You are on page 1of 25

I.

Khái quát chung về vận tải đa phương thức tại Việt Nam:
1.1. Khái niệm chung về vận tải đa phương thức:
1.2. Luậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Luật và các
văn bảnThư viện các mẫu văn bản dưới luật của Việt Nam liên quan đến
hoạt động vận tải đa phương thức:
1.2.1.Bộ luật Hàng hải với các luật chuyên ngành về vận tải đa phương
thức:
1.2.2. Văn bản dưới luật về vận tải đa phương thức:
1.2.2.1. Nghị định số 125/2003/NĐ-CP:
1.2.2.2. Thông tư số 08/2004/TTLT-BTM-BTC-BGTVT:
1.2.2.3. Thông tư số 10/2004/TT-BGVT:
1.2.2.4. Thông tư 125/2004/TT-BTC:
1.3. Giới thiệu chung về các doanh nghiệp kinh doanhluận văn - báo cáo -
tiểu luận - tài liệu - sách về Kinh Doanh vận tải biển và vận tải đa phương
thức ở Việt Nam:
1.3.1.Trước thời điểm Nghị định số 125/2003/NĐ-CP có hiệu lực:
1.3.2.Sau thời điểm Nghị định số 125/2003/NĐ-CP có hiệu lực:

Giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức


Mục đích Kiếm soát và giám sát các hoạt động của các doanh nghiệp vận tải đa phương thức
Thể loại Giấy phép
491
492
Ngành nào 493
cần 50 Mua bán, bảo dưỡng xe có động cơ và mô tô, xe máy, phụ tùng cho xe có động
cơ, xăng, dầu mỡ
51 Mua bán và Đại lý (trừ xe có động cơ và mô tô, xe máy)
Nơi nộp Bộ Giao thông vận tải
hồ sơ Tên Bộ Giao thông vận tải
Địa chỉ 80 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Số điện thoại 04 9424015
Số fax 04 9423291
Email
Trang web
Ghi chú
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Tên Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Địa chỉ 02 Hoàng Văn Thụ, Ba Đình, Hà Nội
Số điện thoại 04 8453027
Số fax
Email
Trang web
Ghi chú
Lệ phí: (Quy định bởi Bộ Tài chính);
Lệ phí và
Thời hạn
Thời hạn: 24 tháng
Các hồ sơ Điều kiện:
cần khi
đăng ký • Tổ chức và cá nhân Việt Nam thoả mãn tất cả các điều kiện sau sẽ được cấp
giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức:
1. Là doanh nghiệp Việt Nam có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
vận tải đa phương thức.
2. Có hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm chuyên môn cho hoạt động vận tải
đa phương thức hoặc bảo đảm của ngân hàng cho việc kinh doanh vận
tải đa phương thức trước những tổn thất trong vận chuyển, hư hỏng
hàng hoá, giao hàng chậm hoặc các rủi ro khác.
3. Có tài sản trị giá ít nhất 80.000 SDR hoặc có sự bảo đảm tương
đương.
• Các tổ chức và cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam thoả mãn tất cả các
điều kiện sau sẽ được cấp giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức:
1. Đáp ứng các điều kiện được quy định trong luật về đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam.
2. Có hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm chuyên môn cho hoạt động vận tải
đa phương thức hoặc đảm bảo của ngân hàng cho việc kinh doanh vận
tải đa phương thức trước những tổn thất trong vận chuyển, hư hỏng
hàng hoá, giao hàng chậm hoặc các rủi ro khác.
3. Có tài sản trị giá ít nhất 80.000 SDR hoặc có sự bảo đảm tương
đương.
• Các doanh nghiệp nước ngoài thỏa mãn tất cả các điều kiện sau có thể được
cấp giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức:
1. Là doanh nghiệp của các nước thành viên ASEAN đã ký Hiệp định
khung ASEAN về vận tải đa phương thức hoặc doanh nghiệp của các
nước ký Hiệp định song phương hoặc đa phương với Việt Nam về vận
tải đa phương thức.
2. Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh vận tải đa phương thức do cơ
quan có thẩm quyền nước đó cấp và được hợp pháp hoá lãnh sự.
3. Có đại diện pháp lý tại Việt Nam là doanh nghiệp vận tải hoặc đại lý
vận tải của Việt Nam. Trong trường hợp là doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài thì tỷ lệ vốn góp của phía Việt Nam không thấp hơn
51%.

Hồ sơ đăng ký:

• Các tổ chức và cá nhân Việt Nam nộp hồ sơ đăng ký lên Bộ Giao thông vận
tải.
1. Đơn xin cấp giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức (do người
đứng đầu doanh nghiệp ký và đóng dấu).
2. Bản sao giấy phép đăng ký kinh doanh (có công chứng).
3. Bản khai báo tài sản doanh nghiệp do cơ quan tài chính quản lý doanh
nghiệp chứng nhận hoặc giấy tờ đảm bảo tương đương do các ngân
hàng chứng nhận.
4. Bản sao hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm chuyên môn (có công chứng)
hoặc giấy tờ bảo đảm của ngân hàng.
• Các tổ chức và cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam nộp hồ sơ đăng ký
lên Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
1. Các loại giấy tờ theo quy định của luật về đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam.
2. Bản khai tài sản doanh nghiệp hoặc các giấy tờ bảo đảm tương đương.
3. Bản sao hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm chuyên môn hoặc bản sao
giấy tờ bảo đảm của ngân hàng.
• Các doanh nghiệp nước ngoài nộp hồ sơ đăng ký lên Bộ Giao thông vận tải.
1. Đơn xin cấp giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức.
2. Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh vận tải đa
phương thức do cơ quan có thẩm quyền nước đó cấp và đã được hợp
pháp hoá lãnh sự. Bản sao phải được chứng nhận bởi đại sứ quán hoặc
lãnh sự quán nước đó đóng tại Việt Nam.

3. Hợp đồng đại lý với doanh nghiệp của Việt Nam.


Trình tự • Đối với doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài:
thủ tục 1. Các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh
vận tải đa phương thức phải nộp ba bộ hồ sơ lên Vụ Giao thông vận
tải thuộc Bộ Giao thông vận tải. Vụ Giao thông vận tải kiểm tra,
hướng dẫn doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ và ký xác nhận đã nhận hồ
sơ.
2. Sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Vụ Giao thông vận tải gửi hồ sơ đến các
vụ, cục liên quan thẩm định.
3. Doanh nghiệp nhận giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức
trong vòng 20 ngày kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hợp lệ.
4. Trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do trong
vòng 20 ngày.
• Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
1. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp hồ sơ xin cấp phép lên
Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2. Sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gủi cho Bộ
Giao thông vận tải xem xét chấp thuận.
3. Vụ Giao thông vận tải Bộ Giao thông vận tải đánh giá và trả lời trong
vòng 10 ngày làm việc kể từ khi nhận được văn bản yêu cầu của Bồ
Kế hoạch và Đầu tư.
4. Trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư cấp giấy phép cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sau
khi nhận được văn bản chấp thuận của Bộ Giao thông vận tải.
5. Trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do trong
vòng 60 ngày.

Chú thích: Quy trình và thủ tục đánh giá hồ sơ và cấp giấy phép đầu tư trong lĩnh vực
vận tải đa phương thức tuân thủ các các điều khoản luật về đầu tư nước ngoài.
• 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ (áp dụng với doanh nghiệp Việt
Thời hạn Nam và doanh nghiệp nước ngoài).
trả lời hồ
sơ • 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ (áp dụng với doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài).
Cơ quan
thanh, Phòng thanh tra, Vụ Giao thông vận tải, Bộ Giao thông vận tải
kiểm tra
Cơ quan cấp Giấy phép có quyền thu hồi Giấy phép nếu doanh nghiệp kinh doanh
vận tải đa phương thức vi phạm một trong các trường hợp sau:

1. Vi phạm điều kiện hoặc thủ tục cấp Giấy phép quy định tai Điều 6 và Điều 7
Hình thức NĐ số 125/2003/NĐ-CP về kinh doanh vận tải đa phương thức quốc tế;
xử phạt vi 2. Trong thời hạn 1 năm kể từ ngày được cấp Giấy phép doanh nghiệp không
phạm thực hiện tối thiều 1 hợp đồng vận tải đa phương thức.

