Professional Documents
Culture Documents
- Năm 1875: Gần 40 năm, sau thời kỳ của Morse, Emile Baudot đã đề xuất một loại
mã dành cho truyền thông điện tín trong đó các mẫu tự trong bảng Alphabet Tiếng
Anh được mã hóa bởi các từ mã nhị phân có chiều dài từ mã cố định bằng 5. Với mã
Baudot, các thành phần của từ mã nhị phân này là các bit dấu “1” hoặc bit trống “0”.
Minh hoạ mã Baudot:
Mặc dù Morse đã khởi xướng cho sự phát triển của hệ thống truyền thông số
bằng điện đầu tiên là hệ thống điện tín (Telegraphy), cũng được xem như là truyền
thông số hiện đại, đăc̣ biêṭ là bắt nguồn cho nghiên cứu của Nyquist năm 1924.
Nyquist đã tập trung vào việc xác định tốc độ truyền tín hiệu tối đa có thể đạt được
qua một kênh truyền điện tín với độ rộng băng kênh cho trước mà không có nhiễu liên
ký hiệu (ISI). Ông đã đưa ra được mô hình toán học của một hệ thống truyền thông
điện tín (Telegraph) trong đó tín hiệu phát đi có dạng tổng quát:
s ( t ) = ∑ an g ( t − nT )
n
Trong đó an là chuôĩ dư liêụ nhị phân { ±1} được truyêǹ với tôć độ 1 Tb bit s . Nyquist
đã xać đinh
̣ được dang
̣ xung tôí ưu có băng tâǹ giới haṇ tới W Hz đam
̉ baỏ tôć độ bit tôí
đa mà không gây ra nhiêũ ký hiêụ (ISI).
1.2. Hệ thống thông tin số
1.2.1. Khái niệm về thông tin số
Trước hết ta cần hiểu khái niệm “digital” ở đây có nghĩa là giá trị rời rạc và có
hàm ý rằng tín hiệu có một biến giá trị nguyên độc lập. Thông tin số bao gồm các con
số và các ký hiệu (ví dụ như các ký tự trên bàn phím). Máy tính dựa trên dạng thể
hiện số (digital) của thông tin để xử lý. Các ký hiệu (symbols) không có giá trị số và
mỗi ký hiệu được máy tính biểu diễn bởi một số duy nhất. Ví dụ như mã ASCII biểu
diễn ký tự “a” tương ứng với giá trị số ( 97 ) 10 và ký tự “A” tương ứng với giá trị số
( 65 ) 10 .
1.2.2. Mô hình hệ truyền tin số nói chung
tiếp giưa dải thông và dải chặn là đối xứng tại tần số khoảng 0.5 × 1Ts .
Đối với loại đáp ứng kênh này thì ký hiệu dư liệu vẫn bị nhiễu nhưng dạng
sóng đầu ra tiến dần tới 0 tại các bội số của chu kỳ ký hiệu.
Bằng cách lấy mẫu luồng ký hiệu chính xác tại các điểm mà ISI tiến dần tới
0, năng lượng phổ của các xung bên cạnh không bị ảnh hưởng tới giá trị của các xung
đang lấy mẫu tại điểm lấy mẫu. Điều đó chứng tỏ rằng thời gian lấy mẫu phải
được tính toán chính xác để giảm tối đa nhiễu giao thoa giữa các ký hiệu ISI.
Khi thiết kế các hệ thống, cần quan tâm đặc biệt đến tạp âm hoặc suy giảm
lớn của đường truyền để khôi phục chính xác thông tin định thời ký hiệu. Định thời
ký hiệu không chính xác luôn dẫn đến trôi định thời.
(2.1)
Lúc đó thì y(ti)=µai
Đây chính là điều kiện thu hoàn hảo khi không có ồn. Phân tích điều kiện này
bằng cách chuyển sang vùng tần số: Theo lý thuyết xử lý tín hiệu, phổ của tín hiệu
lấy mẫu là chồng chập các phiên bản dịch của phổ của tín hiệu được lấy mẫu (p(t))
nhân với nhân tử tỷ lệ 1/Tb. Các bước dịch là bội lần của tốc độ mẫu
(2.2)
Ở đó Rb=1/Tb là tốc độ bit trên giây.
Mặt khác Pδ(f) cũng có thể biểu diễn là biêń đổi Fourier của dãy vô hạn các
xung delta lặp lại với chu kỳ Tb, được trọng số bởi giá trị mẫu của p(t):
(2.3)
Đặt m=i-k (khi i=k, m=0; khi i≠k, m≠0) và dựa trên điều kiện lấy mẫu không có
ISI của p(t) ta có:
(2.4)
Kết hợp (2.2 và 2.4), điều kiện ISI zero sẽ là:
(2.5)
Tức là tổng P(f) với các phiên bản dịch của nó là hằng số. Chú ý là P(f) là phổ
của tín hiệu sau cùng sau khi đi qua hệ thống gồm: bộ lọc phát, lọc thu và kênh
truyền.
(2.5) có thể được viêt́ laị như sau:
∞
∑ P ( ω − nω ) = T
n =−∞
b b (2.6)
Hình 2.6: (a) Phổ tín hiệu cơ sở. (b) Phổ thỏa mãn phương trình ISI bẳng zero
1) Nghiệm lý tưởng: Cách đơn giản nhất thỏa mãn điều kiện ISI zero nói trên là hàm
P(f) có dạng chư nhật
(2.7)
Ở đó W là độ rộng phổ của tín hiệu xung và cũng là yêu cầu tối thiểu hệ thống
để truyền xung xác định bởi: W=Rb/2=1/2Tb (dễ dàng thấy rằng phổ này và các phiên
bản dịch, tức là đặt cạnh nhau sẽ cho tổng là hằng số).
Dạng sóng của xung truyền sẽ là hàm sinc:
(2.8)
Hay: P ( ω ) + P ( ω − ωb ) = Tb
Chú ý là có thể tạo ra nhiều hàm số có phổ hạn chế thỏa mãn phương trình trên.
Một dạng có nhiều ưu điểm mong muốn là dạng hàm phổ cosin tăng. Tính chất của
nó là có một khúc bằng phẳng và một khúc cuộn cắt như hàm cosin
̣ ω = x + ωb 2
Đăt:
(2.10)
(2.11)
̣ băng cuả P ( ω) là
Phổ như trên được goị là phổ vêt́ (vestigial spectrum). Độ rông
ωb ωb ω
̣ r= , x = ωx thi:̀ 0 ≤ r ≤ 1 . Khi đó độ rông
x
+ x với x ≤ ̣ băng cuả
2 2 . Ta đăt: ωb 2
P ( ω) sẽ la:̀
(2.12)
Trong đó r được goị là hệ số cuôṇ căt́ (roll-off factor) và được tinh
́ theo phâǹ trăm.
Khi r = 1 ta có cuộn cắt xoải, biên độ của đuôi p(t) dao động trở nên nhỏ nhất, do đó
lượng ISI gây nên do lỗi định thời mẫu sẽ giảm khi r tăng từ 0 đến 1.
Môṭ trong số họ phổ thoả mañ tiêu chuân̉ Nyquist la:̀
(2.13)
Hay có thể viêt́ dưới dang
̣ rut́ goṇ hơn:
(2.14)
̣ dung thoả mañ tiêu chuân̉ Nyquist.
Hình 2.9: Dang
Quan sat́ dang
̣ xung trên ta nhân
̣ thây:
́
- p ( t ) có giá trị cực đaị là R b taị t = 0 và căt́ zero không chỉ taị nhưng điêm
̉ baó hiêụ
mà coǹ căt́ zero taị cả nhưng điêm
̉ giưa hai khoang
̉ baó hiêu.
̣
̉ nhanh theo 1 t 3 .
