trọng kinh nghiệm gián trếp (phòng thí nghiệm) - chú trọng kinh nghiệm
trực trếp (tham gia vào thực tiễn).
+Chú trọng khoa học cơ bản - chú trọng khoa học chuyên ngành.
* Về mặt phương pháp giáo dục :
- Học qua sách vở - học bằng kinh nghiệm cuộc sống.
-Thầy giáo là trung tâm của quá trình giáo dục - học sinh là trung tâm của
QTGD.
- Thụ động trếp nhân kiến thức - chủ động phát hiện kiến thức.
- Lý trí là điểm tựa cho phát triển - cảm xúc là điểm tựa cho phát triển (nỗ lực -
hứng thú).
- Lớp học là môi trường giáo dục - phân nhóm theo năng lực.
- Nguyên tắc tập thể trong giáo dục - cá biệt hóa trong giáo dục.
- Giáo dục kỷ luật - chủ nghĩa tự do.
- Hợp tác - cạnh tranh.
Dựa trên thuyết tương phản, chúng ta sẽ xem xét một số vấn đề cụ thể trong
giáo dục.
* Xã hội bản vị và cá nhân bản vị :
Quan điểm xã hội bản vị và cá nhân bản vi được hiểu là việc giáo dục con người
hoặc là lấy xã hội làm xuất phát điểm, nhấn mạnh lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, hoặc
47
là lấy cá nhân làm xuất phát điểm, nhấn mạnh lợi ích cá nhân khi lý giải và xử lý mối
quan hệ giữa cá nhân với xã hội, cá nhân với tập thể.
- Ở Việt Nam trước đây, việc giáo dục (tự giác hay tự phát) đều lấy xã hội làm
gốc, lợi ích quốc gia là "thiên đạo" cá nhân phải phụ tùng xã hội. Khi vô điều kiện (cơ
chế của sự nhượng bộ lợi ích này được thực hiện theo đẳng cấp tông pháp "quân, thần,
phụ, tử").
- Ở Trung Quốc, tư tưởng giáo dục của Không Tử, Mạnh Tử, Đổ Trọng thư đều
theo quan điểm lấy xã hội bản vị làm gốc trong đạo làm người.
- Ở Phương Tây, từ Beclatu đến Heghen cũng chủ trương đặt lợi ích quốc gia lên
trên hết, song nhìn chung, triết học phương Tây, nhấn mạnh lợi ích, quyền lợi, hưng
thú cá nhân lấy sự vận động của cá nhân làm xuất phát điểm, xã hội chỉ được coi như
yếu tố cố vấn. Cũng theo đó, người ta coi lợi ích vật chất là xuất phát điểm, lấy việc cá
nhân thu được lợi ích nào không trong hành động làm trêu chí cơ bản để phân biệt hiệu
quả hoạt động, nó không thừa nhận lợi ích trừu tượng nào ngoài lợi ích cá nhân.
Hậu quả của quan điểm này làm cho chủ nghĩa cá nhân cực đoan có đất để mở
rộng: Sự bùng nổ của hàm muốn cá nhân dẫn tới việc xâm phạm lợi ích tập thể lợi ích
xã hội, hình thành một loại trói buộc xã hội: Mọi người đều có quyền tự do phát triển,
có nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi của người khác. Các thành viên trong xã hội đều có
nguyện vọng được tự chủ, mong muốn thu được lợi ích cao nhất phản đối sự can thiệp
của người khác, bảo vệ quyền lợi và tự do của mình, hy vọng trong công tác xã hội sẽ
thực hiện được mong muốn của mình. Để hạn định mưu cầu cũng có lợi. Nếu trong
khuôn khổ của sự hợp tác này, nếu ai chỉ chăm lo đến lợi ích của riêng mình, không
tôn trọng người khác thì sẽ bị trừng phạt thông qua pháp luật (chứ không phải do
người này áp đặt cho người kia).