Giấy phép sẽ bị thu hồi tạm thời trong thời hạn 6 tháng nếu doanh nghiệp kinh doanh
vận tải đa phương thức vi phạm lần đầu quy định nói trên và bị thu hồi hoàn toàn nếu
doanh nghiệp kinh doanh vận tải đa phương thức vi phạm lần thứ hai.
Các văn Nghị định số 125/2003/ND-CP ngày 29/10/2003 về vận tải đa phương thức quốc tế
bản luật Thông tư số 10/2004/TT-BGTVT ngày 23/6/2004 hướng dẫn thi hành Nghị định số
liên quan 125/2003/NĐ-CP ngày 29/10/2003 về vận tải đa phương thức quốc tế.
• Các doanh nghiệp phải có hợp đồng vận tải đa phương thức được mua bảo
hiểm trách nhiệm chuyên môn từ các tổ chức bảo hiểm Việt Nam hoặc các tổ
chức bảo hiểm nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam.
• Các doanh nghiệp phải có sự bảo đảm của các tổ chức ngân hàng Việt Nam
Thông tin
hoặc các tổ chức ngân hàng nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt
bổ sung
Nam.

• Các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài phải nộp 03 bộ hồ sơ lên Vụ Giao
thông vận tải, Bộ Giao thông vận tải.

Phần thông tin chi tiết về giấy phép chỉ đưa ra các hướng dẫn cơ bản. Bạn phải nghiên cứu văn
bản quy phạm kèm theo hướng dẫn này và bạn trao đổi ý kiến với cơ quan có thẩm
quyền quyết định bạn thực sự cần nộp để có được giấy phép và kiểm tra xem có thêm những quy
định mới liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của bạn. Chúng tôi không chịu trách nhiệm bất cứ
trình tự lỗi hay sự loại bỏ.. Hãy xem phần Điều khoản và Điều kiện
Vận tải đa phương thức trước khi có công ước về vận tải đa phương thức quốc tế

Trong công cuộc phát triển vận tải chuyên chở hàng hóa giao lưu quốc tế, người ta ngày càng
nâng cao, hoàn thiện các phương thức vận tải riêng lẻ, vận tải đường biển, đường bộ, đường sắt,
vận tải đường hàng không (một số nơi còn vận tải đường ống). Đó là những phương thức vận tải
đơn lẻ, vận tải đơn phương thức (Unimodal transport).
Nhưng hoàn cảnh thực tế đòi hỏi phải liên kết những phương thức đó lại với nhau để thu được
hiệu quả lớn hơn, lợi nhuận cao hơn. Người ta gọi đó là tổ chức vận tải liên hợp (Intermodal
transport).

Vận tải liên hợp là vận tải hàng hóa bằng nhiều phương thức vận tải từ một điểm xuất phát qua
một hay nhiều điểm xen giữa đến một điểm cuối cùng do một người chuyên chở (hay một người
giao nhận) đứng ra tổ chức cho toàn bộ hành trình.

Người ta còn gọi vận tải liên hợp là vận tải hỗn hợp (combined transport) chuyên chở hàng hóa
bằng ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau từ một địa điểm nơi nhận trách nhiệm đối với
hàng hóa đến một địa điểm được chỉ định giao hàng ở một nơi khác.

Sự khác biệt của vận tải liên hợp với vận tải đơn phương thức, vận tải từng cung đoạn thông
thường là :

a) Vận tải liên hợp dựa trên một hợp đồng đơn nhất, còn vận tải riêng lẻ từng chặng thì người có
hàng phải kí kết nhiều hợp đồng, mỗi hợp đồng cho một chặng đường chuyên chở.

b) Chứng từ vận tải mà người kinh doanh vận tải liên hợp (người giao nhận hay người chuyên
chở) cung cấp cho chủ hàng là một chứng từ đơn nhất thể hiện cả quá trình vận tải qua nhiều
cung đoạn.

c) Người kinh doanh vận tải liên hợp hoạt động như một bên chính (principal) chứ không đóng
vai trò đại lý của người gửi hàng hay người chuyên chở tham gia vận tải liên hợp.

d) Người kinh doanh vận tải liên hợp có trách nhiệm về tổn thất hàng hóa xảy ra bất cứ lúc nào
hoặc ở bất cứ cung đoạn nào trong quá trình vận tải liên hợp cũng như về chậm giao hàng.

e) Người gửi hàng phải trả cho người kinh doanh vận tải liên hợp tiền cước chở suốt, bao gồm
tiền cước của tất cả các phương thức vận tải đã sử dụng theo một giá chung do hai bên thỏa
thuận.

Tóm lại, có thể hình dung vận tải liên hợp là vận tải trên cơ sở một hợp đồng đơn nhất, một
chứng từ vận tải đơn nhất, một trách nhiệm đơn nhất và một giá cước đơn nhất.

Việt Nam đã nhiều lần thực hiện vận tải liên hợp. Năm 1982, Công ty thuê tàu Vietfracht đã chở
hàng từ thành phố Hồ Chí Minh đi Paris (Pháp) qua các chặng đường: Sài Gòn / Biển Đen bằng
tàu biển của hãng Interlighter, từ Biển
Đen đi Regenburg (Đức) bằng tàu kéo sà lan, từ Regenburg đi Paris bằng xe lửa. Khoảng năm
1980, Công ty giao nhận Vietrans chở hàng từ Hải Phòng đi Tiệp Khắc qua các chặng: Hải
Phòng đi Singapore bằng tàu biển của hãng Blasco, từ Singapore đi Trieste (Italia) bằng tàu của
hãng Hapaglloyd, từ Trieste đi Chop bằng xe ôtô tải và từ Chop đi Praha bằng xe lửa. Các công
ty Transimex, Viconship, Gemartrans, Vosa tuy chưa lập tuyến vận tải thường xuyên nhưng đã
có tổ chức những chuyến vận tải liên hợp có kết quả tốt, đã quen những kiểu vận tải liên hợp
Seaair (đường biển-đường hàng không), Searoad (đường biển-đường bộ) hay Searoadsea (đường
biển-đường bộ-đường biển).

Công ước về vận tải đa phương thức quốc tế

Ngày 24/8/1980 một hội nghị của Liên hiệp quốc họp tại Geneva đã thông qua công ước của
Liên hợp quốc về vận tải hàng hóa đa phương thức quốc tế (UN Convention on the International
Nghị định mới về vận tải hàng hóa đa phương thức

Miễn kiểm tra thực tế hải quan với các hàng hóa vận tải đa phương thức quốc tế là một
trong những nội dung quan trọng trong Nghị định về vận tải đa phương thức vừa được
Chính phủ ban hành.

Nghị định 87/2009/NĐ-CP về vận tải đa phương thức vừa được Chính phủ ban hành thay thế
Nghị định 125/2003/NĐ-CP về vận tải đa phương thức quốc tế sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày
15/12/2009. “Vận tải đa phương thức” là việc vận chuyển hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức
vận tải khác nhau trên cơ sở một hợp đồng vận tải đa phương thức.

Theo Nghị định mới, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về vận tải đa phương thức. Hàng
hóa vận tải đa phương thức quốc tế được miễn kiểm tra thực tế hải quan, trừ một số trường hợp
nếu nghi ngờ có dấu hiệu vận chuyển ma túy, vũ khí và các loại hàng cấm khác.