- xung giam
Bài tập ví dụ: Xác định yêu cầu độ rộng băng cho đường truyền dẫn T1 (Đấy
là đường hợp kênh của 24 tín hiệu lối vào độc lập dựa trên mã PCM, T1 dùng
dạng lưỡng cực) có Tb=0.647µs và tạo dạng xung cosin tăng có r=1/2.
Giải: Nếu coi kênh là thông thấp lý tưởng thì độ rộng kênh Nyquist để truyền
tín hiệu qua là W=1/2Tb=772kHz.
Tuy nhiên một độ rộng thực tế dùng tín hiệu cuôn cắt có r=1/2 sẽ là:
BT = 1.158MHz
về PSD của y ( t ) . Đáng tiếc là nó có điều không thuận lợi vì bị hạn chế bởi dạng
xung nhất định. Khó khăn này có thể được giải quyết bằng sự khéo léo đơn giản là
xét tín hiệu PAM x ( t ) hình 2.11c với chu kỳ lặp lại là Tb , độ lớn xung tại t = kTb là
ak .
Cách này phù hợp vì nó tổng quát. Bây giờ ta cần tìm ℜ y ( τ ) , hàm tự tương quan thời
gian của dãy xung x ( t ) . Điều này dễ dàng thực hiện khi coi các xung là giới hạn của
xung chư nhật như hình 2.12a. Mỗi xung có độ rộng ε → 0 và chiều cao của xung thứ
k là h k . Do độ lớn của xung thứ k là a k nên ta có a k = h k ⋅ ε . Nếu ký hiệu dãy xung
chư nhật tương ứng là x̂ ( t ) , theo định nghĩa về hàm tự tương quan trung bình, ta có:
(2.15)
Khi đó tích phân ở đây sẽ là diện tích dưới tín hiệu x̂ ( t ) nhân với x̂ ( t ) trễ τ ( τ < ε ) .
Quan sát hình 2.12b, diện tích liên hệ với xung thứ k là h k ( ε − τ ) và:
2
1
ℜ x̂ = lim
T →∞ T
∑k h k2 ( ε − τ )
1 ε−τ
= lim
T →∞ T
∑
k
a 2k 2
ε
(2.16)
ℜ τ
= o 1 −
εTb ε
Tb
With : ℜo = lim
T →∞ T
∑a
k
2
k
ℜo τ
ℜ x̂ ( τ ) = 1 − ; τ <ε (2.17)
εTb ε
ℜo
Đó là một xung tam giác, chiều cao εTb và độ rộng 2ε , tâm tại τ = 0 . Hàm tự tương
quan ℜ x̂ ( τ ) → 0 khi τ → ε , đó là điều mong muốn, vì nếu τ = ε thì tín hiệu trễ
x̂ ( t − τ ) không chồng lên x̂ ( t ) nưa. Nhưng khi ta tăng τ lên nưa, ta thấy xung thứ k
của x̂ ( t − τ ) lại bắt đầu chồng lên xung thứ k+1 của x̂ ( t ) khi τ → To . Lặp lại ký hiệu
nói trên, ta thấy ℜ x̂ ( τ ) lại là một xung tam giác khác có độ rộng 2ε tâm tại τ → To và
ℜ1
chiều cao là εTb , trong đó:
Tb
ℜ1 = lim
T →∞ T
∑a a
k
k k +1 (2.18)
Cũng tương tự như vậy, tại các vị trí τ = 2Tb , 3Tb ... Vì vậy ℜ x̂ ( τ ) gồm một chuỗi
xung tam giác, chiều rộng 2ε , tâm tại τ = 0, ±Tb , ±2Tb ,... Chiều cao của xung tại tâm
ℜn
± nTb là , trong đó:
εTb
Tb
ℜn = lim
T →∞ T
∑a a
k
k k +n (2.19)
trung bình theo thời gian của tích a k a k + n trong T giây, nghĩa là: ℜn = a k a k + n .
* Tìm ℜ x ( τ )
Để tìm ℜ x ( τ ) , trong biểu thức ℜ x̂ ( τ ) ta cho ε → 0 . Khi đó độ rộng của mỗi xung
tam giác đều tiến dần tới 0, chiều cao tiến tới ∞ theo cách sao cho diện tích vẫn giới
ℜn
nội. Với xung thứ n tâm tại nTb , chiều cao εTb và do đó diện tích là
ℜn ℜn
⋅ε =
εTb Tb . Vì vậy ta có thể biểu diễn:
∞
1
ℜx ( τ) =
Tb
∑ ℜ δ ( τ − nT )
n =−∞
n b
(2.20)
T
With : ℜn = lim b
T →∞ T
∑a a
K
k k +n
1 ∞
Sx ( ω ) =
Tb
ℜ
o + 2∑ ℜn cos nωTb (2.22)
n =1
Nếu dãy xung x ( t ) tác động vào lối vào của mạch lọc có đáp ứng xung đơn vị p ( t ) ,
Sy ( ω) = P ( ω) ⋅ SX ( ω)
2
P ( ω) (2.23)
2
∞
=
Tb ℜ o + 2 ∑ ℜn cos nωTo
n =1
T
vị trí xung. Giả thiết “1” và “0” có xác suất bằng nhau, khi đó a k = 1 cho xung và
2Tb
T
a k = 0 cho xung còn lại. Từ đó ta có:
2Tb
Tb Tb T 1
∑a ⋅ ( 1) =
2
ℜo = lim 2
k = (2.24)
T →∞ T T 2Tb 2
k
Tb
Và: ℜn = Tlim
→∞ T
∑a a
k
k k +n
Trong đó, tích a k a k + n hoặc là bằng 0 hay bằng 1, với a k = 0 chiếm ½ thời gian,
a k = 1 chiếm ½ thời gian. Tương tự với a k + n . Vì vậy ta có 4 khả năng
( 1×1;1× 0;0 ×1;1×1) tất cả có xác suất bằng nhau. Vì vậy a k a k + n sẽ là 1 cho ¼ số xung,
và 0 cho số còn lại. Với số xung trong khoảng thời gian xét T là T Tb , ta có:
Tb T 1
ℜn = ( 1) = (2.25)
T 4Tb 4
Do đó:
1 2π ∞
2πn
Sx ( ω ) = + 2
4Tb 4Tb
∑ δω−
Tb
(2.28)
n =−∞
Và PSD mong muốn của dạng sóng đóng-mở (On-Off) là:
P ( ω ) 2π ∞
2
2πn
Sy ( ω ) = 1 + ∑ δω −
4Tb Tb n =−∞
Tb
(2.29)
Với trường hợp xung p ( t ) có dạng chư nhật, độ rộng một nửa:
t 2t
p( t) = ∏ = ∏
Tb
Tb
2 (2.30)
T ωT
P ( ω) = b sin c b
2 4π
Khi đó:
Tb ωT 2 π ∞ 2πn
Sy ( ω ) =
16
⋅ sin c2 b 1 + ∑ δω−
4π Tb n =−∞
Tb
(2.31)
Hình 2.13: Mật độ phổ công suất của báo hiệu đóng mở
Nhận xét:
- Phổ bao gồm cả thành phần liên tục và thành phần rời rạc. Thành phần rời rạc
chính là tần số f b = 1 Tb .
- Độ rộng dải chủ yếu của tín hiệu là 2f b , trong đó f b là tần số đồng hồ. Đó là 4 lần
độ rộng dải lý thuyết đỏi hỏi (Độ rộng dải Nyquist). Với xung độ rộng đầy đủ, độ
rộng dải tần chủ yếu giảm còn là f b .
