Professional Documents
Culture Documents
Jak
Eutrophication Management and Ecotoxicology
MỤC LỤC
1 Sự phú dưỡng và hệ sinh thái
1.1 Nền tảng
1.2 Nước giàu dinh dưỡng và nước phú dưỡng
1.3 Tầng phú dưỡng trong nước ngọt
1.4 Nước phú dưỡng: Tầng phú dưỡng bị xáo trộn
2 Sinh thái học ngành giáp xác râu ngành
2.1 Giáp xác râu ngành và vai trò sinh thái của chúng
2.2 Tác dụng giáp xác râu ngành – Khái niệm và đo lường
2.3 Mô hình hoá tác dụng của giáp xác râu ngành
3 Tác dụng khử độc của giáp xác râu ngành
3.1 Độc chất sinh thái của giáp xác râu ngành
3.2 Quan sát theo nghiên cứu của Mesocosm
3.3 Tác dụng của giáp xác râu ngành trong phản hồi tác động của độc chất
4 Khu vực nghiên cứu tác dụng của giáp xác râu ngành
4.1 Hai loại hồ khác nhau ở Hà Lan
4.2 Động thái của sinh vật nổi hồ Geestmerambacht
4.3 Động thái của sinh cật nổi hồ Amstelmeer
4.4 Có thể ngiên cứu điều gì ở các hồ này?
5 Viễn cảnh mới của quản lý phú dưỡng
5.1 Một phương thức tiếp cận quản lý hồ phú dưỡng
5.2 Thế nào là địa chỉ sinh thái trong quản lý phú dưỡng
5.3 Phần kết
Lời cảm ơn
Tài liệu tham khảo
1. SỰ PHÚ DƯỠNG VÀ HỆ SINH THÁI
1.1 Cơ sở
Hiện tượng phú dưỡng trong nước mặt hiện nay là một vấn đề môi trường phổ biến. Hiện
tượng phú dưỡng tiêu biểu cho sự phát triển mạnh của nhóm tảo cùng với sự tăng lên của các
chất độc sinh ra do quá trình khuẩn lam nở hoa và giảm đi độ phong phú thành phần loài.
Sự sản sinh nhanh chóng sinh khối tảo rõ ràng dẫn đến một số vấn đề như: làm đục nước,
tình trạng yếm khí, mùi khó chịu, chironomid và các dịch bệnh do các loại ấu trùng ruồi muỗi
sống trong nước (Vollenweider 1990; Moss cùng cộng sự 1996; Carpenter cùng cộng sự 1998).
Cũng như các vấn đề phú dưỡng (hiện tượng phú dưỡng hay sự phú dưỡng) được hiểu đơn giản
là hậu quả của sự giàu dinh dưỡng (theo Likens 1972; Vollenweider 1990; Reynolds 1992; Moss
cùng cộng sự 1996; Carpenter cùng cộng sự 1998). Bởi vậy, quản lý nước phú dưỡng trước hết
cần quan tâm đến giảm tải lượng dinh dưỡng, điều mà theo các cơ quan bảo vệ môi trường
khuyến cáo là do sự giải phóng P trong nước giặt rửa (laundry detergents), các cống thải và nông
nghiệp.
Tuy nhiên, rõ ràng là trong thập niên vừa qua, sự điều khiển quần thể tảo bởi giáp xác râu
ngành có thể là nhân tố quyết định điều khiển chất lượng nước, không làm giàu dinh dưỡng mà
không dẫn tới tình trạng phú dưỡng (theo Moss cùng cộng sự 1991, 1996; Reynolds 1994). Điều
khiển sinh học (biomanipulation) của tầng nước nông phú dưỡng có liên quan đến sự cải thiện
hiện trạng sinh thái nhờ giáp xác râu ngành. Do đó chúng có thể trở thành một công cụ chuẩn
cho việc quản lý phú dưỡng (theo Benndorf 1990; McQueen 1998; Harper cùng cộng sự, 1999).