Việc cấp giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức quốc tế (có giá trị 5 năm kể từ ngày cấp)
thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ
ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Bộ GTVT cấp giấy phép cho doanh nghiệp. Theo Nghị định
125/2003/NĐ-CP cũ, việc cấp giấy phép trong một số trường hợp thuộc thẩm quyền của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và thời hạn cấp giấy phép là 60 ngày. Các tổ chức đã được cấp giấy phép kinh
doanh vận tải đa phương thức còn thời hạn theo Nghị định 125/2003/NĐ-CP phải làm thủ tục xin
cấp lại giấy phép sau khi hết hạn hiệu lực của giấy phép.

Cũng theo Nghị định mới này, doanh nghiệp, hợp tác xã Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài
đầu tư tại Việt Nam chỉ được kinh doanh vận tải đa phương thức quốc tế khi có Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, trong đó có đăng ký ngành nghề kinh doanh vận tải đa phương thức quốc tế,
tài sản tối thiểu tương đương 80.000 SDR hoặc có bảo lãnh tương đương, có bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp vận tải đa phương thức hoặc có bảo lãnh tương đương và có Giấy phép kinh
doanh vận tải đa phương thức quốc tế.

Doanh nghiệp của các quốc gia là thành viên Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa phương
thức hoặc là doanh nghiệp của quốc gia đã ký điều ước quốc tế với Việt Nam về vận tải đa
phương thức chỉ được kinh doanh loại hình vận tải này khi được cấp phép hoặc được đăng ký
kinh doanh vận tải đa phương thức quốc tế tại cơ quan có thẩm quyền của nước đó và có bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp vận tải đa phương thức hoặc có bảo lãnh tương đương, có Giấy
phép kinh doanh vận tải đa phương thức quốc tế của Việt Nam.

Nghị định mới cũng quy định những trường hợp người kinh doanh vận tải đa phương thức không
phải chịu trách nhiệm về tổn thất do mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm nếu chứng minh
được nguyên nhân bất khả kháng, hoặc do sự chểnh mảng của người gửi hàng, người nhận hàng,
đình công, bị ngăn chặn sử dụng một bộ phận nhân công…
Người kinh doanh vận tải đa phương thức chỉ chịu trách nhiệm trong mọi trường hợp nào về mất
mát hoặc hư hỏng hàng hóa với mức tối đa tương đương 666,67 SDR cho một đơn vị, hoặc 2,00
SDR cho một kg trọng lượng cả bì của hàng hóa, tùy theo cách tính nào cao hơn.
“Vận tải đa phương thức” là việc vận chuyển hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức vận tải khác
nhau trên cơ sở hợp đồng vận tải đa phương thức.

“Vận tải đa phương thức quốc tế” là vận tải đa phương thức từ nơi người kinh doanh vận tải đa
phương thức tiếp nhận hàng hóa ở Việt Nam đến một địa điểm được chỉ định giao trả hàng ở
nước khác và ngược lại.

“Vận tải đa phương thức nội địa” là vận tải đa phương thức được thực hiện trong phạm vi lãnh
thổ Việt Nam.

Theo Vietship.vn

NGHỊ ĐỊNH

VỀ VẬN TẢI ĐA PHƯƠNG THỨC

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;


Căn cứ Bộ luật Hàng hải Việt Nam ngày 14 tháng 6 năm 2005;
Căn cứ Luật Giao thông đường bộ ngày 13 tháng 11 năm 2008;
Căn cứ Luật Hàng không dân dụng Việt Nam ngày 29 tháng 6 năm 2006;
Căn cứ Luật Giao thông đường thủy nội địa ngày 15 tháng 6 năm 2004;
Căn cứ Luật Đường sắt ngày 14 tháng 6 năm 2005;
Căn cứ Luật Doanh nghiệp ngày 29 tháng 11 năm 2005;
Căn cứ Luật Hợp tác xã ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Luật Đầu tư ngày 29 tháng 11 năm 2005;
Căn cứ Luật Hải quan ngày 29 tháng 6 năm 2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Hải quan ngày 14 tháng 6 năm 2005;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải,

NGHỊ ĐỊNH:

Chương 1.

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng

1. Nghị định này quy định về hoạt động vận tải đa phương thức bao gồm vận tải đa phương thức
quốc tế và vận tải đa phương thức nội địa.
2. Nghị định này áp dụng đối với các tổ chức đăng ký kinh doanh vận tải đa phương thức bao
gồm: doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về
đầu tư và hợp tác xã được thành lập theo quy định của pháp luật về hợp tác xã của Việt Nam; các
tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động kinh doanh vận tải đa phương thức.

Điều 2. Giải thích từ ngữ

Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. “Vận tải đa phương thức” là việc vận chuyển hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức vận tải
khác nhau trên cơ sở hợp đồng vận tải đa phương thức.

2. “Vận tải đa phương thức quốc tế” là vận tải đa phương thức từ nơi người kinh doanh vận tải
đa phương thức tiếp nhận hàng hóa ở Việt Nam đến một địa điểm được chỉ định giao trả hàng ở
nước khác và ngược lại.

3. “Vận tải đa phương thức nội địa” là vận tải đa phương thức được thực hiện trong phạm vi lãnh
thổ Việt Nam.

4. “Người kinh doanh vận tải đa phương thức” là doanh nghiệp hoặc hợp tác xã giao kết và tự
chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng vận tải đa phương thức.

5. “Hợp đồng vận tải đa phương thức” là hợp đồng được giao kết giữa người gửi hàng và người
kinh doanh vận tải đa phương thức, theo đó người kinh doanh vận tải đa phương thức đảm nhận
thực hiện dịch vụ vận chuyển hàng hóa để thu tiền cước cho toàn bộ quá trình vận chuyển, từ địa
điểm nhận hàng đến địa điểm trả hàng cho người nhận hàng.

6. “Chứng từ vận tải đa phương thức” là văn bản do người kinh doanh vận tải đa phương thức
phát hành, là bằng chứng của hợp đồng vận tải đa phương thức, xác nhận người kinh doanh vận
tải đa phương thức đã nhận hàng để vận chuyển và cam kết giao hàng đó theo đúng những điều
khoản của hợp đồng đã ký kết.

7. “Người vận chuyển” là tổ chức, cá nhân thực hiện hoặc cam kết thực hiện một phần hoặc toàn
bộ việc vận chuyển dù người đó là người kinh doanh vận tải đa phương thức hay không phải là
người kinh doanh vận tải đa phương thức.

8. “Người gửi hàng” là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng vận tải đa phương thức với người
kinh doanh vận tải đa phương thức.

9. “Người nhận hàng” là tổ chức, cá nhân được quyền nhận hàng hóa từ người kinh doanh vận
tải đa phương thức.

10. “Tiếp nhận hàng” là việc hàng hóa đã thực sự được giao cho người kinh doanh vận tải đa
phương thức từ người gửi hàng hoặc từ người được người gửi hàng ủy quyền và được người kinh
doanh vận tải đa phương thức tiếp nhận để vận chuyển.
11. “Giao trả hàng” là một trong các trường hợp sau đây:

a) Việc giao trả hàng hóa cho người nhận hàng;

b) Hàng hóa được đặt dưới sự định đoạt của người nhận hàng phù hợp với quy định của hợp
đồng vận tải đa phương thức hoặc quy định của pháp luật hoặc tập quán thương mại áp dụng tại
nơi giao trả hàng;

c) Việc giao hàng hóa cho một nhà chức trách hoặc một bên thứ ba khác mà theo quy định của
pháp luật áp dụng tại nơi giao trả hàng thì hàng hóa phải được giao như vậy.

12. “Hàng hóa” là bất cứ tài sản nào (trừ bất động sản) kể cả công-te-nơ, cao bản hoặc các công
cụ vận chuyển, đóng gói tương tự khác mà không do người kinh doanh vận tải đa phương thức
cung cấp.