- Báo hiệu đóng-mở cơ ưu điểm là đơn giản hóa thiết bị đầu cuối nhưng nó cũng có
một số nhược điểm. Với một công suất truyền cho trước, nó kém kháng nhiễu hơn so
với sơ đồ cực, trong đó dùng xung dương cho “1” và xung âm cho “0”. Đó là vì sự
kháng nhiễu phụ thuộc vào sự khác nhau của các biên độ xung đại diện cho “1” và
“0”. Vì vậy, nếu cùng độ kháng nhiễu, khi báo hiệu đóng-mở dùng các xung có biên
độ 2 và 0, tín hiệu cực chỉ cần dùng xung có biên độ 1 và -1. Thật đơn giản để chỉ ra
rằng tín hiệu đóng-mở cần công suất gấp đôi so với tín hiệu cực. Vếu xung biên độ 1
hay -1 có năng lượng E, thì xung có biên độ 2 có năng lượng ( 2 ) E = 4E . Công suất
2
1 1 2E
của tín hiệu cực là E . Công suất của tín hiệu đóng-mở là 4E ⋅ 2T = T , gấp 2
Tb b b
Tb TQ 2
ℜo = ( 1) = Q
T Tb
T T T
Để tính ℜb , ta nhận thấy, trong khoảng − , chỉ có Q các a k là “1” . Với mỗi
2 2 Tb
giá trị của các a k này, xác suất tìm thấy a k + n = 1 là Q. Vì vậy:
TQ TQ 2
∑k k k + n T
a a = Q =
Tb
o
Tb TQ 2
Và: ℜn = =Q
2
T Tb
Sy ( ω) = P ( ω) ⋅ SX ( ω)
2
P ( ω)
2
∞
=
Tb ℜ o + 2 ∑ ℜn cos nωTo
n =1
Ta có:
Sy ( ω) = P ( ω) ⋅ SX ( ω)
2
P ( ω)
2
∞
= Q 1 + 2Q∑ ℜn cos nωTo
Tb n =1
Trong báo hiệu cực, “1” được truyền đi bởi xung p ( t ) và “0” được truyền đi
bởi xung −p ( t ) . Trong trường hợp này, các a k là giống nhau bằng “1” hay “-1” và a 2k
luôn là 1. Vì vậy ta có:
Tb Tb T
ℜo = lim
T →∞ T
∑a k
2
k = ( 1) = 1
T Tb
(2.32)
Một cách tương tự, a k a k + n có thể là 1 hay -1. Một nửa của tổ hợp là 1, nửa còn lại là -
1. Vì vậy ℜn = 0 và:
P ( ω) P ( ω)
2 2
Sy ( ω ) = ⋅ℜo = (2.33)
Tb Tb
Hình 2.14: Mật độ phổ công suất của báo hiệu cực (Polar)
Phổ này hoàn toàn giống thành phần của tín hiệu đóng-mở. Như đã thảo luận
trước đó, báo hiệu cực có hiệu suất lớn hơn báo hiệu đóng mở. Thực vậy, với một
công suất cho trước, báo hiệu cực là sơ đồ hiệu quả nhất. Thêm vào đó là thông suốt.
Nhưng nó còn có tất cả nhưng nhược điểm của báo hiệu đóng-mở. Cần chú ý là
không có thành phần tần số đồng hồ rời rạc trong tín hiệu cực. Tuy nhiên, chỉnh lưu
tín hiệu cực có thể nhận được một tín hiệu tuần hoàn của thành phần đồng hồ và có
thể dùng cho việc rút ra định thời.
2.2.4. Báo hiệu lưỡng cực Bipolar (AMI: Alternate Mark Inverted)
Đây là sơ đồ báo hiệu dùng cho PCM hiện nay. Bit “0” được truyền đi bằng
trạng thái không có xung và “1” được truyền đi bởi xung p ( t ) hay −p ( t ) phụ thuộc
vào trước đó, “1” được truyền bởi xung p ( t ) hay −p ( t ) . Với sự thay đổi xung liên
tiếp, ta có thể tránh được rung pha chậm của thành phần một chiều và do đó có thể
có thành phần một chiều bằng không trong PSD. Báo hiệu lưỡng cực thực tế dùng 3
ký hiệu p ( t ) , 0, −p ( t ) , vì vậy thực tế nó là cơ số 3 chứ không phải báo hiệu cơ số 2.
T T T
có
2Tb
xung trong khoảng − 2 , 2 nên:
Tb T 1
( ±1) =
2
ℜo = (2.36)
T 2Tb 2
Để tìm ℜ1 , ta xem xét tích a k ⋅ a k +1 . Có 4 thành phần khả dĩ là tổ hợp gồm 2 bit
11,10, 01, 00 với xác suất xảy ra là như nhau. Tích a k ⋅ a k +1 cho các trường hợp này là
( −1) , 0, 0, 0 . Và a k ⋅ a k +1 = 0 tương ứng với 3 trường hợp cuối, có nghĩa là trung bình có
3 T 1 T
tổ hợp có a k ⋅ a k +1 = 0 và chỉ tổ hợp cho a k ⋅ a k +1 = −1 . Vậy:
4 Tb 4 Tb
Tb Tb T 1
ℜ1 = lim
T →∞ T
∑a a
k
k k +1 = ( −1) = −
T 4Tb 4
(2.37)
Tính ℜn : Với n > 1 , tích a k ⋅ a k +1 bằng 1, -1, hay 0. Hơn nưa số tổ hợp có
P ( ω) P ( ω)
2 2
ωT
Sy ( ω ) = [ 1 − cos ωTb ] = ⋅ sin 2 b (2.38)
2Tb 2Tb 2
Chú ý: Sy ( ω) = 0 với ω = 0 (thành phần DC), với P ( ω) bất kỳ. Vì vậy, PSD có thành
phần DC bằng không, rất thuận tiện cho việc ghép xoay chiều.
Với trường hợp xung chư nhật, độ rộng một nửa:
Tb ωT ωT
Sy ( ω ) = ⋅ sin c2 b ⋅ sin 2 b (2.39)
4 4π 2
Hình 2.15: PSD của báo hiệu lưỡng cực, cực và tách pha đã
chuẩn hóa cho có công suất bằng nhau.
Quan sát dạng phổ của tín hiệu lưỡng cực ta thấy, độ rộng dải chủ yếu của
1
tín hiệu là f b = , bằng nửa của báo hiệu đóng-mở và hai lần độ rộng dải cực tiểu
Tb
lý thuyết. Báo hiệu lưỡng cực có một số ưu điểm sau:
- Phổ của nó có thành phần DC bằng không
- Độ rộng dải không quá rộng
- Có khả năng phát hiện lỗi hơn. Đó là vì nếu mắc một lỗi đơn sẽ vi phạm tính
lưỡng cực lần lượt các xung và sẽ phát hiện được ngay. Nếu chỉnh lưu tín hiệu
lưỡng cực, ta có tín hiệu đóng-mở và có thành phần rời rạc ở tần số đồng hồ.
Về nhược điểm, tín hiệu lưỡng cực đòi hỏi công suất gấp 2 lần (3Db) công
suất cần thiết cho tín hiệu cực. Đó là vì báo hiệu lưỡng cực là tương đương với báo
hiệu đóng-mở theo quan điểm tách sóng. Thêm vào đó là báo hiệu lưỡng cực cũng còn
nhược điểm là không thông suốt.
2.2.5. Báo hiệu tách pha (hay Manchester)
Vì PSD Sy ( ω) là tích của P ( ω) và Sx ( ω) , phổ này chỉ có thể tạo dạng bằng
2
cách điều khiển P ( ω) hay Sx ( ω) . Thành phần một chiều bằng 0 thu được trong
Nên: P ( 0) = ∫ p ( t ) dt (2.40)
−∞
Vì vậy, nếu diện tích dưới p ( t ) bằng 0, thì P ( o ) bằng 0, và ta có thành phần
một chiều trong PSD bằng 0. Có nhiều cách để thực hiện điều này. Với xung chư
nhật, một dạng xung khả dĩ của p ( t ) được cho trên hình 2.16a. Ở đây mỗi bit được
biểu diễn bằng 2 xung liên tiếp có cực tính ngược nhau. Bit “0” được truyền bằng
xung −p ( t ) như trên hình 2.16b.
