You are on page 1of 16

I.

NỘI DUNG CÂU HỎI


1. Chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam?
Một trong những bài học lớn từ thực tiễn 75 năm qua của Đảng là phải kiên định và giữ vững sự
lãnh đạo của Đảng - Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nghị quyết
Trung ương 6 (Khoá VIII) khẳng định: ''Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam; không chấp nhận đa nguyên, đa đảng''. Khi phát biểu bế mạc Hội nghị Trung
ương 7 (Khoá VIII), đồng chí Tổng Bí thư đã nhấn mạnh: “sự lãnh đạo của Đảng là thống nhất,
toàn diện''.
Để làm rõ bài học này, cần phải phân tích một số nội, dung cơ bản. Trước hết, phải xác định cho rõ
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của ai? Điều Lệ Đảng đã ghi rõ: ''Đảng là đội tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc''. Thực tế đã chứng minh điều đó không chỉ ghi trong Điều lệ, cũng không phải chỉ là
những lời tuyên bố nhằm phủ dụ nhân dân mà Đảng ta đã và đang hành động đúng như vậy. Đảng sinh
ra trong lòng cuộc đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc. Đảng lãnh đạo nhân dân và dân tộc được
nhân dân và dân tộc đùm bọc, nuôi dưỡng, chở che. Đảng - Giai cấp công nhân - Nhân dân lao động và
cả dân tộc đã thực sự kết thành một khối vững chắc. Khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng là bền vững, không gì phá vỡ nổi. Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất
yếu lịch sử, phản ánh điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi trong dòng vận động lịch sử của
dân tộc cũng như trào lưu chung của cách mạng thế giới. Sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội là tất yếu
khách quan. Không phải ngẫu nhiên mà lịch sử trao cho Đảng sứ mệnh thiêng liêng đó. Trước năm
1930, ở Việt Nam có nhiều Đảng và phong trào yêu nước ra đời và đã từng thử nghiệm là vai trò của
quần chúng. Các tổ chức này và lãnh tụ của họ không thiếu gì đức tính dũng cảm, hy sinh quên mình,
nhưng do có hạn chế về thế giới quan và hệ tư tưởng cho nên rút cuộc bị thất bại và tan rã.
Từ năm 1930 trở đi, trên vũ đài chính trị nước ta cũng xuất hiện một số đảng phái khác như Việt quốc,
Việt cách, Đại Việt... Song những đảng này đã phản bội lại lợi ích dân tộc, cam tâm làm tay sai cho đế
quốc thống trị nước ta. Như vậy, khác với tình hình nhiều nước trên thế giới, ở nước ta ngay từ khi ra
đời, Đảng Cộng sản đã là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng. Đó hoàn toàn không phải là sự áp
đặt ý muốn chủ quan của Đảng mà là sự giao phó của lịch sử thông qua quá trình sàng lọc hết sức
nghiêm khắc. Thứ ba, thực tế lich sử cách mạng Việt Nam cho thấy Đảng Cộng sản đã rất xứng đáng
với sự tin cậy, sự giao phó của lịch sử, của nhân dân, của dân tộc. Trên thực tế, từ ngày có Đảng do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, cách mạng nước ta đã giành hết thắng lợi này đến thắng
lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ 20. Đó là thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm
1945 lật đổ ách thống trị gần 100 năm của thực dân Pháp và triều đình phong kiến, lập nên Nhà nước
Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, chọc thủng hệ thống thuộc địa cùa Chủ nghĩa đế quốc; là thắng lợi
của cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, giải phóng miền Nam, chôn vùi
thực dân cũ; là thắng lợi của cuộc kháng chiến 22 năm chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất Tổ quốc, đánh sập chủ nghĩa thực dân mới; là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước
trong gần 20 năm gần đây, vượt mọi khó khăn bao vây cấm vận, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội, đứng vững và tiếp tục đi lên trong cơn động đất chính trị dữ dội trên thế giới (năm l989-
1991) và cơn bão táp khủng hoảng tài chính, kinh tế ở khu vực (năm 1997 - 1998).
Những thành tựu trên đây không những được nhân dân trong nước mà cả thế giới thừa nhận. Từ người
dân nô lệ trở thành người chủ của đất nước độc lập, tự do, đó là giá trị dân chủ lớn nhất Đảng đã giành
lại cho nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, dân chủ của nhân dân đã được phát huy trên nhiều lĩnh vực
và được thề chế hoá trong nhiều văn bản pháp luật. Trước hết phải kể đến lĩnh vực kinh tế, Đảng và
Nhà nước ta đã có những cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần. Đời sống dân chủ của toàn xã hội đã có những bước tiến rõ rệt. Phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm và dân kiểm tra” được các ngành, các cấp, các địa phương và cơ sở tích cực thực hiện, mặc dù
kết quả vẫn còn hạn chế, chưa được như mong muốn. Từ năm 1999, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị ''Về xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở'' với mục tiêu mở rộng hơn nữa dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân. Đảng là một cơ thể sống, do đó không thể tránh khỏi
những sai lầm. Điều quan trọng là Đảng không bảo thủ. Khi có sai lầm, Đảng công khai thừa nhận sai
lầm trước nhân dân và quyết tâm sửa chữa. Thí dụ, với phương châm ''nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội lần thứ VI của Đảng, trong khi khẳng định những thành tựu đạt
được, đã dũng cảm tự phê bình về những sai lầm trong việc hoạch định các chủ trương, chính sách lớn,
trong chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, từ đó đề ra đường lối đổi mới đúng đắn.
Từ thực tiễn đổi mới thành công từ năm 1986 đến nay, chúng ta nhận thấy trên lĩnh vực xây dựng Đảng
đã đạt được những thành tựu rất quan trọng:
Một là, thành tựu cơ bản và quan trọng nhất là Đảng đã đề ra được và từng bước bổ sung, hoàn thiện
dần đường lối đổi mới một cách đúng đắn, sáng tạo, hình thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Hai là, Đảng đã khẳng định Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Ở những bước ngoặt của cách mạng, trước những diễn
biến phức tạp của tình hình, Đảng kịp thời có định hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn những
nhận thức lệch lạc, chống những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng trong toàn
Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