13. “Văn bản” là một trong các hình thức sau: điện tín, telex, fax hoặc bất cứ hình thức nào khác
được in ấn, ghi lại.

14. “Ký hậu” là việc xác nhận của người nhận hàng hoặc của người được quyền xác nhận sau khi
đưa ra chỉ dẫn trên chứng từ vận tải đa phương thức ở dạng chuyển nhượng được để chuyển giao
hàng hóa nêu trong chứng từ đó cho người được xác định.

15. “Quyền rút vốn đặc biệt” (SDR) là đơn vị tính toán do Quỹ Tiền tệ quốc tế quy định. Tỷ giá
của SDR đối với đồng Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố trên cơ sở tỷ giá hối
đoái mà Quỹ tiền tệ quốc tế tính toán và công bố hàng ngày.

16. “Ẩn tỳ” là những khuyết tật của hàng hóa, nếu chỉ kiểm tra bên ngoài hàng hóa một cách
thông thường thì không thể phát hiện được.

17. “Trường hợp bất khả kháng” là những trường hợp xảy ra một cách khách quan, không thể
lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và
khả năng cho phép.

18. “Hợp đồng vận chuyển đơn thức” là hợp đồng vận chuyển riêng biệt được giao kết giữa
người kinh doanh vận tải đa phương thức và người vận chuyển cho một chặng cụ thể và chỉ sử
dụng một phương thức vận tải để vận chuyển hàng hóa theo yêu cầu của người kinh doanh vận
tại đa phương thức.

Điều 3. Thủ tục Hải quan

Hàng hóa vận tải đa phương thức quốc tế được miễn kiểm tra thực tế hải quan, trừ một số trường
hợp nếu nghi ngờ có dấu hiệu vận chuyển ma túy, vũ khí và các loại hàng cấm khác. Bộ Tài
chính phối hợp với Bộ Giao thông vận tải quy định thủ tục hải quan đối với hàng hóa vận tải đa
phương thức.

Điều 4. Quản lý nhà nước về vận tải đa phương thức


1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về vận tải đa phương thức

2. Bộ Giao thông vận tải thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vận tải đa phương thức, là đầu
mối giúp Chính phủ điều phối hoạt động liên ngành và hướng dẫn thực hiện quy định liên quan
đến hoạt động vận tải đa phương thức.