P ( ω)
2
Sy ( ω) =
Tb
Tb Tb
t+ 4 t− 4
p( t) = ∏ − ∏ T
Tb b
2 2
ωTb −ωTb
Tb ωT j Tb ωT j
P ( ω) = sin c b ⋅ e 4
− sin c b ⋅ e 4
2 4π 2 4π
(2.41)
ωT ωT
= jTb sin c b ⋅ sin b
4π 4π
ωT ωT
Sy ( ω) = Tb sin c2 b ⋅ sin 2 b (2.42)
4π 4
So sánh kết quả này với PSD lưỡng cực, ta thấy độ rộng dải cho báo hiệu tách
pha gấp 2 lần so với độ rộng dải của báo hiệu lưỡng cực (hình 2.15). Tuy nhiên, báo
hiệu tách pha có ưu điểm so với báo hiệu lưỡng cực là thông suốt vì mọi vị trí đều có
xung và một dẫy dài số 0 không gây nên khó khăn trong việc rút ra tính định thời.
2.3. Mã tương quan mức
Bên cạnh kỹ thuật tạo dạng để ISI bằng zero còn có kỹ thuật chấp nhận một
phần ISI (tức là tạo dạng xung có ISI biết trước hay điều khiển được) có thể đạt
được tốc độ truyền tin bằng tốc độ Nyquist tức là 2W ký hiệu/giây mà vẫn chỉ yêu
cầu kênh độ rông W Hz. Đó là kỹ thuật mã tương quan mức hay báo hiệu đáp ứng
riêng phần. Tương quan mức thể hiện mức độ ISI được biết trước (thông qua tương
quan của các mức mã). Thiết kế sơ đồ này dựa trên giả thiết sau: Vì biết được mức
độ ISI đưa vào tín hiệu truyền, nên ảnh hưởng của nó có thể phân giải ở bộ thu mà
không nhầm lẫn. Mã tương quan mức có thể coi là phương pháp thực tế đạt được
tốc độ báo hiệu lý thuyết cực đại là 2W ký hiệu /giây trên kênh rộng W (Hz) như trên
kênh Nyquist lý tưởng. Sau đây là một số loại tương quan mức cụ thể:
2.3.1. Báo hiệu nhị phân đúp
Ý tường cơ bản của mã tương quan mức được minh họa bằng báo hiệu nhị
phân đúp. Ở đó đup là gấp đôi dung lượng truyền của hệ nhị phân trực tiếp. Dạng
đặc biệt này của mã tương quan mức còn gọi là đáp ứng riêng phần loại I. Xét dãy
nhị phân b k gồm các ký hiệu nhị phân không tương quan 1, 0 có độ dài Tb . Dãy này
cấp lên bộ điều chế biên độ xung tạo ra dãy các xung ngắn 2 mức biên độ a k
+1 with b k = 1
ak =
−1 with b k = 0
Khi dãy xung này cấp lên bộ mã hóa nhị phân đup theo công thức: ck = a k + a k −1 ,
như trên hình vẽ 2.18.
Hình 2.17: Sơ đồ báo hiệu nhị phân đúp
Biến đổi này làm dãy 2 mức không tương quan a k chuyển thành dãy xung 3
mức có tương quan là -2,0,2. Tương quan này giưa các xung cạnh nhau có thể coi như
ISI được đưa một cách nhân tạo vào tín hiệu truyền, song dưới sự kiểm soát của
người thiết kế. Phần tử trễ có hàm truyền e− j2 πfTb . Vì vậy hàm truyền toàn thể của bộ
lọc nối tiếp với kênh Nyquist lý tường là:
Ưu điểm của đáp ứng tần số này là dễ xấp xỉ vì có sự liên tục ở biên của dải. Đáp
ứng xung tương ứng với hàm truyền H1 ( f ) sẽ gồm 2 xung sinc trễ nhau Tb giây:
π ( t − Tb )
sin πt sin Tb
h1 ( t ) = Tb +
πt π ( t − Tb )
Tb T b
(2.43)
sin πt sin πt Tb2 sin πt
= Tb − Tb = Tb
πt π ( t − Tb ) πt ( Tb − t )
Tb T b
Hình 2.18: Đáp ứng biên độ và đáp ứng pha theo tần số của bộ lọc nhị phân đúp
Ta thấy chỉ có 2 giá trị khác 0 tại các thời điểm lấy mẫu. Điều này giải thích
tại sao ta coi mã tương quan như báo hiệu đáp ứng một phần. Đáp ứng với một xung
vào trải dài hơn khoảng báo hiệu, nói cách khác đáp ứng trong khoảng báo hiệu chỉ là
Hình 2.19: Đáp ứng xung theo thời gian của bộ lọc nhị phân đúp
Dãy 2 mức a k ban đầu có thể tạo lại từ dãy mã đup ck . Bằng cách ký hiệu â k
là xấp xỉ của xung a k ở bộ thu tại t = kTb và thực hiện: aˆ k = ck − aˆ k −1 . Rõ ràng nếu ck
nhận được không lỗi và ước lượng trước đó â k −1 tại t − ( k − 1) Tb cho quyết định đúng
thì mạch ước lượng â k cũng đúng. Ta thấy qui trình tách là ngược với hoạt động của
bộ lọc trễ ở bộ phát. Kỹ thuật lưu giư để sử dụng quyết định trước đó gọi là phản
hồi quyết định.
Tuy nhiên điều không thuận lợi của qui trình này là khi có lỗi nó sẽ truyền lỗi
đến lối ra (lỗi trước kéo theo lỗi sau). Điều này là do quyết định lên lối vào a k hiện
tại lại phụ thuộc quyết định lên lối vào trước đó a k −1 . Để tránh hiện tượng truyền lỗi
này người ta thực hiện mã trước trước khi mã nhị phân đup. Mã trước chuyển dãy b k
thành d k như sau: d k = b k ⊕ d k −1
Dãy d k sẽ cấp lên bộ điều chế biên độ xung để tạo ra a k = ±1 như trước rồi
dãy này cấp lên bộ mã hóa nhị phân đup (chú ý là mã nhị phân dup là tuyến tính còn mã
trước là không tuyến tính).
0 with b k = 1
ck =
±2 with b k = 0
Ví dụ 2: Xét mạch tạo mã vi phân nối tiếp với bộ mã tương quan (hình 2.21). Chức
năng thực hiện là: y k = x k + y k −1 ; z k = y k − y k −1 . Bắt đầu với bit tùy ý (ví dụ là 1). Ta
có bảng sau:
Bộ mã trước là bộ trễ 2Tb giây, lối ra của bộ nhị phân dup sửa đổi liên hệ với
lối vào: ck = a k − a k − 2 . Ở đây một lần nưa tạo ra tín hiệu 3 mức 2,0,-2.
Hình 2.23: Đáp ứng biên độ và pha trong miền tần số của bộ lọc nhị phân đúp sửa đổi
Ưu điểm của bộ mã nhị phân đup sửa đổi là không có thành phần dc, điều này
thích hợp với việc truyền đơn băng (một phía phổ). Chú ý là dạng thứ 2 của mã mức
tương quan cũng cho sự liên tục tại biên của băng giống như báo hiệu nhị phân đúp.