Điều khiển sinh học là trọng tâm chính của cải thiện hiện trạng sinh học chú trọng vào tỉ
lệ sống sót cao của giáp xác râu ngành như một phần của lưới thức ăn thuỷ sinh. Ví dụ cho đo
lường vận động sinh học bao gồm: Sự giảm bớt nhóm cá ăn sinh vật nổi và cải thiện các vùng cỏ
nước làm nơi trú ẩn cho giáp xác râu ngành. Mới đây, ta chấp nhận vật chất lơ lửng như một
thành phần để xác định hệ số tiêu thụ của giáp xác râu ngành là một đề mục cần quan tâm. Nồng
độ cao của chất vô cơ lơ lửng cản trở tiêu thụ của giáp xác, khi đó nó kích thích sự phát triển của
tảo cũng như làm tăng lên lượng dinh dưỡng giải phóng ra (theo Kirk và Gilbert 1990; Ogilvie
và Mitchell 1998). Điều khiển từ trên xuống bởi giáp xác râu ngành dưới tình trạng phú dưỡng
có thể hạn chế sự có mặt của một số loại tảo có hại (chủ yếu là nhóm tảo lam) những loài có thể
cạnh tranh mạnh với các loài tảo có ích.
Tài liệu này bao gồm các hướng quan trọng trong cải thiện chất lượng môi trường cho sự
phát triển của giáp xác râu ngành, trong đó quan trọng nhất là quản lý thành công trạng thái phú
dưỡng nghĩ là tạo điều kiện vô sinh tối ưu đối với nước. Bales cùng cộng sự (1993) đã đề xuất về
tính nhạy của giáp xác râu ngành đối với độ mặn có thể là một lý do khiến cho nước hơi lợ dễ bị
phú dưỡng. Theo kết luận này, sự suy giảm của quần thể giáp xác do tác động của độc tính sinh
thái có thể dẫn đến hàm lượng ô nhiễm vi sinh là một nhân tố có liên quan đến phú dưỡng (theo
Hurlbert và cộng sự 1972; Hurlbert, 1975; Gliwicz và Sieniawska, 1986).
Độc tính của thuốc bảo vệ thực vật và các hoá chất khác đối với sự sống của quần thể
giáp xác gây suy giảm khả năng tiêu thụ lượng tảo dư thừa trong nước do phú dưỡng. Trong
nghiên cứu bán sinh thái, đã quan sát được giáp xác là nhóm có tính nhạy cảm cao và những
phản hồi rõ, do đó có thể sử dụng chúng trong chương trình quản lý từ trên xuống đối với sự phát
triển của tảo (theo Day 1989; Yasuno và cộng sự 1993). Trên cơ sở phân tích trầm tích Stansfield
cùng cộng sự (1989) đã đưa ra một ý kiến khác về sự thay đổi đột ngột ưu thế của thực vật lớn
thuỷ sinh so với ưu thế của thực vật nổi trong một loạt các hồ nông như là ở vùng hồ Norfolk
Broads, U.K, trong suốt những năm 1950 và 1960, có khả năng là do sự đầu độc giáp xác do việc
sử dụng rộng rãi thuốc trừ côn trùng có chứa clo hữu cơ.
Mục tiêu của cuốn sách này là cung cấp hiểu biết tốt hơn về khía cạnh sinh thái học của
quá trình phú dưỡng ở hồ nước ngọt nhiệt đới nông, với những nghiên cứu được nêu trên đây,
quá trình này có thể trở thành đối tượng được chấp nhận trong khôi phục những nguốn nước phú
dưỡng.
Sinh thái học cơ bản về hồ cung cấp những nguyên tắc cơ bản phục vụ các mục tiêu xa
hơn được trình bày ở chương đầu tiên. Chương 2 cung cấp những thông tin về giáp xác râu
ngành, các đặc tính sinh thái của chúng, hệ số tiêu thụ và khả năng điều khiển mật độ tảo.