Sự phát triển của xã hội đến một lúc nào đó sẽ hình thành ý thức về việc bảo vệ
quyền lợi cá nhân không còn là việc riêng ai đó mà trở thành vấn đề chung của toàn xã
hội. Sự ra đời của pháp luật nảy sinh từ ý thức này, trong đó có tính đến quyền lợi, lợi
ích cá nhân, lợi ích cộng đồng để cố định những gì cá nhân có thể thực hiện và những
gì cá nhân phải tuân thủ. Pháp luật đại diện cho xã hội, thay mặt xã hội bảo vệ quyền
lợi cá nhân và trừng phạt những hành vi xâm phạm đến lợi ích cá nhân và cộng đồng
(ở Việt Nam trước đây, để diết trết mối quan hệ giữa người với người, con người với
xã hội, người ta lấy luân lý đạo đức làm phương trện. Còn ở phương tây lại thông qua
pháp luật để điều trết mối quan hệ này. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng trong xã hội có
giai cấp, có kẻ thống trị là người bị trị, pháp luật nằm trong một số người tàn có và bảo
vệ của quyền lợi của họ).
- Trong xã hội lấy cá nhân làm gốc, vấn đề cần giải quyết là làm thế nào để giúp
cho mọi người quan tâm đến xã hội, đến tập thể, khi cần thể sẵn sàng từ bỏ lợi ích cá
nhân đế mang lại lợi ích cho tập thể.

48
- Trong xã hội lấy xã hội làm gốc, vấn đề cần quyết là làm thế nào để đảm bảo
cho những nhu cầu, lợi ích ham muốn chính đáng của con người được thực hiện, bảo
đảm được sự phát triển tự do của cá nhân.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, sự phát triển của con người không tách rời
với sự phát triển lịch sử, tư duy của con nói là sản phẩm của lịch sử, rằng sự phát triển
của con người chính là một trong những trêu chí đánh giá sự phát triển của xã hội, sự
phát triển của cá nhân là trền đề cho sự phát triển tập thể, sự phát triển của tập thể luôn
bắt đầu bởi sự phát triển cá thể của mối cá nhân. Trong cùng một thời đại lịch sử, sự
phát triển của con người là có sự khác biệt. Điều này được tạo nên bởi nhân tố tự nhiên
và nhân tố xã hội - trong đó có giáo dục. Mác cũng cho rằng coi nhẹ mục trêu xã hội
hay coi nhẹ mục trêu cá cá nhân đều là sai lầm, phiến diện. Không thể bàn về sự phát
triển cá nhân đơn thuần về mặt tâm lý (nhu cầu, hứng thú, sở thích ...) thoát ly khỏi
trình độ phát triển xã hội, và cũng không thể cho rằng chú trọng sự phát triển cá nhân
sẽ ngăn cản sự phát triển của xã hội.
* Giáo dục nhân tài và giáo dục đại chúng.
Giáo dục là nhu cầu của cá nhân và của xã hội, bởi vậy trong mọi giai đoạn lịch
sử, phát triển giáo dục là trách nhiệm của mỗi gia.
-Trong xã hội phong kiến, giáo dục là một đặc quyền, là một giá trị tượng
trưng về phân biệt đẳng cấp. Nhà nước có trách nhiệm giáo dục cho thiểu sổ tầng lớp
đặc quyền, tách rời lao động sản xuất chứ không có trách nhiệm giáo dục cho quảng
đại quần chúng lao động. Với cách làm đó, giáo dục nhân tài đồng nghĩa với trách
nhiệm giáo dục của Nhà nước.
- Sau cách mạng tư sản, cùng với việc xây dựng pháp luật bảo vệ quyền bình
đẳng của mọi người, về phương diện lý luận, là sự bình đẳng về giáo dục cho mỗi cá
nhân. Mặt khác, sự phát triển của sản xuất hiện đại đặt ra nhu cầu giáo dục đến với
mọi người, để tất cả cần có trình độ văn hóa nhất định đáp ứng nhu cầu sản xuất.