Từ trên ta thấy đáp ứng xung của mã nhị phân đúp sửa đổi gồm 2 xung sinc cách nhau
2Tb giáy:
π ( t − 2Tb )
sin πt sin Tb
h IV ( t ) = Tb −
πt π ( t − 2Tb )
Tb T b
(2.43)
sin πt sin πt 2Tb2 sin πt
T − T = Tb
= b b
πt π ( t − 2Tb ) π ( 2Tb − t )
Tb T T
b b
Hình 2.24: Đáp ứng xung của bộ lọc nhị phân đúp sửa đổi
Đáp ứng xung cho thấy có 3 mức tại thời điểm lấy mẫu, và cũng giống như
báo hiệu nhị phân đúp, đuôi của các xung suy giảm như 1 t 2 . Để loại trừ khả năng
truyền lỗi trong sơ đồ nhị phân đup sửa đổi, ta dùng mã trước như đối với nhị phân
đúp. Cụ thể trước đó thực hiện:
d k = bk ⊕ d k −2
Ở đó b k là dãy nhị phân đến, d k là dãy ra của bộ mã trước sẽ được cấp tiếp
đó lên bộ điều chế biên độ xung, rồi bộ lọc nhị phân đúp sửa đổi. ck sẽ nhận các giá
trị 2,0,-2. Bộ quyết định thực hiện quyết định theo qui tắc:
Còn ck = 1 sẽ lựa chọn ngẫu nhiên. Giống như mã nhị phân đúp ta có nhận xét:
Khi không có ồn dãy nhị phân, tách được b̂ k chính xác như dãy nhị phân b k ở
bên phát. Dùng phương trình mã trước yêu cầu cộng 2 bit thêm vào dãy mã trước a k ,
thành phần của dãy giải mã b̂ k sẽ không đổi với cách lựa chọn 2 bit này.
x ( t) = g( t) + w ( t) with 0 ≤ t ≤ T
Ở đó g(t) có thể diễn đạt bit 0 hoặc 1. w(t) là hàm mẫu của quá trình ồn trắng
trung bình zero và mật độ phổ công suất N0/2. Dạng phân bố của quá trình ồn Gauss
như hình 2.29.
y ( t ) = go ( t ) + n ( t )
yêu cầu tách là tối thiểu ảnh hưởng của ồn hay tỷ số công suất tức thời của tín hiệu
lối ra g o ( t ) đo tại t = T so với công suất ồn trung bình là lớn nhất:
go ( T )
2
η= (2.45)
E n 2 ( t )
Vấn đề là xác định đáp ứng h ( t ) của bộ lọc sao cho tỷ số trên là cực đại. Goi G ( f )
go ( t ) = ∫ H ( f )G ( f ) e
2 j2 πfT
df (2.47)
−∞
Mật độ phổ công suất của ồn lối ra bằng mật độ phổ công suất lối vào nhân với bình
phương hàm truyền. Vì ồn lối vào w(t) là trắng với mật độ phổ công suất là N o 2 , ta
có:
No
SN ( f ) = H( f )
2
∫ H( f ) G( f ) e
j2 πfT
df
−∞
η= ∞
(2.49)
No
∫ H( f )
2
df
2 −∞
Từ đây cần xác định tiếp là với G ( f ) đã cho thì dạng hàm truyền H ( f ) thế nào để η
cực đại. Sử dung bất đẳng thức Schwarz (đẳng thức xảy ra khi φ1 ( x ) = kφ2 ( x ) )
∗∗
∞ 2 ∞ ∞
H( f ) G( f ) e H ( f ) df ∫ G( f )
2 2
∫ ∫
j2 πfT
df ≤ df (2.50)
−∞ −∞ −∞
Suy ra
∞
2
∫ G( f )
2
η≤ df (2.51)
No −∞
Vế phải bất đẳng thức không phụ thuộc hàm truyền mà vào năng lượng tín hiệu và
mật độ phổ công suất ồn, do vậy
∞
2
∫ G( f )
2
ηmax = df (2.52)
No −∞
Tức là hàm truyền có dạng giống như liên hợp phức của phổ tín hiệu lối vào. Để đặc
trưng trong miền thời gian ta lấy biến đổi Fourier ngược
∞
h opt ( t ) = k ∫ G ∗ ( f ) e − j2 πf ( T − t ) df (2.54)
−∞
G o ( f ) = H opt ( f ) G ( f ) = kG ∗ ( f ) G ( f ) e − j2 πfT
(2.56)
= k G ( f ) e − j2 πfT
2
Nên
( kE )
2
2E
ηmax = = (2.59)
( k N E 2)
2
o
No
Kết luận:
Bộ lọc phù hợp cho tỷ số tín/ồn cực đại chỉ phụ thuộc năng lượng xung tín hiệu và
công suất ồn.
Chú ý là bộ lọc phù hợp cũng tương đương với một bộ nhân-tích phân. Thật vậy xét
liên hệ tín hiệu vào và ra của một bọ lọc có đáp ứng h(t):
∞
y( t) = ∫ x ( τ ) h ( t − τ) dτ
−∞
h ( t) = φ( T − t)
Hình 2.32
Thông thường trong thực tế, chúng ta mong muốn thực hiện tìm xác suất lỗi bit
hơn là lỗi ký hiệu, đây là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ dư liệu được
gửi đi đến người sử dụng. Trong trường hợp tín hiệu có dạng nhị phân, xác suất lỗi
ký hiệu và xác suất lỗi bit được quan tâm như nhau.
NE
( BER ) =
NT
T được chọn bằng độ dài ký hiệu. Giả sử bộ cân bằng này mắc nối tiếp sau hệ
tuyến tính có đáp ứng xung là c(t). Ký hiệu p(t) là đáp ứng xung của toàn hệ:
N
p( t) = c( t) ∗h ( t) = c( t) ∗ ∑ w δ ( t − kT )
k =− N
k (2.61)
(2.65)
Song chỉ có 2N +1 hệ số có thể điều chỉnh được trong bộ lọc nên thay bằng:
(2.66)
Để đơn giản ký hiệu ta viết cn=c(nT) sau đó viết lại tổng chập rời rạc ta có:
(2.67)
Trong dạng ma trận ta viết:
Bộ cân bằng kiểu này gọi là bộ cân bằng ép về zero, bộ này là tối ưu theo
nghĩa tối thiểu các đỉnh méo. Nó tương đối đơn giản dễ thực hiện. N càng dài càng
gần với tiêu chuẩn Nyquist. Từ hệ phương trình tuyến tính trên có thể giải ra các
trọng số của bộ lọc
2.7.2. Bộ cân bằng thích nghi
Giải pháp trên thực hiện tốt khi ta biết các hệ số ci của hệ thống truyền bằng
cách lấy mẫu. Trong kênh viễn thông tính chất kênh thay đổi theo thời gian. Ví dụ
trong mạng điện thoại chuyển mạch có 2 yếu tố góp phần làm méo xung trên các
đường có kết nối khác nhau, đó là: (1) Khác nhau về đặc trưng truyền trên các đường
nối khác nhau, các kết nối lại có thể chuyển mạch cùng lúc; (2) Khác nhau về số
đường nối. Kết quả là kênh điện thoại ngẫu nhiên mang một số đặc trưng xác định.
Sử dụng bộ cân bằng cố định dựa trên đặc trưng trung bình của kênh lúc này không
làm giảm được ISI, mà cần đến bộ cân bằng thích nghi, tự hiệu chỉnh liên tục hệ số
theo đặc trưng thay đổi của kênh.
Cân bằng thích nghi có 2 loại: cân bằng trước kênh tại bộ phát và cân bằng sau
kênh tại bộ thu. Vì rằng loại thứ nhất cần có kênh phản hồi nên ta chỉ xét loại thứ 2
phù hợp với thực tế hơn. Để thực hiện loại 2, trước khi phát dư liệu cần huấn luyện
bộ lọc theo hướng dẫn của một dãy huấn luyện. Một kênh điện thoại thông thường it
thay đổi trong thời gian cuộc gọi trung bình, nên một phép cân bằng trước cuộc gọi
với một dãy huấn luyện là đủ trong đa số trường hợp trên thực tế.