Chương 3 liên quan đến độc tính sinh thái đối với giáp xác râu ngành, và cung cấp những thông
tin về độc chất bao gồm sự suy giảm khả năng tiêu thụ của giáp xác do ảnh hưởng của chất độc
(còn được gọi là “toxic anorexia”) trong những thí nghiệm được bố trí. Sự biến động hiệu lực
tiêu thụ của giáp xác trong tình huống thí nghiệm được mô tả với hai hồ ở Hà Lan trong chương
4. Khả năng áp dụng đánh giá độc tính sinh thái của phú dưỡng được thảo luận trong chương 5.
Hình 1.1. Phân loại nước theo OECD (1982). Trái: căn cứ vào hàm lượng P, và phải: căn cứ vào
mật độ trung bình của tảo tính theo chlorophyll-a
Hình 1.2. Mô hình Vollenweider (OECD 1982) miêu tả sự tương quan tỉ lệ P/chl-a
Một số nguyên tố dinh dưỡng khác mà nồng độ của nó có giá trị giới hạn đối cới sự phát
triển đó là Nitơ và Silic. N thì không thể sử dụng làm chỉ thị vì nó được giữ lại trong đất kém và
dễ dàng bị rửa trôi vào nước. Thêm vào đó, sự biến đổi giữa các thành phần của N (N hữu cơ
rắn, N hoà tan vô cơ hoặc hữu cơ và N không khí) diễn ra nhanh đảm bảo cung cấp một lượng
lớn N trong mọi hoàn cảnh. Silic (tồn tại ở dạng axit ortho silicic) thì chỉ cần cho sự phát triển
của tảo cát - những loài cần axit silic để tạo thành vỏ của mình. Do đó, nó không thể là chỉ thị
cho toàn bộ hệ thống sinh vật sản xuất.
Trong phân loại phú dưỡng của OECD (1982), không có sự phân biệt rõ nước giàu dinh
dưỡng và nước phú dưỡng. Nước được chia ra làm các loại: như phú dưỡng trung bình, phú
dưỡng hoặc cực kì phú dưỡng theo hàm lượng P của chúng cũng như theo mật độ trung bình của
tảo (hình 1.1) với giả thiết rằng tình trạng dinh dưỡng và mật độ của tảo có mối tương quan nhân
quả chắc chắn (hình 1.2)
Hình 1.3. Vai trò của động vật nổi (ví dụ cladocerans) trong lưới thức ăn
Giống như các loại cây khác, thực vật lớn tham gia vào khả năng sản xuất của hệ sinh
thái. Khi bộ rễ phát triển, chúng giải phóng dinh dưỡng trong trầm tích và sự phân huỷ của chúng
làm cho thuỷ vực già hoá và giàu dinh dưỡng. Hiện tượng này có thể được giảm tạm thời bởi
những sinh vật vùng rễ bám trên thân và lá mặt khác N và P được sử dụng rất nhanh bởi tảo nhỏ
và vi thực vật dị dưỡng. Sản phẩm của quá trình già hoá thực vật lớn và tảo bám, giống như sự
giữ lại hữu cơ và dinh dưỡng tại nơi chúng sống trong trầm tích xảy ra khi chúng rơi xuống tầng
tích tụ ven hồ. Sự tích luỹ của đầu vào dinh dưỡng và cacbon có thể rất cao. Cũng nên nhắc lại
rằng phần lớn thực vật thuỷ sinh là thực vật lâu năm và phần lớn dinh dưỡng (như P dễ tiêu) vào
cuối mùa phát triển tập trung vào tuần hoàn dinh dưỡng vùng giữa hồ.
