Professional Documents
Culture Documents
Multiple Protocol Lable Switching MPLS những năm gần đây đã và đang được triển khai
ngày càng qui mô và rộng lớn trên nhiều quốc gia. Thậm chí đối với những đất nước nơi
mà nền công nghệ thông tin phát triển sau các nước tiên tiến trên thế giới đang cân nhắc
để họ có thể bỏ qua bước xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho truyền tải lớp 2 truyền
thống như các nước tiên tiến đã sử dụng như ATM hay Frame Relay để tiến thẳng đến
xây dựng một cơ sở hạ tầng MPLS.Vậy MPLS là gì và dựa trên những lợi ích to lớn nào
mà nó có thể dần dần thay thế các công nghệ cũ trước đó?
MPLS nói chung là một công nghệ chuyển mạch không dựa vào IP mà dựa vào một khái
niệm mới gọi là nhãn (label). Nhãn được thêm vào gói IP và được quảng bá đi giữa các
router để hình thành nên các ánh xạ giữa nhãn và địa chỉ IP. Lúc này, việc chuyển mạch
các gói tin sẽ không cần thực hiện việc tra cứu vào bảng định tuyến IP tức dựa trên địa
chỉ đích nữa mà hoàn toàn dựa vào bảng ánh xạ nhãn.
Đây không phải là một kỹ thuật xa lạ khi mà Frame Relay và ATM đã áp dụng nó để vận
chuyển frame hoặc cell. Ở mỗi hop trong network, giá trị có thể hiểu là nhãn như là DLCI
hay VPI/VCI sẽ bị thay đổi bởi 1 giá trị nhãn khác và điều này làm nó khác với cách
chuyển mạch IP truyền thống khi địa chỉ đích ở mỗi next hop luôn được duy trì không
đổi. Vậy tại sao phải sử dụng MPLS?
Trước MPLS, ATM và Frame Relay đóng vai trò là những công nghệ WAN chủ chốt,
cung cấp các kết nối và đường truyền riêng cho các dịch vụ lớp 2với sự riêng tư và ảo
hóa cao, đồng thời hỗ trợ luôn các dịch vụ lớp 3 gọi là các overlay network. Tuy nhiên,
để có thể làm được điều đó, nhà cung cấp dịch vụ phải xây dựng những hạ tầng riêng cho
từng loại lớp dịch vụ và điều này làm học tiêu tốn không ít chi phí.
Ở Việt Nam, hầu hết các mạng WAN đều sử dụng dịch vụ leased line thông qua các nhà
cung cấp dịch vụ viễn thông với lối hoạt động theo giao thức định tuyến IP truyền thống
khiến cho giá thành trở nên đắt đỏ và chất lượng dịch vụ kém do các router thường xuyên
bị quá tải dẫn đến việc mất lưu lượng hay mất kết nối. Nhưng khi triển khai MPLS và
dịch vụ điển hình của nó là MPLS VPN, các nhược điểm kể trên hoàn toàn có thể được
khắc phục. MPLS với việc chuyển mạch dựa vào nhãn mang lại nhiều lợi ích to lớn hơn
cho các nhà cung cấp dịch vụ khi có thể giúp họ tiết kiệm được chi phí cho việc xây dựng
cơ sở hạ tầng vì MPLS không chỉ cho phép vận chuyển các gói lớp 3 bằng giao thức IP
thông qua MPLS backbone mà còn cho phép bất kỳ giao thức giao thức non-IP lớp 2 nào
như Frame Relay, ATM, Ethernet, HDLC, PPP được vận chuyển chỉ trên một cơ sở hạ
tầng tích hợp duy nhất. Ngoài ra, nó còn hỗ trợ nhiều ứng dụng hữu ích như định tuyến
unicast, multicast, truyền tải dựa vào QoS và phân luồng giúp giảm thiểu sự quá tải trong
các router core .
Phần sau đây sẽ giới thiệu về kiến trúc MPLS cũng như một số khái niệm về cách thức
hoạt động của nó trong các thiết bị của CISCO.
-Nhãn (Label): trường được thêm vào giữa header và lớp 2 và lớp 3, có định dạng :
·Trường Label: Có độ dài 20 bit, đây chính là giá trị nhãn.
·Trường Exp (Experimental): Có độ dài 3 bit dùng cho mục đích dự trữ nghiên cứu và
phân chia lớp dịch vụ (CoS – Class Of Service).
·Trường BoS (hay S): Có độ dài 1 bit, dùng chỉ định nhãn cuối cùng của một chồng nhãn
(Label Stack). Với nhãn cuối cùng, BoS=1 hay S=1.
·Trường TTL (Time To Live): Có mục đích như trường TTL trong gói tin IP.
Vị trí của nhãn trong gói tin MPLS header là nằm giữa layer 2 và layer 3 header nên
thường được gọi là Shim header.
- LDP (Label Distribution Protocol): Là giao thức phân phối nhãn được dùng để gán nhãn
và thiết lập các LSP thông qua mạng MPLS.
1.1.1 MPLS Control Plane:
-Mỗi router biên của nhà cung cấp dịch vụ sẽ chạy định tuyến cùng với khách hàng.
Thông tin về định tuyến với mỗi khách hàng sẽ được lưu trong một bảng định tuyến riêng
cho khách hàng đó gọi là VRF (virtual route forwarding).
-Các thông tin định tuyến sau đó sẽ được redistribute tức quảng bá qua lại giữa CE và PE.
-Thiết lập phiên kết nối giữa các PE và chỉ có PE mới cần chạy IBGP với nhau. Các con
P trung chuyển không cần phải thiết lập IBGP.
-Lúc này, các PE sẽ sử dụng một loại địa chỉ 96 bit mới để giao dịch với nhau gọi là
VPNv4, nó là sự kết hợp của 32 bit địa chỉ IP và 64 bit giá trị RD (router distinguisher).
Với RD là giá trị để nhận dạng cho một dải địa chỉ của một site khách hàng.
-Ứng với mỗi RD cần xác định giá trị RT. Giá trị này nhằm xác định đích đến của gói tin
trong trường hợp muốn kết nối đến site của khách hàng khác.
MPLS VPN sử dụng 2 loại nhãn là IGP label và VPN label. IGP label là nhãn được gán
cho các prefix IPv4 trong bảng định tuyến RIB được xây dựng bởi các giao thức định
tuyến nội IGP, nhãn này nằm ở trên cùng trên chồng nhãn và sẽ được sử dụng trong việc
chuyển mạch các gói tin trong mạng lõi MPLS. VPN label là nhãn dùng để xác định VRF
mà một gói tin thuộc về. Nhãn này nằm dưới cùng trong chồng nhãn. Trong nhiều trường
hợp, nó dùng để xác định next hop để forward gói tin về đúng CE từ một PE.
Categories: CCNP