Ở đây ta nghiên cứu bộ cân bằng thích nghi là bộ lọc trễ đường. Chúng đồng
bộ theo nghĩa là khoảng cách trễ bằng độ dài ký hiệu T. Bộ cân bằng này dễ thực
hiện và khá hiệu quả.
Việc lựa chọn phương pháp điều chế ảnh hưởng quyết định đến khả năng làm
việc dễ dàng, tính dung sai tạp âm và độ rộng băng tần kênh làm việc.
Điều chế số là quá trình sử dụng tín hiệu số (dư liệu: Data) để làm thay đổi
các thông số của sóng mang cao tần (biên độ, tần số và pha). Khi dư liệu được phát
làm thay đổi thông số về biên độ của tín hiệu sóng mang, ta có trường hợp khóa dịch
biên độ (ASK-Amplitude Shift Key); Dư liệu phát làm thay đổi thông số về tần số, ta
có trường hợp khóa dịch tần (FSK-Frequency Shift Key) và nếu dư liệu phát làm thay
đổi thông số về pha thì ta có trường hợp khóa dịch pha (PSK-Phase Shift Key). Xét
theo trạng thái mã hóa thì có thể phân ra làm hai loại điều chế số đó là: điều chế nhị
phân và điều chế hạng M.
3.2. ĐIỀU CHẾ NHỊ PHÂN
3.2.1. Khóa dịch biên ASK (Amplitude Shift Keying)
3.2.1.1. Dạng sóng điều chế ASK
Dạng đơn giản nhất của điều chế dư liệu băng thông là khóa dịch biên (ASK).
Các ký hiệu được biểu diễn bằng các giá trị biên độ rời rạc của sóng mang dao động
với tần số cố định. Trong trường hợp điều chế ASK nhị phân, chỉ có hai trạng thái ký
hiệu, đó là trạng thái có sóng mang hay không có sóng mang, quá trình này còn được
gọi là quá trình khóa đóng mở (ON-OFF-Keying - OOK
Hình 3.1. Dạng tín hiệu ASK
Hình 3.4. Sử dụng khóa chuyển mạch cho điều chế ASK
3.2.1.4. Độ rộng giới hạn của ASK
- Phương pháp lọc băng thông
Để tối thiểu hóa độ rộng băng chiếm dụng của tín hiệu được truyền dẫn
ASK, yêu cầu có bộ lọc hoặc bộ tạo dạng xung ở phía trước hoặc sau, sau khi điều
chế sóng mang. Đối với phương pháp tạo ra tín hiệu điều chế ASK bằng cách
chuyển mạch, phương pháp này không chấp nhận bất kỳ một quá trình lọc trước nào
của tín hiệu băng tần cơ sở, vì chuyển mạch này là quá trình không tuyến tính và
không truyền dẫn thông tin dạng xung trên đường bao sóng mang. Đối với trường hợp
này, bất kỳ quá trình lọc nào để tập trung độ rộng băng đều phải được thực hiện
trong băng thông tín hiệu được điều chế.
Hình 3.5: Lọc băng thông tín hiệu điều chế
Thí dụ: Nếu muốn lọc tín hiệu điều chế ở độ rộng 30 Khz, sóng mang có tần
số 900 MHz, sẽ phải dùng bộ lọc có hệ số chất lượng Q = 900 ×106 30 ×103 = 30.000 .
Hiện nay, hệ số chất lượng Q này chỉ có được khi sử dụng bộ lọc tinh thể, bộ lọc
này có biên độ gợn sóng (không bằng phẳng) và méo trễ nhóm rất xấu trong băng
thông. Chúng chắc chắn không cho phép nhà thiết kế đạt được đáp ứng băng thông bộ
lọc cosin tăng nghiệm mà giao thoa ký hiệu bằng 0.
- Phương pháp lọc băng tần cơ sở
Các vấn đề với việc lọc băng thông một tín hiệu dư liệu đã được điều chế cao
tần có thể được khắc phục nếu thực hiện sửa xung chuỗi dư liệu đầu vào băng tần
cơ sở và quá trình tuyến tính được thực hiện để duy trì biên độ của tín hiệu. Khi sử
dụng phương pháp trộn, luồng dư liệu cơ sở có thể được lọc trước bằng bộ lọc
thông thấp (lọc cosin tăng nghiệm) và thông tin sửa dạng xung này đặt lên đường bao
của sóng mang. Trên thực tế, đã có nhiều bộ trộn tích hợp tuyến tính có khả năng
hoạt động với tần số sóng mang có thể lớn hơn vài GHz đã có nhiều.
a).
b).
a).
b).
Hình 3.22: Sơ đồ khôi phục sóng mang trong phương pháp PSK kết hợp.
Trong hệ thống dư liệu sử dụng N trạng thái ký hiệu khác pha (N = 2 trong
trường hợp điều chế PSK nhị phân) tính phi tuyến bậc N phải sử dụng để bắt buộc
điều chế pha lấy mô-đun 2π . Phần còn lại của quá trình khôi phục sóng mang cũng
như vậy nhưng cần một "Mạch chia N" tần số sóng mang chính xác.
Với điều chế PSK được lọc, các tín hiệu vuông góc gồm các đường bao điều
chế thành phần tần số đối xứng xung quanh.
Hình 3.23: So sánh phổ PSK chưa lọc và được lọc.
- Mạch vòng Costas
Một phương pháp thường được sử dụng để khôi phục sóng mang vuông góc là
phương pháp mạch vòng Costas.
Mạch vòng Costas thực chất là hai mạch vòng khóa pha cùng làm việc song
song, với một VCO chung đưa các tín hiệu ra vuông góc cho mỗi mạch vòng. Qúa
trình làm vuông góc là cần thiết kế để kết hợp được điều chế PSK mô-đun 2π trong
mạch vòng Costas với vai trò bộ trộn thứ 3.
Hãy xem xét đến trường hợp chuỗi dư liệu đã được lọc: 1, 0, 1, 0, 1, 0,... ở
dạng xung hình vuông. Đầu ra sẽ là sóng mang có tần số 2 fc với "điểm qua 0" là 2
tần số đầu vào. Cho tín hiệu này tới mạch "chia 2" và có thể thấy rằng trạng thái
logic của bộ chia có thể được kích thích bởi các "điểm qua 0" (zero-crossings) bằng 2
lần tần số sóng mang và có thể không biết được nó có liên quan tới "điểm qua 0",
đúng hay không (và do vậy cả về pha nưa) của tín hiệu đầu vào. Kết quả là sóng đã
được khôi phục có thể bị sai pha 00 hoặc có thể bị sai pha 1800. Sự cung cấp sóng đảo
pha tới bộ tách sóng kết hợp sẽ gây ra toàn bộ dư liệu đã được tách sóng bị đảo pha.
Vấn đề này có thể giải quyết bằng cách gửi kèm 1 chuỗi huấn luyện (training
sequence) tới máy thu để nó có thể suy luận ra nhưng dư liệu đã bị đảo pha và có
biện pháp khôi phục đúng dư liệu. Tuy nhiên giải pháp chuỗi training hoạt động
không tốt lắm nếu kênh thường bị ngắt (ví dụ: môi trường phađing di động) do sự
mất định thời của sóng mang chuẩn. Mỗi lần sóng mang chuẩn được thiết lập lại,
tính không rõ ràng về pha sẽ lại xuất hiện yêu cầu truyền phát lại chuỗi training. Tính
không rõ ràng về pha này cũng xuất hiện trong vòng Costas, thậm chí ngay cả khi nó
không có một mạch chia rõ ràng.