Ba là, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Có tiến bộ về thực
hiện dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong xã hội, nhất là sau khi có “Quy chế dân
chủ ở cơ sở''.
Bốn là, đổi mới một bước tổ chức và cán bộ, nâng cao trình độ và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên;
ngăn chặn được sự sa sút, yếu kém của nhiều tổ chức cơ sở Đảng; bước đầu cải tiến phương thức lãnh
đạo và phong cách công tác có tiến bộ trong công tác kiểm tra.
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, công tác xây dựng Đảng vừa qua cũng còn không ít thiếu sót và
khuyết điểm. Hiện nay đang nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
Thứ nhất, trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa giao lưu với các nước,
trước những tác động tiêu cực của các nhân tố tư bản và sự tiến công của các thế lực thù địch, một bộ
phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về phẩm chất chính tri, đạo đức và lối sống; Thứ hai,
trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng có mặt chưa theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới;
Thứ ba, tổ chức cơ sở đảng ở một số nơi yếu kém, thậm chí có nơi rệu rã, tê liệt; phương thức lãnh đạo
và sinh hoạt lúng túng, có tình trạng vừa kém dân chủ, vừa thiếu kỷ luật, kỷ cương; Thứ tư, công tác
kiểm tra chưa được chú trọng đúng mức và vẫn là một khâu yếu, nhất là việc kiểm tra chấp hành đường
lối, nghị quyết của Đảng, kiểm tra việc thực hiện Điều lệ Đảng.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin vào quá trình đổi mới ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh
đạo đất nước vượt qua bao khó khăn thử thách, tiếp tục đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng
cùng với khẳng định điều đó, Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) (khóa VIII) và kết luận Hội nghị Trung
ương 4 (khóa IX) cũng nghiêm túc chỉ ra tình trạng suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên về
nhận thức tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và sự yếu kém của công tác tổ chức, hiệu lực và hiệu
quả thấp của bộ máy quản lý. Do vậy trong tình hình ấy, nếu Đảng ta không kiên định, vững vàng,
trước hết là về chính trị tư tưởng và ý chí hành động; không trong sạch về đạo đức lối sống thì sẽ không
được nhân dân ủng hộ để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Chính vì vậy, tại Đại hội IX của Đảng, Trung ương quyết định phải tiếp tục thực hiện Cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách có hiệu quả nhằm ngăn chặn và đẩy lùi một bước quan trọng tình
trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu lý tưởng cách mạng, tăng cường sự thống nhất ý chí
và hành động, củng cố tổ chức chặt chẽ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong
thời kỳ mới, coi đây là vấn đề sống còn của Đảng, của chế độ ta.
Hiện nay có một số tài liệu phát tán đòi đa nguyên, đa đảng.Từ thực tiễn đất nước ta và từ những vấn
đề lý luận đặt ra, chúng ta khẳng định: Yếu tố quyết định dân chủ không phải do một đảng hay nhiều
đảng lãnh đạo. Một đảng vẫn có thể bảo đảm được dân chủ. Đa đảng vẫn có thề mất dân chủ. Nhìn
nhận vấn đề dân chủ ở một nước, phải xem đảng cầm quyền ở đó họ thực thi dân chủ như thế nào chứ
không thể căn cứ việc họ nói như thế nào về dân chủ. Ví dụ Mỹ là một nước rất hay nói, thậm chí còn
lên mặt dạy người khác về dân chủ, nhân quyền, nhưng trên thực tế Mỹ lại là nước vi phạm dân chủ và
nhân quyền ghê gớm nhất. 20% số dân nước Mỹ là những người giàu. Số dân còn lại (80%) chia nhau
15% tài sản quốc gia. Như thế sao có thể gọi là một xã hội dân chủ được?! Trong số 80% những người
không thuộc diện giàu có của nước Mỹ, có rất nhiều người bị chết đói vì thiếu cái ăn, chết rét, vì thiếu
cái mặc, chết bệnh vì không có thuốc và không có bảo hiểm y tế, lang thang cơ nhỡ vì không có chỗ
ở...
Từ thực tiễn lãnh đạo đất nước 75 năm qua, Đảng ta chỉ rõ phải kiên định vấn đề có tính nguyên tắc là
lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt
động, trong khi chúng ta tăng cường sinh hoạt dân chủ, cởi mở, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng và hưởng tới kỷ niệm 115 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ
Chí Mính vĩ đại, dưới sự lãnh đạo cùa Đảng và được vũ trang bởi Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, chúng ta tin tưởng rằng mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, đân chủ, văn
minh nhất định sẽ được thực hiện thắng lợi
.
Vì sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam?
Trả lời:
1. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hơn 7 thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã vượt qua một chặng
đường đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, gian khổ nhưng đã giành được những thắng lợi rất vẻ
vang:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, góp phần
quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua
nhiều tìm tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo thực hiện
đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và
bối cảnh quốc tế mới
.Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở
thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc
tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô
lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam giành được trong hơn 7 thập kỷ
qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố hàng đầu quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng
suốt của Đảng ta- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện - một
Đảng cách mạng thực sự vì nước, vì dân, ngoài lợi ích đó Đảng không có lợi ích nào khác. Giành độc
lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu lý tưởng của Đảng. Vì vậy, vượt lên mọi
thách thức, trong phong ba bão táp, Đảng ta vẫn kiên định vững vàng không xa rời mục tiêu lý tưởng,
không run sợ trước kẻ thù, không nhụt chí trước những khó khăn chồng chất, không hạ thấp vị trí tiên
phong chiến đấu và trách nhiệm của người lãnh đạo, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng, một
lòng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

2. Đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng - nhân tố hàng đầu bảo đảm vai trò lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.

Đảng lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ trương, chính sách của
Đảng. Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn
dân, tạo nên sức mạnh của Đảng và của cách mạng
Đường lối chính trị đúng đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu thế vận động của lịch sử,
đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân chính của đa số nhân dân. Sức mạnh của Đảng
chính là sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, mà sự đồng tình và tin cậy của nhân dân đối với Đảng trước
hết nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi những khuynh hướng sai lầm về chính trị và tư tưởng
làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.

Sở dĩ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn vì: Đảng có một nền tảng lý luận vững chắc, một lý luận
tiên phong dẫn đường, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như Lênin đã nói: "Không
có lý luận cách mạng không có phong trào cách mạng..." Chỉ Đảng nào có được một lý luận tiên phong
hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta đã nắm vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực tiễn của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với sự phát triển của lịch sử,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Hơn thế nữa, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể. Vì
vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng một cách độc lập, sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.
Một trong những bài học được Đảng ta rút ra là phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tế,
kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt, sáng tạo về phương pháp, đó là điều
kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Mọi sự giáo điều, chủ quan duy ý chí, xa rời thực tiễn
cũng như xa rời các nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của cách mạng thì sẽ dẫn đến nguy cơ sai lầm, làm
mất sự lãnh đạo của Đảng.
Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, Đảng luôn quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng có phẩm chất, đạo đức cách mạng và năng lực công tác, thật sự là những chiến sĩ cách
mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân.
Mỗi đảng viên của Đảng phải luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nhân dân, trung thành với lợi ích của giai cấp và của dân tộc, một đời hy sinh phấn
đấu vì lý tưởng của cách mạng và lợi ích của nhân dân
.Để giữ vững vai trò lãnh đạo, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, lấy tự phê bình và phê bình làm vũ khí đấu tranh để làm cho
Đảng ngày càng vững mạnh. Đồng thời, luôn củng cố, giữ vững và tăng cường sự đoàn kết trong Đảng,
đảm bảo sự nhất trí cao về mục tiêu lý tưởng của Đảng, để làm cho Đảng ngày càng vững mạnh, đủ sức
lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo, bên cạnh những ưu điểm, trong Đảng cũng còn những
yếu kém, thậm chí có lúc sai lầm, khuyết điểm, song điều quan trọng, Đảng đã sớm phát hiện ra những
yếu kém của mình. Đảng công khai tự phê bình nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa
và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được nhân dân tin yêu, thừa nhận là đội tiên phong chính trị,
người lãnh đạo duy nhất của dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã khẳng định rằng: ở nước ta, ngoài Đảng
Cộng sản Việt Nam, không có lực lượng nào khác có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng. Với tất cả tinh
thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền tự hào nói rằng: Đảng ta thật vĩ đại.

Học tập, nghiên cứu để hiểu biết về quá trình đấu tranh cách mạng và truyền thống của Đảng không
phải chỉ để tự hào về Đảng, mà quan trọng hơn là thanh niên cần nâng cao hơn nữa niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, để công cuộc đổi mới
giành thắng lợi to lớn hơn. Trên những vị trí công tác, lao động và học tập của mình, thanh niên phải
góp phần tích cực vào công tác xây dựng, bảo vệ Đảng, góp phần làm cho Đảng ngày càng trong sạch,
vững mạnh; ra sức học tập, rèn luyện phấn đấu để trở thành những đảng viên của Đảng, đem tài năng
và sức trẻ cống hiến cho sự nghiệp của Đảng, làm cho những thành tựu và truyền thống của Đảng ngày
càng phát triển và phong phú hơn.