- Tuy nhiên, trong tình trạng kinh phí, đầu tư có hạn cho giáo dục, giáo dục muốn
thích ứng được với nền sản xuất đại hiện, cần thiết phải lựa chọn một bộ phận người,
đề đào tạo, giúp cho có thể đảm nhận được những ví trí trọng yếu trong nên sản xuất
xã hội. Đây chính là là sự hy sinh lợi ích trước mắt của một bộ phận người, thậm chí
của nhiều người để đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất cho một số người, giúp cho họ
có sự cống hiến nhiều hơn cho xã hội.
(Braxin là một ví dụ: Sau những năm 70, hơn một nửa kinh phí giáo dục được
đấu tư cho giáo dục cao cấp: Trong vòng 5 năm (70 - 75) số lượng sinh viên tăng gấp 3
lần, gấp hơn 5 lần tốc độ phát triển của giáo dục sơ cấp: năm 1960 kinh phí cho giáo
dục mầm non và trểu học là 3 3 ,5 % tổng kinh phí giáo dục, nhưng đến năm 1976 chỉ
còn 15,1%, gần 114 số trẻ em ở độ tuổi đi học không có trường học ).
(Việc đào tạo nhân tài không chỉ tính đến trước mắt mà phải bồi dưỡng lớp nhân
49
tài cho tương lại, thêm nữa phát triển giáo dại phải đảm bảo yêu cầu về gia trị nhân
văn trong giáo dục về dân chủ, bình đẳng xã hội, quyền lợi của cá nhân. Đây là điều
mà Braxin, đất nước có nền kinh tế xếp thứ 8 trên thế giới đx mắc sai lầm trong phát
triển giáo dục).
- Để dung hòa giữa quan điểm giáo dục nhân tài và giáo dục đại chúng, xu thế
phịu triển giáo dục của thế giới hiện nay là coi trọng giáo dục đại chúng ở giai đoạn
đầu (giáo dục bắt buộc), mở rộng các hình thức đào tạo ở giai đoạn sau (phi Chinh
phủ), đồng thời coi trọng giáo dục đại học, sau đại học, thiết lập các trường trọng điểm
từ phổ thông tới đại học, mở ra cơ chế về luật pháp tạo điều kiện cho các thành phần
kinh tế tham gia vào giáo dục tạo thêm sức mạnh trềm năng đủ đảm bảo cho việc đào
đạo nhân tài đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện hội nhập của
thế giới.
* Coi trọng (tri thức) lý luận và coi trọng (năng lực) thực tiễn.
- Một số như sư phạm cho rằng đích cuối cùng của dạy học là hình thành tri thức
(khái niệm) - để học lý thuyết cần có sự liên hệ với thực tế một cách thích hợp (có sự
lựa chọn). Kết quả là nắm được tri thức lý luận nhưng thoát ly thực tế. Một số khác lại
xuất phát từ thực tế, từ vấn đề, đích cuối cùng là giải quyết vấn đề thực tế - ở đây việc
lý thuyết được trến hành hành thông qua thực tế đời sống và quá trình giải quyết
những vấn đề của thực tiễn - kết quả là nắm bắt được thực tế cuộc sống, có thể phát
triển được tính chủ động, tích cực cho người những bắt lợi trong việc hình thành tri
thức lý luận một cách có hệ thống.
- Quan điểm hiện đại cho rằng kết hợp với thực tế là nhu cầu cần thiết của lý luận
không gắn với thực tế thì không thể hiểu và nắm vững đúng đắn lý luận. Muốn cho lý
luận trở thành tri thức của bản thân thì phải thông qua quá trình thao tác thực tế tương
ứng - Điều đó có nghĩa rằng lý thuyết gắn liền với thực tế phải trến hành dựa trên yêu
cầu của học tập lý thuyết, nó được coi như một phương pháp, phương thức học tập chứ
phải là mục đích được sắp trước.
BÀI 4: HIỆN ĐẠI HÓA GIÁO DỤC
1. Khái niệm về hiện đại hóa.
* Năm 1960 tại hội thảo quốc tế về "Hiện đại hóa Nhật Bản", người ta đưa ra 8
trêu chuẩn của hiện đại hóa: Nhân khẩu tập trung cao độ ở thành thị, xu thế đô thị hóa,
công nghiệp hóa, lưu thông hàng hóa, tăng cường dịch vụ, dân chủ hóa, xã hội hóa, tin
học hóa.