Rõ ràng, quá trình tách này đơn giản hơn yêu cầu tách tín hiệu PSK thực tế và
phương pháp DPSK thường được sử dụng rộng rãi trong các hệ thống vô tuyến hiện
đại có tốc độ tín hiệu trung bình (đến 48000 bit/s). Tuy nhiên phương pháp DPSK có
tạp âm nhỏ không đáng kể so với PSK khi pha chuẩn của DPSK có trễ tạp âm đầu
vào có thể lọc tốt, thực tế là không có tạp âm chuẩn trong quá trình khôi phục sóng
mang.
3.2.3.6. Chất lượng BER trong điều chế PSK
Lý thuyết thực hiện kết hợp và mã hóa vi sai PSK được trình bày ở đây với
kênh có tạp âm trắng AWGN tham gia. Xác suất tỷ số BER trong trường hợp điều
chế PSK kết hợp tương tự như xác suất truyền dẫn băng tần cơ sở lưỡng cực. Qúa
trình điều chế và giải điều chế PSK có thể xem như kỹ thuật phù hợp để thu được
băng thông tương đương từ nguồn băng tần cơ sở. Tuy nhiên để chuyển đổi tín hiệu
băng tần cơ sở sang tín hiệu băng thông sẽ làm giảm hiệu suất độ rộng băng tần cực
đại của đường truyền dư liệu từ 2 bit/s/Hz xuống 1 bit/s/Hz đối với tín hiệu nhị phân
cho cả hai trường hợp.
Hình 3.26.
Hình 3.27.
3.3.1.2. Dạng sóng ASK M-mức
Dưới đây minh họa dạng sóng ASK 8 mức. Như vậy, số trạng thái ký hiệu
tương ứng với số mức biên độ của tín hiệu sóng mang.
Hình 3.28.
3.3.1.3. Phẩm chất lỗi bit trong điều chế ASK M-mức
Kết quả BER trong điều chế ASK M-mức được biểu diễn như hình 3.29. Từ
hình vẽ ta thấy, BER của ASK M-mức là khá kém và nhạy cảm với sự biến đổi của
tăng ích trong kênh và đòi hỏi phải xử lý tuyến tính hợp lý trong máy thu phát, có
nghĩa là nó ít được sủ dụng trong thực tế, trừ dạng nhị phân của nó.
Cũng có thể điều chế bằng cách sử dụng tần số ký hiệu không trực giao, như
trong điều chế FSK nhị phân. Bằng cách đặt khoảng cách giưa các tần số rất gần
nhau, có thể nén 4 ký hiệu trong một khoảng 2 ký hiệu và do đó tăng hiệu suất sử
dụng băng tần qua phương pháp điều chế BPSK, trong trường hợp này khả năng
chống tạp âm giảm so với hệ thống sử dụng điều chế FSK nhị phân, vì các ký hiệu
tần số không còn là trực giao nưa.
Tín hiệu trực giao: Hai tín hiệu ai ( t ) và a j ( t ) được gọi là trực giao trong một
chu kỳ ký hiệu nếu:
Ts
∫ a ( t ) ⋅ a ( t ) dt → 0
i≠ j
i j (3.1)
0
Hình 3.33: Đặc tính BER của FSK trực giao M-mức.
3.3.3. Khóa dịch pha M-mức (PSK M-ARY)
3.3.3.1. Khóa dịch pha cầu phương (QPSK)
Chúng ta đã biết trường hợp điều chế FSK trực giao có thể gửi đi hai hoặc
nhiều ký hiệu đồng thời qua kênh mà không bị ảnh hưởng tới quá trình tách ký hiệu.
Khi tín hiệu FSK trực giao được thiết lập, các sóng mang hình sin và cosin được lấy
trung bình qua các chu kỳ. Nếu sử dụng phương pháp điều chế PSK nhị phân, sóng
mang hình sin và sau đó có thể tách độc lập từng tín hiệu.
Chúng ta có thể minh họa phương pháp điều chế PSK bốn trạng thái:
00 , 900 ,1800 , 2700 như trong hình 3.34. Bốn trạng thái pha này vuông góc với nhau, sơ
đồ điều chế PSK này được gọi là điều chế cầu phương (QPSK). Đặc điểm nổi bật
của phương pháp này so với phương pháp điều chế BPSK là có thể gửi thông tin có
tốc độ gấp hai lần trong cùng một độ rộng băng tần.
(3.16)
Với
là đường bao phức của tín hiệu thông dải. Ký hiệu là mật độ phổ công suất
của đường bao phức (tức là mật độ phổ công suất băng cơ sở). Ta có thể biểu diễn
mật độ phổ công suất của tín hiệu băng thông dải như sau:
(3.17)
Do vậy việc tính phổ công suấtcủa tín hiệu thong dải được qui về tính với băng cơ
sở:
3.3.5.1. Phổ công suất của PSK và FSK nhị phân
a) Đối với PSK nhị phân biên độ phức chỉ có một thành phần đồng pha. Hàm tạo
dạng là:
(3.18)
Giả sử dạng sóng nhị phân ngẫu nhiên cân bằng giưa 1 và 0. Khi đó mật độ phổ công
suất = mật độ phổ công suất của hàm tạo dạng ký hiệu = bình phương độ lớn của
biến đổi Fourier của g(t). Vì vậy
(3.19)
Phổ này suy giảm nghịch đảo với bình phương tần số.
b) Đối với FSK nhị phân:
Tín hiệu FSK nhị phân được biểu diễn như sau:
(3.20)
(3.21)
- Thành phần đồng pha độc lập với sóng nhị phân, nó bằng
tại mọi giá trị thời gian. Mật độ phổ công suất của thành phần này gồm 2 hàm delta,
trọng số Eb 2Tb và xảy ra tại f = ±1 2Tb .
- Thành phần vuông pha liên hệ trực tiếp với sóng nhị phân lối vào. Hàm tạo dạng:
(3.22)
Có phổ mật độ năng lượng là:
(3.23)
Do đó mật độ phổ công suất của thành phần vuông pha là:
Tổng hợp lại:
(3.24)
Thay công thức vào phổ băng thông dải ta sẽ có 2 thành phần rời rạc tại
f1 = f c + 1 f = fc − 1
2Tb và 2 2Tb .
Chú ý là mật độ phổ công suất của FSK nhị phân pha liên tục giảm tỷ lệ nghịch
bậc 4 với tần số. Tuy nhiên khi FSK có pha không liên tục tại khoảng giưa bit, mật
độ phổ công suất chỉ giảm tỷ lệ nghịch bậc 2 với tần số và tạo ra nhiều giao thoa ra
bên ngoài băng.
Hình 3.41: Phổ công suất của tín hiệu BPSK và BFSK.
3.3.5.2. Phổ công suất của QPSK
Tùy theo 2 bit gửi trong khoảng -Tb ≤ t ≤ Tb các thành phần cùng pha và vuông
pha có cùng hàm mật độ phổ công suất:
(3.25)
Thành phần vuông pha và cùng pha là độc lập nên mật độ phổ công suất của
QPSK sẽ là tổng của 2 thành phần
(3.26)
(3.31)
Phổ này được biểu diễn như hình 3.34.
Hình 3.43: Phổ công suất của tín hiệu PSK hạng M. M = 2, 4, 8.
3.3.5. Hiệu suất độ rộng băng
Độ rộng kênh và công suất phát là 2 tài nguyên cơ bản của truyền thông. Sử
dụng hiệu suất các tài nguyên này là lý do của các nghiên cứu sơ đồ tiết kiệm phổ.