Trong trường hợp những hồ nông và có vùng ven hồ phát triển mạnh thì tổng dinh dưỡng
giải phóng từ vùng giữa hồ giảm. Xu hướng phát triển vùng ven hồ và sự trao đổi chất làm giảm
sự phát triển của thực vật nổi thấp hơn mức phát triển tiềm năng (xuất hiện khi dinh dưỡng đi
trực tiếp vào vùng giữa hồ). Wetzel (1990) cũng đã chỉ ra tình trạng đó, “trong một hệ sinh thái
với những kiểu trầm tích theo chiều sâu thì có sự khác biệt trong thành phần của hệ thống và sự
trao đổi chất của chúng, một ví dụ là giảm khả năng sử dụng dinh dưỡng của thực vật nổi ” (in
the ecosystem with profundal sedimentation patterns and the converse differences in system
components and their metabolism, one finds a overall decrease in the phytoplanktonic efficiency
of nutrient utilization).
Mối quan hệ giữa P và thực vật lớn hiện vẫn cần được nghiên cứu trong một thời gian
dài, tuy nhiên lượng tiêu thụ của thực vật là khá lớn và được biết đến với khái niệm “luxury
consumption”. Trong mùa hè, sự tham gia của thực vật lớn vào tuần hoàn P có thể kéo theo làm
giảm khả năng phát triển tập trung của tảo ở vùng ven hồ, nhưng trong mùa thu, một lượng lớn P
được giải phóng.
Hình 1.5. Xác suất ưu thế của khuẩn lam trong nước ngọt với các khoảng giá trị P và N (nguồn:
Schreurs 1992)
Mặc dù dinh dưỡng thường xuyên giới hạn sự phát triển của tảo, nhưng các nhân tố khác
cũng không kém phần quan trọng (theo Reynolds 1989). Ánh sáng, được sử dụng như nguồn
năng lượng bắt buộc cho nhóm tảo tự dưỡng, thường ở dạng cường độ thấp do độ đục nước hoặc
do sự xáo trộn của tầng nước sâu (Bleiker và Schanz 1997). Trong nước có nhiều vật chất lơ
lứng hoặc tập trung nhiều tế bào tảo, ánh sáng bị tán xạ bởi các hạt và hấp thụ bởi sắc tố của tảo
và các vật chất hữu cơ hoà tan. Khi đó ánh sáng trở thành nhân tố giới hạn.
Dinh dưỡng và động vật nổi
Tảo nổi là thức ăn ưa thích của động vật nổi. Cladoceran là một nhân tố tiêu thụ quan
trọng do chúng có kích thước lớn và tính ăn rộng. Vì có sự khác nhau cơ bản trong tính chất hoá
lý nên các loại động vật nổi khác nhau đóng vai trò khác nhau trong tuần hoàn dinh dưỡng. Về
mối quan hệ với thức ăn của chúng (tảo), các loài động vật nổi có tỉ lệ C/N và C/P thấp, giá trị
ngày có nghĩa giá trị năng lượng cung cấp đầy đủ từ thức ăn thông thường, nhưng các dinh
dưỡng đa lượng như N và P có thể giới hạn sự phát triển. Giáp xác chân chèo có tỉ lệ N/P khá
cao (40 – 50/1) và do đó N cũng là dinh dưỡng giới hạn chế độ tiêu thụ của chúng (Hessen
1997). Giáp xác chân chèo do đó ưu tiên lựa chọn các tế bào tảo giàu N (theo Butler cùng cộng
sự 1989). Chất thải của giáp xác chân chèo ở thể lỏng và không bị trầm tích. Dinh dưỡng không
được đồng hoá do đó ngay lập tức cung cấp cho sự phát triển của tảo (theo Lyche cùng cộng sự
1996)
Giáp xác râu ngành tiêu biểu cho tỉ lệ N/P thấp vào khoảng 12 – 15 (Hessen 1997). Mặc
dù chúng không lựa chọn những hạt thức ăn giàu P nhưng chúng có tích luỹ P trong thức ăn rất
hiệu quả (Lyche cùng cộng sự 1996). Chất thải của Cladoceran ở dạng rắn và dễ trầm tích do đó
nó là dinh nhân tố làm giảm dinh dưỡng trong tầng nước trên. Sự trầm tích của xác động vật có
thể tăng thêm tình trạng giới hạn P (Urabe cùng cộng sự 1995; Rothaupt 1997). Theo cách này
daphnid làm tăng tình trạng giới hạn P do chúng cạnh tranh mạnh với các loài động vật nổi khác
trong tiêu thụ P.