2. Phân tích và nêu rõ những đặc điểm (thuận lợi, khó khăn) của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta?
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, nước ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước và giải phóng dân tộc. Chính trong điều kiện đó, Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã ra đi tìm
đường cứu nước. Sau khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, Người tìm thấy cơ sở lý luận chắc chắn cho
con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vô sản. Bác Hồ khẳng định: Chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức: "Cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn". "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản". Tư tưởng đó đã được Đảng ta khẳng định, được cả dân tộc hưởng ứng và đi theo. Đó là sự
lựachọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
Sự lựa chọn này dựa trên cơ sở:
Chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động. Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ triệt để chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, là nguồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột
người, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân lao
động thoát khỏi đói nghèo, hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, tạo điều kiện giải phóng và phát triển con người toàn diện. Độc lập dân tộc là điều kiện
tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập
dân tộc.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi mở ra một thời đại mới, thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Tính tất yếu của thời đại
mới đã tạo khả năng và điều kiện để các dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, đem lại những nhận thức mới
trong quan niệm và giải pháp giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc một cách triệt để.
Sức mạnh và thành tựu của chủ nghĩa xã hội, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đã thức
tỉnh nhân loại, tạo khả năng đoàn kết các dân tộc để giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh huỷ
diệt, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh chính sách có lợi cho người lao động; tạo khả năng hiện
thực cho các nước lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Trong hơn 7 thập kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt
thành tựu quan trọng: Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất với quy mô và trình
độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn về vật chất và tinh thần của nhân dân. Từ một nước Nga nghèo
nàn và lạc hậu, sau một thời gian xây dựng đã trở thành một cường quốc của thế giới, đạt được bước
tiến lớn trong nghiên cứu khoa học, chinh phục vũ trụ, có tiềm lực quân sự và quốc phòng hùng
mạnh… tạo điều kiện cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển. Hàng trăm nước đã giành được độc
lập dân tộc góp phần quyết định vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới và hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã khẳng
định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó.
Nhưng lịch sử loài người đã không đi theo con đường thẳng tắp và phong trào cách mạng cũng
không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, thậm chí có những thất bại hoặc thoái trào. Nhưng quan trọng
hơn là từ trong sai lầm, khuyết điểm đó, tìm ra những nguyên nhân, rút kinh nghiệm để đưa phong trào
cách mạng tiến lên. Đó mới là một thái độ nghiêm túc, đúng mực.
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ do nhiều nguyên nhân mà
nguyên nhân trực tiếp là Đảng Cộng sản phạm những sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư
tưởng và tổ chức bắt đầu từ sự phản bội của người lãnh đạo chủ chốt; chủ nghĩa đế quốc can thiệp vừa
tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện "diễn biến hòa bình" ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự đổ vỡ đó
không có nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết về chủ nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ của phong
trào xã hội chủ nghĩa thế giới, bởi vì hiện nay một số nước xã hội chủ nghĩa vẫn đang tiếp tục đứng
vững và phát triển. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: "Lịch sử thế
giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội vì đó là qui luật tiến hóa của lịch sử".
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bên cạnh những thành tựu, chúng ta cũng
còn có khuyết điểm, yếu kém, những vấp váp sai lầm.
Đảng ta đã sớm nhận thức ra những thiếu sót, khuyết điểm và tự nhận khuyết điểm trước nhân
dân, đã sửa chữa và sửa chữa có kết quả, đem lại lòng tin của nhân dân với Đảng. Đảng đã khởi xướng
và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện vì chủ nghĩa xã hội, với quyết tâm và trí tuệ của toàn Đảng, sự
tham gia tích cực của nhân dân, công cuộc đổi mới ở nước ta trong hơn 17 năm qua đã thu được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, khẳng định đường lối đổi mới là đúng đắn. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành
công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc có điều kiện và khả năng tạo ra
bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội".
Xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn, cả tình hình trong nước và kinh nghiệm quốc tế, muốn thay
đổi căn bản cuộc sống của người lao động từ kiếp nô lệ làm thuê trở thành người làm chủ, không có
con đường nào khác ngoài con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Mọi con đường khác đều không được
nhân dân ta chấp nhận. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần kiên định vững vàng với mục tiêu, lý
tưởng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Việc hình thành những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là
công việc rất khó khăn. Mô hình xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa chưa có trong thực tiễn lịch sử,
càng chưa có khi chúng ta xây dựng một nước có nền kinh tế chưa phát triển như nước ta. Đây là một
vấn đề rất mới mẻ. Bác Hồ của chúng ta đã chỉ rõ: "Chủ nghĩa xã hội là gì? Là mọi người được ăn no,
mặc ấm, sung sướng và tự do. Nhưng nếu tách riêng một mình mà ngồi ăn no, mặc ấm, người khác thì
mặc kệ, thế là không tốt… Chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh… Ai làm nhiều thì ăn
nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con.
Thế ta đã đến đấy chưa? Chưa đến, chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần"
chủ nghĩa xã hội là "một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai
cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, không làm
không hưởng…".
Tóm lại, "xã hội ngày càng tiến lên, vật chất càng tăng, tinh thần càng tốt, đó là chủ nghĩa xã
hội".
Từ những tư tưởng lớn của Bác Hồ, trải qua nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi với trí tuệ của toàn
Đảng, toàn dân, Cương lĩnh của Đảng ta chỉ rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã
hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu.
- Có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Sáu đặc trưng nêu trên thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta sẽ
xây dựng, một xã hội tiến bộ nhất so với các chế độ xã hội đã xuất hiện trước đây. Trong xã hội đó,
nhân dân lao động là người chủ chân chính và thực sự của xã hội. Nó chi phối và thể hiện trong toàn bộ
thể chế của xã hội, đều hướng vào việc đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đó là sự
khác nhau về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta
xây dựng phải có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
và lực lượng sản xuất hiện đại, là cơ sở kinh tế để xóa bỏ nguồn gốc của chế độ người bóc lột người,
con người được giải phóng có điều kiện phát triển toàn diện, tạo ra sự bình đẳng trong xã hội và đoàn
kết giữa các dân tộc, có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Chủ nghĩa xã
hội mà chúng ta xây dựng không chỉ có nền kinh tế phát triển cao mà còn phải xây dựng một nền văn
hóa tương ứng, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều đó đảm bảo sự phát triển hài hòa,
lành mạnh của chủ nghĩa xã hội.
Những đặc trưng trên gắn bó mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, vừa làm tiền đề,
điều kiện, vừa tác động lẫn nhau trong quá trình phát triển. Cùng với quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa
xã hội, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là phải xác định được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết kinh nghiệm
thành công và cả kinh nghiệm chưa thành công trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và
các nước khác, đặc biệt là những kinh nghiệm của những năm đổi mới, Đảng ta đã nêu ra những
phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, gồm:
Một là, "xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc và của nhân dân".
Hai là, "phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với
phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời
sống nhân dân".
Ba là, "phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu".
Bốn là, "tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới
quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng,
văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài
người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội".
Năm là, "thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối
ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới".
Sáu là, "xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao
cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các
thành quả cách mạng".
Bảy là, "xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm
nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta".
Đó là những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, những
quan điểm về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng, đó là những định hướng, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta được tiến hành trong điều kiện có những thuận
lợi, song khó khăn, thách thức rất lớn. Trong hoàn cảnh đó, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân với
đường lối đúng đắn, sáng tạo, đất nước ta đã giành nhiều thành tựu to lớn. Đại hội VIII của Đảng
(1996) nhận định:
"… Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng còn một số mặt chưa vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thế kỷ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn".
Phát huy những kết quả đạt được trong 5 năm qua (1996-2000) dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất
nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng mà Đại hội IX của Đảng đã khẳng định:
- Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm GDP trong nước tăng bình quân hàng năm 7%. Hệ
thống kết cấu hạ tầng được tăng cường.
- Văn hóa xã hội có những tiến bộ, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện.
- Tình hình chính trị - xã hội cơ bản được ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường.
- Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố.
- Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ
động và đạt nhiều kết quả.
Tổng sản phẩm trong nước năm 2001 tăng gấp đôi so với năm 1990. Ngày nay, thế và lực của đất
nước ta đã lớn mạnh lên rất nhiều.
Những thành tựu của 5 năm qua đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất
nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng
cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Đạt được thành tựu trên là do Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng và đường lối lãnh đạo đúng
đắn; Nhà nước ta có cố gắng lớn trong việc quản lý điều hành; toàn dân tộc đã phát huy lòng yêu nước,
tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù, năng động, sáng tạo…
Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta còn những yếu kém cần khắc phục:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn hóa xã
hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ chế chính sách chưa đồng bộ; tình trạng tham nhũng,
suy thoái ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Đây là những vấn đề cần
phải được nhanh chóng khắc phục để đất nước phát triển bền vững.