Trong đó cực đại hiệu suất độ rông phổ định nghĩa là tỷ số tốc độ dư liệu và độ
rộng kênh(đơn vị là bit/giây/Hz). Đối tượng thứ 2 là đạt được tiết kiệm băng với một
công suất trung bình tín hiệu tối thiểu hay là tối thiểu hóa tỷ số tín hiệu /ồn. Với tốc
độ dư liệu Rb và độ rộng băng kênh là B, hiệu suất sử dụng băng là:
(3.32)
a. Hiệu suất độ rộng băng của PSK hạng M
Phổ công suất của PSK hạng M là bup chính giới hạn bởi 2 điểm zero. Độ rộng kênh
để cho qua PSK hạng M (chính xác hơn là cho qua bup chính)là: B = 2 T , T là độ dài
ký hiệu, đổi ra độ dài bit:
(3.33)
Nên
(3.34)
Bảng Hiệu suất độ rộng băng của PSK hạng M:
(3.35)
Và:
(3.36)
Bảng hiệu suất băng của FSK hạng M:
CHƯƠNG 4. CÁC KỸ THUẬT ĐIỀU CHẾ SỐ ĐA NGƯỜI DÙNG
4.1. Giới thiệu về truyền thông đa người dùng
Mục tiêu chính của truyền thông dư liệu là khả năng chia sẻ nguồn tài nguyên
trên kênh thông tin chung cho nhiều người dùng tại cùng một thời điểm. Tài nguyên
dùng chung ở đây có thể là các tuyến truyền dẫn tốc độ cao bằng sợi quang ở khoảng
cách xa, phổ tần sử dụng như đối với hệ thống điện thoại tế bào, hay thông tin trên
một đường cáp xoắn ở trong công sở.
Để nhiều người dùng có thể chia sẻ tài nguyên chung một cách hiệu quả và có
quản lý, cần phải có một số dạng giao thức truy nhập để định nghĩa việc thực hiện
chia sẻ như thế nào và biện pháp để các thông điệp từ các người sử dụng riêng biệt
có thể được nhận dạng ở phía thu. Quá trình chia sẻ này được gọi là ghép kênh trong
các hệ thống truyền thông bằng cáp và đa truy nhập trong truyền thông vô tuyến số.
Hình 4.2.
Với ghép kênh phân chia theo tần số, tốc độ dư liệu và modem thiết kế cho
mỗi người sử dụng là không đổi theo yêu cầu hoạt động của hệ thống đa truy nhập
và chỉ cần thêm mạch biến đổi tần số để phù hợp với các khe được gán trước. Người
sử dụng thường được gán khe tần số trong khoảng thời gian một bản tin.
4.2.2. Hệ thống vô tuyến FDMA
FDMA được sử dụng rộng rãi trong các hệ thống thông tin không dây, nơi mà
môi trường vô tuyến tạo ra nhiều thách thức cho bất kỳ phương pháp đa truy nhập
nào do đặc tính thay đổi theo thời gian và không đoán trước được của kênh thông tin.
Một trong nhưng khó khăn lớn nhất là sự biến động công suất tín hiệu thu rất
lớn sinh ra từ người sử dụng trong các khe tần số khác nhau do hiệu ứng gần-xa
(near-far). Người sử dụng ở rất gần máy thu trạm gốc sẽ tạo ra tín hiệu mạnh hơn
nhiều so với người sử dụng ở xa, hoạt động tại biên của giới hạn thông tin cho phép.
Thông thường, biến động công suất có thể lên tới 100 dB. Nếu như tín hiệu lớn tạo
ra bức xạ ngoài băng, sang khe do tín hiệu yếu chiếm giư thì sẽ dẽ dàng đè lên tín
hiệu yếu làm gián đoạn thông tin.
Hình 4.3.
Các khó khăn trong môi trường vô tuyến bao gồm việc giải quyết vấn đề tấn
số của mỗi người sử dụng không ổn định do hiệu ứng Doppler và do lỗi của bộ dao
động nội. Lỗi không thể tránh khỏi này yêu cầu các dải bảo vệ được bố trí giưa các
khe tần số, dẫn đến giảm hiệu quả của lược đồ FDMA.
4.2.3. Điều khiển công suất trong các hệ thống FDMA
Do hiệu ứng gần-xa có thể là rất lớn trong hoạt động FDMA vô tuyến nên cần
thiết phải xem xét qua các biện pháp kỹ thuật để giải quyết vấn đề này. Kỹ thuật
hiệu quả nhất, đồng thời với cực đại hóa bộ lọc và định dạng phổ trong modem cùng
với cải thiện tính tuyến tính trong các hệ thống con thu phát là để cố gắng làm cho
công suất tín hiệu phát đi từ mỗi người sử dụng tại phía thu là bằng nhau. Nếu mỗi
người sử dụng đều có thể điều khiển hoàn toàn công suất phát từ máy phát của chính
họ và giả sử rằng họ biết nhưng suy hao trên đường truyền đến máy thu thì có thể
điều chỉnh công suất của chính các máy thu để đảm bảo mức nhỏ nhất cố định
(nhưng vẫn đủ) từ mọi người sử dụng ở phía thu.
Xác định suy hao đường truyền là một vấn đề rất quan trọng. Chắc chắn là
tuyến song công có thể cho phép người sử dụng đo được công suất thu từ phía trạm
gốc và từ đó tính được suy hao đường truyền ở “hướng thu”. Tuy nhiên trừ phi người
sử dụng đứng cố định và hoạt động phát và thu với cùng tần số thì không cần chuyển
suy hao đường truyền sang hướng khác. Thí dụ, người sử dụng máy di động có thể là
máy thu kém tính chọn lọc về tần số, trong trường hợp đó thì nó sẽ tính quá mức suy
hao đường truyền. Cũng tương tự như vậy, hướng phát có thể do tính kém lựa chọn
về tần số nên chúng không phát đủ công suất. Biện pháp để giải quyết vấn đề này là
hoạt động trong hệ thống điều khiển công suất vòng kín, theo đó trạm gốc giám sát
công suất tín hiệu phát đi từ mỗi máy người sử dụng di động và đưa ra các lệnh để
tăng hoặc giảm công suất phát. Tuy nhiên điều này có thể dẫn đến mào đầu của
thông tin báo hiệu lớn trong hệ thống.
Hình 4.4.
4.2.4. Ưu điểm của FDMA
T
4.3. Đa truy nhập phân chia chia theo thời gian (TDMA)
4.4. Đa truy nhập phân chia chia theo mã (CDMA)
5. Các hệ thống đa truy nhập kết hợp
CHƯƠNG 5. GIỚI THIỆU VỀ LÝ THUYẾT THÔNG TIN
1. Lượng thông tin
2. Mã hóa nguồn
3. Truyền thông không lỗi qua một kênh có ồn
4. Dung năng của kênh không nhớ rời rạc
5. Dung năng của kênh truyền liên tục
6. Hệ thống truyền thông thực tế theo cách nhìn của Shannon
7. Bài tập chương 5.
Thảo luận, bài tập: 9 tiết
Tìm hiểu, mô hình hóa và mô phỏng một số hệ thống thông tin vô tuyến sử dụng các
kỹ thuật điều chế khác nhau.
1. Hệ thống thông tin vô tuyến sử dụng điều chế QAM
2. Hệ thống đa người dùng CDMA
3. Hệ thống OFDM
4. Hệ thống OFDM-MIMO.
PHỤ LUC
̣ A-PHÂN TICH
́ ́ HIÊU
TIN ̣
̣ nghiã ham
1. Đinh ̀ sinc(t):
sin πx
sin c ( x ) =
πx
Ví du:̣
̉ diên
5. Biêu ̃ chuôĩ Fourier theo ham ̀ xung dirac δTo ( t ) được cho bởi:
̀ mũ cuả đoan
∞
2π
δTo ( t ) = ∑De
n =−∞
n
jnωo t
, ωo =
To
1 1
∫ δ ( t) e
− jnωo t
Trong đo:́ D n = T To dt =
To
o To
1 ∞ jnωo t 2π
̣ δTo ( t ) =
Vì vây: ∑
To n =−∞
e , ωo =
To
6. Chuyển đổi Fourier của đoàn xung
δ ( t − nTb ) ↔ e − jnωTb
e − jnωb t ↔ 2πδ ( ω − nωb )