Professional Documents
Culture Documents
org/wiki/Tam_gi%C3%A1c
Các yếu tố trong tam giác
Một tam giác có ba cạnh, ba cạnh ấy tạo thành ba góc, chúng còn được gọi là các góc
trong để phân biệt với các góc ngoài là góc kề bù với chúng tạo bởi một cạnh và một
cạnh kéo dài.
Trong hình bên A' là góc đối của A đã dịch chuyển, B' là góc đối của B đã dịch
chuyển
Đoạn thẳng nối một đỉnh với hình chiếu vuông góc của nó trên cạnh đối diện được gọi là
đường cao của tam giác. Một tam giác có ba đường cao. Ba đường cao của một tam giác
cắt nhau tại một điểm, điểm này được gọi là trực tâm của tam giác.
Đoạn thẳng nối mỗi đỉnh với trung điểm của cạnh đối diện được gọi là trung tuyến của
tam giác, một tam giác có ba đường trung tuyến. Ba đường trung tuyến của một tam giác
cắt nhau tại một điểm, điểm này được gọi là trọng tâm của tam giác.
Trong mặt phẳng, mọi đường thẳng đi qua trọng tâm của tam giác đều chia tam
giác thành hai phần có diện tích bằng nhau
Đường tròn ngoại tiếp tam giác
Ngoài ra ba đường trung trực của ba cạnh cắt nhau tại một điểm, đó là tâm đường tròn
ngoại tiếp của tam giác.
Ba đường phân giác của ba góc trong cắt nhau tại một điểm, điểm này là tâm đường tròn
nội tiếp tam giác.
Tâm đường tròn nội tiếp tam giác thì cách đều ba cạnh của tam giác
1. Hai tam giác có ba cặp cạnh tương ứng bằng nhau thì bằng nhau.
2. Hai tam giác có hai cặp cạnh tương ứng bằng nhau và cặp góc xen giữa các cạnh
đó bằng nhau thì bằng nhau.
3. Hai tam giác có một cặp cạnh bằng nhau và hai cặp góc kề với cặp cạnh ấy bằng
nhau thì bằng nhau.
1. Hai tam giác có các cặp cạnh tương ứng tỷ lệ thì đồng dạng.
2. Hai tam giác có hai cặp góc tương ứng bằng nhau thì đồng dạng.
3. Hai tam giác có hai cặp cạnh tương ứng tỷ lệ, hai góc kẹp giữa hai cặp cạnh ấy
bằng nhau thì đồng dạng.
1. Tỉ số hai đường phân giác, hai đưòng cao, hai đường trung tuyến, hai bán kính nội
tiếp và ngoại tiếp, hai chu vi tuơng ứng của hai tam giác đồng dạng bằng tỉ số
đồng dạng.
2. Tỉ số diện tích của hai tam giác đồng dạng thì bằng bình phương tỉ số đồng dạng.
• Trong tam giác thường, mọi cạnh có độ dài khác nhau, mọi góc trong cũng khác
nhau.
• Tam giác đều là tam giác có cả ba cạnh có độ dài bằng nhau, nói cách khác: ba
góc trong bằng nhau và
• Tam giác cân là tam giác có hai cạnh có độ dài bằng nhau, các cạnh này được gọi
là cạnh bên, nói cách khác: tam giác cân là tam giác có hai góc trong bằng nhau
(chúng được gọi là các góc ở đáy).
Tam giác thường Tam giác đều Tam giác cân
• Tam giác vuông là tam giác có một góc bằng π / 2 rad, góc vuông. Trong một
tam giác vuông, cạnh đối diện với góc vuông gọi là cạnh huyền, là cạnh lớn nhất.
Hai cạnh kia là cạnh góc vuông của tam giác vuông. Định lý Pytago là định lí nổi
tiếng đối với hình tam giác vuông, mang tên nhà toán học, triết gia Pytago.
• Tam giác tù là tam giác có một góc trong lớn hơn π / 2 rad (một góc tù).
• Tam giác nhọn là tam giác có ba góc trong đều nhỏ hơn π / 2 rad (ba góc nhọn).
[sửa] Một số tính chất của tam giác (trong hình học
Euclide)
1. Tổng các góc trong của một tam giác bằng hai góc vuông (π rad hay 180o).
2. Độ dài mỗi cạnh lớn hơn hiệu độ dài hai cạnh kia và nhỏ hơn tổng độ dài của
chúng.
3. Ba đường cao của tam giác cắt nhau tại một điểm được gọi là trực tâm của tam
giác.
