Professional Documents
Culture Documents
I. Mở đầu
Tế bào động vật có thể sinh trưởng trên các loại môi trường dinh
dưỡng tổng hợp bên ngoài cơ thể, vì thế chúng đã được nuôi cấy cho các
mục đích sau:
- Nghiên cứu các tế bào ung thư, phân loại các khối u ác tính, xác định
sự tương hợp của mô trong cấy ghép, nghiên cứu các tế bào đặc biệt cùng sự
tương tác của chúng, sản xuất tế bào gốc…
- Ứng dụng để sản xuất các hợp chất hóa sinh quan trọng dùng trong
chẩn đoán như các hormone sinh trưởng của người, interferon, hoạt tố
plasminogen mô, các viral vaccine và các kháng thể đơn dòng (monoclonal
antibodies). Theo phương pháp truyền thống các hợp chất hóa sinh này được
sản xuất bằng cách sử dụng các động vật sống hoặc được tách chiết từ xác
người chết. Chẳng hạn, các kháng thể đơn dòng có thể được sản xuất bằng
cách nuôi cấy các tế bào hybridoma trong các khoang màng bụng
(peritoneal cavity) của chuột, hoặc hormone sinh trưởng dùng để chữa bệnh
còi (dwarfism) có thể được tách chiết từ xác người chết. Tuy nhiên, số
lượng thu được từ các phương pháp này rất hạn chế vì thế việc ứng dụng
rộng rãi chúng trong điều trị còn gặp nhiều khó khăn.
Chuyển gen vào động vật để tạo ra nguồn thực phẩm có giá trị là một
trong những ứng dụng có ý nghĩa của công nghệ sinh học động vật. Tuy
nhiên, hướng nghiên cứu này vẫn còn một vài hạn chế trên động vật có vú
lớn do chúng sinh sản mỗi lần rất ít trứng, việc cấy phôi trở vào mẹ mang
phức tạp, mỗi mẹ mang chỉ nhận được một ít phôi, trứng của đa số động vật
nuôi có tế bào chất rất đục nên khó nhìn thấy tiền nhân để chuyển gen vào…
Mục tiêu của chuyển gen là nhằm đưa vào vật nuôi những tính trạng có hiệu
quả kinh tế cao như sử dụng triệt để thức ăn, nhiều thịt ít mỡ, sinh trưởng
nhanh, kháng bệnh… Mặc dù, còn gặp một số khó khăn và thất bại nhưng
người ta cũng đã có được một vài thành công bước đầu như tạo ra loại gà
kháng bệnh do avian leukosis virus gây ra hay cừu cho nhiều lông… Các kết
quả này cho phép hy vọng sẽ đạt được những bước tiến mới trong tương lai.
Nhóm III Kháng thể đơn dòng Các công cụ chẩn đoán
Nhóm IV Virus côn trùng Thuốc trừ sâu sinh học cho Baculovirus
- Sản xuất các viral vector dùng trong liệu pháp gen (biến nạp một gen
bình thường vào trong tế bào soma mang gen tương ứng bị khiếm khuyết để
chữa bệnh do sự khiếm khuyết đó gây ra). Các mục đích chính của liệu pháp
này là các bệnh ung thư, HIV, chứng viêm khớp, các bệnh tim mạch và xơ
hóa u nang.
- Sản xuất các tế bào động vật để dùng như một cơ chất in vitro trong
nghiên cứu độc chất học và dược học.
- Phát triển công nghệ mô hoặc phát sinh cơ quan để sản xuất các cơ
quan thay thế nhân tạo-sinh học/các dụng cụ trợ giúp, chẳng hạn:
+ Da nhân tạo để chửa bỏng.
+ Mô gan để chữa bệnh viêm gan.
+ Đảo Langerhans để chữa bệnh tiểu đường.