* Hiện nay có 2 hình thức nghiên cứu hàm nghĩa hiện đại hóa, một loại nghiên
cứu đặc trưng cửa hiện đại hóa, và thứ hai là nghiên cứu trật tự - kết cấu của hiện đại
hóa.

50
2.1. Về đặc trưng của hiện đại hóa:
+ Công nghiệp hóa: Là nội dung cơ bản của hiện đại hóa, là động lực gốc của
HĐH, làm thay đổi nhanh chóng phương thức sản xuất , đời sống xã hội và mối quan
hệ giữa người với người.
+ Công nghiệp hóa là nghĩa hẹp là hiện đại hóa (hiện đại hóa kinh tê), nó liên
quan tới sự chuyển biến của 4 phương diện sau đây: phương diện công phổ (chuyển từ
công nghệ thủ công sang nền công nghệ lấy tri thức khoa học làm nền tảng) ; phương
diện nông nghiệp (chuyển từ nền kinh tế nông tự cấp, tự túc sang nền kinh tế nông
nghiệp hàng hóa) phương diện công nghiệp (chuyển hóa lao động chân tay sang thao
tác máy móc) ; phương diện đời sống xã hội (chuyển từ đời sống nông thôn phân tán
sang trung tâm đô thị).
+ Khoa học hóa: Bao gồm tri thức khoa học, thái độ khoa học và phương pháp
khoa học. Tri thức khoa học là cơ sở lý luận của hiện đại hóa công nghiệp, kỹ thuật
hiện đại, thái độ khoa học là sự tôn trọng hiện thực, tôn trọng qui luật - phương pháp
khoa học là động lực gốc của trến bộ khoa học - phương pháp tư duy khoa học.
+ Chế độ hóa:Hoạt động của mọi cấp, mọi ngành đấu được qui định bởi văn bản
pháp qui, trêu chuẩn nhất định.Các hoạt động được trến hành theo một trình độ xác
định.Vì thế việc xây dựng hệ thống pháp chế công bằng, khách quan, hợp lý một trong
các điều kiện thực hiện hiện đại hóa.
2.2. Phân biệt từ góc độ kết câu xã hội trên trình hiện đại hóa được phân
thành 3 tầng bậc: vật chất, chê độ, quan niệm, hành vi.
+ Tầng vật chất của hiện đại hóa là biểu tầng bao gồm các thành quả về kỹ thuật
công nghệ, dịch vụ, ... Đây là hiện đại hóa diện mạo (bề mặt).
+ Tầng chế độ: Bao gồm tổ chức hành chính, quản lý xí nghiệp, phát luật, cơ cấu
tài chính , chế tạo độ giáo dục ... . (các nước công nghiệp hóa đều sớm thấy rằng, nếu
không có sự đảm bảo của chế độ hiện đại mà chỉ đơn thuần hiện đại và vật chất thì
không bao giờ thành công trong hiện đại hóa đất nước).
+ Tầng quan niệm hành vi: Là tầng sâu của hiện đại hóa. Đây là biểu hiện về sự
cần thiết của việc thiết lập mô hình tư tưởng.
+ Quan niệm hành vi hiện đại (nếu không thực hiện chuyển biến con người
truyền thống sang con người hiện đại từ trong tâm lý, tư tưởng, phương pháp hành vi,
thực sự có thể thích ứng và thúc đẩy chế độ kinh tế, chính trị thì hiện đại hóa chất là
hữu danh vô thực. Hiện đại hóa con người được thực hiện theo 2 con đường chính:
thamg ra vào hoạt động thực tiễn của sự nghiệp HĐH và giáo dục).
Một số nhà xã hội học khái quát những phẩm chất cần có có của con người trong
thời hiện đại, đó là: Mưu cầu biến đổi, trọng tri thức, tự tin, cởi mở.