Cladoceran là con mồi ưa thích của các loài cá ăn động vật nổi, Nhờ có chúng P được
tuần hoàn trong hệ sinh thái (theo Carpenter cùng cộng sự 1992; 1995; Vanni và Layne 1997).
Các loài cá dữ làm giảm số lượng cá ăn thực vật nổi, do đó làm giảm nguy cơ đối với động vật
nổi và vì thế tăng quá trình cố định P trong sinh khối (Carpenter cùng cộng sự 1995).
Hình 1.6. Ước lượng xu hướng của Photphat (hình trái) và mật độ tảo (hình phải) với số liệu
năm 1985 và 1992 (RIVM 1995)
Hình. 1.7. Sơ đồ biểu diễn mối quan hệ qua lại của các yếu tố trong một hệ sinh thái hồ. Các ảnh
hưởng được mô tả dưới dạng làm tăng hay làm giảm các yếu tố khác (Scheffer cùng cộng sự
1993; Hosper 1997).
Hình 1.8. Hiện tượng trễ ảnh hưởng đến độ đục khi thay đổi tình trạng dinh dưỡng (cung cấp bởi
Scheffer cùng cộng sự 1993)
Sự có mặt của hai tình trạng ổn định trên cùng với hiện tượng trễ có thể quan sát được khi
trong hệ thống có ảnh hưởng của một trong hai tình trạng đến cái kia, điều đó quan trọng khi một
biện pháp quản lý được áp dụng so với hệ thống không có hiện tượng trễ (Hosper 1997; Scheffer,
1998) một trong hai Mô tả trên
Tình trạng nước đục có thể trở thành nước phú dưỡng, hình 1.8 đã chỉ ra vấn đề phú
dưỡng là phổ biến trong một khoảng rộng giá trị dinh dưỡng của nước, khi nước trong nước vẫn
sạch và không phú dưỡng. Nó cũng chỉ ra khi độ đục tăng thì tình trạng phú dưỡng xảy ra dễ
dàng ngay cả khi mức dinh dưỡng thấp.
Bảng 1.1. Bảo toàn trạng thái xảy ra khi nước sạch bị đục và đường cong gia tăng khởi đầu quá
trình phú dưỡng do đục (phú dưỡng sensu lato) (được cung cấp bởi Hosper 1997)
Ảnh hưởng Cơ chế tác động Phương pháp hạn chế đường cong gia
độ đục tăng (phương pháp phục hồi)
Nở hoa ít − Khi P tổng số thấp, ánh sáng và nhiệt − Kéo dài thời gian bị băng bao
độ thấp phủ
− Sự giảm tính ăn của giáp xác râu − Rửa trôi do thay đổi đột ngột
ngành trong mùa đông
− Nở hoa do kết quả của pH cao, nhu − Điều khiển quá trình giải phóng
cầu oxy của trần tích và giải phóng P P, xử lý bùn đáy hoặc bón vôi
cao
Thực vật − Nở hoa do nước đục, cá dữ thấp, cá − Mực nước thấp vào mùa xuân thúc
nổi nở hoa ăn động vật nổi cao, sự tiêu thụ tảo đẩy sự phát triển của thưc vật
phổ biến thấp − Sự tiêu diệt tự nhiên các loài cá vào
mùa đông
− Giảm cá ăn động vật nổi và tăng cá
dữ
Đục không − Gió làm tăng giải phóng của trầm tích − Giảm gió bằng cách trồng các loại
do tảo khi không có thực vật cây ven bờ vào các loại thực vật
− Hoạt động của cá đáy làm giải phóng sống trên trầm tích đáy
trầm tích khi không có thực vật − Giảm cá tầng đáy
Bảng 1.2. Thay đổi trạng thái xảy ra khi nước sạch bị đục và đường cong gia tăng khởi đầu quá
trình phú dưỡng do đục (phú dưỡng sensu lato) (được cung cấp bởi Hosper 1997)