Kết luận
Chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh có những khó khăn và thử thách rất
lớn, nhưng chúng ta cũng có những thời cơ và thuận lợi rất cơ bản:
Một là, chúng ta có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, một Đảng giàu tinh thần cách mạng, vững
vàng, sáng tạo, đã kế thừa và phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc, có kinh nghiệm lãnh
đạo qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt kinh nghiệm của những năm đổi mới vừa qua có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng đối với sự phát triển và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta… Nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ cơ bản hoàn thành cho phép ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới,
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng xác định rõ hơn. Đó chính là cơ sở để chúng ta có thể khẳng định dưới sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng, nhân dân ta nhất định xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Hai là, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng số đông đã trải qua rèn luyện thử thách trong thực
tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng, gắn bó với Đảng, với chế độ, trung thành với đường lối của Đảng,
đang nỗ lực phấn đấu biến đường lối của Đảng thành hiện thực sinh động. Đảng đã xây dựng được đội
ngũ cán bộ lãnh đạo đoàn kết, trung thành với sự nghiệp cách mạng, vững vàng về chính trị, có khả
năng lãnh đạo đất nước, đối phó với những khó khăn, thách thức để đưa cách mạng tiếp tục đi lên theo
con đường xã hội chủ nghĩa.
Ba là, nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù, thông minh, sáng tạo. Trải qua thực tiễn
cách mạng, ý thức giác ngộ chính trị của nhân dân đã được nâng cao, gắn bó với chế độ, với Đảng. Qua
thực tiễn của tình hình chính trị trên thế giới và trong nước những năm qua, nhân dân ta càng nhận rõ:
Chỉ có đi theo Đảng, đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng thì đất nước mới phát triển, cuộc sống của nhân dân mới được ấm no,
tự do và hạnh phúc. Đó là cơ sở chính trị quan trọng, quyết định sự thắng lợi của cách mạng.
Từ những bài học của cách mạng Việt Nam trong mấy chục năm qua, nhất là những kinh nghiệm
thu được trong những năm đổi mới, chúng ta có cơ sở khoa học để tin tưởng rằng: Với chủ nghĩa yêu
nước, truyền thống quý báu của dân tộc ta, với tinh thần chủ động sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của
nhân dân ta, lại có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cách mạng kiên cường, với sự giúp đỡ và hợp tác
của bạn bè quốc tế, nhân dân ta có đủ khả năng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta,
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã
hội.
Sự nghiệp cách mạng vĩ đại đó, Đảng và nhân dân đặt niềm tin rất lớn ở thanh niên vì thanh niên
là người chủ tương lai của đất nước, người kế tục sự nghiệp của cha anh. Với những truyền thống vẻ
vang của mình, thanh niên Việt Nam sẽ cống hiến cho công cuộc đổi mới, xứng đáng với niềm tin của
Đảng và nhân dân.

3. Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như thế nào?

ĐẢNG VIÊN

Điều 1:

1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ
quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
có lao động, không bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành
mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết
thống nhất trong Đảng.

2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua
thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.

Điều 2:

Đảng viên có nhiệm vụ:

1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính
trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ,
quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.

3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần
chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn
đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm
công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.

Điều 3:

Đảng viên có quyền:

1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.

2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành
Trung ương.

3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức;
báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.

4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của
Đảng.

4. Sự cần thiết của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh? Phân tích
những nội dung để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?
Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một tập hợp đơn giản những ý tưởng, những suy nghĩ cụ thể của
Hồ Chí Minh trong những hoàn cảnh cụ thể mà là một hệ thống những quan điểm, quan niệm về con
đường cách mạng Việt Nam, được hình thành trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, vì vậy Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một khái niệm khoa học và phải được trình bày cô đọng, chặt chẽ và mang tính lí luận cao.
Trên cơ sở nghiên cứu hiện có, Tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa như sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết
quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ của thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người
Như vậy, Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn
hoá, nhân nghĩa và cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hoá nhân loại, được nâng lên tầm cao mới
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin.
Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh
hoa văn hóa nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng để
mọi người dân noi theo.

Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Chỉ thị số 23-CT/TW về việc
toàn Đảng, toàn dân tổ chức đợt học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để quán triệt, vận dụng và phát
triển sáng tạo tư tưởng của Người trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đợt học
tập đã thu được nhiều kết quả tốt.
- Báo cáo của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng khóa IX về các văn kiện tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ : " tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo
đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức còn diễn ra nghiêm trọng". Trước thực trạng
đó, đòi hỏi phải đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm góp
phần xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng viên đủ
phẩm chất và năng lực. Do đó, yêu cầu tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình mới, Hội nghị
lần thứ 12 Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã quyết định triển khai chỉ đạo điểm cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân, đúc rút kinh nghiệm để tiến hành cuộc vận động lớn trong toàn Đảng về vấn đề này sau Đại
Hội X của Đảng. Đây là một chủ trương lớn, vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh tình hình hiện
nay, vừa có ý nghĩa lâu dài với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có
tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người
để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên
Người viết để huấn luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề
đầu tiên Người đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được
Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3-2-1969), đăng trên báo Nhân dân là bài
Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về
Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã
được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và
phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn
lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà
Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong
phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện về đạo đức,
bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc
xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.
1. Về vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của mỗi người.
- Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Trong tác
phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó
chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với
việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang,
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có
mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
- Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc
của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không
có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách.
Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi
gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không
công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
- Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn cho
đúng, đó là:
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
+ Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng
chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.
+ Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến
của quần chúng.
- Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo
đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
- Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức đối
với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia
đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư
tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là khi
Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư”.
2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
a. Trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông, được Chủ tịch Hồ
Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
- Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất nước,
làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu". Nước là của dân, dân là chủ đất nước, trung với
nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích
đều vì dân”...
- Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ
trung thành của dân”.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Người dạy, đối với mỗi
cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, và hơn nữa, phải “tận trung với
nước, tận hiếu với dân”
Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm
vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ
nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm của Người về mối
quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước.

b. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình


Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân
nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí
Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện
mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
- Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân,
những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu
thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho
đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
- Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với
người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những người lầm đường, lạc
lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
- Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì vậy, phải
thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để
không ngừng tiến bộ.
- Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác - Lênin để
thương yêu nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa.
Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin
được".
c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất trung tâm
của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh, là mối quan hệ “với tự mình”.
- Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có
bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao
động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao
động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản
thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô
trương, hình thức...”.
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác.
+ Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một
đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không tham địa vị, không tham tiền tài..., không tham
tâng bốc mình...”.
+ Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại;
đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm
tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì
quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.
Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.
- Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư, thiên
vị "tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán", đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất
cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui
sau thiên hạ”. Muốn "chí công, vô tư" phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ cán cân công lý", không được vì lòng riêng
mà chà đạp lên pháp luật.
- Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư. Cần, kiệm, liêm,
chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì
nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm đạo đức
nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời
là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng
sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiện trong các
điểm sau:
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người
khỏi ách áp bức, bóc lột.
- Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn phương
vô sản đều là anh em”.
- Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
- Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến
chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân
tộc...
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội và chính
Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục, động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng
thực hiện. Đó là:
a. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
- Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
- Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ
đi sau, của lãnh đạo với nhân viên... là rất quan trọng. Người yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con,
anh chị làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân
viên...
- Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải
ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình
phải làm mực thước cho người ta bắt chước” .
b. Xây đi đôi với chống
- Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải
chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, đó là "chủ
nghĩa cá nhân". Xây đi đôi với chống là muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì phải chống chủ nghĩa cá nhân.
- Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia đình đến nhà
trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hoá sát hợp với các tầng
lớp, đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng
lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành
mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện.
- Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải
phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
- Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng
rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết
sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
c. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
- Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới
thành. Người viết: “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”.
- Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con
người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được
mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
- Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay,
chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người
mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái
xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong
đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.
5. Vì sao vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa
quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam?
Vì sao anh (chị) xin gia nhập Đảng” hay “anh (chị) vào Đảng để làm gì?”, nói chung, tổ chức
đảng đều nhận được câu trả lời gần giống nhau, đại thể: “Tôi vào Đảng để hy sinh chiến đấu cho
mục đích cuối cùng của Đảng là đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, xây dựng CNXH và
CNCS trên đất nước ta”.
Trả lời thế nhưng khi đã vào Đảng rồi thì trong công tác và sinh hoạt hằng ngày không phải ai cũng sẵn
sàng “chiến đấu hy sinh”, “sẵn sàng đấu tranh”, “sẵn sàng là người chiến sĩ tiên phong” trên cương vị,
chức trách được giao phó.
Chỉ tính từ ngày Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới đến nay, bên cạnh những đảng viên lao động
sáng tạo, dũng cảm phấn đấu, là người tiên phong trên tất cả các lĩnh vực công tác đúng như lời hứa khi
gia nhập Đảng thì số đảng viên vi phạm kỷ luật đảng và luật pháp nhà nước, mắc vào những tội tham ô,
lãng phí, vô trách nhiệm “nổi tiếng”, bị công luận phanh phui tỷ lệ là bao nhiêu? Những ai mắc tội,
những ai bao che, thiên vị? Và bao nhiêu người đã trù dập đảng viên, quần chúng vì họ dám nói lên sự
thật? Những vụ ăn hối lộ, chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy dự án, chạy tội… đã và đang
như dòng nước ngầm bẩn thỉu làm vẩn đục đời sống xã hội, làm ô uế thanh danh của Đảng cầm quyền
và Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân thì trong đó có bao nhiêu phần trăm là
người đã từng hứa khi vào Đảng?

Đó là vấn đề nóng bỏng tính thời sự cần được xem xét một cách nghiêm túc trong công tác xây dựng
đảng. Theo chúng tôi, trước hết phải xem xét từ “đầu vào”, tức là phải nâng cao chất lượng kết nạp
đảng viên. Để làm tốt công tác này, theo thiển nghĩ của chúng tôi thì cần chú ý mấy vấn đề cơ bản sau:

1- Đảng ta cần nghiêm khắc tự giáo dục lại đội ngũ của mình.

Đảng ta có truyền thống tốt đẹp, có nhiều tấm gương ngàn năm sáng chói về đức hy sinh, lòng dũng
cảm, sự trung thành, trung thực và bất khuất, kiên cường trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự,
ngoại giao, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ… Tất cả những thành tích, chiến công mà các thế
hệ đảng viên tiếp nối nhau bồi đắp đã viết nên “một pho lịch sử bằng vàng”, làm cho Đảng ta trở thành
một tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, lương tâm và danh dự của dân tộc
như Hồ Chí Minh đã khẳng định. Với tất cả những gì mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm được dù với
tinh thần khiêm tốn chúng ta cũng có thể tự hào rằng: Đảng ta thật vĩ đại! Nhưng như Người sáng lập
và rèn luyện Đảng ta - nhà văn hoá kiệt xuất Hồ Chí Minh đã nói: Đảng ta vĩ đại bởi vì Đảng bao gồm
những đảng viên ưu tú đã vì nước quên thân, vì dân phục vụ, biết khổ trước thiên hạ, vui sau mọi
người, biết tự nâng cao mình lên để trong bất cứ hoàn cảnh nào, với bất cứ nhiệm vụ gì của cách mạng,
vẫn xứng đáng là người chiến sĩ tiên phong, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Do đó Đảng ta
đã sống trong lòng quần chúng, hiểu thấu quần chúng, được quần chúng suy tôn là lãnh tụ duy nhất của
mình, được đồng bào cả nước nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng của chúng ta”, “Đảng ta”…
Được như vậy vì ngay từ buổi đầu Đảng đã trịnh trọng tuyên bố và kiên trì đấu tranh giữ đúng lời hứa:
“Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(1).
Ngày nay, trong hoà bình, hội nhập quốc tế, thực hiện CNH, HĐH đất nước để “làm cho Tổ quốc giàu
mạnh, đồng bào sung sướng” với tư cách là đảng cầm quyền, thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ trong cả hệ thống chính trị thì việc xác định “Đảng không phải là tổ chức để
làm quan phát tài” lại càng phải đặc biệt chú ý. Đại hội X của Đảng ta chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về
tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức
chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh…”(2). Thực trạng ấy đòi
hỏi việc giáo dục lại một cách kỹ lưỡng, nghiêm cẩn cho toàn Đảng về mục tiêu, lý tưởng của Đảng là
rất cơ bản và cấp bách. Thế hệ những người lãnh đạo các cấp hiện nay không ít trưởng thành sau cuộc
kháng chiến chống Mỹ, số đã trải nghiệm, được rèn luyện, thử thách kỹ lưỡng không còn nhiều. Do
vậy, sẽ vô cùng cần thiết phải đặt lên hàng đầu việc giáo dục mục tiêu lý tưởng, đạo đức, tư cách, tác
phong, lề lối làm việc cho toàn Đảng từ trên xuống dưới. Nói theo cách của Lênin và Hồ Chí Minh là
Đảng phải tự giáo dục lại mình.
Cần lưu ý rằng trong di huấn của V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, trình độ chính trị của đảng viên bao giờ
cũng được nhìn nhận ở sự giác ngộ, nhận thức về nhiệm vụ cách mạng được thể hiện ra ở hành động, ở
hoạt động thực tiễn chứ không phải ở con số thống kê có bao nhiêu người đã qua trường lớp nào, có
bằng cấp gì; không thể chỉ xem xét ở việc họ viết hay, nói giỏi mà phải bằng hiệu quả đạt được trong
các nhiệm vụ được giao.
Cần xét kỹ nội bộ Đảng, đánh giá đúng thực trạng trình độ trí tuệ, chất lượng từng tổ chức đảng và khả
năng đảm trách các công việc của mỗi đảng viên và bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng, từ đó lượng
hoá nội dung chỉnh đốn Đảng và nội dung cụ thể của công tác xây dựng đảng ở từng cấp độ, từ đó làm
cho chất lượng đảng viên tương xứng với số lượng ngày một gia tăng.