(Sức sản xuất là nhân tố không ngừng biến đổi, hiện đại hóa sản xuất phải lấy tri
51
thức khoa học hiện đại làm nền tầng và chính nhờ có hiện đại sản xuất của phẩm chất
con người hiện đại được bồi dưỡng. Song, nếu chỉ dựa vào bản thân sự phát triển sản
xuất hiện đại để hiện đại hóa con người thì rất chậm, vì thế xã hội đặt ra yêu cầu phải
đào tạo nhanh chóng, nhiều và trước thời đại lớp người hiện đại đây chính là ý nghĩa
của giáo dục).
Giáo dục đóng góp trực trếp đối với việc bồi dưỡng tính hiện đại cho con người
là do các mối quan hệ trong nội dung, hình thức của quá trình giáo dục chi phối. Hoạt
động giáo dục là một quá trình vận động từ thấp đến cao một cách liên tục về tri thức
về các muối quan hệ, điều này đồi hỏi học sinh phát triển về tu tưởng, quan niệm và
phương thức hành vi mới - Chính sự biến đối bản thân kinhg nhiệm cuộc sống đã rèn
luyện nền tảng tố chất tâm lý thích ứng với sự thay đổi.
Nội dung phong phú của giáo dục đề cập tới sự vận động đa dạng của tự nhiên,
xã hội và con người, điều đó là cho nhận thức của người học được mở rộng, thông
thoáng, không chỉ hiểu biết cho hiện tại của cả tương lai. Tri thức mà mỗi người trếp
nhận trở thành thủ thuật quan trọng nhất để giành được thành quả cá nhân và thành quả
xã hội.
Kế hoạch là đặc trưng của con người hiện đại, nó liên quan mật thiết đến thời
gian và hiệu quả. Chính đời sống học tập với đầy ắp sự đan xen các kế hoạch trước
mắt và lâu dài (từ mục trêu tới nội dung , sắp xếp trình tự môn học ... đã đào tạo cho
con người khả năng kế hoạch hóa hoạt động).
Người được giáo dục sẽ có được thái độ chủ động trước trách nhiệm được giao,
điều đó tạo cơ sở cho việc hình thành quan hệ đúng đắn giữa cá nhân và tập thể.
Trình độ giáo dục nâng cao, tay nghề thành thục là cơ sở để có sự hưởng thụ cao,
sự bình đẳng được con người hiện đại hiểu như là sự phân phối phù hợp với mức đọ
vốn có của trí lực và tay nghề. Điều này tạo ra sự khác biệt giữa người này với người
khác bằng chính sự nỗ lực và năng lực của bản thân (sự bất bình đẳng lớn nhất trong
xã hội là sự cào bằng năng lực và sự cố hiến của mỗi người cho xã hội).
Một đặc trung của xã hội hữu đại là lưu động xã hội gia tăng và trình độ chuyên
môn hóa nâng cao, ngành nghề học tôn trọng, giá trị của nghề được hiểu theo nghĩa
của tính hữu dụng cho cuộc sống bản thân và xã hội.
Quan hệ giữa thầy và trò trong nhà trường hiện đại là quan hệ không có sự khác
biệt về đẳng cấp. Điều này rất có lợi cho việc hình thành lòng tôn trọng và tính tự tôn
của con người.
Nói tóm lại, giáo dục có tác dụng không thể thay thế trong việc bồi dưỡng tính
hiện đại cho con người, nhưng không thể nói “được giáo dục thì nhất định trở thành
con người hiện đại”. Giáo dục có thể giúp chuyển hóa con người truyền thống thành
con người hiện đại, nhưng cũng có thể khiến cho con người truyền thông thêm cố
chấp. Nhà trường có thể trở thành thiên đường của trẻ nhưng cũng có thể trở thành địa
52
ngục của trẻ.
2.4. Lý tính hóa: Việc xử lý công việc theo pháp luật (theo lý trí), tránh coi trọng
rung động tỉnh cảm cá nhân.
+ Dân chủ hóa: Sự tham gia của nhân dân vào những lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Mọi người được tự do biểu đạt tư tưởng, khi cơ quan thực thi quyền lực
nên lấy trêu chuẩn cao nhất là ý chí của người dân (dân bàn).