Phát triển dịch vụ vận tải đa phương thức - Một thách thức lớn đối
với Việt Nam trước thềm hội nhập
TS. NGUYỄN HOÀNG TIỆM
Cục Hàng hải Việt Nam
Trước hết, chúng ta cần phân biệt khái niệm về dịch vụ vận tải
đa phương thức với dịch vụ vận tải biển, để từ đó xem xét mối
quan hệ giữa hai loại hình dịch vụ này, cũng như tìm ra những
điểm ràng buộc, hoặc tác động tương hỗ lẫn nhau giữa chúng
trong cả chuỗi dịch vụ vận tải. Trên cơ sở đó sẽ giúp chúng ta
đưa ra được những chính sách đúng, nhằm thúc đẩy các loại
hình dịch vụ nói trên phát triển và hội nhập.
Như đã biết: “Vận tải đa phương thức quốc tế là sự vận chuyển
hàng hóa được thực hiện bởi ít nhất hai hình thức vận tải khác
nhau trên cơ sở của một hợp đồng vận tải đa phương thức
(Multimodal transport contract), từ một quốc gia này sang một
quốc gia khác”.
Theo nội dung của khái niệm trên, điều kiện để hình thành và
phát triển dịch vụ vận tải đa phương thức quốc tế, thì chí ít cũng
phải hội đủ 3 yếu tố cơ bản:
- Có ít nhất hai hình thức vận tải khác nhau;
- Chỉ có một hợp đồng vận tải đa phương thức;
- Từ quốc gia này sang quốc gia khác.
Từ những điều kiện nêu trên cho thấy, vận tải biển là một
hình thức vận tải không thể thiếu được trong việc hình thành và
phát triển vận tải đa phương thức quốc tế. Hơn nữa, vận tải biển
còn đóng một vai trò quan trọng và chủ chốt trong chuỗi vận tải
đa phương thức (vì, khối lượng hàng hóa vận tải bằng đường
biển chiếm tới 85% khối lượng hàng hóa vận tải trên thế giới).
Chính vì vậy, trong nhiều năm qua, tại các vòng đàm phán giữa
các quốc gia, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã liên tục
đưa ra bàn bạc những vấn đề trọng tâm liên quan đến sự hình
thành và phát triển loại hình dịch vụ vận tải biển (VTB) với dịch
vụ vận tải đa phương thức (VTĐPT), đồng thời, mong muốn có
sự thống nhất chung trên toàn thế giới, nhằm thúc đẩy loại hình
dịch vụ này phát triển.
Để phân loại dịch vụ vận tải biển, WTO đã chia dịch vụ vận tải
biển thành 8 nhóm, có những mã số riêng biệt khác nhau:
- Nhóm thứ nhất: Vận tải hành khách -
mã số 7211
- Nhóm thứ hai: Vận tải hàng hóa -
mã số 7212
- Nhóm thứ ba: Cho thuê tàu có thuyền bộ
- mã số 7213
- Nhóm thứ tư: Bảo dưỡng và sửa chữa tàu
- mã số 8868
- Nhóm thứ năm: Dịch vụ kéo đẩy
- mã số 7214
- Nhóm thứ sáu: Dịch vụ hỗ trợ VTB
- mã số 745
- Nhóm thứ bảy: Dịch vụ khai thác cảng và đường thủy
- mã số 7451
- Nhóm thứ tám: Dịch vụ hỗ trợ cho các loại hình vận tải
Trong 8 nhóm dịch vụ VTB nói trên, WTO lại chia nhỏ
thành các loại hình dịch vụ vận tải khác.
Tại vòng đàm phán gần đây nhất ở Uruguay, WTO đề xuất
chia dịch vụ VTB thành ba (03) nhóm chính:
- Nhóm một: Vận tải biển quốc tế (International Maritime
Transporrt), được chia thành năm (05) nhóm nhỏ: Không bao
gồm vận tải nội địa; theo định nghĩa của phân loại sản phẩm
chính của Liên hiệp quốc; phân biệt vận tải liner với vận tải
hàng rời; phân biệt sự thành lập công ty khai thác tàu mang cờ
quốc gia và các hình thức khác; phân biệt trường hợp của
thuyền bộ và trường hợp của người chủ chốt trên bờ.
- Nhóm hai: Dịch vụ hỗ trợ hàng hải (Maritime Auxiliary
Service), chia thành sáu (06) nhóm nhỏ: Xếp dỡ hàng hóa; lưu
kho bãi và cho thuê kho bãi; dịch vụ hải quan; dịch vụ làm hàng
container; đại lý tàu biển; dịch vụ giao nhận hàng hóa.
- Nhóm ba: Tiếp cận/sử dụng dịch vụ cảng (Access
to/Use of Port Service), chia thành chín (09) nhóm nhỏ: Hoa
tiêu, lai dắt, kéo đẩy, hỗ trợ tàu biển; cung cấp thực phẩm, dầu
nước; thu gom, đổ rác và xử lý nước thải; dịch vụ cảng vụ; bảo
đảm hàng hải; dịch vụ khác trên bờ (phục vụ cho tàu biển); sửa
chữa khẩn cấp trang thiết bị; dịch vụ neo đậu và cập cầu cảng.
- Nhóm bốn: Vận tải đa phương thức (mới chỉ dự kiến).
Điều đó chứng tỏ rằng, để có sự thống nhất cách gọi, cách phân
loại dịch vụ vận tải biển cũng như dịch vụ vận tải đa phương
thức ở phạm vi thế giới là hoàn toàn không đơn giản.
Còn, theo như cách phân loại hiện nay của WTO, thì dịch vụ
vận tải đa phương thức dự kiến tách thành một nhóm riêng biệt
(nhóm thứ 4). Nhưng, thực chất, trong đó có cả phương thức vận
tải biển và một số phương thức vận tải khác được hình thành và
phát triển trên một phạm vi rộng, nhằm kịp thời đáp ứng với các
điều kiện giao nhận hàng hóa theo yêu cầu của người gửi hàng.
Trong những năm gần đây, loại hình dịch vụ vận tải đa phương
thức đã và đang phát triển mạnh ở một số quốc gia trên thế giới
(đặc biệt, các quốc gia châu Âu). Riêng, đối với các nước trong
khu vực ASEAN đã hơn 10 năm đàm phán về dịch vụ vận tải đa
phương thức, nhưng mãi đến năm 2001 mới thống nhất được
Bản dự thảo lần cuối cùng “Hiệp định khung ASEAN về vận tải
đa phương thức” và cho đến ngày 16/11/2005 Hiệp định khung
này đã được ký chính thức giữa các quốc gia trong khu vực
ASEAN.
Còn, thực trạng dịch vụ vận tải biển với vận tải đa phương thức
tại Việt Nam được đánh giá như sau:
Dịch vụ vận tải biển được phân loại theo pháp luật Việt Nam:
- Theo Thông tư số 07/2001/TTLT-BKH-TCTK, ngày
01/11/2001 của Tổng cục Thống kê-Bộ Kế hoạch-Đầu tư về việc
phân loại ngành nghề đăng ký kinh doanh: Đã chia ngành nghề
kinh doanh thành 14 nhóm có mã số riêng biệt. Nhóm dịch vụ
vận tải biển nằm trong dịch vụ vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc
và được xếp ở nhóm thứ 8/14. Mỗi nhóm lại được chia thành các
nhóm nhỏ và bao gồm các dịch vụ cụ thể khác nhau.
- Nghị định số 10/2001/NĐ-CP ngày 19/3/2000 của Chính
phủ về điều kiện kinh doanh dịch vụ hàng hải, chia thành 09 loại
hình dịch vụ (không có mã số): Đại lý tàu biển; đại lý vận tải
đường biển; môi giới hàng hải; cung ứng tàu biển; kiểm đếm
hàng hóa; lai dắt tàu biển; sửa chữa tàu biển tại cảng; vệ sinh tàu
biển; bốc dỡ hàng hóa tại cảng.
- Nghị định số 57/2001/NĐ-CP, ngày 24/8/2001 của Chính
phủ về điều kiện kinh doanh vận tải biển. Nghị định này áp dụng
đối với việc kinh doanh vận tải hàng hóa, hành khách, hành lý
bằng đường biển, với các điều kiện liên quan đến sở hữu tàu
biển, an toàn kỹ thuật tàu biển và đièu kiện thuyền viên làm việc
trên tàu biển Việt Nam...
Như vậy, theo khái niệm và phân loại về dịch vụ vận tải biển tại
các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, cần phải được
nghiên cứu và quy định lại cách gọi, cách đánh mã số theo như
cách gọi và cách đánh mã số của WTO, để đảm bảo sự thống
nhất, không bị nhầm lẫn trong quá trình đàm phán, ký kết các
hiệp định hàng hải về dịch vụ vận tải biển giữa các nước trong
khu vực và thế giới.
Còn, về dịch vụ vận tải đa phương thức tại Việt Nam, cho đến
thời điểm hiện nay cũng được phân thành một loại hình dịch vụ
riêng biệt. Hiện tại nó chịu sự điều chỉnh của Nghị định số
125/2003/NĐ-CP, ngày 29/10/2003 của Chính phủ về vận tải đa
phương thức quốc tế.
Đánh giá chung về hoạt động dịch vụ vận tải biển và dịch vụ
vận tải đa phương thức tại Việt Nam
- Trước thời điểm Nghị định số 125/2003/NĐ-CP có hiệu
lực:
Hầu hết các doanh nghiệp (DN) Việt Nam thuộc các thành
phần kinh tế chỉ đăng ký kinh doanh theo Nghị định số
10/2001/NĐ-CP ngày 19/3/2000 của Chính phủ về điều kiện
kinh doanh dịch vụ hàng hải, với tổng số 410 DN, trong đó:
DNNN-182, CTCP-79, TNHH-143, DNTN-02, LD-04; tương
ứng với các loại hình dịch vụ: Đại lý tàu biển-289; đại lý
VTĐB-192; môi giới hàng hải-237; cung ứng tàu biển-137;
kiểm đếm hàng hóa-125; lai dắt TB-62; sửa chữa TB tại cảng-
77; vệ sinh tàu biển-50 và bốc dỡ hàng hóa tại cảng-105.
Các loại hình dịch vụ này đã thực hiện dịch vụ được 67 nghìn
lượt tàu ra vào cảng, tương ứng với 287 triệu tấn tàu (DWT),
tính bình quân trong một năm.
Cùng trong thời gian này chỉ có 02 DN đăng ký kinh doanh dịch
vụ vận tải đa phương thức, 11 DN đăng ký kinh doanh dịch vụ
logistics; đồng thời, có 04 DN thực hiện dịch vụ trung chuyển
hàng container tại các cảng: Bến Nghé, Hải Phòng, Sài Gòn và
Tân Cảng.
- Sau thời điểm Nghị định số 125/2003/NĐ-CP có hiệu lực:
+ Đối với dịch vụ trung chuyển hàng container đã được
điều chỉnh bởi Thông tư số 08/LB TC-TM-GTVT, ngày
17/12/2004 của liên bộ: Thương mại, Tài chính, Giao thông vận
tải hướng dẫn thực hiện dịch vụ trung chuyển container tại các
cảng biển Việt Nam. Chỉ có 04 DN nhà nước tham gia kinh
doanh hoạt động dịch vụ này (theo số liệu thống kê: DNNN-04,
CTCP-0, TNHH-0, LD-0).
Có thể, đây là giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển dịch
vụ trung chuyển container tại các cảng biển, có nhiều hãng tàu
có nhu cầu dịch vụ trung chuyển hàng container, đã chưa gặp
được các DN có khả năng cung cấp dịch vụ này, nên số lượng
các DN tham gia kinh doanh là rất ít so với từ trước khi có
Thông tư số 08/LB TC-TM-GTVT.
+ Đối với dịch vụ vận tải đa phương thức đã được điều
chỉnh bởi Nghị định số 125/2003/NĐ-CP, ngày 29/10/2003 của
Chính phủ về vận tải đa phương thức quốc tế . Thực tế, hoạt
động này cũng rất ít các DN thuộc các thành phần kinh tế tham
gia kinh doanh. Cụ thể, số DN đăng ký kinh doanh: DNNN-07,
CTCP-08, TNHH-04, LD-0.
Việc phát triển các loại hình dịch vụ trên ở mức độ chậm, một
phần là do DN chưa nhạy bén, chưa thích ứng với yêu cầu của