2. Nâng cao nhận thức và xem xét kỹ lưỡng động cơ của người gia nhập Đảng.
Nhận thức mà chúng ta nói ở đây chỉ giới hạn ở sự nhận thức về Đảng Cộng sản Việt Nam của người
muốn gia nhập Đảng. Yêu cầu của nhận thức là đạt tới sự hiểu biết chân lý khách quan. Tổ chức đảng
cần giúp họ hướng suy nghĩ về tất cả những biến cố, những thăng trầm, những gian lao, hào hùng, anh
dũng, sự vinh quang, những mất mát và thành đạt mà dân tộc đã trải qua từ đầu thế kỷ XX tới nay, để
họ tự nhận thức được thực chất về Đảng, họ biết phân biệt được bản chất và hiện tượng trong khuynh
hướng phát triển của đất nước mà người đồng hành, không phải ai khác mà chính là những người con
ưu tú của nhân dân, tự giác đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận thức về Đảng còn là
nhận thức về văn hoá và lương tâm con người. Từ nhận thức sâu sắc, lý tính và tình cảm nội tâm hoà
quyện, thống nhất với nhau, thôi thúc người ta mong mỏi được gia nhập Đảng như là một nghĩa vụ,
một trách nhiệm với quốc gia, dân tộc mà bổn phận họ phải gánh vác.
Đạt tới một nhận thức đúng đắn, người ta sẽ có động cơ đúng khi gia nhập Đảng. Động cơ đúng chính
là sức mạnh bên trong, là động lực hướng dẫn hành động, thôi thúc người ta sống, hoạt động cho lý
tưởng cao đẹp của Đảng và cũng chính là cho cuộc đời họ. Vì thế, trước cái chết cũng không làm họ lùi
bước, uy vũ cường quyền cũng không làm họ khuất phục, tiền bạc, tước vị, chức quyền cũng không
làm họ mê muội.
Có như thế thì tất cả những người gia nhập Đảng sẽ xứng đáng với danh hiệu cao quý: Đảng viên Đảng
cộng sản Việt Nam - Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại!
Khuyết điểm về nhận thức và sai lệch về động cơ của người gia nhập Đảng cùng với một số bất hợp lý
trong chính sách cán bộ, trong cơ chế tổ chức và quản lý đã dẫn đến tình trạng không ít người đua nhau
“tìm cách chui vào Đảng” (theo cách nói của Lênin) đã biến Đảng thành cái cầu thang (theo cách nói
của Chủ tịch Hồ Chí Minh) để bước lên con đường danh vọng mưu vinh thân, phì gia.