4. Ba đường trung tuyến của tam giác cắt nhau tại một điểm được gọi là trọng tâm
của tam giác. Mọi đường thẳng đi qua trọng tâm của tam giác đều chia tam giác
thành hai phần có diện tích bằng nhau.
5. Ba đường trung trực của tam giác cắt nhau tại một điểm là tâm đường tròn ngoại
tiếp của tam giác.
6. Ba đường phân giác trong của tam giác cắt nhau tại một điểm là tâm đường tròn
nội tiếp của tam giác.
7. Trong hai cạnh của cùng một tam giác cạnh đối diện với góc lớn hơn có chiều dài
lớn hơn. Góc đối diện với cạnh lớn hơn là góc lớn hơn.
8. Định lý hàm số cosin: Trong một tam giác, bình phương độ dài một cạnh bằng
tổng bình phương độ dài hai canh còn lại trừ đi hai lần tích của độ dài hai cạnh ấy
với cosin của góc xen giữa hai cạnh đó.
9. Định lý hàm số sin: Trong một tam giác tỷ lệ giữa độ dài của mỗi cạnh với sin của
góc đối diện là như nhau cho cả ba cạnh.
• Trong hình học phi Euclide thì một tam giác có thể có tổng ba góc phụ thuộc vào
kích thước của tam giác, khi kích thước tam giác gia tăng thì tổng đó tiến tới giá
trị là 0 và có diện tích là vô hạn.
Trong hình học Hyperbolic, tổng các góc Trên hình học mặt cầu, tổng các góc trong
trong một tam giác nhỏ hơn 180° của một tam giác cầu lớn hơn 180°
Có thể giải thích công thức này bằng cách dùng diện tích hình chữ nhật như sau:
Diện tích tam giác bằng một nửa diện tích hình bình hành, diện tích hình bình hành bằng
diện tích một hình chữ nhât.
Từ một tam giác (màu xanh lá cây), ta sao một tam giác bằng nó,(màu xanh lam), quay
góc 180°, và ghép chúng thành hình bình hành. Cắt một phần của hình bình hành, ghép lại
thành hình chữ nhật. Vì diện tích hình chữ nhật là bh, nên diện tích tam giác là ½bh.
Diện tích hình bình hành là tích có hướng của hai vectơ.
Nếu tứ giác ABDC là hình bình hành thì diện tích của nó được tính bởi công thức:
Diện tích tam giác ABC bằng một nửa diện tích của hình bình hành ABDC nên:
Vì và nên ta có:
Nếu đỉnh A đặt ở gốc tọa độ (0, 0) của hệ tọa độ Descartes và tọa độ của hai đỉnh kia là B
= (xB, yB) và C = (xC, yC), thì diện tích S của tam giác ABC bằng một nửa của giá trị tuyệt
đối của định thức
Trong không gian ba chiều, diện tích của tam giác cho bởi {A = (xA, yA, zA),
B = (xB, yB, zB) và C = (xC, yC, zC)} là tổng 'Pythagor' của các diện tích các hình chiếu của
chúng trên các mặt phẳng tọa độ (nghĩa là x=0, y=0 and z=0):
Cũng có thể tính diện tích tam giác S theo Công thức Heron:
trong đó là nửa chu vi của tam giác.
Hai tam giác là đồng dạng nếu có thể khai triển (co hay giãn) tam giác này theo cùng một
tỷ lệ để có tam giác kia. Trường hợp này, độ dài của những bên đồng vị có tỷ lệ bằng
nhau. Tức là nếu cạnh dài nhất trong một tam giác gấp đôi cạnh dài nhất của tam giác
đồng dạng, thì cạnh ngắn nhất của nó cũng gấp đôi cạnh ngắn nhất của tam giác kia, và
đường trung tuyến của tam giác đó cũng sẽ phải gấp đôi đường tương ứng của tam giác
kia. Hơn nữa, tỷ lệ cạnh dài trên cạnh ngắn của một tam giác sẽ phải bằng tỷ lệ cạnh dài
trên cạnh ngắn của tam giác kia. Điều quan trọng là những góc đồng vị phải bằng nhau để
hai tam giác được đồng dạng nhau. Việc này cũng xảy ra nếu một tam giác có một cạnh
chung với tam giác kia, và những cạnh đối với nó thì bằng nhau.
Hàm lượng giác sin và cosin có thể hiểu được khi dùng tam giác vuông và khái niệm
đồng dạng. Đó là hai hàm của góc được nghiên cứu bởi lượng giác học.