kinh tế thị trường về dịch vụ trung chuyển container và vận tải
đa phương thức. Mặt khác, là do Nhà nước chưa có một khung
pháp lý hoàn chỉnh và thống nhất giữa các luật chuyên ngành
thuộc ngành Giao thông vận tải để áp dụng cho loại hình dịch vụ
này; hoặc nếu có thì nội dung các văn bản QPPL vẫn còn những
điểm tồn tại, bất cập, chưa phù hợp, thậm chí còn là những rào
cản đối với doanh nghiệp.
Đánh giá chung về luật và các văn bản dưới luật liên quan
đến hoạt động vận tải đa phương thức:
- Bộ luật Hàng hải với các luật chuyên ngành về vận tải đa
phương thức:
Cho đến thời điểm hiện nay, các lĩnh vực hoạt động: đường bộ,
đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải, hàng không thuộc
ngành Giao thông vận tải đều được điều chỉnh bởi bộ luật hoặc
các luật chuyên ngành: Bộ luật Hàng hải Việt Nam (sửa đổi-có
hiệu lực từ 01/01/2006), Luật Giao thông đường bộ (có hiệu lực
từ 01/01/2002), Luật Giao thông đường thủy nội địa (có hiệu lực
từ 01/01/2005), Luật Đường sắt (có hiệu lực từ 01/01/2006),
Luật Hàng không dân dụng (có hiệu lực từ 01/01/2002).
Trong các luật chuyên ngành nói trên (cả 05 lĩnh vực), duy nhất
chỉ có Bộ luật Hàng hải Việt Nam có một điều (Điều 119-Hợp
đồng vận tải đa phương thức); nội dung chủ yếu quy định mối
quan hệ, giới hạn trách nhiệm của người người kinh doanh vận
tải đa phương thức với người gửi hàng. Còn lại các luật chuyên
ngành khác không có nội dung nào quy định về hoạt động vận
tải đa phương thức, mà chỉ quy định các vấn đề liên quan đến:
an toàn, kết cấu hạ tầng đường bộ, phương tiện tham gia giao
thông đường bộ...; quy hoạch, xây dựng bảo vệ kết cấu hạ tầng,
an toàn giao thông đường thủy nội địa...; quy hoạch, xây dựng
bảo vệ kết cấu hạ tầng, an toàn giao thông đường sắt, đường sắt
đô thị...; quản lý nhà nước về hàng không dân dụng, cảng hàng
không dân dụng, bảo đảm an toàn hàng không... Như vậy, giữa
Bộ luật Hàng hải Việt Nam và các luật chuyên ngành chưa có
“tiếng nói chung” về hoạt động vận tải đa phương thức.
- Văn bản dưới luật về vận tải đa phương thức:
Nghị định số 125/2003/NĐ-CP, ngày 29/10/2003 của Chính phủ
về vận tải đa phương thức quốc tế, ban hành sau 1 năm mới có
thông tư hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện.
Về cơ bản, nội dung của Nghị định số 125/2003/NĐ-CP đã thể
hiện ‘tính mở” và hướng tới hội nhập: không phân biệt các thành
phần kinh tế trong nước, mở cửa cho tổ chức và cá nhân nước
ngoài vào tham gia kinh doanh vận tải đa phương thức, hàng hóa
vận tải đa phương thức được miễn kiểm tra hải quan...
Tuy nhiên, Nghị định số 125/2003/NĐ-CP vẫn còn một số điểm
hạn chế và bất cập mà trong quá trình thực hiện các DN đã gặp
không ít những khó khăn, vướng mắc, phiền hà và đặc biệt về
thủ tục xin “Giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức”. Một
số DN nước ngoài kiến nghị với Chính phủ Việt Nam: không
nên quy định điều kiện “Phải là DN của nước thành viên
ASEAN đã ký Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa phương
thức”..., vì làm như thế là phân biệt đối xử và không theo Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Đánh giá thực hiện Thông tư số 08/2004/TTLT-BTM-BTC-
BGTVT, ngày 17/12/2004 của 03 Bộ: Thương mại, Tài chính,
Giao thông vận tải về việc hướng dẫn thực hiện dịch vụ trung
chuyển hàng container tại các cảng biển Việt Nam.
Các DN cho rằng: ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về
thực hiện dịch vụ trung chuyển hàng container vào thời điểm
hiện nay là đúng hướng phù hợp với nhu cầu tất yếu, khách quan
của thị trường và đáp ứng với nguyện vọng của các DN muốn
tham gia kinh doanh loại hình dịch vụ này, bởi lẽ: Thông tư
08/2004/TTLT-BTM-BTC-BGTVT là áp dụng đối với các DN
cảng biển và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Không giới hạn
đối tượng áp dụng, mà chỉ quy định các điều kiện về cảng biển,
hàng hóa, xử lý hàng hóa và thanh toán dịch vụ trung chuyển
hàng container. Nếu DN nào, tổ chức cá nhân nào thấy đủ điều
kiện là có quyền đăng ký kinh doanh dịch vụ trung chuyển hàng
container tại cảng biển mà không cần phải xin phép. Đó là “tính
mở” của Thông tư 08 đối với loại hình dịch vụ này, mà trước
đây bất cứ một DN nào muốn kinh doanh dịch vụ trung chuyển
hàng container đều phải xin giấy phép.
Nhận xét chung về một số tồn tại, bất cập trong việc phát
triển dịch vụ vận tải đa phương thức tại Việt Nam
Thứ nhất, về hệ thống luật pháp:
Chưa có quy định những điểm chung và riêng về những vấn đề
liên quan đến dịch vụ vận tải đa phương thức ở Bộ luật Hàng hải
Việt Nam, Luật Giao thông đường bộ, Luật Giao thông đường
thủy nội địa, Luật Đường sắt, Luật Hàng không dân dụng. Như
thế sẽ rất khó khăn trong việc phân chia trách nhiệm, cũng như
sự gắn kết các hoạt động này với nhau trong cả chuỗi dịch vụ
vận tải đa phương thức. Còn, Nghị định số 125/2003/NĐ-CP là
một văn bản dưới luật, ra đời trước một số luật chuyên ngành,
nên vẫn còn một số một số điểm hạn chế và bất cập (như đã
phân tích ở trên) cần phải được sửa đổi để thống nhất với các
luật chuyên ngành.
Thứ hai, hệ thống kết cấu hạ tầng:
Hệ thống kết cấu hạ tầng đường bộ, đường sắt, đường thủy nội
địa, hàng hải và hàng không, nhìn chung chưa đáp ứng nhu cầu
vận tải đa phương thức quốc tế. Hệ thống thông tin phục vụ cho
hoạt động vận tải đa phương thức còn kém và lạc hậu, chưa nối
mạng được trong cả hệ thống vận hành: đường biển, đường bộ,
đường sắt, đường thủy nội địa và đường hàng không.
Thứ ba, về phía các DN kinh doanh vận tải đa phương thức:
Không ít các DN kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức
hiểu biết pháp luật và kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực
này còn nhiều hạn chế; chưa đủ sức (cả về trình độ và khả năng
kinh tế) để cạnh tranh với DN nước ngoài cùng tham gia kinh
doanh loại hình dịch vụ này tại Việt Nam, trong khi đó chúng ta
đang đứng trước thềm hội nhập.
Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển
dịch vụ vận tải đa phương thức tại Việt Nam
Thứ nhất, về luật pháp và cơ chế chính sách:
- Cần có sự thống nhất và cụ thể hóa giữa các luật và các văn
bản dưới luật ở các lĩnh vực: giao thông đường bộ, đường thủy
nội địa, đường sắt, hàng hải và hàng không dân dụng về hoạt
động vận tải đa phương thức tại Việt Nam;
- Cần có những chính sách riêng biệt về phát triển vận tải đa
phương thức ở Việt Nam; trước mắt, đề nghị sớm sửa đổi Nghị
định số 125/2003/NĐ-CP, ngày 29/10/2003 của Chính phủ về
vận tải đa phương thức quốc tế, theo hướng: Bỏ “Giấy phép
kinh doanh vận tải đa phương thức quốc tế”, bảo đảm sự phát
triển vận tải đa phương thức theo cơ chế thị trường, đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong khu vực và thế giới.
Thứ hai, về kết cấu hạ tầng giao thông vận tải:
- Cần tập trung đầu tư, nâng cấp (có trọng điểm) một số cảng
lớn: Tân Cảng, Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng cùng với hệ thống
kết cấu hạ tầng: giao thông đường bộ, đường thủy nội địa,
đường sắt, cảng hàng không dân dụng ở những tuyến vận tải ổn
định, cụ thể để đáp ứng với nhu cầu vận tải đa phương thức ở ba
khu vực kinh tế phát triển trong cả nước.
Thứ ba, đối với các DN dịch vụ vận tải đa phương thức:
- Cần có sự hiểu biết luật pháp về hoạt động vận tải đa phương
thức, để từ đó nâng cao trách nhiệm của DN mình trong quá
trình thực hiện kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của người gửi hàng;
- Tập trung đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu về kinh
doanh vận tải đa phương thức cho DN, đồng thời có cơ chế
chính sách đãi ngộ thỏa đáng;
- Áp dụng triệt để công nghệ thông tin vào quá trình quản lý và
khai thác vận tải đa phương thức.
Tóm lại, dịch vụ vận tải đa phương thức tại Việt Nam đã và
đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Nói về mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường,
nhà kinh tế học Summuelson có viết “Điều hành một nền kinh tế
không có cả Chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ tay
bằng một bàn tay”.
Ở đây, kinh tế thị trường được hiểu là bàn tay vô hình; còn,
Chính phủ được hiểu là một bàn tay hữu hình. Kinh tế thị trường
thì vận động theo quy luật (quy luật: cạnh tranh, cung-cầu, giá
cả, giá trị); còn cơ chế, chính sách của Nhà nước là nhằm tác
động vào các mặt hoạt động của nền kinh tế để cho chúng vận
động theo đúng quy luật; đồng thời, chính sách phải có tác dụng
hạn chế được những mặt trái (tác động xấu) của kinh tế thị
trường.
Chính vì vậy, chính sách của Chính phủ Việt Nam về phát triển
dịch vụ vận tải đa phương thức cần phải có những nội dung phù
hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, nội dung
chính sách phải tạo điều kiện cho các DN Việt Nam nâng cao
năng lực cạnh tranh với các DN nước ngoài về dịch vụ vận tải
đa phương thức, mà trước hết đối với các nước trong khu vực
ASEAN. Đó, cũng chính là tiền đề để các DN vững bước trên
con đường hội nhập.
Tuy nhiên, chính sách của Chính phủ phải đặt lợi ích của xã hội
lên trên hết; tức là, chính sách phát triển dịch vụ vận tải đa
phương thức tại Việt Nam phải đạt được mục tiêu “Tối đa hóa
ích lợi xã hội”.