+ Chuyên môn hóa: Trong phân công lao động, phân định chức năng của các đơn
vị
+ Hiện quả hóa: Là sự thống nhất giữa cách thức thực hiện và mục đích làm cho
việc đầu tư ít nhất mà kết quả thu được là nhiều nhất. Hiệu quả được được xét cả về
kết quả vật chất và tinh thần.
+ Lưu động hóa xã hội (có hai hình thức lưu động xã hội: Lưu động hỗ trợ - theo
kiểu con ông cháu cha và lưu động cạnh tranh - mọi người dựa vào năng lực bản thân,
nắm bắt cơ hội để thăng trến theo nguyện vọng. Trong xã hội hiện đại, lưu động hóa
dựa trên quan hệ cởi mở, tự do, không dựa trên đẳng cấp xã hội - thế tục hóa: Đời sống
xã hội, đời sống tinh thần của nhân dân không bị các quan niệm tôn giáo, thần thánh
chi phối. Hưởng thụ cá nhân, giá trị cá nhân được coi là hợp lý, trọng tri thức, trong lý
tính nhưng phản đối giáo viên và chủ nghĩa hình thức ) .
3. Hiện đại hóa của bản thân giáo dục.
3.1. Phổ cập hóa giáo dục
Tiếp nhận giáo dục hiện đại là cơ sở cho việc hình thành quan niệm và phương
thức hành vi hiện đại. Phổ cập giáo dục là một chỉ trêu hiện đại hóa, đồng thời cũng là
động lực thúc đẩy hiện đại hóa (nhìn chung các nước có trình độ công nghiệp hóa,
cách mạng công nghiệp diễn ra sớm cũng là những nước phổ cập giáo dục bắt đấu sớm
- Mỹ: 1952 ; Anh: 1970 ; Đức: 1872 ; Pháp: 1882; Nhật: 1886).
3.2. Khoa học hóa giáo dục:
Khoa học kỹ thuật hiện nay là động lực hữu hiệu nhất thúc đẩy trến bộ xã hội tri
thúc khoa học trở thành nội dung chính của giáo dục và theo đó hoạt động giáo dục
phải lấy việc truyền thụ tri thức khoa học là chính yếu. Đồng thời do sự phát triển của
KHKT khiến cho phương pháp giáo dục cũng ngày càng được hiện đại hóa.
3.3. Tinh thần khoa học cũng phát triển cùng với tri thức khoa học. Tinh thần
khoa học bao gồm trong nhỏ như thái độ hoài nghi, phê phán, óc sáng tạo. Nhờ có tinh
thần khoa học mà con người có được thái độ nhân sinh tôn trọng người khác, kể cả
những ý kiến bất đồng.
3.4. Chế độ hóa giáo dục: Là triển khai hoạt động theo pháp luật với trình tự rõ
ràng, về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ và lợi ích trong công việc, đảm bảo hiệu quả

53
và sự rằng buộc lẫn nhau trong công việc. Pháp luật là hình thức tối cao mà chế độ
hóa, lý tính hóa, tính khả biên tương đối nhỏ. Các qui phạm chế độ thường nhật điều
trết hoạt động giáo dục phải vừa có tính nguyên tắc, nghiêm túc vừa có tính mềm dẻo,
linh hoạt.
+ Tính đa dạng của giáo dục.
3.5. Giáo dục muốn thích ứng được với đòi hỏi của đời sống xã hội hiện đại cần
phải thoát khỏi tính đơn nhất để trến vào đa dạng (đa dạng về mục trêu, nội dung, cơ
cấu giáo dục, hình thức giáo dục, phương pháp, ....).
3.6. Song, tính đa dạng phải trong sự thống nhất về quan điểm, định hướng chính
trị, điều trết về qui mô, đầu tư .... Ở tầng vi mô của nhà nước.
Nói tóm lại, mục đích đúng đắn của giáo dục không thể chỉ nhìn về lợi ích kinh tế
đơn thuần. Giáo dục hiện đại góp phần phát triển kinh tế - xã hội, song giáo dục là một
hoạt động giúp con người hiểu được ý nghĩa và mục đích của cuộc sống của một cách
khoa học, tồn được cách sống đúng đắn, do vậy không thể đồng nhất hiện đại hóa giáo
dục với kỹ thuật hóa, kinh tế hóa.