3. Các sản phẩm thương mại của nuôi cấy tế bào động vật có vú
Các sản phẩm sinh học được sản xuất bằng tế bào động vật có vú chủ
yếu là các glycoprotein. Bảng 5.2 giới thiệu một số sản phẩm tiêu biểu. Sự
phức tạp và chi phí cao của các quá trình nuôi cấy tế bào động vật cho thấy
sản xuất protein bằng tế bào động vật có vú chỉ thật sự kinh tế đối với những
sản phẩm có giá trị cao (>USD 106/kg). Vì thế, các sản phẩm protein của tế
Nhân tố VII, VIII, IX Các tác nhân gây cục máu, bệnh Liên kết N và O
và X máu loãng khó đông
Kháng thể đơn dòng Trị liệu và chẩn đoán Liên kết N
- Hầu hết các protein hiện diện trên bề mặt tế bào, virus, và trong máu
của các động vật được glycosyl hóa, và vì thế nó được xem giống như một
Huyết thanh dùng trong môi trường nuôi cấy không chỉ đắt tiền mà
còn là nguồn nhiễm bẩn virus và mycoplasma. Do bản chất hóa học của
huyết thanh chưa được xác định đầy đủ nên trong một số trường hợp có thể
ảnh hưởng xấu đến kết quả nuôi cấy. Sự hiện diện của nhiều protein khác
Hình 5.1. Nuôi cấy tế bào động vật trong hệ lên men 50 L
Nuôi cấy mẻ có
cung cấp dinh
dưỡng
Nuôi cấy
perfusion
Hình 5.2. Các phương pháp nuôi cấy tế bào động vật có vú. Các mũi tên trống
chỉ dòng chảy môi trường, mũi tên đen dày chỉ dòng chảy của dịch nuôi cấy có
sinh khối, mũi tên xám nhạt chỉ dịch nuôi cấy đã tách sinh khối ra.
A B
Hình 5.3. Các loại bình nuôi cấy tế bào động vật. (A) Bình T-flask. (B) Bình
spinner loại 0,5 L.
- Một chọn lựa khác là hệ lọc sợi rỗng (hollow fibre) có thể được dùng
để phân tách tế bào từ dịch lỏng nuôi cấy. Việc làm tắc nghẽn hệ lọc cũng
có thể xuất hiện nhưng có thể khắc phục bằng cách dùng tia nước ngược.
Các thiết bị lắng để thu sinh khối cũng đã được phát triển trong trường hợp
phân tách tế bào từ dịch lỏng nuôi cấy có mật độ cao.
- Một thiết bị đặc biệt dùng trọng lực hấp dẫn để giữ tế bào trong
reactor là hệ lọc âm thanh (acoustic filter). Hệ thống này dùng sóng âm
thanh tĩnh để tập trung các tế bào trong dòng chảy. Các tế bào tích lũy trong
các giao điểm (node) của sóng và lắng ngược xuống đáy chất lỏng trong
nuôi cấy, ngược lại với dòng chảy lên (up-flowing effluent stream). Sau
cùng, sử dụng phương pháp ly tâm để thu hồi tế bào cho các quá trình sản
xuất ở quy mô lớn.
Các hệ thống nuôi cấy sợi rỗng có thể được xem là một loại đặc biệt
của nuôi cấy perfusion trong đó tế bào được phân tách vật lý khỏi dòng chảy
môi trường (Hình 5.2). Các tế bào được sinh trưởng trong một khối không
Xác định phương pháp chuyển nạp thích hợp cho các gen ngoại lai đặc
trưng là cần thiết để thực hiện liệu pháp sửa chữa gen in vivo. Một vài bệnh
di truyền xuất hiện do thiếu các gen chức năng hoặc sản phẩm gen, vì vậy
thay thế một gen khiếm khuyết bằng một gen bình thường có thể sửa chữa
2. Các điều kiện cần thiết cho biểu hiện gen ngoại lai
Sau sự vận chuyển hiệu quả DNA vào trong nhân của tế bào nhận,
biểu hiện của DNA ngoại lai tùy thuộc vào các nhân tố điều hòa: enhancer
và promoter trình tự cis 5’ và các nhân tố phiên mã tác động trans (trans-
acting) của tế bào vật chủ. Promoter và enhancer là các nhân tố có thể được
chuyển vào trong vector để điều hòa biểu hiện gen sau khi hợp nhất vào
trong DNA tế bào. Hiểu biết cơ chế điều hòa của gen chuyển nạp sẽ chọn
được tế bào vật chủ cho phép các nhân tố phiên mã thích hợp hiện diện và
hoạt động. Cấu trúc một vector chuyển nạp gen thích hợp bao gồm các nhân
tố điều hòa eukaryote và prokaryote cần thiết để thực hiện khuếch đại trong
môi trường prokaryote và biểu hiện sản phẩm protein mong đợi trong vật
chủ eukaryote.