Như vậy là, khi người có động cơ vào Đảng chỉ vì lợi ích của mình, thì sẽ dẫn họ đến tôn thờ chủ nghĩa
cá nhân, không vì nhân dân, không vì lợi ích của đất nước, dân tộc mà hành động.
3. Tác hại của người có động cơ cá nhân tìm cách chui vào Đảng.
Có thể nói khái quát rằng, nếu tổ chức đảng kết nạp người có động cơ “vì mình” vào Đảng thì chẳng
khác gì cấy thêm những tế bào ung thư vào cơ thể Đảng, làm cho Đảng, bản chất vốn vì nhân dân, làm
đầy tớ trung thành của nhân dân dần dần thoái hoá, biến chất thành tổ chức để làm quan phát tài. Như
thế, tác hại sẽ không lường hết:
- Gây nên tình trạng “kẻ không tốt tìm người không tốt”. Có thể nói đây là tác hại nguy hiểm
nhất. Người có động cơ cá nhân khi đã thành đảng viên thì không những không ngăn ngừa được những
kẻ cơ hội chui vào Đảng mà còn tạo cơ hội cho những kẻ cùng hội cùng thuyền dễ dàng đứng vào hàng
ngũ của Đảng. Cứ thế, những kẻ cá nhân chủ nghĩa ở trong Đảng sẽ phát triển theo cấp số nhân, những
chiến sĩ kiên cường sẽ trở thành thiểu số, nguy cơ Đảng bị biến chất là khó tránh khỏi.
- Làm hư hỏng bộ máy tổ chức:
+ Tạo ra tình trạng tư túng, cánh hẩu.
Những kẻ cơ hội chui vào Đảng sẽ tìm mọi cách để chạy chức, chạy quyền. Khi đã có chức quyền thì
tất sẽ sinh bè phái, “ai hẩu với mình thì dù có không đúng cũng nghe, không tài cũng dùng. Ai không
hẩu với mình thì dù có tài cũng dìm họ xuống, họ phải mấy cũng không nghe. Đó là một khuyết điểm
rất có hại, nó làm cho đoàn thể mất cán bộ, kém nhất trí, thường hỏng việc. Đó là một chứng bệnh rất
nguy hiểm”(3).
Như vậy, khái niệm “trọng dụng” nhân tài đã bị biến dạng: kẻ được “trọng” thì không có ích cho công
việc chung, người “dụng” được thì không được “trọng”, gây nên tình trạng lãng phí lớn nhất trong thời
đại kinh tế tri thức là lãng phí nhân tài; gây nên mất mát lớn nhất là mất lòng tin của nhân dân vào
chính sách cán bộ của Đảng và Nhà nước; làm hư hỏng thế hệ trẻ, nêu một tấm gương xấu không cần
luyện rèn đức tài, chỉ cần giả dối và nịnh hót… Kết quả sẽ là không thể xây dựng được bộ máy sáng
suốt, trong sạch, vững mạnh, hết lòng vì dân.
+ Làm cho pháp luật bị khinh nhờn.
Kẻ chỉ vì mình tìm cách vào Đảng để chờ cơ hội nắm lấy chức quyền bằng mọi thủ đoạn. Khi đã có
chiếc ghế của uy quyền là nhăm nhăm kiếm lời, bất chấp kỷ cương, phép nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phê phán rất nghiêm khắc những kẻ như thế, rằng họ “cậy thế ở ban
này, ban nọ rồi ngang tàng, phóng túng muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ tới
dân…”(4), “họ âm thầm phớt qua pháp luật, trốn tránh và làm trái pháp luật…”(5) . Vì thế, trong công
tác xây dựng đảng nói chung, công tác phát triển đảng viên nói riêng cần phải tiến hành chặt chẽ,
nghiêm cẩn, tỉnh táo để ngăn không cho “những con lợn” tham ăn “xục vào vườn rau của Nhà nước để
ngoạm lấy ngoạm để”(6) và phải tăng cường đấu tranh phê bình, tự phê bình trong nội bộ và lắng nghe
ý kiến của nhân dân để phát hiện ra “những con lợn” đã “lọt vào trong vườn rau của Nhà nước” để “trừ
cho hết những thứ ấy và không để một khe hở nào cho của cải của chúng ta lọt ra ngoài”(7).
+ Hủ hoá đảng viên, cán bộ, công chức.
Hủ là xấu, hoá là biến đổi, biến thành; hủ hoá có nghĩa là biến cái (bản chất vốn có) tốt đẹp thành ra
(hoá thành) xấu xa. Khi lên án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chủ tịch đã viết “Chế độ thực dân đã đầu độc
nhân dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô
và những hủ hoá dân tộc chúng ta bằng những thứ xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải
giáo dục lại nhân dân chúng ta”(8). Động cơ vào Đảng chỉ vì mưu lợi ích cho riêng mình thì dần dần sẽ
hủ hoá, “càng ngày càng xa xỉ… thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức.
Ông uỷ viên đi xe hơi, rồi bà uỷ viên, cho đến các cô, các cậu uỷ viên, cũng dùng xe hơi của công. Thử
hỏi những hao phí đó ai chịu”(9). Ngày nay không ít đảng viên đã cố tình quên đi lời hứa khi vào
Đảng, lâm vào cảnh hủ hoá ngày càng trầm trọng.

+ Chia rẽ nội bộ.


Do động cơ vụ lợi ích kỷ nên khi đã có chức quyền trong tay (nhất là khi Đảng và Nhà nước trao nhiều
quyền hành cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị) nếu không sớm được phát hiện và ngăn chặn họ dễ
kéo bè, kéo cánh, bênh vực người xấu, chống lại những người thẳng thắn, trung thực dám đấu tranh với
những sai trái của họ. Tình trạng chạy chức, chạy quyền bao giờ cũng dẫn tới chia rẽ nội bộ, làm mất
đoàn kết, tạo điều kiện cho kẻ cơ hội “đục nước béo cò”.
Đảng ta là đảng cầm quyền. Nếu động cơ vào Đảng là để “thăng quan, phát tài” thì đó là nguyên nhân
chính phá hoại Đảng, phá hoại chế độ, là kẻ thù bên trong của tất cả chúng ta và con cháu chúng ta.

4- Việc cần làm ngay.


Biện pháp khắc phục đã được nêu ra toàn diện trong các văn bản chính trị - pháp lý của Đảng và Nhà
nước. Vấn đề quan trọng có tính mấu chốt theo thiển nghĩ của chúng tôi là có hai việc cần làm ngay:

Một là, hệ thống, soát xét lại tất cả những văn bản đã ban hành để xem đâu là “những kẽ hở” của cơ
chế, tổ chức, của kỷ luật đảng và pháp luật nhà nước cần khắc phục. Từ đó bãi bỏ những quy định đã
lạc hậu và bổ sung, ban hành những văn bản mới. Đồng thời, nghiêm khắc kiểm tra, giám sát xem đâu
là chỗ thi hành sai hay cố tình làm ngơ không chấp hành đúng những quy định đã có. Trong chính sách
cán bộ, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã ghi: “… bố trí, sử dụng đúng
những người có năng lực, hết lòng vì dân, vì nước, khuyến khích những người năng động, sáng tạo, có
sáng kiến, có ý tưởng mới…, bầu cử hoặc bổ nhiệm những người thực sự có đức, có tài, có tâm huyết
với đất nước vào các chức vụ trong cơ quan nhà nước các cấp, không phân biệt người ngoài Đảng hay
trong Đảng; khắc phục những biểu hiện cá nhân, cục bộ, thiếu dân chủ, không công tâm, nể nang, tuỳ
tiện trong công tác cán bộ”(10).
Việc thực hiện chủ trương nói trên của Đảng, ở chỗ này, chỗ khác đã chưa làm đúng nên người ta vẫn
thấy con đường vào Đảng có lẽ là con đường đi tắt, đi nhanh để giành chức quyền hơn là con đường
rèn đức, luyện tài để có năng lực thật đảm đương các chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Hai là, kỷ luật của Đảng phải nghiêm, phải thật quang minh, chính đại và pháp luật của Nhà nước phải
chặt chẽ, các chế tài phải đủ mạnh để ngăn ngừa và trừng trị những kẻ vi phạm. Hơn bất cứ lúc nào,
khẩu hiệu “Mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật Đảng” và “mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật” cần phải được đề cao, phải thực hiện kiên quyết ở tất các các cấp, các ngành. Từ đó không
để cho ai có ảo tưởng rằng đã là đảng viên, là cấp uỷ viên thì sẽ được ưu ái, chiếu cố hơn những người
ngoài Đảng.

You might also like