Các yếu tố của Vai trò và cơ chế tác động Nguyên nhân đường cong gia
nước sạch tăng (nguyên nhân suy giảm)
Tảo cát đáy − Giảm tính nhạy cảm của trầm tích đáy hồ − Xáo trộn tầng đáy
với tác động của gió − Xảy ra mưa bão lớn
− Cạnh tranh sử dụng N, P với thực vật nổi
− Tăng cường quá trình mất N do phản Nitrat
Thực vật lớn − Cạnh tranh sử dụng N, P với thực vật nổi − Sự suy giảm tự nhiên của
− Tăng cường quá trình mất N do phản Nitrat thực vật lớn
− Giảm tác động giải phóng trầm tích của gió − Ảnh hưởng của chất độc
− Tăng các tác nhân cảm nhiễm đối với thực hóa học đến thực vật
vật nổi − Sự tiêu thụ của các loài
− Tăng khả năng tiêu thụ của giáp xác râu chim, thú và cá
ngành do cung cấp nơi sống và trú ẩn − Xáo trộn tầng đáy
− Giảm tác động đến trầm tích đáy do hoạt − Xảy ra mưa bão lớn
động kiếm mồi của cá ăn đáy − Ảnh hưởng của chất độc
hóa học đến giáp xác râu
ngành
Sự nhiễu loạn tầng phú dưỡng do ảnh hưởng của chất độc
Ở các hồ nông ở nhiều nước trên thế giới như Anh, Hà Lan, sự suy giảm chất lượng xảy
ra phổ biến trong suốt những thập niên 60, 70. Sự thay đổi đuợc miêu tả trong các báo cáo về quá
trình cải thiện chất lượng nước hồ với mục đích tăng số lượng các hồ nước sạch ở những nước
này.
Những tác phẩm đó cũng công bố tình trạng nhiễm độc trong nước phú dưỡng, điều này
làm thất bại mục đích sử dụng điều khiển sinh học để kiểm soát phú dưỡng. Ảnh hưởng của chất
độc có thể làm cho quá trình suy thoái xảy ra với tốc độ nhanh hơn. Theo báo cáo của Hurlbert
(1975) và Stansfield cùng cộng sự (1989), tác động của chất độc làm cho quá trình phú dưỡng
xảy ra sớm hơn, có nghĩa là xảy ra ở mức dinh dưỡng thấp hơn so với khi không có chất độc.
Đồng thời nó cũng gây cản trở cho quá trình phục hồi nước phú dưỡng (xem hình 1.9)
Hình 1.9. Ảnh hưởng của hiện tượng trễ khi thay đổi độ đục và tình trạng dinh dưỡng dưới tác
động của chất độc (được cung cấp bởi Scheffer cùng cộng sự 1993)
Một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ của giáp xác râu ngành đã được kể đến
như là thuốc bảo vệ thực vật từ các cánh đồng gần hồ (xem chương 5). Độc tố ảnh hưởng đến
giáp xác râu ngành nói chung có thể là thông qua tác động đến thực vật thủy sinh. Những nghiên
cứu trong thập niên 50 và 60 ở một loạt các hồ ở vùng biển Norfolk đã chỉ ra rằng sự tăng sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật làm suy giảm quần thể động vật nổi nhanh hơn suy giảm quần thể
thực vật nổi. (Stansfield cùng cộng sự 1989). Trong trầm tích có tàn dư thực vật có chứa nhiều
dieldrin và DDD thì không tìm thấy sự xuất hiện của giáp xác râu ngành. Thêm vào đó, thực vật
nổi thuộc nhóm Bosmina thì phát triển nhanh hơn hiều lần so với thực vật lớn.