Sự điều hòa của prokaryote được kết hợp với sự khuếch đại DNA tái
tổ hợp trong E. coli hoặc các tế bào vật chủ prokaryote khác. Điều kiện tối
thiểu là phải có vùng khởi đầu sao chép (ori) vi khuẩn, promoter vi khuẩn
và gen chỉ thị chọn lọc hoặc sàng lọc để phân lập DNA tái tổ hợp được
khuếch đại. Các gen chỉ thị được sử dụng như gen neomycin transferase
(neo), thymidine kinase (tk), xanthineguanine phosphoribosyl transferase
(xgprt), kháng methotrexate nhờ dihydofolate reductase (dhfr), kháng
hygromycin (hgr) và kháng tetracycline (tet). Các gen chỉ thị là các gen
prokaryote được tạo dòng trong các vector biểu hiện ở các eukaryote cho
phép thử nghiệm biểu hiện tạm thời của DNA ngoại lai nhưng không phụ
thuộc vào môi trường chọn lọc. Các gen chỉ thị là β-galactosidase (β-gal),
luciferase (luc), chloramphenicol acetyl transferase (cat) và green
fluorescent protein (gfp). Các sản phẩm protein của mỗi gen tương ứng là B-
GAL, LUC, CAT và GFT.
Nói chung, các promoter eukaryote rất phức tạp, đòi hỏi hai hoặc
nhiều trình tự cis mà nhân tố phiên mã liên kết thành hàng RNA polymerase
II để phiên mã. Các nhân tố promoter tối thiểu bao gồm các lớp protein liên
kết DNA thường gặp AP-1 và SP-1 được xem là các nhân tố bảo thủ tìm
thấy nhiều trong promoter của eukaryotic virus. Tạo dòng trở lại
(subcloning) promoter 5’ của virus vào trong các gen mã hóa các sản phẩm
5. Kỹ thuật tế bào mầm phôi, chuyển gen và tái tổ hợp tương đồng
Một phương thức khác rất hữu hiệu trong chuyển gen là đưa DNA
ngoại lai vào các tế bào mầm phôi (embryonic stem-ES) còn gọi là tế bào
gốc (Hình 5.7a). Thiết lập một dòng tế bào ES, các tế bào được cấy chuyển
từ khối tế bào bên trong của túi phôi (blastocyt) đang phát triển lên các tầng
nuôi dưỡng hoặc vào môi trường có hoạt tính ức chế phân hóa
(differentiation inhibiting activity-DIA), để duy trì trạng thái không phân
hóa của chúng. DNA ngoại lai có thể được đưa vào trong các tế bào ES
bằng một số phương thức sau: xung điện, chuyển nhiễm hoặc vi tiêm. Sau
đó, các tế bào chọn lọc được đưa trở lại vào trong túi phôi và được dính vào
trong con cái mang thai giả cho phép phát triển tới kỳ hạn sinh đẻ. Sự khác
biệt quan trọng giữa các con của một số động vật thu được theo phương
thức này so với những con vật thu được bằng kỹ thuật vi tiêm vào phôi một
Hình 5.7. Chuyển gen động vật. (a) Sinh sản của các động vật chuyển gen bằng
các phương thức thao tác tế bào ES. (b) Tiếp theo việc chuyển DNA, các tế bào ES
mang thể tái tổ hợp tương đồng có thể được chọn lọc trước khi đưa vào trong túi
phôi.