Bộ luật Hàng hải nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam/Chương V/Mục 4
Văn thư lưu trữ mở Wikisource

< Bộ luật Hàng hải nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam | Chương V

Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm


Bộ luật Hàng hải nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
←Chương V,
của Quốc hội Việt Nam
Mục 3
Mục 4: Hợp đồng vận tải đa phương thức

Mục lục
[ẩn]

• 1 Điều 119. Hợp đồng vận tải đa phương thức


• 2 Điều 120. Trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương
thức
• 3 Điều 121. Giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa
phương thức

• 4 Điều 122. Quy định chi tiết về vận tải đa phương thức

[sửa] Điều 119. Hợp đồng vận tải đa phương thức

1. Hợp đồng vận tải đa phương thức là hợp đồng được giao kết giữa người gửi
hàng và người kinh doanh vận tải đa phương thức, theo đó người kinh doanh
vận tải đa phương thức đảm nhiệm vận chuyển hàng hóa để thu tiền cước
cho toàn bộ quá trình vận chuyển, từ địa điểm nhận hàng đến địa điểm trả
hàng cho người nhận hàng bằng ít nhất hai phương thức vận tải, trong đó
phải có phương thức vận tải bằng đường biển.
2. Người kinh doanh vận tải đa phương thức là người tự mình hoặc ủy quyền cho
người khác giao kết hợp đồng vận tải đa phương thức với người gửi hàng.
3. Người gửi hàng là người tự mình hoặc ủy quyền cho người khác giao kết hợp
đồng vận tải đa phương thức với người kinh doanh vận tải đa phương thức.
4. Chứng từ vận tải đa phương thức là bằng chứng của hợp đồng vận tải đa
phương thức, xác nhận việc người kinh doanh vận tải đa phương thức nhận
hàng để vận chuyển và cam kết trả hàng theo đúng thỏa thuận của hợp
đồng.

[sửa] Điều 120. Trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức

1. Người kinh doanh vận tải đa phương thức phải chịu trách nhiệm đối với hàng
hóa theo hợp đồng vận tải đa phương thức từ thời điểm nhận hàng cho đến
khi trả hàng.
2. Người kinh doanh vận tải đa phương thức có thể ký các hợp đồng riêng với
những người vận chuyển của từng phương thức vận tải, trong đó xác định
trách nhiệm của từng bên tham gia đối với mỗi phương thức vận tải. Các hợp
đồng riêng này không ảnh hưởng đến trách nhiệm của người kinh doanh vận
tải đa phương thức đối với toàn bộ quá trình vận chuyển.
[sửa] Điều 121. Giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa
phương thức

1. Trường hợp hàng hóa bị mất mát, hư hỏng xảy ra ở một phương thức vận tải
nhất định của quá trình vận chuyển, các quy định của pháp luật tương ứng
điều chỉnh phương thức vận tải đó của vận tải đa phương thức được áp dụng
đối với trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa
phương thức.
2. Trường hợp không thể xác định được hàng hóa bị mất mát, hư hỏng xảy ra ở
phương thức vận tải nào thì người kinh doanh vận tải đa phương thức phải
chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định về miễn trách nhiệm và giới hạn
trách nhiệm của người vận chuyển tại Điều 78 và Điều 79 của Bộ luật này.

[sửa] Điều 122. Quy định chi tiết về vận tải đa phương thức

Chính phủ quy định chi tiết về vận tải đa phương thức.