54
MỤC LỤC
Trang
PHẦN II...................................................................................................................................... 2
TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC QUA CÁC THỜI ĐẠI ..................................................................... 2
I. TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC TRONG XÃ HỘI CHIẾM HỮU NÔ LỆ. ............................. 2
II.TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC TRONG XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY. ...................................... 3
1. Đặc điểm kinh tế xã hội.................................................................................................. 3
2. Đặc điểm chung của giáo dục phong kiến Trung Hoa. .................................................. 4
3. Một số tư tưởng giáo dục phong kiến Trung Hoa. ......................................................... 4
III. HỆ THỐNG GIÁO DỤC CỦA XÃ HỘI PHONG KIẾN PHƯƠNG TÂY.................. 6
3. Giáo dục của lãnh chúa phong kiến................................................................................ 7
IV. GIÁO DỤC TRONG THỜI KỲ VĂN HÓA PHỤC HƯNG........................................ 7
V.GIÁO DỤC THỜI KỲ TÍCH LŨY TƯ BẢN. (Trước CMTS Pháp 1789). ................... 8
1.Đặc điểm chung. .............................................................................................................. 8
2. Một số nhà giáo dục trêu biểu. ....................................................................................... 8
VI. GIÁO DỤC TƯ BẢN CHỦ NGHĨA. (Từ 1798 đến đầu thế kỷ XX)......................... 11
2. Đặc điểm giáo dục tư bản từ 1798-1917 bao gồm: ...................................................... 11
3.Một số nhà giáo dục trêu biểu. ...................................................................................... 11
VII. GIÁO DỤC THỜI KỲ ĐẾ QUỐC CHỦ NGHĨA Ở TÂY ÂU. (Cuối thế kỷ XIX,
giữa thế kỷ XX). ................................................................................................................... 13
VIII.Giáo dục từ giữa thế kỷ XX cho tới nay.................................................................... 16
1.Tình hình thế giới sau đại chiến thế giới lần thứ 2 (1945) đến nay............................... 16
2. Đặc điểm của tính giáo dục thế giới những năm cuối thế kỷ 20. ................................. 17
IX. Học thuyết giáo dục của Các Mác và F.Ăng ghen. ..................................................... 20
1. Học thuyết giáo dục Mác xít ra đời như là một tất yếu lịch sử. ................................... 20
2. Những tư tưởng giáo dục của Mác và Ăng ghen.......................................................... 21
X. Tư tưởng giáo dục của V.I. Lênin (22/4/1870-20/1924) .............................................. 22
XI. Tư tưởng giáo dục của N.C. Cơrúpxcaia (26/2/1969- 1939) ...................................... 23
XII. Tư tưởng giáo dục của A.C. Makarenko (1888 - 1939) - Nga................................... 24
PHẦN III .................................................................................................................................. 28
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM GIÁO DỤC MÁC-LÊNIN VÀO XEM XÉT SỰ PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...................................................................... 28
BÀI 1: GIÁ TRỊ CỦA GIÁO DỤC................................................................................... 28
1.Cách nhìn nhận giá trị của giáo dục đối với sự phát triển lịch sở xã hội ...................... 28
2. Các giá trị cụ thể của giáo dục...................................................................................... 28
BÀI 2: MỤC TIÊU CỦA GIÁO DỤC .............................................................................. 35
1. Mục trêu giáo dục ở những tầng bậc khác nhau đều có chức năng chung là: .............. 35
BÀI 3: MÔ HÌNH GIÁO DỤC ......................................................................................... 39
1. Khái niệm: .................................................................................................................... 39
2.Thuyết mô hình giáo dục. .............................................................................................. 39
3. Thuyết dao động chu kỳ "đồng hồ quả lắc" và mô hình giáo dục................................ 43
BÀI 4: HIỆN ĐẠI HÓA GIÁO DỤC ............................................................................... 50
1. Khái niệm về hiện đại hóa. ........................................................................................... 50

55

You might also like