Việc đưa DNA ngoại lai vào trong tế bào ES có ý nghĩa hơn phương
pháp vi tiêm vào phôi một tế bào nhờ ưu điểm thực tế là DNA ngoại lai có
thể được thiết kế để tái tổ hợp tương đồng với bản sao nội sinh của nó (Hình
5.7b). Sự chọn lọc tiếp theo, các dòng đích chính xác có thể được nhận diện,
hoặc bằng Southern blot hoặc phân tích PCR, và đưa trở lại vào trong các
Tế bào gan
Tế bào mầm phôi
HOẶC
Tuỷ xương
Tế bào thần kinh
Nuôi cấy
tế bào mầm
Tế bào cơ tim
Các điều kiện nuôi
cấy khác nhau Các loại tế bào được
phân hóa khác nhau
Tế bào mầm trưởng thành
Hình 5.8. Nuôi cấy tế bào mầm để sản xuất cơ quan người
Hai tính chất của tế bào ES người đa năng là khả năng sinh sản vô hạn
ở trạng thái phôi nguyên thủy trong điều kiện in vitro, và khả năng phân hóa
thật sự thành bất kỳ loại tế bào trưởng thành nào. Vì vậy, có rất nhiều lĩnh
vực ứng dụng chúng, nhưng tựu trung có các hướng chính sau:
5. Kỹ thuật nuôi cấy tạm thời phôi trong ống dẫn trứng
Lấy một hoặc hai khối agar bọc phôi, chuyển vào ống dẫn trứng của
cừu cái, kèm một lượng tối thiểu môi trường. Cừu cái phải được tạm ngừng
sinh dục, không động dục hoặc không chửa trong thời gian nuôi cấy. Các
điều kiện nêu trên có thể đáp ứng nếu trước ngày thao tác cấy phôi, người ta
tiêm vào tử cung progestagen. Các phôi bình thường sẽ đi vào tử cung ở giai
đoạn tám đến mười sáu tế bào.
Ống dẫn trứng của thỏ đã được sử dụng rộng rãi để cấy phôi động vật,
cấy các hợp tử đã được thụ tinh trong ống nghiệm. Để cấy vào ống dẫn
trứng thỏ, các phôi cần bọc bởi một lớp mỏng muxin. Thường người ta dùng
ống dẫn trứng của thỏ để nuôi cấy tạm thời phôi lợn.
Ngoài ra, kỹ thuật nuôi cấy tạm thời phôi trong tử cung của bò được
sử dụng để nghiên cứu các pha sớm trong quá trình hình thành thể khảm ở
phôi bò. Xoang ối của gà được sử dụng để nuôi cấy phôi của chuột, dê và
mèo. Phôi được bọc trong các khối agarose sau đó chuyển vào xoang ối của
gà.
Nhân UV
Tế bào ruột
Nhân
Nòng nọc
Phôi 8 tế bào
Đem nuôi cấy in vitro các tế bào tuyến vú, để 5 ngày trong một môi
trường nuôi cấy rất nghèo huyết thanh, với mục đích làm cho chu kỳ tế bào
giảm từ từ cho tới khi ngừng hoàn toàn. Giai đoạn này được gọi là G0. Sau
đó, làm lạnh trước khi đưa mỗi tế bào tuyến vú vào một noãn chưa thụ tinh,
đã rút nhân của một cừu cái khác, đầu đen. Kết quả, một tế bào mới đã được
hình thành, phát triển và tạo thành phôi.
Ở đây có sự phối hợp của hai kỹ thuật, một là hoạt hóa trứng đã lấy
nhân ra của cừu đen, hai là làm ngừng chu kỳ sống của tế bào tuyến vú cừu
trắng, tức là những tế bào soma đã được biệt hóa cao độ, tách từ một cơ thể
trưởng thành và người ta đã thành công trong kỹ thuật dung hợp tế bào.
Thành công này vượt lên các công trình trước đó, từ 1992 đã thất bại chủ
yếu là do các tế bào phôi sử dụng để chuyển nhân không được định vị ở giai
đoạn G0 (như trường hợp tạo cừu Dolly), mà đã phát triển tới G2 (pha tăng
trưởng) hoặc S (pha tái bản, tổng hợp DNA), đã cản trở sự dung hợp tế bào.
Cừu Dolly sinh ngày 5/7/1996, có trọng lượng bình thường không có
biểu hiện dị dạng như các thí nghiệm trước đó. Sống trong tử cung của “mẹ
nuôi hộ” lông đen, nhưng cừu Dolly vẫn có lông trắng, các phân tích kiểm
tra di truyền đã xác nhận cừu Dolly là bản sao của cừu Finn Dorset, cừu đã
cung cấp tế bào tuyến vú.
Loại bỏ nhân
Dung hợp tế bào
Phôi sớm