Thủ tục hải quan đối với hàng hóa vận tải đa phương thức
- Trình tự thực hiện:
1. Hàng hoá giao trả cho người nhận hàng ở ngoài lãnh thổ Việt Nam:
+ Đối với cá nhân, tổ chức:
- Nộp hồ sơ theo quy định
+ Đối với cơ quan hải quan
- Cơ quan hải quan cửa khẩu nơi hàng hoá nhập cảnh tiếp nhận bản kê khai hàng hoá quá cảnh
hoặc tờ khai hải quan về lô hàng, niêm phong nơi chứa hàng hoá và xác nhận nguyên trạng
hàng hóa trên bản kê khai hàng hóa và tờ khai hải quan (đối với trường hợp phải khai hải quan)
và giao cho người điều khiển phương tiện vận tải chuyển đến cơ quan hải quan cửa khẩu nơi
hàng hoá xuất cảnh;
- Trường hợp hàng hoá thuộc diện không niêm phong được thì người vận tải, người khai hải
quan, công chức hải quan đi cùng (nếu có) chịu trách nhiệm bảo đảm nguyên trạng hàng hóa từ
cửa khẩu nơi hàng hoá nhập cảnh đến cửa khẩu nơi hàng hoá xuất cảnh;
- Cơ quan hải quan cửa khẩu nơi hàng hoá xuất cảnh tiếp nhận bản kê khai hoặc tờ khai hải
quan do cơ quan hải quan cửa khẩu nơi hàng hoá nhập cảnh chuyển đến, kiểm tra tình trạng
niêm phong hải quan hoặc nguyên trạng hàng hoá để đối chiếu với các nội dung xác nhận của
cơ quan hải quan cửa khẩu nơi hàng hoá nhập cảnh trên bản kê khai hàng hóa hoặc tờ khai hải
quan quá cảnh để làm thủ tục xuất cảnh.
2. Hàng hoá giao trả cho người nhận hàng tại các địa điểm thông quan nội địa (ICD) hoặc
tại cửa khẩu khác nơi hàng nhập :
+ Đối với doanh nghiệp vận tải đa phương thức:
- Nộp và xuất trình cho Hải quan cửa khẩu nhập đầu tiên các chứng từ nêu tại điểm 1 trên đây.
- Giữ nguyên trạng hàng hoá, niêm phong hải quan trong quá trình vận chuyển hàng hoá từ cửa
khẩu nhập đầu tiên về ICD hoặc cửa khẩu giao trả hàng cho người nhận.
- Luân chuyển chứng từ giữa Chi cục Hải quan cửa khẩu nhập đầu tiên và Chi cục Hải quan nơi
giao trả hàng cho người nhận.
+ Đối với Chi cục Hải quan cửa khẩu nhập đầu tiên:
- Tiếp nhận hồ sơ chứng từ vận tải đa phương thức.
- Niêm phong hàng hoá nhập khẩu theo qui định.
- Lập Biên bản bàn giao hàng hoá chuyển cửa khẩu: 02 bản
- Cung cấp các thông tin cần lưu ý về lô hàng (mặt hàng trọng điểm, doanh nghiệp trọng điểm, lô
hàng có nghi vấn, giá, mã số, thuế suất) cho Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu biết.
- Ghi vào sổ theo dõi hàng hoá nhập khẩu chuyển cửa khẩu theo các tiêu chí gồm số thứ tự; số,
ký hiệu, ngày tờ khai; tên, địa chỉ doanh nghiệp; đơn vị Hải quan làm thủ tục; số ký hiệu
container; mặt hàng.
+ Đối với Chi cục Hải quan ICD hoặc cửa khẩu khác nơi hàng nhập :
- Tiếp nhận Biên bản bàn giao do Chi cục Hải quan cửa khẩu nhập fax đến.
- Kiểm tra tình trạng niêm phong.
- Thông báo lại bằng văn bản cho Chi cục Hải quan cửa khẩu nhập.
- Ký xác nhận Biên bản bàn giao và lưu; lập Bảng thống kê các Biên bản bàn giao và fax cho Chi
cục Hải quan cửa khẩu nhập theo qui định.
3. Hàng hoá xuất khẩu được làm thủ tục tại Địa điểm thông quan nội địa (ICD) :
+ Đối với Hải quan ICD :
a. Trường hợp lô hàng xuất khẩu được miễn kiểm tra thực tế hàng hoá:
- Trả tờ khai hàng hoá xuất khẩu (bản lưu người khai hải quan) cho người khai hải quan.
- Lập Biên bản bàn giao (mẫu 02/BBBG2006): 02 bản
- Theo dõi, cập nhật thông tin, lưu trữ phản hồi từ cửa khẩu xuất.
- Phối hợp với cửa khẩu xuất/kho để truy tìm lô hàng trong trường hợp lô hàng quá thời gian qui
định không đến cửa khẩu xuất.
- Lập danh mục các lô hàng xuất khẩu được miễn kiểm tra thực tế.
- Xử lý vi phạm liên quan đến lô hàng xuất khẩu.
+ Đối với hải quan cửa khẩu xuất :
- Tiếp nhận Biên bản bàn giao nhận qua fax để đối chiếu với hồ sơ hải quan và hàng hoá.
- Kiểm tra tình trạng niêm phong hàng hoá (niêm phong hải quan, niêm phong hãng tàu);
- Nếu phát hiện lô hàng có dấu hiệu vi phạm pháp luật về hải quan, Chi cục trưởng xem xét,
quyết định hình thức, mức độ kiểm tra thực tế hàng hoá.
- Ký xác nhận Biên bản bàn giao và lưu; lập Bảng thống kê các Biên bản bàn giao và fax cho Chi
cục Hải quan ngoài cửa khẩu theo qui định.
- Giám sát hàng hoá cho đến khi hàng hoá thực xuất.
- Ghi vào sổ theo dõi hàng hoá xuất khẩu chuyển cửa khẩu theo các tiêu chí qui định gồm: số thứ
tự; số, ký hiệu, ngày tờ khai; tên, địa chỉ doanh nghiệp; đơn vị Hải quan làm thủ tục; số ký hiệu
container; mặt hàng.
- Đối chiếu số ký hiệu tờ khai, mặt hàng và các tiêu chí khác của lô hàng xuất khẩu được miễn
kiểm tra thực tế với danh mục hàng hoá được miễn kiểm tra thực tế do Chi cục Hải quan ngoài
cửa khẩu fax đến. Trường hợp có sự không khớp nhau thì phối hợp với Chi cục Hải quan ngoài
cửa khẩu để xác minh, làm rõ.
- Cách thức thực hiện: Trực tiếp tại trụ sở cơ quan hành chính
- Thành phần, số lượng hồ sơ:
- Thành phần hồ sơ, bao gồm:
+ “ Giấy phép kinh doanh vận tải đa phương thức” : 01 bản sao có xác nhận của Giám đốc doanh
nghiệp (nộp lần đầu khi làm thủ tục hải quan), xuất trình bản chính để đối chiếu.
+ Chứng từ vận tải đa phương thức (theo mẫu đã được đăng ký với Bộ Giao thông vận tải) : 01
bản chính.
+ Bản kê khai hàng hoá vận tải đa phương thức (bao gồm các tiêu chí: số thứ tự , tên hàng, số
lượng, trọng lượng, trị giá): 01 bản chính
- Số lượng hồ sơ: 01 bộ
- Thời hạn giải quyết:
- Thời hạn tiếp nhận, đăng ký, kiểm tra hồ sơ hải quan: ngay sau khi người khai hải quan nộp,
xuất trình hồ sơ hải quan đúng quy định của pháp luật (Khoản 1, Điều 19 Luật Hải quan)
- Thời hạn hoàn thành thành kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải (tính từ thời điểm
người khai hải quan đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu về làm thủ tục hải quan theo quy đinh tại
điểm a và điểm b khỏan 1 Điều 16 Luật Hải quan):
+ Chậm nhất là 08 giờ làm việc đối với lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu áp dụng hình thức kiểm tra
thực tế một phần hàng hóa theo xác suất;
+ Chậm nhất là 02 ngày làm việc đối với lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu áp dụng hình thực kiểm
tra thực tế toàn bộ hàng hóa.
Trong trường hợp áp dụng hình thức kiểm tra thực tế tòan bộ hàng hóa mà lô hàng xuất khẩu,
nhập khẩu có số lượng lớn, việc kiểm tra phức tạp thì thời hạn kiểm tra có thể được gia hạn
nhưng không quá 08 giờ làm việc.
- Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Tổ chức

- Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính:


+ Cơ quan có thẩm quyền quyết định: Chi cục Hải quan
+ Cơ quan hoặc người có thẩm quyền được uỷ quyền hoặc phân cấp thực hiện (nếu có): Chi cục
Hải quan
+ Cơ quan trực tiếp thực hiện TTHC: Chi cục Hải quan
- Kết quả thực hiện thủ tục hành chính: Xác nhận thông quan
- Lệ phí (nếu có): 20.000 VNĐ/tờ khai
- Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có và đề nghị đính kèm ngay sau thủ tục a):
+ Tờ khai hải quan: Quyết định số 1257/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan
ngày 04/12/2001
+ Biên bản bàn giao mẫu 02/BBBG2006
- Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có): Không
- Căn cứ pháp lý của thủ tục hành chính:
- Luật hải quan số 29/2001 QH10 ngày 29/06/2001
- Luật số 42/2005/QH11 ngày 14/06/2005 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Hải quan số
29/2001/QH11 ngày 29/06/2001.
- Nghị định số 154/2005/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải
quan, kiểm tra, giám sát hải quan.
- Nghị định số 125/2003/NĐ-CP về vận tải đa phương thức.
- Thông tư số 79/2009/TT-BTC hướng dẫn về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan; thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Thông tư số 125/2004/TT-BTC hướng dẫn về thủ tục hải quan đối với hàng hoá vận tải đa
phương thức quốc tế.
- Quyết định số 1257/QĐ-TCHQ của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan ngày 04/12/2001
Nguồn: theo Cục Hải quan

You might also like